Mở rộng cho vay hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thành phố Sơn Tây

LỜI NÓI ĐẦU *** Việt Nam là một nước có nông nghiệp với 65% dân số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, do đó kinh tế của Việt Nam chưa phát triển. Từ sau công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế tập chung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc, căn bản và toàn diện. Trong đó, chính sách phát triển mọi thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước là một chủ trương xuyên suốt trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự ra đời của nhiề

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1745 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng cho vay hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Thành phố Sơn Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u loại hình kinh tế khác, loại hinh kinh tế hộ sản xuất là một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế hộ sản xuất đã mang lại những kết quả to lớn đối với nền kinh tế nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của các hộ nông dân ở nông thôn. chính vì vậy, phát triển kinh tế hộ sản xuất là yêu cầu cần thiết cho sự phát triển kinh tến của một nước nông nghiệp nói chung nhất là với một đất nước đang phát triển như Việt Nam. Để phát triển được kinh tế hộ sản xuất đòi hỏi nhiều yếu tố bao gồm những yếu tố chủ quan và khách quan. Một trong những khó khăn hiện nay của các hộ sản xuất là vấn đề vốn cho sản xuất kinh doanh. NHNo & PTNT Việt Nam là một Ngân hàng thương mại chủ yếu cung cấp vốn cho các hộ sản xuất cho lĩnh vực nông nghiệp. Hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam đã và đang là kênh chuyền tải vốn chủ yếu đến các hộ sản xuất, góp phần tạo công ăn việc làm giúp nông dân làm giàu bằng chính sức lao động của mình, góp phần xoá đói giảm nghèo ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên do đặc tính của hoạt động cho vay hộ sản xuất, món cho vay nhỏ lẻ chi phí nghiệp vụ cao, đối tượng cho vay chủ yếu là các hộ nông dân. Địa bàn hoạt động rộng, sự hạn chế của cơ chế chính sách, quy trình nghiệp vụ, điều kiện của từng địa phương nên việc cho vay hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn cả về phía ngân hàng và các hộ sản xuất. Thực tế hiện nay nhiều chi nhánh NHNo & PTNT gặp khó khăn trong hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế hộ sản xuất. Trong đó có chi nhánh NHNo & PTNT Thành phố Sơn Tây. Tuy đã đạt được nhiều thành tựu nhất định trong những năm qua song cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định trong cho vay hộ sản xuất. Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thời gian thực tập tại NHNo & PTNT Sơn Tây. Em xin được chọn đề tài “ Mở rộng cho vay hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thành phố Sơn Tây” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề được nghiên cứu theo phương pháp thống kê, so sánh, phân tích với những suy luận từ thực tiễn nghiên cứu để từ đó đưa ra những kết luận, kiến nghị đề xuất với NHNo & PTNT Thành phố Sơn Tây nhằm mở rộng cho vay hộ sản xuất. Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 chương. Chương 1 : Cơ sở lý luận về cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng thương mại. Chương 2 : Thực trạng cho vay hộ sản xuất, tại chi nhánh NHNo & PTNT Thành phố Sơn Tây. Chương 3 : Các giải pháp, nhằm mở rộng cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT Thành phố Sơn Tây. Do thời gian nghiên cứu có hạn, trình độ kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp nhằm giúp em hiểu rõ hơn về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo PGS.TS Lưu Thị Hương và các cán bộ ở NHNo & PTNT Thành phố Sơn Tây đã giúp em hoàn thành chuyên đề. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO VAY HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ***** 1.1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi thành phần kinh tế. Hàng triệu cá nhân hộ gia đình và các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền vào ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng nhất của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp là người tiêu dùng phải thanh toán các khoản mua hàng hoá và dịch vụ họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính. Họ đến các Ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian về tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách về tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ xung nguồn vốn và các cá nhân tổ chức thặng dư cho chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá dịch vụ và cho vay hộ có tiền để tiết kiệm. Một đóng góp khác nữa của Ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các Ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “Thông tin không cân xứng” Làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra khả năng sinh lợi nhuận cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và khả năng lựa chọn những công cụ với yếu tố rủi ro. Tiền- vàng có một chức năng quan trọng nhất là làm phương tiện thanh toán. Các Ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các Ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vây, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại nằm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận rất cao, đồng thời với nhu cầu có đồng tiền quốc gia duy nhất dẫn đến việc Nhà nước tập chung quyền lực phát hành tiền giấy và một tổ chức hoặc là Bộ tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua Ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gưỉ thanh toán, họ có thể chi trả để có đựơc hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Thứ nhất là tiền giấy lưu thông thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại Ngân hàng, thứ ba tiền gửi trên các tài khoản tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Khi ngân hàng cho vay số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các Ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng. Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, các loại thẻ cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của Ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định và dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. Một trong những dịch vụ Ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ. Một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các Ngân hàng lớn thực hiện bởi vì giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời phải có trình độ chuyên môn cao. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các Ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán, tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền và cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng trả lãi tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt là cho phép ngân hàng tạm thời để kinh doanh.Ngay ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp. Đối với những khách hàng là người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. 1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất, quan trọng nhất song rủi ro cao nhất. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất chiếm phần lớn của vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến mức phá sản. Do vậy, các Ngân hàng phải cần nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng. Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua, hợp đồng tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc thực hiện hợp đồng. Do đó mục tiêu của hoạt động tín dụng là thu nhập và phân tích thông tin nhằm xác định nội dung của bản hợp đồng tín dụng bao gồm xác định vị trí thị trường so sánh người nhận tín dụng “Sức mạnh cạnh tranh, rủi ro, mức độ thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay”. Trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cho phép khách hàng điều chỉnh các giá trị trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Các hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của Ngân hàng Nông nghiệp và các Ngân hàng thương mại. + Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi và thời gian xác định. Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. + Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với Ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của Ngân hàng. + Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này đủ điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo. 1.2. CHO VAY HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hộ sản xuất * Khái niệm Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuât kinh doanh, Hộ sản xuất hoạt động sản xuất kinh doanh một cách trực tiếp, nghĩa là vừa tự lựa chọn nghành nghề sản xuất, tự mình huy động vốn để tiến hành sản xuất và trực tiếp tiêu thụ sản phẩm sau quá trình sản xuất . Trong các quan hệ sản xuất kinh doanh như vay vốn, sản xuất hay tiêu thụ hàng hoá thì hộ sản xuất giữ vai trò là một chủ thể độc lập. Đối với những nước có nền nông nghiệp là chủ yếu thì hộ sản xuất là một thành phần kinh tế rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt khi nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, phụ thuộc chủ yếu vào sức lao động con người là chính. Đồng thời kinh tế hộ sản xuất cũng là một thành phần kinh tế không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường này. Trong nền kinh tế Thị trường hiện nay mặc dù quy mô của kinh tế hộ không lớn nhưng do đặc tính của nó mà kinh tế hộ sản xuất là một thành phần kinh tế quan trọng. Nó đóng trò vai quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, ổn định đời sống xã hội, góp phần vào việc đảm bao công bằng trong xã hội. Hộ sản xuất rất đa dạng, gồm nhiều hình thức tổ chức khác nhau, thành phần trong hộ cũng đa dạng. theo quyết định số 499A/TDNT ngày 2/9/1993 của NHNo&PTNT Việt Nam thì hộ sản xuất được chia thành các loại sau: Hộ loại 1: bao gồm các loại sau: + Hộ chuyên sản xuất Nông, Lâm,Ngư, Diêm nghiệp có tính chất tự sản xuất tự tiêu thụ sản phẩm và do cá nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kết quả kinh doanh + Hộ cá thể , tư nhân làm kinh tế gia đình theo nghị định 29 ngày 29/3/ 1998. + Hộ là những thành viên nhận khoán các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp nhà nước . - Hộ loại 2: Bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh theo luật định Hộ loại 3: Có những đặc trưng sau: + Được cấp giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép thành lập do cơ quan có thẩm quyền nhà nước cấp. + Có giấy phép kinh doanh do trọng tài kinh tế nhà nước cấp . + Có vốn điều lệ (nếu là công ty),vốn đầu tư ban đầu (nếu là doanh nghiệp tư nhân) cao hơn vốn pháp định. Trường hợp vốn kinh doanh thấp hơn vốn phát định nhưng được cấp giấy phép kinh doanh để thực hiện theo nghị định số 66/HĐBT ngày02/03/1992. Hộ loại 2 bao gồm các hộ sau: + Hộ tư nhân: là một nhóm thực hiện sản xuất kinh doanh theo nghị định số 66/HĐBTngày 02/03/1992. + Hộ là tổ hợp tác xã tổ chức theo điều lệ HTXdo nhà nước quy định . + Công ty cổ phần , công ty TNHH được tổ chức theo luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty ngày 21/12/1990. Theo cách phân loại trên thì hộ loại1 là hộ bao trùm nhất trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp nông thôn . Đây chính là thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng cho đầu tư tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát nông thôn . Như vậy các hộ trên đều hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong các ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn , nông, ngư, diêm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị xã và các vùng ven đô đều được vay vốn tại NHNo&PTNT Việt Nam. * Đặc điểm Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cá thể tự cấp tự túc, và phát triển hơn là sản xuất hàng hoá nhỏ. Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế đặc biệt vừa sản xuất vừa tiêu thụ sản phẩm . Các thành viên trong hộ có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm trong đời sống hàng ngày. Nhưng đồng thời hộ là nơi sản xuất ra các sản phẩm để phục vụ cho cả các thành viên trong hộ và xã hội. Quy mô sản xuất của hộ nhỏ, mang nặng tính sản xuất truyền thống, sản xuất các sản phẩm cần thiết phục vụ cho nhu cầu các thanh viên trong hộ là chính Khi các sản phẩm làm ra không được tiêu dùng hết trong gia đình họ mới đi trao đổi. Sản phẩm làm ra không vì mục đích trao đổi . Chính vì vậy số lượng mang đi trao đổi chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số khối lượng làm ra. Khi kinh tế hộ phát triển ở mức độ cao hơn, có sản xuất hàng hoá nhỏ.Khi đó, do có trình độ phát triển cao hơn , khối lượng sản phẩm làm ra nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng của hộ, có sản phẩm dư thừa mang đi trao đổi . Sản xuất hàng hoá nhỏ thể hiện ở quy mô sản xuất và khối lượng sản phẩm làm ra. Quy mô hộ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, khối lượng sản phẩm bán ra chỉ chiếm khoảng từ 20-30% khối lượng sản phẩm nông sản trên thị trường . Hộ sản xuất tiến hành sản xuất kinh doanh độc lập , tự chủ , là chủ thể trong các quan hệ sản xuất kinh doanh . Hộ sản xuất kinh doanh trên nhiều ngành nghề Trong nền kinh tế ở những có nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì hộ sản xuất chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp . Kinh tế hộ sản xuất đóng vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế của các hộ nông nghiệp,vốn dĩ chỉ sản xuất với quy mô nhỏ và vừa trong lĩnh vực nông nghiệp . 1.2.2 Cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thương mại 1.2.2.1 Khái niệm cho vay hộ sản xuất Ngân hàng là một doanh nghiệp, hoạt dộng trong lĩnh vực tiền tệ,để có thể duy trì và phát triển hoạt dộng của mình thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải có lãi. Hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thương mại là huy động vốn và nghiệp vụ tín dụng nhằm tìm kiếm lợi nhuận, trong đó có nghiệp vụ cho vay các thành phần kinh tế trong xã hội. Theo quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng của ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( ban ngành theo quuết dịnh số 1627/ 2001/ QĐ- NHNN ngày 31/ 12/ 2001 của Thống đốc ngân hàng nhà nước) , thì cho vay được định nghĩa là môt hình thức cấp tín dụng , theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi . Theo đó, cho vay hộ sản xuất chính là một hình thức mà ngân hàng cấp vốn cho hộ sản xuất sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh trong một thời gian nhất định theo sự thoả thuận giữa ngân hàng và hộ sản xuất, đồng thời thoả thuận phương thức trả nợ cho ngân hàng. Đối tượng của cho vay hộ sản xuất là các hộ gia đình, đây là một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần . Các hộ sản xuất thường không có đủ vốn để tiến hành phương án sản xuất kinh doanh của mình, mỗi khi dự định sản xuất thì các hộ đều có nhu cầu vay vốn . Thời gian trước khi chưa có sự xuất hiện của các tổ chức tín dụng thì các hộ thường phải vay nặng lãi làm ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động sản xuất, sản xuất không mang lại lợi nhuận đáng kể cho các hộ . Từ khi có sự phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng đặc biệt là hệ thống ngân hàng thì các hộ sản xuất đã có thể tiếp cận được với nguồn vốn thích hợp với khả năng của mình và hoạt động sản xuất của hộ đem lại lợi nhuận cao hơn , từ đó kinh tế hộ sản xuất dần dần phát triển . 1.2.2.2 Hình thức cho vay đối với hộ sản xuất * Cho vay trực tiếp hộ sản xuất Cho vay trực tiếp là phương thức cho vay mà ở đây ngân hàng sẽ trực tiếp cho hộ sản xuất vay vốn , hộ sản xuất trực tiếp nhận vốn vay từ ngân hàng, từ đầu đến cuối quá trình vay chỉ phát sinh một khoản vay của hộ sản xuất với ngân hàng . Đây là phương thức vay phổ biến nhất và quan trọng nhất tại các chi nhánh NHNo& PTNT áp dụng trong cho vay đối với các hộ sản xuất . Trong phương thức cho vay trực tiếp, ngân hàng còn thoả thuận với các hộ sản xuất thực hiện các hình thức vay vốn khác nhau + Cho hộ sản xuất vay trực tiếp thông qua tổ vay vốn Tổ vay vốn do các thành viên là hộ gia đình, cá nhân tự nguyện thành lập, có nhu cầu vay vốn, cùng cư chú tại thôn, xóm . Tổ vay vốn phải được thành lập theo quy định của ngân hàng, đồng thời ngân hàng sẽ quy định trách nhiệm của những người liên quan như tổ trưởng tổ vay vốn, ngân hàng nơi cho vay. Thủ tục cho vay như sau: Tổ viên gửi cho tổ trưởng giấy đề ngị vay vốn và các giáy tờ khác theo quy định . Tổ trưổng nhận hồ sơ của tổ viên , tổ trức họp bình xét điều kiện vay vốn , sau đó tổng hợp danh sách tổ viên có đủ điều kiện vay vốn , đề nghị ngân hàng xét cho vay. Từng tổ viên ký hợp đồng tín dụng trực tiếp với NHNo & PTNT nơi cho vay. + Cho hộ sản xuất vay trực tiếp thông qua doanh nghiệp : Cũng giống như cho vay qua tổ vay vốn, ngân hàng thông qua doanh nghiệp để trực tiếp cho hộ sản xuất vay vốn. Đối tượng vay là các hộ sản xuất nhận khoán của các doanh nghiệp làm dịch vụ vay vốn cho hộ sản xuất gồm các nội dung quy định trách nghiệm và quyền doanh nghiệp, của ngân hàng nơi cho vay và chủ tục vay vốn Vốn vay phải trực tiếp tới hộ sản xuất cần vốn sản xuất, kinh doanh. * Cho vay gián tiếp hộ sản xuất Cho vay gián tiếp là phương thức cho vay ngân hàng thông qua các tổ chức trung gian để chuyển vốn vay đến hộ sản xuất, nhằm làm tăng kênh phân phối vốn cho hộ sản xuất. Các tổ trức trung gian có thể là tổ chức tài chính như : Hợp tác xã tín dụng, ngân hàng cổ phần, quỹ tín dụng. Có thể là các tổ chức kinh tế như Hợp tác xã sản xuất, các doanh ngiệp nhà nước. Các tổ chức xã hội như Hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội thanh niên, hội làm vườn. Đối tượng vay vốn của các tổ chức cung gian này thường là hộ nghèo, thiếu vốn sản xuất nhưng không đủ tài sản làm bảo đảm, họ có sức lao động, có kế hoạch sản xuất khả thi, phù hợp với chính sách phát triển của địa phương. Phương thức cho vay này tạo điều kiện cho các hộ sản xuất được vay vốn để phát triển sản xuất,thay đổi đời sống của từng hộ nghèo, góp phần phát triển kinh tế địa phương. Đồng thời ngân hàng thực hiện được trách nhiệm với nhà nước là xoá đói, giảm nghèo tạo sự phát triển đồng đều trong sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Cho vay thông qua tổ chức kinh tế xã hội thực chất là cho hộ sản xuất vay bằng tín chấp, bằng uy tín của các tổ chức đứng ra trung gian . Mặc dù cho vay như vậy sẽ giảm chi phí tín dụng cho ngân hàng cho vay được với đối khối tượgề tài sản đảm bảo , do đó rủi ro trong hoạt động cho vay này cao, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng. 1.2.2.3 Quy trình cho vay hộ sản xuất Do đặc điểm của mình là một chủ thể kinh tế độc lập , nguồn vốn hạn chế . Vì vậy hộ sản xuất luôn luôn có nhu cầu về vay vốn để sản xuất hàng hoá với quy mô vừa và lớn . Để đáp ứng nhu cầu về vốn của hộ sản xuất thì nhà nước cần có biện pháp để các hô sản xuất tiếp cận được với nguồn vốn để sản xuất hàng hoá cho xã hội. Đồng thời hạn chế tình trạng phân hoá giàu nghèo và cho vay nặng lãi ở nông thôn . Để tạo vốn cho sản xuất, có thể kết hợp nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biên pháp cơ bản là cho vay trực tiếp hoặc thông qua tổ, nhóm đến từng hộ sản xuất, đó chính là chính sách lớn của đảng và nhà nước ta hiện nay . Do quá trình hoạt động thực tế của mình , hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã thể hiện vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất, đó là cho vay hộ sản xuất Cho vay hộ sản xuất cung cấp vốn cho từng hộ sản xuất Trên cơ sở vay vốn, ngân hàng cung cấp chô từng hộ sản xuất, giúp họ tận dụng khai thác mọi tiềm năng đất đai, lao động và tài nguyên thiên nhiên từ đó cho ra đời ngày càng nhiều hàng hoá hơn , phong phú hơn để cung cấp cho sản xuất, tiêu dùng, cho xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội . - Cho vay hộ sản xuất, tạo điều kiện duy trì các ngành nghề truyền thống, phát triển các nghề mới nhằm giải quyết công ăn việc làm cho từng hộ, giúp họ tăng thu nhập, cải thiện đời sống . - Dựa vào lợi thế so sánh giữa các vùng, các địa phương khi có vốn đầu tư người dân đã khôi phục, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, ngành nghề mới thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng nông thôn giàu đẹp và văn minh. - Cho vay hộ sản xuất là công cụ tài trợ và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện cho từng hộ sản xuất tiếp cận với công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. - Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã và đang được thực hiện. Cho vay hộ sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất thông qua cho vay ngắn, trung, dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến phục vụ cho quá trình sản xuất và đời sống ở nông thôn như xây dựng mạng lưới điện, trạm bơm, hệ thống thuỷ lợi, đường xá, cải tiến công cụ lao động, đầu tư cho dịch vụ phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Cho vay hộ sản xuất góp phần hạn chế cho vay nặng lãi nông thôn Tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn đã tồn tại từ lâu và có tác động rất lớn đến sản xuất và đời sống của người dân, các hộ sản xuất phải vay vốn với lãi xuất cao, sản xuất kém hiệu quả thu nhập thấp do phải chịu lãi cao. Do đó kinh tế hộ sản xuất chậm phát triển trong thời gian dài. khi có cho vay hộ sản xuất của ngân hàng thì hộ sản xuất đã tiếp cận được đến nguồn vốn nhiều với lãi suất phù hợp, tạo điều kiện cho hộ sản xuất phát triển sản xuất từ đó phát triển kinh tế cho hộ vươn lên. Đồng thời hạn chế được nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. - Cho vay hộ sản xuất giúp hộ sản xuất làm quen và từng bước thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, sử dụng vốn vay có hiệu quả. Trong sản xuất hàng hoá để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mình thì bất cứ một đơn vị sản xuất kinh doanh nào cũng phải tiến hành hạch toán kinh tế để sản phẩm của mình được thị trường chấp nhận và kinh doanh có lãi. Các hộ sản xuất nước ta chủ yếu là hộ nông dân phần lớn còn quen với suy nghĩ “lấy công làm lãi” thường tiến hành sản xuất kinh doanh trong khi hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa coi trọng đúng mức. Một số năm gần đây, ngân hàng đã có sự quan tâm hơn tới các hộ sản xuất, các hộ được vay vốn ngân hàng song phải thực hiện nguyên tắc hoàn trả cho ngân hàng đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi. Do đó các hộ đòi hỏi phải tính toán hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích để sau khi trả gốc và lãi cho ngân hàng thì các hộ vẫn còn phần thu nhập của mình. Cho vay hộ sản xuất giúp hộ sản xuất tiếp cận và mở rộng sản xuất hàng hoá. Khi chưa có cho vay hộ sản xuất, sản xuất của các hộ chủ yếu là tự cung tự cấp. Cho vay hộ sản xuất cung cấp, bổ sung vốn cho hộ sản xuất, để rồi một phần sản xuất của hộ sẽ trở thành hàng hoá, đồng thời thông qua thị trường họ có thể định hướng cho sản xuất của mình sao cho sản phẩm sản xuất ra đáp ứng nhu cầu đa dạng của người mua. để đáp ứng được ngày càng đa dạng các nhu cầu đó buộc hộ sản xuất phải mở rộng quy mô sản xuất, tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm để tiêu thụ nhanh với lợi nhuận cao. Như vậy, nhờ có hộ cho vay sản xuất mà tính chất sản xuất hàng hoá ngày càng tăng lên trong cách nghĩ , cách làm của người nông dân. Các hộ sản xuất đã có khả năng tiếp cận được với nguồn vốn. Không bị hạn hẹp về vốn nữa, họ có thể mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn 1.2.3. Mở rộng cho vay hộ sản xuất 1.2.3.1. Khái niệm về mở rộng cho vay hộ sản xuất Mở rộng cho vay hộ sản xuất là sự gia tăng về quy mô cho vay hộ sản xuất của ngân hàng, mở rộng bao gồm mở rộng về số lượng hộ sản xuất vay vốn ngân hàng, sự gia tăng về doanh số cho vay đối với mỗi hộ sản xuất hay sự tăng trưởng tỷ lệ dự nợ đối với hộ sản xuất, gia tăng về ngành nghề cho vay đối với hộ sản xuất. Mở rộng cho vay hộ sản xuất được thể hiện ở một số điểm sau : + Về số lượng hộ sản xuất vay vốn Hộ sản xuất là khách hàng vay vốn trong cho vay đối với hộ sản xuất. Quy mô của cho vay đối với hộ sản xuất lớn hay nhỏ được thể hiện một phần bởi số lượng hộ sản xuất tham gia vay vốn ngân hàng. Hộ sản xuất là đối tượng có nhu cầu vay vốn nhiều, thường xuyên để tiến hành đầu tư sản xuất theo phương án của hộ nhằm phát triển kinh tế hộ sản xuất. Do đó, số lượng hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn nhiều, thường xuyên để tiến hành đầu tư sản xuất theo phương án của hộ nhằm phát triển kinh tế hộ sản xuất. Do đó, số lượng hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn và đuợc ngân hàng đáp ứng ngày càng có xu hướng gia tăng. Đây là một trong những yếu tố đánh giá việc mở rộng cho vay họ sản xuất. + Về ngành nghề cho vay đối với hộ sản xuất Ngành nghề của hộ sản xuất là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Đây là đối tượng mà hộ sản xuất sẽ đầu tư để sản xuất khi vay vốn ngân hàng, ngân hàng phải xem xét đó có phải là phương án sản xuất khả thi không, để từ đó có ra quyết định cho vay hộ sản xuất hay không. Việc đa dạng về ngành nghề cho vay cũng là yếu tố làm cho việc cho vay hộ sản xuất được mở rộng, khi cho vay đa dạng về ngành nghề thì số lượng hộ sản xuất vay vốn tăng, doanh số cho vay hộ sản xuất cũng tăng. Đồng thời, sự đa dạng về ngành nghề cho vay còn góp phần giảm rủi ro tín dụng cho ngân hàng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Từ đó, vấn đề mở rộng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng mới được đảm bảo không những về mở rộng quy mô mà còn đảm bảo chất lượng của hoạt động cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay đối với ngân hàng. + Về doanh số cho vay hay tỷ lệ dư nợ đối với hộ sản xuất Đây là những chỉ tiêu thể hiện việc cho vay hộ sản xuất đã được mở rộng hay chưa mở rộng một cách chính xác tuyệt đối. Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất là khối lượng vốn mà ngân hàng đã cấp cho các hộ sản xuất vay để sản xuất, kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Doanh số cho vay tăng hay giảm trực tiếp quyết định đến quy mô cho vay hộ sản xuất đã được mở rộng hay chưa. Đây là một con số tuyệt đối phản ánh một cách chính xác về quy mô cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Bên cạnh đó, dự nợ đối với hộ sản xuất cũng là một con số thể hiện quy mô cho vay hộ sản xuất có được mở rộng hay không. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất Quy mô cho vay đối với hộ sản xuất mở rộng hay không được biểu hiện qua nhiều chỉ tiêu như : Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất, tỷ lệ dư nợ đối với hộ sản xuất, số lượng hộ sản xuất tham gia vay vốn, ngành nghề cho vay đối với hộ sản xuất và thu nhập từ cho vay hộ sản xuất. Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất Doanh số cho vay càng lớn thì quy mô cho vay hộ sản xuất càng lớn, doanh số cho vay hộ sản xuất qua các năm tăng thì cho vay hộ sản xuất đã được mở rộng, hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng là mở rộng khi tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay hộ sản xuất là dương và ngược lại, tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay qua các năm càng cao thì tốc độ mở rộg cho vay hộ sản xuất càng nhanh. Đây là chỉ tiêu phản ánh một cách chính xác về việc mở rộng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Doanh số cho vay hộ sản xuất (DS cho vay HSX) trong một thời kỳ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã cho họ sản xuất vay trong kỳ. Con số và tốc độ tăng trưởng của doanh số cho vay hộ sản xuất qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp. Doanh số cho vay hộ sản xuất tăng có thể là do số lượng hộ sản xuất tham gia vay vốn tăng hoặc do mức tín dụng đối với mỗi hộ sản xuất tăng. Bên cạnh đó còn sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ trọng ._.doanh số cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng để phản ánh vị trí quan trọng của cho vay hộ sản xuất trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Tỷ trọng DS cho DS cho vay HSX Vay HSX = x 100% Tổng doanh số cho vay Cùng với chỉ tiêu tỷ trọng doanh số cho vay hộ sản xuất thể hiện vai trò của cho vay hộ sản xuất trong hoạt động cho vay của ngân hàng, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay hộ sản xuất ngoài việc thể hiện được vai trò của cho vay hộ sản xuất, tốc độ tăng trưởng dương tức là doanh số cho vay hộ sản xuất năm sau tăng so với năm trước nghĩa là cho vay hộ sản xuất được mở rộng. Tốc độ tăng trưởng này càng nhanh thể hiện quy mô cho vay hộ sản xuất đã được mở rộng ngày một nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng (DS cho vay HSX) năm 1 + 1 – (DS cho vay HSX) nămt DS cho vay HSX = (DS cho vay HSX) nămt Dư nợ đối với hộ sản xuất. Dư nợ hộ sản xuất phản ánh lượng vốn mà các hộ sản xuất còn nợ tại một thời điểm cụ thể của ngân hàng. Dự nợ hộ sản xuất chỉ là một phần trong tổng dư nợ của ngân hàng, để phản ánh chất lượng cho vay hộ sản xuất thì người ta còn quan tâm đến tỷ lệ dư nợ hộ sản xuất trên tổng đự nợ của ngân hàng. Tổng dư nợ phản ánh quy mô ngân hàng, tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp, ngan hàng không mở rộng được hoạt động tín dụng, không thu hút được khách hàng. Mặt khác, tổng dư nợ cao thì chưa chắc chất lượng cho vay đã tốt vì dư nợ cho vay còn tiềm ẩn những rủi ro tín dụng. Do vậy phải xem xét tổng dư nợ trong mối quan hệ với việc phân tích các yếu tố khách quan lẫn chủ quan đã ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng, với việc kết hợp các chỉ tiêu như nợ quá hạn, lợi nhuận do hoạt động cho vay mang lại để đánh giá được đúng đắn, chính xác nhất chất lượng của cho vay. Tỷ lệ dư nợ hộ sản Dư nợ hộ sản xuất Xuất trên tổng dư nợ = x 100% Tổng dư nợ Tỷ lệ dư nợ hộ sản xuất trên tổng dư nợ mà lớn thì tức là doanh số cho vay hộ sản xuất chiếm tỷ trọng cao trong cho vay của ngân hàng. Do đó thực ra nó cũng phản ánh quy mô cho vay hộ sản xuất giống như chi tiêu doanh số cho vay hộ sản xuất. Bên cạnh đó, chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu phản ánh sự gia tăng hay giảm của dư nợ hộ sản xuất. Từ đo thể hiện quy mô cho vay hộ sản xuất được mở rộng hay thu hẹp. Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất được xác định như sau : Tốc độ tăng trưởng (DS cho vay HSX) nămt + 1 – (Dư nợ HSX) nămt Dư nợ hộ sản xuất = (DS cho vay HSX) năm t Tốc độ tăng trưởng này dương thì tức là dư nợ hộ sản xuất năm sau cao hơn năm trươc, tức là quy mô cho vay hộ sản xuất được mở rộng. Tốc độ tăng trưởng này nhanh thì chứng tỏ cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng được mở rộng một cách nhanh chóng. Số lượng hộ sản xuất vay vốn Số lượng hộ sản xuất rất nhiều, các hộ có nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất nhiều nhưng khả năng tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng còn nhiều hạn chế, nhiều hộ chưa vay vốn ngân hàng được do nhiều nguyên nhân khác nhau. Quy mô cho vay hộ sản xuất lớn hay nhỏ một phần là do số lượng các hộ sản xuất vay vốn ngân hàng quyết định, số lượng hộ sản xuất vay vốn mà nhiều thì quy mô cho vay hộ sản xuất cũng có thể lớn và ngược lai. Tỷ trọng hộ sản xuất được vay vốn ngân hàng trên tổng số hộ sản xuất là một chỉ tiêu phản ánh quy mô cho vay hộ sản xuất hiện tại và thể hiện khả năng mở rộng cho vay hộ sản xuất trong thời gian tiếp theo bằng việc phát triển cho vay đối với những hộ sản xuất chưa được vay vốn ngân hàng. Tỷ trọng hộ sản Hộ sản xuất được vay vốn Xuất được vay vốn = x 100% Tổng số hộ sản xuất Bên cạnh chỉ tiêu tỷ trọng hộ sản xuất được vay vốn ngân hàng thì tốc độ tăng trưởng hộ sản xuất vay vốn ngân hàng qua các năm cũng là một chỉ tiêu phản ánh quy mô cho vay hộ sản xuất được mở rộng hay không, thể hiện số lượng hộ sản xuất vay vốn thay đổi qua các năm. Tốc độ này nhanh thì quy mô cho vay hộ sản xuất được mở rộng về số lượng hộ sản xuất vay vốn. Tốc độ tăng trưởng (Hộ sản xuất) nămt + 1 – (Hộ sản xuất) nămt Hộ sản xuất vay vốn = (Hộ sản xuất) năm t Chỉ tiêu này cho biết số lượng hộ sản xuất vay vốn ngân hàng qua các năm tăng hay giảm.Tốc độ tăng trưởng hộ sản xuất vay vốn mà dương thì số lượng hộ sản xuất vay vốn năm sau cao hơn năm trước, tức cho vay hộ sản xuất đã được mở rộng. Tốc độ này càng cao thì quy mô cho vay hộ sản xuất được mở rộng càng nhanh, thể hiện là số lượng hộ sản xuất vay vốn ngân hàng tăng nhanh, góp phần tăng doanh số cho vay hộ sản xuất. Thu nhập từ cho vay hộ sản xuất Cùng với các chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu thu nhập từ cho vay hộ sản xuất cũng là một chỉ tiêu phản ánh được quy mô cho vay hộ sản xuất của ngân hàng qua các năm. Thu nhập từ cho vay hộ sản xuất chính là thu lãi cho vay hộ sản xuất, thường thì lãi xuất cho vay trong các năm khác nhau không chênh lệch với nhau nhiều lắm, do đó sự chênh lệch về thu nhập từ cho vay hộ sản xuất chủ yếu là do quy mô cho vay hộ sản xuất được mở rộng, thu nhập từ cho vay hộ sản xuất thể hiện ở đây chính là mức cho vay, bởi vì nó quyết định đến thu nhập từ cho vay hộ sản xuất. Chính vì vậy, thu nhập từ cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu phản ánh mức cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Mức cho vay mà ngày càng lớn thì chứng tỏ cho vay hộ sản xuất đã được mở rộng . Ngược lại, mức cho vay mà ngày càng nhỏ thì chứng tỏ cho vay hộ sản xuất bị thu hẹp lại. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHO VAY HỘ SẢN XUẤT 1.3.1. Nhân tố chủ quan Nhân tố chủ quan bao gồm các hộ sản xuất và ngân hàng .Đặc tính của hộ ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu về vay vốn. Nhu cầu về vốn của hộ được xác định trên cơ sở phương án sản xuất của hộ và đối tượng sản xuất của hộ. Phương án sản xuất của hộ phải mang lại hiệu quả, phù hợp với chính sách phát triển của địa phương, sản xuất theo pháp luật. Thông thường các hộ sản xuất vay vốn để sản xuất nhưng trong một số trường hợp cụ thể thì ngân hàng hạn chế cho vay đối với các hộ sản xuất kém, sản xuất những mặt hàng có khả năng tiêu thụ kém đem lại thu nhập thấp. Phương án sản xuất của hộ quyết định trực tiếp đến nhu cầu vay vốn của hộ, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Nhưng không phải bất cứ hộ nào ngân hàng cũng cho vay, mà còn phụ thuộc vào tài sản đảm bảo của hộ, vào ý thức trả nợ của hộ. Đây là những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của hộ sản xuất khi đến hạn trả hợ ngân hàng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng, gây rủi ro cho ngân hàng khi hộ sản xuất cố tình không trả nợ, từ đó ảnh hưởng lớn đến khả năng mở rộng cho vay hộ sản xuất trong thời gian tới của ngân hàng. Bản thân hộ sản xuất có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng không chỉ ở quy mô cho vay mà còn ở chất lượng cho vay. Nhu cầu của các hộ về sản xuất trong những lĩnh vực nhất định quyết định đến quy mô vay vốn của các hộ, đồng thời quyết định đến doanh số cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Sau khi cho vay thì tinh thần tự giác của họ, nhận thức của hộ và tài sản đảm bảo của hộ có ảnh hưởng đến chất lượng của cho vay, ảnh hưởng đến quy mô cho vay lần sau của ngân hàng. Có thể nói, bản thân hộ sản xuất cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Bên cạnh nhân tố chủ quan là các hộ sản xuất thì trong cho vay hộ sản xuất cũng còn nhân tố chủ quan hết sức quan trọng, đó là bản thân ngân hàng cho vay. Chính các chính sách trong cho vay hộ sản xuất của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến quy mô và chất lượng cho vay hộ sản xuất của mình. Chính sách lãi suất cho vay đối với hộ sản xuất là một trong những chính sách quyết định trực tiếp đến nhu cầu vay vốn của các hộ. Lãi suất mà cao quá thì các hộ sẽ không tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Lãi suất mà thấp quá thì hoạt động của ngân hàng kém hiệu quả, khả năng sinh lời thấp. Do đó, ngân hàng phải có chính sách xác định mức lãi suất cho vay hộ sản xuất hợp lý để có thể tăng khả năng cho vay, thu hút các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn đến ngân hàng vay vốn. Các chính sách phát triển của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến quy mô của cho vay hộ sản xuất. Mỗi ngân hàng đều có những định hướng phát triển, xác định khách hàng mục tiêu cho riêng mình. Nếu mục tiêu không phải là thị trường nông thôn, khách hàng không phải là các hộ sản xuất thì các hộ sản xuất khó có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng này và hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng này cũng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. Nếu ngân hàng coi trọng thị trường nông thôn là mục tiêu chủ yếu, khách hàng chủ yếu là các hộ sản xuất thì ngân hàng luôn luôn ưu tiên phát triển kinh tế hộ sản xuất nhờ đó mà chính sách cho vay hộ sản xuất mới phát triển, quy mô cho vay hộ sản xuất mới mở rộng. Không chỉ có các chính sách phát triển cho vay mới ảnh hưởng đến quy mô cho vay hộ sản xuất mà để có thể mở rộng cho vay thì đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn vốn lớn, có khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất bất cứ khi nào các hộ có nhu cầu vay. Để có được nguồn vốn lớn thì ngân hàng cũng phải có các chính sách nhằm thu hút vốn gửi vào ngân hàng, thu hút một khối lượng tiền để có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các hộ khi hộ có nhu cầu. Ngoài việc quan tâm đến khối lượng vốn huy động, ngân hàng còn cần quan tâm đến thời hạn tiền gửi và thời hạn tín dụng, để có thể cho vay mà vẫn đáp ứng khả năng thanh toán khi đến thời hạn tiền gửi khách hàng đến rút tiền. Ngân hàng phải chủ động trong việc chuyển hoán kỳ hạn giữa thời hạn tín dụng và thời hạn gửi tiền. Nếu nguồn tiền gửi chủ yếu là ngắn hạn thì ngân hàng khó đáp ứng được nhu cầu vay dài hạn của các hộ sản xuất, vì nó ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Để thực hiện tốt các chính sách phát triển của ngân hàng và chính sách huy động vốn thì ngân hàng phải thực hiện tốt chính sách Marketing cho ngân hàng, giới thiệu cho các hộ sản xuất về ngân hàng mình. Để các hộ sản xuất hiểu thêm về ngân hàng, giúp họ biết về các hình thức cho vay, thủ tục, điều kiện vay vốn, để họ có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Cùng với các chính sách phát triển ngân hàng thì cơ sở vật chất của ngân hàng, đội ngũ cán bộ tín dụng của ngân hàng cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay hộ sản xuất. Cơ sở vật chất kỹ thuật đó là mạng lưới rộng lớn thuận tiện cho khách hàng giao dịch, giảm chi phí tín dụng và thu hút nhiều khách hàng hơn. Mạng lưới chi nhánh thuận tiện, các hộ sản xuất có thể dễ đàng tiếp xúc với chi phí thấp nhất thì sẽ thu hút các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn đến với ngân hàng nhiều hơn. Đội ngũ cán bộ tín dụng là người trực tiếp, tiếp xúc với các hộ sản xuất, họ là người trực tiếp thẩm định tài sản của hộ và phương án sản xuất của hộ có tính khả thi hay không để cho vay. Đồng thời, cán bộ tín dụng cũng là người giúp đỡ các hộ sản xuất làm hồ sơ vay vốn, giải thích cho hộ hiểu thủ tục vay vốn. Đội ngũ này mà có trình độ, có kinh nghiệm thì hoạt động cho vay hộ sản xuất sẽ phát triển được cả quy mô và chất lượng, đem lại hiệu quả cho hoạt động của ngân hàng. 1.3.2.Những nhân tố khách quan Cho vay hộ sản xuất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, ảnh hưởng đến cả qui mô cho vay và chất lượng cho vay hộ sản xuất. Trong những nhân tố đó bao gồm hai nhóm nhân tố chủ yếu là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Những nhân tố khách quan là những nhân tố thuộc về môi trường xung quanh như : môi trường kinh tế , môi trường pháp lý, môi trường tự nhiên xã hội. * Môi trường kinh tế Tình hình kinh tế tại địa phương có ảnh hưởng lớn đến hộ cho vay sản xuất. Kinh tế ở địa phương thể hiện một phần kinh tế của các hộ sản xuất và xu hướng phát triển của các hộ. Môi trường kinh tế mà chậm phát triển, kinh tế chỉ tập trung trong một số ngành nghề nhất định thì kinh tế hộ sản xuất cũng kém phát triển. Các hộ sản xuất không có nhu cầu về vốn để đầu tư vào sản xuất do môi trường kinh tế không đáp ứng được, nếu sản xuất sẽ thiếu nhiều yếu tố kể cả đầu vào lẫn đầu ra cho sản phẩm. Khi đó các ngân hàng sẽ không thể mở rộng cho vay các hộ sản xuất được. Mặt khác, kinh tế của địa phương mà phát triển , tạo cơ hội phát triển cho nhiều ngành nghề, thị trường phong phú cả về nguyên liệu cho sản xuất lẫn đầu mối tiêu thụ sản phẩm. Các hộ sản xuất có nhiều phương án sản xuất mang tính khả thi hơn, kinh tế của hộ khấm khá hơn, do đó nhu cầu đầu tư vào sản xuất của các hộ sản xuất sẽ nhiều lên, đòi hỏi nhu cầu về vốn nhiều. Chính vì thế mà ngân hàng sẽ mở rộng được qui mô cho vay hộ sản xuất, đồng thời chất lượng của các khoản cho vay cũng được tăng lên khi kinh tế hộ sản xuất phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế của địa phương. Đây là một trong những nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế hộ sản xuất, kéo theo nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất lớn và hoạt động sản xuất của hộ có hiệu quả cao, tạo điều kiện cho ngân hàng tăng qui mô cho vay hộ sản xuất đồng thời đảm bảo được chất lượng cho vay hộ sản xuất để có thể mở rộng cho vay hộ sản xuất một cách có hiệu quả. *Môi trường pháp lý Bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đòi hỏi phải hoạt động dựa trên một cơ sở pháp lý nhất định theo qui định của nhà nước.Hoạt động của ngân hàng cũng không phải ngoại lệ, ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động của nó là kinh doanh tiền tệ, lĩnh việc này hết sức nhạy cảm với sự phát triển của nền kinh tế. Do đó hoạt động của nó chịu sự quả lý nghiêm ngặt của nhà nước thông qua Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng nhà nước đưa ra các quy định, chính sách nhằm phát triển hệ thống ngân hàng một cách vững mạnh, để góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Trong các chính sách phát triển thì hoạt động cho vay của ngân hàng được nhà nước chú trọng đặc biệt bởi đây là một trong những hoạt động sinh lời cho ngân hàng. Hoạt động cho vay của ngân hàng rất đa dạng, phong phú nhưng một trong những hoạt động đó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thành phần kinh tế hộ trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, đó là cho vay hộ sản xuất. Cho vay hộ sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ. Ngân hàng Nhà nước có chính sách ưu đãi nhằm phát triển cho vay hộ sản xuất để phát triển kinh tế của các hộ sản xuất trong xã hội, từ đó phát triển kinh tế của xã hội. Đồng thời với các chính sách của ngân hàng thì Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện để các hộ sản xuất có thể tiến hành sản xuất, vay vốn ngân hàng một cách thuận tiện nhằm phát triển kinh tế hộ sản xuất. Mỗi một chính sách của Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ về việc phát triển kinh tế hộ sản xuất đều ảnh hưởng đến hoạt động cho vay hộ sản xuất của các ngân hàng, quyết định đến quy mô cho vay hộ sản xuất. * Môi trường tự nhiên xã hội Các hộ sản xuất ở nước ta thường sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, đây là lĩnh vực sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên không thuận lợi thì sản xuất của các hộ không hiệu quả, lợi nhuận không cao, nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất không cao. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất trong nông nghiệp đạt hiệu quả cao thì kích thích các hộ sản xuất đáp ứng nhu cầu của các hộ. Trong quá trình sản xuất của các hộ cũng có thể gặp phải rủi ro khi có thiên tai xảy ra và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các hộ. Từ đó chất lượng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng bị giảm xuống, tỷ lệ nợ xấu cao, ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Có thể nói đây cũng là môi trường ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất, đặc biệt là các hộ sản xuất ở nước ta, khi sản xuất của họ chủ yếu là trong lĩnh vực nông nghiệp, sự thành công hay thất bại của quá trình sản xuất phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên xã hội. Khi nó ảnh hưởng đến kinh tế của hộ sản xuất thì nó cũng ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của các hộ sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động cho vay hộ sản xuất của ngân hàng. Chương 2: THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNo & PTNT THÀNH PHỐ SƠN TÂY ***** 2.1. KHÁI QUÁT VỀ NHNO& PTNT THÀNH PHỐ SƠN TÂY 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Sơn Tây Tên giao dịch Việt Nam : Chi nhành Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Sơn Tây- Trực thuộc NHNo&PTNT Tỉnh Hà Tây. Trụ sở chính : 189 Lê Lợi – Sơn Tây – Hà Tây NHNo&PTNT Sơn Tây là một ngân hàng thương mại quốc doanh là đơn vị thành viên hạch toán thuộc NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây. NHNo&PTNT Sơn Tây được xây dựng từ năm 1956 năm 1965 do sát nhập Tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lỵ đặt tại thành phố Hà Đông. Chi nhánh của NHNo Sơn Tây trở thành chi điểm Sơn Tây. NHNo Sơn Tây là một trong những chi nhánh cấp 2 trực thuộc NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây được thành lập vào ngày 26/3/1988 của Thủ tướng Chính phủ trụ sở Chi nhánh NHNo Sơn Tây được cải tạo nhiều lần có diện tích xây dựng 700m2, trên diện tích đất gần 2.800m2 được thuê lâu dài của Nhà nước, diện tích kho 50m2 được xây dựng kiên cố. Mạng lưới chi nhánh tại NHNo Sơn Tây có 6 ngân hàng cấp 3 và hiện tại trở thành 6 phòng giao dịch chính với tổng diện tích đất gần 1000m2 trụ sở các phòng giao dịch đóng tại các trung tâm khu vực thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Trong đó trụ sở của phòng giao dịch Đông Sơn cách xa nhất, cách trụ sở của NHNo Sơn Tây 12km. Có 5 trụ sở giao dịch được mua bằng vốn của Ngân hàng, và một trụ sở giao dịch thuê của Nhà nước. NHNo Sơn Tây thực hiện các chức năng chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các sản phẩm dịch vụ khác đối với mọi khách hàng. NHNo Sơn Tây với bộ máy quản trị có năng lực và được sắp xếp hợp lý. Đối tượng đầu tư của NHNo Sơn Tây chủ yếu là phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Do chịu ảnh hưởng rất lớn và điều kiện tự nhiên nên hoạt động kinh doanh của NHNo Sơn Tây vẫn còn gặp nhiều khó khăn 2.1.2. Cơ cấu tổ chức NHNo Sơn Tây có tổng số 88 cán bộ trong đó 76 cán bộ được biên chế và 12 cán bộ làm hợp đồng. Có 70% cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. 30% cán bộ có trình độ trung cấp, 52 cán bộ là đảng viên, các cán bộ được theo học các khoá học nghiệp vụ và tiếng Anh chuyên ngành để nâng cao trình độ chuyên môn. Cơ cấu tổ chức của NHNo Sơn Tây bao gồm : * Ban giám đốc gồm : 1 giám đốc phụ trách chung và 3 phó giám đốc. 1 phó giám đốc phụ trách về kế toán - ngân quỹ 1 phó giám đốc phụ trách về hành chính nhân sự 1 phó giám đốc phụ trách về nghiệp vụ kinh doanh. NHNo Sơn Tây có 3 phòng ban và 1 bàn nguồn. Mỗi phòng ban được tổ chức theo từng chức năng và nhiệm vụ cụ thể. Có 6 phòng giao dịch chịu sự quản lý của NHNo Sơn Tây. * Có 3 phòng chức năng : - Phòng kế toán – Ngân quỹ - Phòng tín dụng - Phòng hành chính nhân sự * Mô hình được tổ chức cụ thể sau: GIÁM ĐỐC PGĐ Kế toán ngân quỹ Tổ kiểm tra nội bộ PGĐ Tín dụng PGĐ Hành chính nhân sự Phòng HCNS Phòng TD Phòng KT- NQ Phòng GD Văn Miếu Phòng GD Sơn Lộc Phòng GD Xuân Khanh Phòng GD Đông Sơn Phòng GD Quang Trung Phòng GD Lê Lợi Giúp việc cho Giám đốc là các phó giám đốc trong chỉ đạo điều hành tham gia đóng góp một số ý kiến nghiệp vụ do Giám đốc phân công và thay mặt Giám đốc khi uỷ quyền. 2.1.2. Kết quả hoạt động của ngân hàng Sơn Tây Từ những mặt thuận lợi, và khó khăn chung của Thành phố Sơn Tây như đã nêu trên đã có những ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh chung của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sơn Tây cụ thể như sau : 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn bảng 2.1 Cơ cấu nguồn vốn Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2006 31/12/2007 Tăng, giảm Tỷ trọng 1. TG dân cư 484.359 533.151 + 48.792 93% Trong đó: Nội tệ 355.334 448.277 + 52.373 Ngoại tệ 129.025 125.444 - 3.581 2. TG TCKT 40.754 40.571 - 183 7% 3. Tiền vay 0 0 0 Cộng 525.113 573.722 + 48.609 100% ( Nguồn: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2007 NHNo&PTNT Sơn Tây) Năm 2007 thực hiện công tác huy động nguồn vốn trong điều kiện hết sức khó khăn đó là sự cạnh tranh về lãi suất, chính sách khách hàng. Đặc biệt do ảnh hưởng của giá cả đã tác động đến tâm lý người gửi tiền. Mặc dù vậy công tác huy động nguồn vốn Ngân hàng Nông nghiệp Sơn Tây đã nhận thức được đầy đủ và chủ động triển khai thực hiện các giải pháp có hiệu quả như tuyên truyền tốt các đợt huy động tiết kiệm dự thưởng do TW và Ngân hàng nông nghiệp tỉnh phát hành . (Trong năm đã trao giải cho các khách hàng tiển gửi tổng số 123 giải thưởng với số tiền là 161.700.000 VNĐ và 7,5 chỉ vàng) khuyến mãi, xây dựng niềm tin cho khách hàng thông qua thái độ, tác phong giao tiếp. Do vậy nguồn vốn huy động vẫn tiếp tục tăng trưởng cụ thể : Huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư tăng 48,7 tỷ và chiếm tỷ trọng 93%, nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế chỉ chiếm tỷ trọng 7%. 2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Trong năm 2007 Ngân hàng Sơn Tây đã mở rộng đầu tư vốn đến mọi thành phần kinh tế và trú trọng khai thác những dự án khả thi của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đế đầu tư mới giúp các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả. Duy trì thì trường truyền thống cho vay là phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Cho vay HTX. Mở rộng cho vay cả về số lượng lẫn chất lượng giúp các hộ sản xuất có điều kiện phát triển kinh tế gia đình góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động. Công tác chỉ đạo mở rộng đầu tư tín dụng tiến hành đồng thời với việc nâng cao chất lượng tín dụng, chủ động tập chung giải quyết những khó khăn vướng mắc, tạo mọi điều kiện cho khách hàng. Tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng Sơn Tây đã thực hiện phân phối tiền lương gắn với việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch theo khoán tài chính đến từng cán bộ tín dụng. Tuy nhiên, trong công tác sử dụng vốn tại ngân hàng nông nghiệp Sơn Tây cũng còn một số tồn tại cần phải khắc phục và hoàn thiện để hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Sơn Tây đạt kết quả. 2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ Trên cơ sở quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng công tác hạch toán kế toán ngân quỹ đảm bảo cập nhật chính xác, an toàn tài sản và đảm bảo thanh toán kịp thời cho khách hàng. - Đã triển khai đầy đủ kịp thời các chương trình ứng dụng do Ngân hàng Nông nghiệp Tỉnh chuyển về trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và triển khai các sản phẩm mới của Ngân hàng Nông nghiệp. Các dịch vụ khác như chuyển tiền điện tử, kinh doanh ngoại tệ, dịch vụ ATM, dịch vụ chi trả WESTERUNION tăng hơn nhiều so với năm 2006. Cụ thể : Dịch vụ chuyển tiền. Doanh số chuyển tiền nợ : 1.462 tỷ tăng 150 tỷ so với năm 2006. Doanh số chuyển tiền có : 1.522 tỷ tăng 188 tỷ so với năm 2006. Doanh số chi trả WESTERUNION là 627 món với số tiền là 12.776 triệu VNĐ, tăng so với năm 2006 là 206 món với số tiền là 11.806 triệu đồng. - Số thẻ phát hành trong năm là 1.461 thể, đến 31/12/2007 có 2.675 thẻ, hiện nay đã là 2.873 thẻ đang lưu hành. Đặc biệt dịch vụ ATM đã là nhu cầu không thể thiếu được để phục vụ nhân dân, các doanh nghiệp, học viên tại các đơn vị quân đội trên địa bàn. - Đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu chi trả tiền tiết kiệm nội ngoại tệ, chi giải phóng mặt bằng, chi trả lương hưu tại các xã, phường và các nhu cầu thanh toán khác của các doanh nghiệp. Không khất hoãn chi, đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng. Từ những hoạt động đó cộng với sự tăng trưởng trong công tác tín dụng đã đem lại kết quả thu dịch vụ tăng hơn nhiều so với năm 2006, cụ thể thu nghiệp vụ năm 2007 là 79 tỷ đồng tăng 12 tỷ so với năm 2006. Hoạt động ngân quỹ vẫn thường xuyên giữ được niềm tin với khách hàng, trong năm đã trả lại tiền thừa 131 món với số tiền 265 triệu đồng, phát hiện và thu giữ tiền giả là 3,3 triệu đồng. Hoạt động của doanh nghiệp ngoài thực hiện nhiệm vụ chuyên môn chính như tín dụng, kế toán, ngân quỹ để phục vụ các nhu cầu đa dạng của khách hàng, không thể thiếu được các hoạt động khác như kiểm tra kiểm soát, công tác tổ chức hành chính. Trong năm đã duy trì công tác tự kiểm tra, tiếp nhận đoàn thanh tra của NHNN tỉnh Hà Tây, đoàn kiểm tra của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh. Qua kiểm tra được đánh giái là tốt không có sai phạm ảnh hưởng tới tài sản của ngân hàng và khách hàng. 2.2. THỰC TRẠNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNO SƠN TÂY 2.2.1. Quy trình cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp Sơn Tây Ngân hàng Nông nghiệp Sơn Tây cho vay hộ sản xuất bao gồm các hộ trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và các hộ sản xuất kinh doanh các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống. Cho vay hộ sản xuất một cách trực tiếp dưới hai hình thức là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng, trong đó có thể vay ngắn hạn hoặc vay trung hạn. đối với cho vay trực tiếp từng lần, đối tượng chủ yếu là các hộ sản xuất trong nông nghiệp. Hồ sơ vay vốn gồm : - Giấy đề nghị vay vốn - Hợp đồng tín dụng - Hợp đồng bảo đảm tiền vay - Dự án , phương án sản xuất kinh doanh - Những hộ có nhu cầu vay vốn từ 20 triệu trở xuống thì phải vào tổ nhóm vay bằng sổ vay vốn không cần tài sản thế chấp. Đối với cho vay trực tiếp theo hạn mức tín dụng thì hồ sơ cho vay như cho vay từng lần nhưng thêm giấy nhận nợ đối với từng lần vay. Sau khi nhận được nhu cầu vay vốn của khách hàng cán bộ tín dụng tổng hợp nhu cầu vay vốn của khách báo cáo lãnh đạo đi thẩm định cho vay .Nếu đồng ý cho vay hẹn khách ra ngân hàng để làm thủ tục vay vốn và hướng dẫn hộ vay làm hồ sơ vay để hộ vay đi xin xác nhận của chính quyền địa phương, và hẹn ngày ra lấy tiền. Đối với hộ cho vay theo hạn mức cán bộ tín dụng cùng hộ sản xuất lập dự án sản xuất để đề ra nhu cầu vay vốn là bao nhiêu để tính toán nhu cầu hạn mức của hộ. Sau đó hộ sản xuất đến ngân hàng làm hợp đồng tín dụng với cán bộ tín dụng, làm theo giấy nhận nợ. Trong trường hợp, hạn mức tín dụng của hộ sản xuất vẫn còn thấp hơn nhiều so với giá trị tài sản đảm bảo của hộ sản xuất thì hộ sản xuất gặp cán bộ tín dụng để yêu cầu ngân hàng nông nghiệp tăng hạn mức tín dụng của mình lên cho phù hợp. Khi đó CBTD phải trình cáp trên xem xét để phê duyệt. * Trình tự xét duyệt và cho vay đối với hộ sản xuất Đối với những hộ sản xuất vay trực tiếp từng lần thì sau khi hồ sơ vay vốn đã hoàn tất, cán bộ trình trưởng phòng tín dụng xem xét, kí kiểm soát cho vay. Sau đó trình phó giám đốc phụ trách kinh doanh phê duyệt đóng dấu. Sau khi cấp trên phê duyệt thì hồ sơ vay vốn của hộ sản xuất được chuyển sang phòng kế toán, ngân quỹ để giải ngân Đối với những hộ sản xuất vay vượt quyền phán quyết thì cán bộ tín dụng lập hồ sơ trình giám đốc để giám đốc lập tờ trình, trình lên ngân hàng cấp trên để ngân hàng cấp trên đi tái thẩm định và có quyết định cho vay hay không. Sau đó bộ hồ sơ được chuyển trực tiếp cho giám đốc chi nhánh xem xét và phê duyệt cho vay. Cuối cùng hồ sơ được chuyển sang phòng kế toán, Ngân quỹ để giải ngân 2.2.2. Các hình thức cho vay hộ sản xuất của NHNo&PTNT Sơn Tây Ngân hàng Nông nghiệp Sơn Tây cho vay hộ sản xuất chủ yếu là hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp còn lại các các hộ sản xuất trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Sơn Tây chủ yếu là cho vay hộ sản xuất dưới phương thức cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất không thông qua các doanh nghiệp, các tổ, hợp tác xã. Hộ sản xuất đến trực tiếp ngân hàng làm thủ tục vay vốn là có kế hoạch trả nợ trực tiếp cho ngân hàng. Phương thức cho vay hộ sản xuất nhanh chóng có được nguồn vốn và với lãi suất hợp lý do ngân hàng trực tíêp đưa ra. Do đó hoạt động sản xuất của các hộ sản xuất được điều hành một cách nhanh chóng và thuận lợi, đáp ứng nhu cầu cần thiết của các hộ sản xuất. Ngân hàng nông nghiệp Sơn Tây cho vay trực tiếp hộ sản xuất, thông qua hai hình thức là cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức tín dụng. Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đối với cho vay từng lần ngân hàng nông nghiệp Sơn Tây áp dụng với những hộ sản xuất trong nông nghiệp có nhu cầu vay vốn nhỏ và vừa. Ngân hàng nông nghiệp Sơn Tây cung cấp vốn cho các hộ sản xuất một cach trực tiếp theo hệ số vay vốn của hộ sản xuất. Mỗi hồ sơ vay vốn của hộ thì ngân hàng cấp vốn phù hợp một lần với phương án sản xuất của hộ và giá trị tài sản đảm bảo của hộ cho vay theo hạn mức tín dụng là nghiệp vụ tín dụng thu đó ngân hàng có thể thảo thuận cấp cho khách theo hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hạn cuối kỳ, đó số dư tối đa tại thời điểm tính hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở sản xuất kinh doanh nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đối với cho vay theo hạn mức tín dụng Ngân hàng nông nghiệp Sơn Tây áp dụng đối với các hộ sản xuất kinh doanh có nhu cầu vay vốn thường xuyên vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lớn, kinh doanh các mặt hàng có giá trị cao như : Cám công nghiệp, vật liệu xây dựng, vật liệu xây dựng vv… Ngân hàng cung cấp cho từng hộ sản xuất một hạn mức tín dụng nhất định trong một thời gian nhất định tuỳ từng hộ trong thời hạn mức tín dụng hộ sản xuất có thể vay làm một lần hoặc vay làm nhiều lần nhưng tổng số tiền vay không được vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp cho các hộ sản xuất. Những hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp khi có nhu cầu vay vốn để điều hành sản xuất trực tiếp đến ngân hàng làm hồ sơ cho vay vốn, vay một lần cho một kỳ sản xuất. Nhu cầu của các hộ này thường không lớn lắm, các hộ sản xuất vay trực tiếp một lần để đầu tư vào sản xuất, hết chu kỳ sản xuất hộ thu hoạch và trả nợ cho ngân hàng theo kế hoạch đã trả nợ thảo thuận trong hồ sơ vay vốn. Đây là phương thức cho vay rất thuận lợi đối với các hộ sản xuất trong nông nghiệp. Bởi vì các hộ sản xuất này có nhu cầu vay vốn theo từng mùa cụ thể sản xuất do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là theo vụ mùa nhất định. Khi nào hộ sản xuất có nhu cầu đầu tư sản xuất thì hộ sản xuất làm hồ sơ và vay trực tiếp một lần ngân hàng còn những hộ sản xuất kinh doanh đòi hỏi nguồn vốn lớn lưu động, vòng quay vốn ngắn thì vay vốn theo hạn mức tín dụng. Những hộ này kinh doanh những mặt hàng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp phục vụ đời._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24747.doc
Tài liệu liên quan