Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - Tỉnh Hải Dương

Lời nói đầu Trong hơn một thập kỷ vừa qua, dưới ánh sáng nghị quyết đại hội VI của đảng; chỉ thị 100 của ban bí thư và đặc biệt là nghị quyết 10 của Bộ chính trị, kinh tế hộ nông dân nước ta đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng tạo lên sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế đất nước. Khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nông nghiệp - nông thôn, phát huy những lợi thế vốn có của đất nước, tạo công ăn việc làm, từng bước tăng thu nhập cho lao động làm nông nghiệp là những

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1778 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - Tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân nước nhà về cơ bản đã làm được trong thơì gian vừa qua. Tuy nhiên, cũng từ những kết quả đã đạt được đó, trên con đường phát triển của mình kinh tế hộ nông dân nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi chúng ta cần làm tốt hơn nưã trong thời gian sắp tới như ruộng đất cho người nông dân; vốn, tín dụng cho các hộ; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; thị trường đầu vào, đầu ra; nâng cao trình độ của người lao động trong nông nghiệp... Thanh Miện là một huyện thuần nông nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Hồng. Cũng như những huyện thuần nông khác trong cả nước hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp của huyện là kinh tế hộ nông dân. Nông nghiệp là ngành luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của toàn thể nhân dân và hộ nông dân cũng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số hộ gia đình có trong toàn huyện. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân nơi đây cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết nhằm khai thác tốt hơn nữa những nguồn lực trong nông nghiệp -nông thôn, không ngừng nâng cao chất lượng lao động và cuộc sống của người nông dân. Theo em, Thanh Miện là một môi trường thuận lợi và có tính đại diện cao khi chúng ta tìm hiểu và nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Vì vậy trong giai đoạn thực tập này em đã chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương”. Với đề tài “Một số giả pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương” em hy vọng: - Củng cố kiến thức đã học, từng bước nâng cao trình độ tiếp cận những vấn đề thực tiễn của bản thân. -Vận dụng kiến thức đã có, tập xem xét, đánh giá và nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong thực tiễn. -Góp phần thực hiện chủ trương xoá đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất của các hộ nông dân huyện Thanh Miện. -Góp ý kiến của mình vào tiếng nói chung, thúc đẩy sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta niện nay. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài em đã sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: -Phương pháp thống kê. -Phương pháp nghiên cứu điển hình. -Phương pháp điều tra. -Phương pháp phân tích, xử lý số liệu và phân tích tổng hợp. -Phương pháp khảo nghiệm kinh tế. Bằng kiến thức đã được học, vận dụng vào thực tiễn nghiên cứu một vấn đề cụ thể nhằm đạt được những mục đích nêu trên, nội dung bài viết gồm 3 chương, đó là: Chương I: Cơ sở khoa học phát triển kinh tế hộ nông dân. Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương. Chương III: Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành bài viết này. Chương I: Cơ sở khoa học Phát triển kinh tế hộ Nông Dân I- Những lý luận chung: 1- Khái niệm, bản chất, đặc trưng, vai trò của kinh tế hộ nông dân. a. Khái niệm bản chất. Kinh tế hộ nông dân là khái niệm đã được đề cập đến từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Từng hình thái phát triển nền kinh tế khác nhau trôi qua, lại cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về kinh tế hộ nông dân ở thời kỳ lịch sử đó. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân chỉ thực sự được quan tâm và bàn đến khi vị trí và vai trò của nó dần được khẳng định trong nền kinh tế nói chung và trong nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Với ý nghĩa to lớn của việc phát triển kinh tế hộ nông dân đã được chứng minh trong lịch sử. Có rất nhiều nhà kinh tế, những học giả, học thuyết và cả những nhà chính trị đã bàn đến kinh tế hộ với vai trò là thành phần kinh tế chủ yếu trong nông nghiệp - nông thôn. Và tất nhiên, tuỳ từng thời kỳ phát triển khác nhau, tuỳ từng cách tiếp cận khác nhau mà chúng ta nhận được những lý thuyết không hoàn toàn giống nhau về kinh tế hộ nông dân. -Tư tưởng của C.Mác và Ph-Anggen. Đối với vấn đề nông dân, cả Mác và Anggen đều tỏ thái độ hết sức thận trọng. +Lúc đầu, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, nhận thấy quá trình người nông dân bị tách khỏi ruông đất một cách ồ ạt, Mác đã tuyên đoán giai cấp nông nhân sẽ bị xoá bỏ cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp. +Nhưng sau đó, bất chấp xu hướng diễn ra trong thời kỳ công nghiệp hoá nhanh chóng ở nước Anh, nông trại gia đình về căn bản không dựa trên lao động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Từ đó trong quyển III của bộ tư bản, Mác đã viết “ Ngay ở những nước siêu công nghiệp... với thời gian cho đến nay đã khẳng định rằng hình thức lãi nhất không phải là nông trại công nghiệp hoá mà là nông trại gia đình không dùng lao động làm thuê. Những nước còn giữ hình thức tư hữu chia đất thành khoảnh nhỏ, giá cả ngũ cốc trong những nước mà chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ còn chiếm địa vị thống trị thường thấp hơn so với những nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”. -Tư tưởng của V.L.Lê nin: Với tư duy biện chứng và hoạt động thực tiễn,V.L.Lê nin đã có những đóng góp quan trọng vào những luận điểm nêu trên của Mác và Angghen. Năm 1908, khi bàn về việc lựa chọn con đường phát triển của nông nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng: Không thể phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà phải là theo kiểu một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ, đó là kiểu Mĩ. Lênin cho rằng Cauxky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi nói rằng: Nông nghiệp không phát triển theo cùng một kiểu với công nghiệp. +Thực tế cho đến nay, ngày càng khẳng định sự phát triển thắng thế của con đường khác với kiểu “Nông trại kỹ nghệ” ở Anh hoặc “Đại điền trang kiểu Phổ” mà Mác và Lênin đã phán đoán ở nhiều nước. -Tư tưởng của A.V.Traianôp. +Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế phức tạp của tổ chức sản xuất nông nghiệp. Đó là những doanh nghiệp hàng hoá gia đình nông dân không thuê nhân công mà chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước Nga trước cách mạng cũng như trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hôị ở Liên xô. +Kinh tế nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân vì thế có thể coi kinh tế nông dân là kinh tế gia đình. Đó là một thứ xí nghiệp lao động gia đình sống theo những quy luật của nó, khác với những quy luật tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở lao động làm thuê. Trong kinh tế gia đình, người nông dân vừa là người chủ, vừa là người lao động. Mục đích sản xuất không phải vì lợi nhuận mà là để thoả mãn những nhu cầu của gia đình. +Khi vượt khỏi kinh tế nửa tự nhiên (nửa tự cung tự cấp) người nông dân bắt đầu cảm thấy rõ sự cần thiết của tín dụng, kỹ thuật và công nghệ tiến bộ. Nhưng mặt khác, các quá trình thuần tuý sinh học (trong trồng trọt cũng như trong chăn nuôi) lại đòi hỏi một sự chăm sóc của từng cá nhân và điều đó lại hạn chế sự phát triển theo chiều rộng của doanh nghiệp nông dân. +Mỗi ngành có một giới hạn tối ưu cần thiết. Khi giới hạn tối ưu vượt quá khuôn khổ kinh tế của gia đình nông dân, lúc đó, nông dân tìm cách hợp tác với nhau để đạt giới hạn tối ưu mới , bằng cách đó là chuyển dần lên sản xuất lớn. Nói cách khác, do không có khả năng tập trung vô hạn theo chiều sâu như trong công nghiệp nên sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tập trung theo chiều rộng từ quá trình này đến quá trình khác. Như vậy người nông dân khi làm chủ và người lao động sẽ đi tới chỗ liên kết các quá trình và các ngành “tách rời nhau” cùng nhau mua sắm tư liệu sản xuất, thành lập các nhóm sử dụng máy móc và tiêu thụ sản phẩm, cải tạo đất đai. Và bằng cách đó mà thay đổi cách kinh doanh của mình. -Tư tưởng của Frank Elliss: Kinh tế hộ nông dân là sản xuất của các hộ gia đình nông nghiệp, có quyền sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình. Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và tham gia ở mức độ không hoàn hảo và hoạt động của thị trường. -Quan điểm của Liên Hợp Quốc: +Về phương diện thống kê: Liên hợp quốc cho rằng: hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có cùng một ngân quỹ. +Về phương diện sản xuất: Liên hợp quốc cho rằng: kinh tế hộ là một hình thức tổ chức cơ sở của nền sản xuất hàng hoá. Nó hoạt động sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình, có một hoặc một số người lao động tự đầu tư theo khả năng về vốn để trang bị tư liệu sản xuất, sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ theo yêu cầu sản phẩm cho sự sinh tồn của họ trên thị trường. Mỗi tư tưởng, mỗi quan điểm cho ta một cách nhận thức tổng quát về kinh tế hộ nông dân hoặc kinh tế hộ nông dân trên một mặt nào đó. Tuy vậy, chúng ta có thể hiểu: Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế - xã hội được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý, đạo đức. Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn. Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ trong sản xuất - kinh doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng trước pháp luật và là chủ thể nền kinh tế thị trường. +Hộ là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các thành viên trong hộ gắn bó với nhau chặt chẽ trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống. +Trong các tư liệu sản xuất của hộ nông dân, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế. +Kinh tế hộ nông dan chủ yếu dựa vào sức lao động của gia đình, không hoặc rất ít thuê lao động ngoài, các lao động trong gia đình mang tính tự giác cao. Ngoài các lao động chính thì kinh tế hộ nông dân còn có những lao động phụ đó là những lao động trẻ em và người già. +Người chủ hộ vừa là người quản lý điều hành sản xuất,vừa trực tiếp lao động nên mọi người trong hộ đều gắn bó với nhau chặt chẽ trong quá trình sản xuất. Từ đó các thông tin, các quyết định được xử lý nhanh và kịp thời, mang tính hợp lý cao. +Tính tư hữu của người lao động liên hệ với lợi ích cá nhân một cách chặt chẽ, nó vừa là mục đích, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển. Từ những tư tưởng, những quan điểm, khái niệm và những đặc điểm của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên chúng ta có thể rút ra được bản chất của kinh tế hộ nông dân thể hiện ở những khía cạnh sau: + Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế, trong đó các thành viên hoạt động và làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội. +Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế thích nghi nhất với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nơi mà các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi sự quan tâm sát sao, sự chăm sóc đúng lúc của con người. Đất đai và các tư liệu sản xuất khác đòi hỏi một sự bảo quản và bồi dưỡng hợp lý từ người sử dụng, một yêu cầu mà không hình thức sản xuất nào khác đáp ứng được. + Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế phổ biến mang tính chất đặc thù ở mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi nước trên thế giới. Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất, vừa tiêu dùng (mà người ta thường gọi tự cấp tự túc) sản phẩm mà hộ làm ra có thể được tiêu dùng luôn với vai trò là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. +Cũng như những thành phần kinh tế khác, Kinh tế hộ nông dân phải vận dụng tổng hợp các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế khách quan trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. +Kinh tế hộ nông dân không những giải quyết tốt các mục tiêu của hộ nông dân mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây dựng nông thôn mới. b- Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân đang tồn tại và phát triển với vai trò là một đơn vị sản xuất cơ sở của nông nghiệp - nông thôn. Là một thành phần kinh tế độc lập, tự chủ cùng các thành phần kinh tế khác hình thành lên nền kinh tế thị trường của nước ta hiện hay. Kinh tế hộ nông dân sẽ luôn là một tế bào bền vững và phát triển lành mạnh trong nền kinh tế, nó mang những đặc trưng cơ bản sau đây: -Đặc trưng về sở hữu: Tuy không được sở hữu về đất đai nhưng hộ nông dân lại được nhà nước giao quyền sử dụng ổn định và lâu dài. Đó là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của mọi quá trình sản xuất trong nông nghiệp. Mọi tư liệu sản xuất khác đều thuộc quyền sở hữu của các thành viên trong hộ, và tất nhiên mọi sản phẩm làm ra đều thuộc quyền sở hữu của gia đình. Tất cả những điều này tạo lên sự khác biệt giữa sở hữu hộ nông dân và sở hữu tư nhân trong sở hữu tập thể. -Đặc trưng về mục đích sản xuất. Mục đích sản xuất của kinh tế hộ nông dân được xác định chủ yếu trên cơ sở đảm bảo nhu cầu về lương thực và thực phẩm cho hộ, một số ít dư thừa được đem ra để trao đổi. Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển, mục tiêu đảm bảo nhu cầu của hộ sẽ giảm dần và thay vào đó là sản xuất hàng hoá nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các thành viên, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình. -Đặc trưng về lao động: +Thường thì các hộ nông dân không thuê lao động mà chỉ sử dụng những thành viên trong gia đình. Trong các ngành kinh tế khác, việc sử dụng lao động là trẻ em và người lớn tuổi là không được phép nhưng trong kinh tế hộ nông dân thì lao động trẻ em và người lớn tuổi đóng một vai trò rất đáng kể ,hai lao động trẻ em hoăc người lớn tuổi được tính bằng một lao động chính. +Mọi lao động trong hộ nông dân làm việc với tính tự giác cao, tự chủ vì lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội. -Đặc trưng về mặt tổ chức: +Tổ chức của hộ nông dân rất đơn giản, gọn nhẹ chỉ bao gồm những người trong gia đình, trong bộ tộc có quan hệ hôn nhân và huyết thống. +Tổ chức của hộ nông dân rất chặt chẽ, điều khiển mọi quá trình sản xuất chủ yếu là người chủ gia đình trên cơ sở thứ bậc, hiệu lực cao bởi kỷ cương, lề nếp mang tính truyền thống. -Đặc trưng về hoạt động kinh tế hộ: +Hoạt động kinh tế của hộ nông dân khá đa dạng và phong phú, có thể tiến hành sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiêù ngành nghề . +Có tính phù hợp và tự điều chỉnh cao, với mỗi thay đổi của môi trường sản xuất kinh doanh thì hoạt động kinh tế của hộ có thể tự điều chỉnh để phù hợp .Tuy nhiên sự tự phù hợp đó nhanh hay chậm, chính xác hay không còn phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của mỗi thành viên trong hộ. -Đặc trưng về phân phối: Các sản phẩm do hộ nông dân sản xuất ra trước hết được phân phối đều theo nhu cầu của các thành viên trong gia đình, phần còn dư thừa được đem bán hoặc trao đổi theo sự thống nhất giữa mọi thành viên trong gia đình. Với sáu đặc trưng như đã nêu ở trên, kinh tế hộ nông dân thực sự là thành phần kinh tế phù hợp với yêu cầu của mọi nền kinh tế đang tồn tại, nó là một trong năm thành phần kinh tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội. c-Vai trò của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân là một trong những thành phần cấu tạo lên nền kinh tế quốc dân của mỗi nước, nó không chỉ tự phát triển, tự ảnh hưởng mà còn ảnh hưởng tới và chịu sự ảnh hưởng tác động của tất cả các thành phần kinh tế khác. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong các học thuyết, các quan điểm của mình, các nhà kinh tế, các nhà chính trị đã phần nào nêu lên những chính kiến của mình về vai trò của kinh tế hộ. Trong bất kỳ thời đại nào, bất kỳ thời điểm lịch sử nào kinh tế hộ nông dân vẫn luôn đóng vai trò quan trọng. -Cung cấp lượng lương thực, thực phẩm chủ yếu phục vụ cho đời sống và nhu cầu của con người: +Hàng năm trên toàn thế giới, với sự ổn định khoảng 300 triệu hộ nông dân đã đóng góp, giữ vai trò là lực lượng chủ đạo trong nền nông nghiệp toàn cầu. Sản xuất ra khoảng trên 2000 triệu tấn lương thực, trên 200 triệu tấn hạt có dầu và khoảng 1000 triệu tấn thịt, sữa, trứng, hàng tỷ tấn rau, quả cung cấp cho gần 6 tỷ người. +ở Mĩ, chỉ với khoảng 65% đất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân đã tạo ra một lượng nông sản chiếm khoảng 70% giá trị sản phẩm nông nghiệp, 50% sản lượng ngô toàn thế giới. +ở Nhật Bản, kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra một khối lượng sản phẩm đủ cung cấp cho nhu cầu của cả nước với khối lượng: 100% nhu cầu về gạo; 81% nhu cầu về thịt; 98% nhu cầu về trứng; 90% đến 95% nhu cầu về rau, quả... +ở Việt Nam chúng ta với trên 10 triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra một khối lượng nông sản thực phẩn cực lớn với sự tiến bộ vượt bậc, theo thống kê năm 2000 thì khối lượng sản phẩm của toàn ngành nông nghiệp là: 35,36 triệu tấn lương thực quy thóc, xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn gạo, đã trồng được 717 nghìn ha ngô, sản lượng xuất khẩu cà phê đạt 694 nghìn tấn, cao su đạt 280 nghìn tấn, sản lượng thịt, trứng liên tục tăng với tốc độ cao, chúng ta không những đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân cả nước mà còn vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. -Hình thành đơn vị tích tụ vốn của xã hội. Kinh tế hộ nông dân với đặc điểm là đơn vị sản xuất cơ sở và tự chủ đã đóng vai trò là đơn vị tích tụ vốn của xã hội, cùng vời các đơn vị trong các thành phần kinh tế khác tạo lên một tổng thể các nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu về vốn của toàn xã hội. Nguồn vốn mà các hộ nông dân tích tụ được là cơ sở cho việc chuyển từ kinh tế tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hoá với hiệu quả cao mang lại. Kết quả ấy sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp, góp phần tích cực và to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của minh, kinh tế hộ nông dân vừa là đơn vị tích tụ vốn, vừa đóng vai trò là đơn vị giải ngân nguồn vốn đó vào việc tái sản xuất hoặc mở rộng ngành nghề, tạo nguồn đầu tư vào các ngành khác. -Tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong quá trình sản xuất, kinh tế hộ nông dân cần sử dụng nhiều lao động với số ngày công rất cao. Tuy nhiên với mỗi dạng hộ khác nhau, ở mỗi thời điểm và thời kỳ phát triển của hộ khác nhau mà có nhu cầu về lao động không giống nhau: +Sử dụng lao động gia đình: Hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình và lao động trong gia đình cũng là nguồn chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của hộ, chúng ta phải nói rằng đa số lao động trong hộ đều làm việc cho sự phát triển và mục tiêu sản xuất cũng như quá trình sản xuất của hộ nông dân. +Sử dụng lao động gia đình ngoài độ tuổi lao động. Hiện nay, một tình trạng khá phổ biến là ở các hộ nông dân, việc sử dụng lao động ngoài độ tuổi lao động, đó là các trẻ em và người lớn tuổi, với cách tính cứ hai lao động này bằng một lao động chính đã góp phần tăng thu nhập cho hộ, giải phóng dần lực lượng lao động chính ra khỏi nông nghiệp đến một mức hợp lý. +Sử dụng lao động làm thuê: Việc sử dụng lao động làm thuê rất ít khi xẩy ra ở những hộ tự túc tự cấp, sản xuất nhỏ nhưng lại là việc làm khá phổ biến ở các hộ nông dân sản xuất hàng hoá và sản xuất lớn. Những hộ nông dân này việc thuê mướn thêm lao động thường xuyên hoặc vào thời vụ là điều cần thiết với tiền công hợp lý đã tạo ra một số lượng công ăn việc làm khá lớn cho những lao động dư thừa ở nông thôn hiện nay. Kinh tế hộ nông dân, trong quá trình sản xuất và phát triển của mình cần rất nhiều ngày công lao động. Thực tế đã chứng minh qua những năm vừa qua, kinh tế hộ nông dân đã giải quyết cho hàng triệu lao động ở nông thôn nước ta, góp phần quan trọng vào công cuộc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. -Thực hiện phân công lao động theo đơn vị kinh tế hộ nông dân. Cùng với quá trình phát triển của mình kinh tế hộ nông dân ngày càng có điều kiện để tích luỹ tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, khoa học kỹ thuật và công nghệ cũng như máy móc được áp dụng và sử dụng vào sản xuất ngày càng nhiều. Trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm của người nông dân ngày càng được nâng lên rõ rệt thêm vào đó là sự phù hợp trong cơ chế và các chính sách của nhà nước sẽ giúp cho sản xuất ngày càng phát triển số lao động phục vụ cho nhu cầu của kinh tế hộ về nông nghiệp ngày càng giảm, sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp. Số lao động dư thừa này với trình độ ngày càng được nâng lên sẽ chuyển dịch sang làm việc tại các ngành, nghề khác, nhất là các ngành nghề truyền thống sẽ ngày càng phát triển. Tất cả những điều này sẽ dẫn tới diện tích đất nông nghiệp trên đầu người sẽ tăng, năng xuất lao động tăng và hiệu quả sản xuất của một lao động sẽ không ngừng được nâng lên. -Đổi mới kỹ thuật sản xuất. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân với tư cách là một thành phần kinh tế tồn tại và luôn đổi mới cùng với quá trình đổi mới, phát triển của nền kinh tế nói chung. Kinh tế hộ nông dân chịu sự ảnh hưởng tác động của các thành phần kinh tế khác, của nhiều yếu tố khác. Qua quá trình hoạt động, nó luôn phát triển hướng tới hoàn thiện mình, mà đổi mới về kỹ thuật sản xuất chỉ là một mặt đổi mới của nó. Sự đổi mới về kỹ thuật sản xuất có được là do các nguyên nhân tác động sau đây: +Người nông dân với kinh nghiệm sản xuất của mình ngày càng làm tốt hơn công việc của mình, phát hiện những khó khăn cần khắc phục và những thuận lợi cần khai thác phát huy. +Cùng với quá trình phát triển của mình, việc đầu tư cho đổi mới trang thiết bị sản xuất là điều tất yếu mà việc học hỏi khoa học kỹ thuật mới là việc làm thực sự cần thiết. +Trong đời sống kinh tế hộ nông dân thì việc cạnh tranh lành mạnh, sự ghanh đua với những kết quả đạt được sẽ là động lự là nhân tố tích cực đầu tư và học hỏi. +Cùng với sự quan tâm về giáo dục của nhà nước, các mạng lưới khuyến nông ngày càng hoạt động có hiệu quả thì một hệ quả là trình độ của người lao động trong hộ nông dân ngày một nâng lên. Điều này thực sự là nhân tố tích cực giúp vận dụng tốt những điều kiện vốn có những tư liệu sản xuất trong nông hộ được kết hợp có khoa học mang lại hiệu quả kinh tế cao. +Qua thời gian và sự phát triển của nền kinh tế, đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp cũng ngày một tăng, góp phần khai thác tốt những tiềm năng, ưu thế riêng có của hộ. Tất cả những điều nói trên kết hợp với nhau một cách hài hoà, khoa học, kinh nghiệm truyền thống kết hợp với kỹ thuật hiện đại làm cho sản phẩm sản xuất ngày càng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành hạ hơn, lợi nhuận thu được cao hơn. Đó cũng là mục tiêu cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân. Sản xuất hàng hoá có thể sớm được áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất. -Giữ gìn và làm trong sạch môi trường sinh thái. Vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường ngày nay đang được toàn thể nhân loại quan tâm cùng giải quyết. Giữ gìn và làm trong sạch môi trường là vấn đề đang được đặt nên vị trí hàng đầu hiện nay. Kinh tế hộ nông dân, hàng năm với hàng triệu ha cây xanh các loại được gieo trồng đã góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ môi trường trên thế giới. Đó là điều mà không ai trong chúng ta có thể phủ nhận. Từ sự tìm hiểu về bản chất, đặc trưng và vai trò của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên, chúng ta có thể khẳng định kinh tế hộ nông dân sẽ tồn tại và luôn là một thành phần kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, sự phát triển của nó không những làm cho đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được khai thác đầy đủ mà còn có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của các thành phần, các ngành kinh tế khác: Đối tượng sản xuất của kinh tế hộ nông dân có đặc điểm riêng biệt đó là cây trồng và vật nuôi, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là các cơ thể sống, vì vậy chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người đều có tác động trực tiếp đến quá trình phát sinh và phát triển của chúng, và tất nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất. Do chúng có đặc điểm như vậy nên muốn đạt hiệu quả cao nhất thiết phải có sự quan tâm đúng mực, thường xuyên và thực sự sát sao của con người. Mỗi sự biến đổi, thay đổi nhỏ của những cơ thể sống này con người đều phải biết, chúng cần phải được chăm sóc đúng lúc đúng chỗ, đúng khoa học. Để làm tốt những điều này không một chủ thể nào khác mà chỉ có hộ nông dân đảm đương nổi. Đặc điểm có đó chỉ phù hợp với trách nhiệm, chất lượng của lao động gia đình, phù hợp với kiểu tổ chức sản xuất của kinh tế hộ nông dân. -Thực tế phát triển kinh tế hộ nông dân đã cho thấy nhiều ưu điểm mà không một chủ thể nào có được, hơn thế nữa phát triển kinh tế hộ nông dân còn giúp phát triển lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm và giải phóng lực lượng ,năng lực sản xuất ở nông thôn. đây là việc làm thực sự có ý nghĩa với bất kỳ một nền kinh tế nào, với bất kỳ một xã hội nào. Việc phát triển lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm là điều cần thiết cho sự phát triển của xã hội, của con người. Năng lực sản xuất ở nông thôn, nhiều khi còn bị bó buộc, nhưng nay nó đã được giải phóng, được phát huy tác dụng qua sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. -Phát triển kinh tế hộ nông dân sẽ giúp khai thác hết mọi tiềm năng, tiềm lực trong nông nghiệp-nông thôn. Khai thác và sử dụng có hiệu quả những tư liệu sản xuất như đất đai, công cụ lao động...những yếu tố mà chỉ có kinh tế hộ mới sử dụng có hiệu quả nhất.Sản xuất của hộ nông dân mang tính đa dạng, tính thích ứng cao. Sự phân bố của kinh tế hộ mang tính rộng khắp. Sản phẩm của nông nghiệp mang tính liên tục, không phân chia thành các bán thành phẩm, không tính toán được kết quả ngay ở mỗi giai đoạn. Kinh tế hộ nông dân tồn tại và phát triển khắc phục được những khó khăn tưởng chừng không khắc phục nổi, khai thác được những tiềm năng mà không một chủ thể nào khác khai thác được. Thực tế phát triển của mỗi nền kinh tế trong thời gian vừa qua đã chứng minh sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân là một tất yếu, khách quan, phù hợp với quy luật của sản xuất nông nghịêp. Bằng những luận giải như đã nói ở trên, chúg ta phải công nhận rằng kinh tế hộ nông dân có những ưu điểm mà không chủ thể kinh tế nào có được. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn-nơi mà những tiền đề cho sự phát triển vẫn còn khiêm tốn, đòi hỏi nhiều công sức đầu tư cũng như cần có sự quan tâm đúng mức của nhà nước thì sự phát triển của hình thức kinh tế này là một tất yếu. Nông nghiệp là một trong ba ngành chính cấu thành lên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tuy từng thời kỳ và ở mỗi nước khác nhau nó có vị trí không giống nhau, tuy nhiên chúng ta phải nói rằng nông nghiệp luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của nhân dân mỗi nước. Sự phức tạp của nông nghiệp chỉ phù hợp với một loại hình sản xuất kinh doanh, mà ở đó mang lại hiệu quả kinh tế cao đó là kinh tế hộ nông dân. Thực tế phát triển nền kinh tế của đất nước chúng ta cũng cho thấy những điều tương tự. Qua nhiều năm kinh tế hộ nông dân không được khuyến khích phát triển, thậm chí còn có thời kỳ bị đưa vào đối tượng cần cải tạo và loại bỏ đã làm cho bức tranh kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng thực sự đen tối, đời sống của người nông dân thực sự đã phải trải qua nhiều khó khăn. Nhận thức được sai lầm này, cùng vời hàng loạt sự đổi mới, trong văn kiện Đại hội VI của Đảng (1986) và trong Hiến pháp của nước CHXHCN Việt nam năm 1992, kinh tế hộ nông dân đã được công nhận và được coi là một thành phần kinh tế tồn tại tất yếu, bình đẳng và lâu dài. Trong những năm đổi mới vừa qua, nền kinh tế và nông nghiệp nước ta đã khởi sắc, đạt được những thành tựu to lớn, điều đó có được có một sự đóng góp rất lớn của kinh tế hộ nông dân. Điều này càng một lần nữa khẳng định sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật của sản xuất nông nghịêp. 2- Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ nông dân. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ nông dân như điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, trình độ phát triển của nền kinh tế các chính sách vĩ mô của nhà nước... mà chúng ta có thể phân tích ứng với mỗi nội dung phát triển của kinh tế hộ. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới việc chuyển kinh tế hộ từ tự cấp tự túc, sản suất nhỏ lên sản xuất hàng hoá , kinh tế trang trại-mục tiêu mà kinh tế hộ nông dân cần vươn tới trên con đường phát triển của mình. a-Nhóm những nhân tố khách quan: -Quy mô và diện tích ruộng đất: chúng ta đều biết rằng ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế đối với nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng. Mọi hoạt động sản xuất của hộ nông dân chủ yếu diễn ra trên mảnh đất mà họ đang có quyền sử dụng. Tuy nhiên, để có thể tiến hành sản xuất lớn , sản xuất hàng hoá được thì hộ nông dân cần có sự tích tụ và tập trung đến một mức độ đủ lớn và hợp lý đất đai. Tuỳ từng hộ, tuỳ từng loại hình sản xuất kinh doanh mà cần quy mô ruộng đất khác nhau nhưng chúng cần liền khoảnh và đủ lớn. -Có sự tác động tích cực và phù hợp trong các chính sách của nhà nước. Đây là nhân tố thực sự quan trọng đối với việc phát triển kinh tế hộ nông dân. Mỗi chủ trương, chính sách của nhà nước đưa ra đều nhằm tác động tới một mặt nào đó của đời sống xã hội. Và chính sách đối với việc phát triển kinh tế hộ nông dân cũng vậy, cũng nhằm đạt được mục tiêu nào đó mà nhà nước đề ra. Các chủ trương, chính sách của nhà nước có thể thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát triển của nó. Các chính sách quan trọng như: chính sách về đất đai, chính sách về thị trường, chính sách về vốn, chính sách về đầu tư... -Có sự phát triển nhất định của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng cũng là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển của kinh tế hộ nông dân.quá trình từ sản xuất, tiêu thụ, trao đổi, chuyển đổi các sản phẩm của kinh tế hộ có được diễn ra bình thường, suôn sẻ, thuận lợi hay không phần lớn phụ thuộc vào hệ thống cơ sở hạ tầng này. Cơ sở hạ tầng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành các sản phẩm của hộ nông dân. -Sự hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá. Hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa thực sự là điều cần thiết trong quá trình phát triển từ hộ tự cấp tự túc lên hộ sản xuất hàng hoá. Hình thành các vùng chuyên môn hoá sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho các hộ nông dân, giúp thúc đẩy phát triển sản xuất,tiê._.u thụ sản phẩm, tập trung đồng nhất thị trường đầu vào, đầu ra... Tuy nhiên sự hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá hoàn toàn phải dựa trên đòi hỏi khách quan, hợp lý của vùng và tình hình kinh tế. -Công nghiệp chế biến: Đi đôi với việc phát triển sản xuất hàng hoá rộng khắp của các hộ nông dân, việc hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá thì một yêu cầu đặt ra là thị trường tiêu thụ cần được quan tâm thỏa đáng, đảm bảo đem lại hiệu quả sản xuất cho người nông dân. Muốn vậy công nghệ chế biến cần đi trước một bước, hình thành tại những vùng nguyên liệu, tại những khu trung tâm, trục đường giao thông thuận tiện. Nhằm nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm mà người nông dân sản xuất ra. -Quá trình hợp tác, liên doanh, liên kết và sự hoạt động của hệ thống khuyến nông từ trung ương tới cơ sở. Trong quá trình sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá thì việc hợp tác, liên doanh, liên kết là điều thực sự cần thiết. Sự hoạt động của hệ thống khuyến nông cũng có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy quá trình này. Bằng những hoạt động cụ thể của mình, hệ thống khuyến nông có thể làm nhanh hay chậm quá trình chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc của các hộ nông dân sang sản xuất hàng hoá. b-Nhóm nhân tố chủ quan: -Kinh nghiệm sản xuất của người lao động cùng với trình độ học vấn kỹ năng của họ tạo thành nhân tố vô cùng quan trọng trong việc phát triển này. Người lao động bằng kinh nghiệm thực tế đã trải qua cùng với những vấn đề khoa học kỹ thuật mới tiếp thu sẽ có cách kết hợp tốt nhất mọi tư liệu sản xuất và mọi tiềm năng mà mình có. Tuỳ từng mức độ thuần thục và trang bị kiến thức khác nhau mà đem lại hiệu quả không giống nhau trong quá trình sản xuất những nhân tố chủ quan này thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc đi lên của các hộ nông dân, đặc biệt là trình độ hạch toán của chủ hộ góp phần rất lớn vào sự thành công của công việc. -Vốn đã tích tụ được và mức độ trang bị tư liệu sản xuất của các hộ nông dân cũng sẽ quyết định sự thuận lợi hay không trong việc đầu tư sản xuất, chuyển dịch nhanh hay chậm của quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá. Nhận biết được những nhân tố khách quan và chủ quan chủ yếu này chúng ta có thể khai thác được những điểm mạnh mà chúng ta đã có và không ngừng khắc phục những tồn tại mà chúng ta vẫn còn, như vậy chúng ta sẽ đẩy nhanh được quá trình chuyển từ kinh tế hộ tự cấp tự túc, sản xuất nhỏ lên sản xuất hàng hoá lớn, kinh tế trang trại. II- Khái quát sự phát triển của kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới và nước ta. 1- Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước trên thế giới. Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử và trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với các hình thái kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ ở ba thế kỷ trở lại đây khi mà các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã tạo ra hàng loạt những công nghệ, kỹ thuật và công cụ sản xuất mới, tạo ra bước đột phá trong nền nông nghiệp của thế giới. Hộ nông dân cho đến nay đã tồn tại phổ biến trên thế giới, ở tất cả các nước có sản xuất nông nghiệp. Nhưng chủ yếu nó đang tồn tại ở dạng hộ nông dân sản xuất hàng hoá và kinh tế trang trại. Sau đây, để giúp cho việc nghiên cứu và việc định hướng phát triển cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta phù hợp với quy luật phát triển nông nghiệp nói chung, chúng ta sẽ xem xét tình hình phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới. Từ đó chúng ta có thể rút ra được những kinh nghiệm và xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân. -Vương quốc Hà Lan. Là một đất nước nhỏ bé với diện tích 41500 km2, dân số 14806000 người trong đó số lao động nông nghiệp chỉ chiếm 5,7% dân số, nhưng hàng năm đã sản xuất ra một lượng lương thực-thực phẩm không những đáp ứng đủ nhu cầu trong nước mà con xuất khẩu 48,3 tỷ Gulden sản phẩm nông nghiệp năm 1990. Mỗi một lao động nông nghiệp ở Hà Lan có thể nuôi được 112 người. Toàn bộ sản xuất nông nghiệp ở Hà Lan được tổ chức chủ yếu theo nông trại. Năm 1960 có 300 nghìn nông trại thì đến năm 1985 chỉ còn 138 nghìn. Các nông trại tổ chức gọn với diện tích trung bình khoảng 10ha đất canh tác, sử dụng lao động gia đình là chính. Các nông trại được trang bị đầy đủ mọi dụng cụ, máy móc cần thiết, số nông trại chăn nuôi chiếm 17%. -ở Pháp: đơn vị sản xuất phổ biến trong nông nghiệp là nông trại gia đình. Năm 1956 đã có khoảng 2,5 triệu nông trại với 4 triệu lao động canh tác trên diện tích 32 triệu ha.Quy mô canh tác bình quân của một nông trại truớc đây là 15 đến 20ha, nay tăng lên 20đến50ha. Có 70% nông trại chăn nuôi từ 20 bò sữa trở lên.Nông trại ở Pháp chủ yếu sử dụng lao động và công cụ máy móc của gia đình . -ở Đan Mạch: Dân số củaĐan Mạch là 5 triệu người, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 6% lực lượng lao động toàn xã hội. Nền nông nghiệp của Đan Mạch chủ yếu cơ cấu theo các đơn vị hộ và trang trại. Khoảng 87% các đơn vị sản xuất này sử dụng lao động là các thành viên trong gia đình và họ hàng thân thiết làm ở tất cả các khâu sản xuất.Chỉ có 13% số đơn vị có thuê lao động song cũng thường xuyên từ 2 người trở lên.Nghành chăn nuôi của Đan Mạch phát triển khá mạnh, cả nước hiện nay có khoảng 34 nghìn đàn bò sữa.Một điều khá đặc biệt ở đây là có các hệ thống trường học và các tổ chức riêng của nông dân chịu trách nhiệm đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên nông thôn. Một nông dân Đan Mạch có thể sản xuất một lượng nông sản đủ cung cấp cho khoảng 160 người. -ở Thuỵ Điển: Nông lâm nghiệp ở nước này được tổ chức chủ yếu theo đơn vị nông trại gia đình. Hiện nay cả nước có khoảng 100 nghìn nông trại các loại. Quy mô bình quân một nông trại là 30ha đất canh tác và 30 đầu gia súc lớn. Một nông trại loại khá thường canh tác 40ha đất, chăm sóc 60 ha rừng và nuôi 25 bò sữa, 25 bò thịt.Các nông trại thường canh tác trên đất riêng hoặc thuê của nhà nước thời hạn từ 5 đến 25 năm.Mỗi nong trại bình quân có 2 lao động và hai máy kéo. Hàng năm, đại diện của nông dân, của người tiêu dùng và đại diện chính phủ họp lại để định giá bán lẻ các loại nông sản thực phẩm trong năm. -ở Mĩ: Hoa Kỳ là nước từ nhiều năm nay dẫn đầu thế giới về sản xuất nông nghiệp. Năm 1987, xuất khẩu nông phẩm của Hoa kỳ đạt 46 tỷ đôla, đó là con số cực kỳ lớn nói lên vị trí dẫn đầu của họ. Ngoài điều kiện thiên thuận lợi, kết quả ấy còn do yếu tố tổ chức sản xuất hợp lý mang lại. Người Mĩ thừơng nói “nông trại gia đình là linh hồn, là tế bào của nền nông nghiệp Hoa kỳ” và quả thực đúng như vậy. Năm 1976, toàn nước Mĩ có 28 triệu nông trại với khoảng 4,4 triệu lao động nhưng đến năm 1987 con số này chỉ còn 2.176 nghìn nông trại với 3,208 triệu lao động (chưa đầy 2% dân số). Do quy mô và năng suất lao động tăng nên số nông trại và số lao động nông nghiệp ngày càng giảm. Trong số 1.733.683 nông trại loại nhỏ có 1.721.816 nông trại gia đình (99,3%) do kỹ thuật ngày càng hiện đại nên quy mô trung bình của một nông trại cũng không ngừng tăng lên: 1940 là 40 ha; 1950 là 80 ha; 1960 là 120 ha; những năm 80 từ 150 đến 200 ha và hiện nay khoảng 217 ha. Các nông trại gia đình sở hữu 228.576.692 ha đất canh tác, nhưng canh tác tới 362.430.000 ha. Những nông trại lớn, những tập đoàn sản xuất có trên 10 lao động chỉ có 1.797 đơn vị, sở hữu 4.527.466 ha, canh tác 5.811.539 ha. ở Hoa kỳ các nông trại chủ yếu chỉ sử dụng lao động gia đình, Tuy nhiên họ được hỗ trợ bởi một hệ thống công cụ và thiết bị vô cùng hiện đại. Hàng năm, một số nông trại bị phá sản, có khoảng 50.000 chủ đất bị vỡ nợ. -ở một số nước Châu á: Biểu 1: Số lượng và quy mô nông trại ở một số nước Châu á Nước Số lượng nông trại (triệu) Quy mô nông trại (ha) 1970 1955 1970 1985 1-Nhật Bản 2-Hàn Quốc 3-Đài Loan 4-Thái Lan 5-Inđônêxia 6-Philipin 7-Mianma 8-Ân Độ 9-Pakistan 10-Srilanca 11-Nêpan 5,300 - 0,877 3,214 2,168 12,148 - 61,500 12,155 1,174 1,496 4.200 2,300 0,870 4,500 4,400 - 4,300 81,600 - - - 1,06 0,9 1,11 - - - - 2,62 2,37 1,59 1,22 1,20 - 1,00 5,60 3,66 1,88 2,00 2,60 3,80 - - Nguồn: Hợp tác hoá nông nghiệp Việt Nam-NXB Sự Thật, 1992, trang 111. Nhìn chung quy mô nông trại ở các nước Châu á vào loại thấp có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do Châu á chủ yếu canh tác lúa nước nên quy mô khoảng từ 1,5 đến 2 ha là hợp lý và hiệu quả. Qua tìm hiểu ở các nước phát triển và đang phát triển về kinh tế hộ nông dân, ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây: -Nông trại gia đình tuy quy mô không lớn và phân tán ở nông thôn nhưng nó đã tạo ra năng suất, sản lượng nông sản cao và tập trung. Sự tồn tại và phát triển lâu dài của nông trại là do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp quy định. -Các nông trại trong nền sản xuất hàng hoá là lực lượng sản xuất hàng hoá chủ yếu trong nông nghiệp, sản xuất là hướng ra thị trường nó khác hẳn với kinh tế tiểu nông. -Cơ cấu sản xuất kinh doanh của các nông trại rất đa dạng có nông trại chuyên sản xuất 1-2 loại sản phẩm ngũ cốc hoa quả, cà phê, cao su hay chăn nuôi bò, lợn, gà... có nông trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, với nghề rừng hoặc với các ngành phi nông nghiệp. -Đa số các nông trại chỉ sử dụng lao động gia đình là chủ yếu, số nông trại thuê lao động không nhiều, nếu có chủ yếu chỉ thuê theo thời vụ và số lượng thuê không nhiều. Vì là nông trại gia đình nên có nông trại gồm nhiều thế hệ. -Phần lớn nông trại canh tác trên ruộng đất của riêng, cha truyền con nối. Cũng có một phần nông trại canh tác ruộng đất thuê dài hạn của nhà nước hay tư nhân. Quy mô của các nông trại tuỳ vào trình độ tranh bị tiến bộ khoa học kỹ thuật mà có sự khác nhau. Diễn biến về quy mô và số lượng diễn ra từ từ trong một thời gian dài và không ảnh hưởng tới sản xuất, và năng xuất ngày càng được nâng lên. -Hình thức sử dụng công cụ lao động cũng có sự khác nhau, có nông trại tự bỏ vốn mua riêng máy móc tự sản xuất cũng có nông trại sử dụng hình thức hợp tác hoặc đi thuê. 2- Sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta. Trong hơn một thập kỷ vừa qua, cùng với quá trình đổi mới và sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, nông nghiệp nước ta đã có một bước tiến dài trên con đường phát triển của mình. Đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thường xuyên phải nhập lương thực, thực phẩm từ nước ngoài, đến nay chúng ta đã hoàn toàn tự túc được số lượng lương thực và thực phẩm cho nhu cầu trong nước. Bảo đảm sự ấm no trong đời sống của nhân dân và an ninh lương thực quốc gia với mức đọ tăng trưởng hàng năm đạt 4,3%. Năm 1997 so với năm 1987 sản lượng lương thực tăng 1,8 lần, cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3,5 lần, chè tăng 1,8 lần.Không những thế, sản phẩm nông nghiệp thường xuyên chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, thường xuyên chiếm 40 đén 50% với mức tăng trung bình đạt sấp xỉ 20% năm. Hàng năm thu về hàng tỷ đô la, góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế, ổn định xã hội, tạo điều kiện và tiền đề tiến hành những cải cách sâu rộng khác để bước vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Góp phần vào những thành tựu to lớn đó, kinh tế hộ nông dân Việt nam đang dần khảng định vai trò và vị trí của mình đối với đất nước. Tuy nhiên, không phải dễ dàng mà chúng ta có những thành tựu này, đó là cả một quá trình mà kinh tế hộ nông dân đã phải trải qua, có những lúc khó khăn, gian khổ, tưởng chừng không thể thay đổi, nhưng chúng ta vẫn vượt qua để có ngày hôm nay. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến và phân tích từng quá trình mà kinh tế hộ nông dân nước ta đã phải trải qua. a-Hộ nông dânViệt nam dưới chế độ phong kiến, thực dân. Theo số liệu thống kê trước cách mạng tháng tám - 1945, nông dân ta chiếm 97% tổng số nông hộ, nhưng chỉ có 36% diện tích ruộng đất. Khoảng 40% số hộ nông dân có chút ít ruộng tư, còn lại 1/2(ở Bắc kỳ và Trung kỳ) và 2/3 số hộ (ở Nam kỳ) không có lấy một “mảnh đất cắm dùi”. Theo số liệu của Yves Henry(1930) thì: -ở Bắc kỳ số hộ có dưới 0,36 ha chiếm 61,8% người có ruộng,số có từ 0,36 đến 1,8 ha chiếm 28,8%. -ở Trung kỳ số hộ có dưới 0,5ha chiếm 68,5%người có ruộng, có 0,5 đén 2,5 ha là 25,3% tổng số chủ ruộng. -ở Nam kỳ số hộ có dưới 1ha chiếm 33,6%, còn số hộ có 1 đến 3 ha là 38%. Như vậy phần lớn nông dân có ruộng ở Việt nam thời kỳ này chỉ có dưới 1 ha, mà số này lại không đông, tầng lớp nông dân trong xã hội bị phân hoá thành nhiều thành phần: +Cố nông: vì không có ruộng nên chuyên sống bằng nghề làm thuê.Họ thường chỉ có việc làm vào hai tháng trong năm đó là hai vụ tháng năm và tháng mười. Thành phần này phải ăn đói tới 7 đến 8 tháng trong năm. +Bần nông và trung nông lớp dưới: Thành phần này có chút ít ruộng đất và công cụ sản xuất. Thường phải lãnh canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy thêm. Việc làm thuê chỉ là phụ đối với tầng lớp này. Những người lĩnh canh ruộng đất của địa chủ được gọi là những tá điền. Họ phải chịu bao phí tổn từ lúc cày bừa, chăm sóc...Vậy mà sau mỗi vụ gặt tá điền thường phải nộp cho địa chủ 50 đến75% hoa lợi. Ngoài địa tô chính tá điền còn phải nộp cho địa chủ nhiều khoản địa tô như tô trâu;tô nước; tô nông cụ. Thành phần nông dân này thường phải chịu đói từ 3 đến 6 tháng trong một năm. Trong thời kỳ phong kiến và thực dân này đời sống của người nông dân vô cùng cực khổ, kinh tế hộ nông dân không có cơ may phát triển. Tô cao, tức nặng, sưu thuế chồng chất làm cho người nông dân không đủ nuôi sống mình và càng không có điều kiện cải tiến công việc đồng áng. Ruộng đất manh mún, công cụ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu như ngàn năm trước, phần lớn bằng tre, gỗ, ít cái bằng kim loại nên vừa nặng nề, vừa mau hỏng. Người ta dùng trâu bò để kéo cầy, không có trâu bò thì người kéo thay. Các khâu của quá trình sản xuất vô cùng lạc hậu nhất là các vùng núi và dân tộc ít người. Đã thế, những năm mưa thuận gió hoà thì ít những năm có bão lụt,sâu bệnh...thì nhiều áp bức bóc lột cùng với sự tàn phá của thiên nhiên đã kìm hãm ghê ghớm sức sản xuất của hàng triệu nông dân lao động. Năng xuất cây trồng lao động rất thấp, trung bình lúa chỉ đạt 10-12 tạ/ha. Tóm lại, dưới chế độ thực dân phong kiến, nông dân nước ta rơi vào cảnh “một cổ đôi ba tròng”. Họ bị các tầng lớp ăn bám trong xã hội là đế quốc, phong kiến và tư sản sâu xé. Làm việc cực nhọc mà không được hưởng kết quả do mình làm ra, cuộc sống vô cùng khó khăn và vất vả. b. Kinh tế hộ nông dân Việt Nam từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Cách mạng tháng 8 năm 1945 là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự thay đổi cơ bản của xã hội Việt nam, đồng thời là sự đổi đời của nông dân Việt nam, tạo lên một tiền đề quan trọng cho sự phát triển của kinh tế hộ nông dân nước ta. -Từ sau cách mạng tháng 8, Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam á đã từng bước giải quyết những vấn đề ruộng đất theo khẩu hiệu “người cầy có ruộng” của Đảng cộng sản, giảm tô, xoá nợ... -Đầu năm 1954, kháng chiến thực dân phấp thắng lợi. Qua cải cách ruộng đất, nông dân miềm Bắc được chia 810.000 ha ruộng đất tịch thu của địa chủ. ở miền Nam, nông dân được chia cấp 750.000 ha ruộng đất các loại, riêng ở Nam bộ 564.547 ha đã về tay nông dân làm chủ. Thời kỳ 1955-1957, hộ nông dân ở miền Bắc đã thực sự đóng vai trò điều hành sản xuất theo đúng nghĩa là đơn vị kinh tế tự chủ. Thời gian này nông nghiệp miền Bắc đã đạt được những thành tựu lớn. So với thời kỳ năm 1939 thì các chỉ tiêu của những năm 1955-1957 đạt như sau: +Sản lượng quy thóc tăng 57%, riêng thóc tăng 53%. +Năng suất lúa tăng 30,8%, lương thực bình quân đầu người tăng 43,6%. +Đàn trâu tăng 44%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20%. -Từ năm 1958 đến 1980, chủ trương hợp tác hoá thực chất là tập thể hoá nông nghiệp đã làm lu mờ dần vai trò của kinh tế hộ nông dân. Toàn bộ công việc từ sản xuất tới phân phối sản phẩm đều do HTX nông nghiệp điều hành. -Từ năm 1981 đến 1987. Cùng với sự ra đời của chỉ thị 100 của Ban bí thư trung ương Đảng, nông nghiệp nước ta đã có sự khởi sắc bước đầu. Hộ nông dân đã được đảm nhận một số khâu công việc trong quá trình sản xuất. Gắn quyền lợi và trách nhiệm của người nông dân với kết quả cuối cùng nên đã đạt được một số thành tựu to lớn: Thời kỳ 1981-1985 so với thời kỳ 1976-1980, sản lượng lương thực quy thóc tăng 27% năng xuất lúa tăng 23,8%, diện tích cây công nhiệp tăng 62,1%, đàn bò tăng 33,2%, đàn lợn tăng 22,1%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 5%/năm sản lượng lương thực bình quân tăng 4,83%/năm, lượng lương thực bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm. 1981: 273kg; 1982: 299 kg; 1983: 296 kg; 1984: 303 kg; 1985: 305 kg... đời sống của người nông dân đã được cải thiện một bước đáng kể. Mặc dù vậy nhưng tính tích cực của cơ chế thoáng 100 chỉ phát huy được trong một thời gian ngắn, có nhiều tiêu cục xảy ra và cần có sự sửa đổi. -Thời kỳ 1988 tới nay: Đứng trước tình hình đó, tháng 4 năm 1988, Bộ chính trị đã ra Nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, xác lập vị trí tự chủ cho hộ nông dân ở nước ta. Sản xuất nông nghiệp nước ta đã có những chuyển biến quan trọng,ở các địa phương ruộng đất đã được giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài. Quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cùng với quyền sử hữu tư liệu sản xuất khác là nguồn gốc tạo ra động lực mới thúc đẩy hộ nông dân chăm lo sản xuất, đồng thời khắc phục tình trạng vô chủ trong quản lý sử dụng đất đai và các tư liệu sản xuất khác trong nhiều năm ở nông thôn. Hiện nay ở nước ta có trên 10 triệu hộ nông dân với 70% lao động cả nước và 84% lao động ở nông thôn. Theo số liệu điều tra của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp tại 26 huyện thuộc các vùng khác nhau trong cả nước nhằm nghiên cứu thực trạng kinh tế của các hộ nông dân, chúng ta có những số liệu như sau: +Bình quân nhân khẩu và lao động của mỗi hộ ở các vùng có sự khác nhau. ở Trung du và miền núi phía Bắc trung bình một hộ nông dân có từ 4 đến 5 nhân khẩu và từ 2 đến 3 lao động thì ở đồng bằng sông Hồng và khu 4 cũ các con số này tương ứng là 4 đến 5 và 1 đến 3, ở Duyên hải trung bộ và đồng bằng sông Cửu long là 6 đến 7 và 3 đến 4; 70 đến 80% chủ hộ là nam giới. Trình độ văn hoá trung bình ở đồng bằng sông Hồng là lớp 6 đến 7; ở khu 4 cũ, Trung du miền núi phía Bắc và Duyên hải trung bộ là lớp 5 đến 6; đồng bằng sông Cửu long là lớp 3 đến 4. +Diện tích canh tác trung bình của một hộ: ở phía Bắc: 0,3-0,4 ha. Duyên hải trung bộ: 0,4-0,6 ha. Đồng bằng sông Cửu long: 0,6-1 ha. +Công cụ lao động của hộ nông dân chủ yếu là thô sơ, số cơ giới hoá, có máy móc phục vụ sản xuất rất ít. +Hiện nay cả nước chúng ta có: 14,8% số hộ nông dân nghèo (khoảng 1,5-1,6 triệu hộ) đang còn ở trình độ sản xuất tiểu nông tự cấp tự túc, nhiều khi không đủ ăn. 62,8% số hộ nông dân trung bình (khoảng 6,3-6,5 triệu hộ) chủ yếu là sản xuất tự túc, đủ ăn, có một ít nông sản hàng hoá không đáng kể. 22,4% số hộ khá và giàu (khoảng 2,2-2,3 triệu hộ), bước đầu vượt ra khỏi quỹ đạo của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc để đi vào sản xuất hàng hoá với các mức độ khác nhau. + Chúng ta thực sự vui mừng là cùng với các chính sáh đổi mới và khuyến khích hộ nông dân phát triển, đến nay cả nước chúng tá có trên 100.000 trang trại các loại. Con số này tuy không lớn đối với một số nước trên thế giới nhưng đối với chúng ta nó là một sự thành công ghi nhận sự phát triển bước đầu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hoá của hộ nông dân Việt nam. Kinh tế trang trại đang được quan tâm phát triển trên khắp cả nước, số trang trại ngày càng nhiều, hiệu quả mang lại ngày càng cao. Chúng ta có quyền hy vọng vào một tương lai tươi sáng của nền nông nghiệp nước nhà. Qua thực tế phát triển kinh tê hộ nông dân ở nước ta hiện nay, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây: -Hộ nông dân sản xuất nhiều nông sản hàng hoá xuất hiện ở hầu hết các địa phương. Kinh tế trang trại đang dần khẳng định vai trò và vị thế của mình. -Các hộ sản xuất hàng hoá bao gồm nhiều dân tộc ở khắp mọi miền của tổ quốc. -Các hộ sản xuất nhiều hàng hoá có cơ cấu sản xuất đa dạng với nhiều ngành nghề khác nhau. Có hộ sản xuất chuyên canh nhưng cũng có những hộ sản xuất tổng hợp. -Quy mô sản xuất của các hộ nông dân nước ta nói chung là nhỏ, kể cả về ruộng đất, vốn liếng cũng như khối lượng sản phẩm và thu nhập. -Lao động của hộ nông dân nước ta bình quân là 2 lao động chính với trình độ văn hoá có nơi còn rất thấp. -Khả năng phát triển sản xuất hàng hoá của các hộ nông dân nước ta rất cao. Như vậy, kinh tế hộ nông dân nước ta đang phát triển từ kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá, phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của nền nông nghiệp thế giới. III- Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân và những bài học kinh nghiệm rút ra. 1- Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân là hình thức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp, nó tồn tại ở tất cả các nước, tất cả các vùng và trên toàn thế giới. Tuỳ từng điều kiện sản xuất nông nghiệp khác nhau, tuỳ theo trình độ và mức độ phát triển kinh tế hộ khác nhau, tuỳ từng chính sách phát triển ở mỗi nước có sự khác nhau mà xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân ở những nơi đó trong thời gian sắp tới không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên chúng ta có thể rút ra được những đặc điểm cơ bản, những đặc điểm chung nhất của xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân hiện nay trên toàn thế giới: -Kinh tế hộ nông dân từ sản xuất tự cung, tự cấp, hàng hoá nhỏ từng bước tiến lên sản xuất hàng hoá lớn, kinh tế trang trại: đây là xu hướng nổi bật của kinh tế hộ nông dân, các hộ không ngừng tích tụ và tập trung đất đai, tiền vốn, lao động, khoa học công nghệ và các nhà nước cũng không ngừng đầu tư về tiền vốn, tín dụng ưu đãi, xây dựng cơ sở hạ tầng, có chính sách phát triển... với cùng một mục đích là thúc đẩy hộ nông dân sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển. Điều đó là phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển của nền nông nghiệp thế giới. -Trình độ tổ chức sản xuất của hộ nông dân ngày càng được nâng cao: Cùng với quá trình tiến nên sản xuất hàng hoá, trình độ tổ chức sản xuất của hộ cũng ngày càng được nâng cao. Đó là đòi hỏi tất yếu của một nền sản xuất hàng hoá, có như vậy hộ nông dân mới mang lại được hiệu quả kinh tế cao, mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình phát triển. Hộ nông dân không những chỉ làm, chỉ sản xuất độc canh một loại cây trồng nào đó mà sẽ sản xuất tổng hợp nhiều loại cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu của thị trường. Sẽ không những kinh doanh một ngành nhất định mà còn vươn tới hoạt động trên nhiều ngành khác nhau: nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp theo yêu cầu hiệu quả kinh tế đặt ra. Một điều tất yếu đi đôi với trình độ tổ chức sản xuất của hộ nông dân được nâng cao là việc trình độ của người lao động sẽ không ngừng được cải thiện, số lao động làm nông nghiệp sẽ được tinh giản tới mức tối đa. -Số hộ làm nông nghiệp sẽ giảm và thu nhập, đời sống của nông hộ cũng ngày một được nâng lên. Đó là hệ quả tất yếu trong quá trình phát triển của nông nghiệp nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng. Số hộ, số lao động trong nông nghiệp ngày một giảm đánh giá mức độ phát triển của nông nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Tất cả những xu hướng phát triển chung của kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên đều là sự đòi hỏi của quá trình phát triển, đòi hỏi của một nền nông nghịêp tiên tiến, hiện đại và đó là một quá trình phát triển khách quan và tất yếu. ở nông thôn nước ta hiện nay hình thành ba loại hộ đó là hộ có khả năng sản xuất hàng hoá; hộ sản xuất tự cấp tự túc và hộ nghèo. Cả ba loại hộ này đều sẽ phát triển theo những xu hướng mà chúng ta đã nêu nên ở trên; tuy nhiên trong những năm trước mắt, xu hướng vận động phát triển chung của kinh tế hộ nông dân nước ta là phải liên kết hợp tác giữa các hộ với nhau, giữa các hộ với thành phần kinh tế khác nhằm tăng nhanh loại hộ sản xuất hàng hoá và thu hẹp loại hộ nghèo. Nhưng tuỳ loại hộ, tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng vùng mà xu hướng vận động phát triển của nó mang tính chất riêng biệt. +Đối với những hộ sản xuất hàng hoá: đây là những hộ nông dân có năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh, nắm bắt được tiến bộ khoa học và công nghệ, nhạy bén với thị trường... đã vươn lên làm ăn khá giả. Đây cũng sẽ là loại hộ đại diện cho sức sản xuất mới đang phát triển ở nông thôn và là nhân tố cơ bản kích thích quá trình chuyển nền nông nghiệp lạc hậu sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Loại hình hộ nông dân này sẽ phát triển theo hướng sản xuất nông trại, trang trại. Sẽ được hình thành và phát triển nhiều ở những nơi còn nhiều đất như vùng Trung du, miền núi, Tây nguyên và đồng bằng sông Cửu long. +Đối với nhóm hộ sản xuất tự cấp tự túc thì xu hướng vận động biến đổi của chúng sẽ là từng bước chuyển dần sang sản xuất hàng hoá. +Đối với nhóm hộ nghèo: là nhóm chỉ chủ yếu độc canh cây lương thực. Họ không có khả năng đầu tư thâm canh và phát triển mới. Vì vậy Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương cần quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho hộ nông dân nghèo có thể vươn lên làm ăn sinh sống bình thường và phấn đấu trở thành khá giả. Nắm bắt được xu hướng vận động và phát triển này, chúng ta sẽ có những chính sách đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi loại hộ. 2- Những bài học kinh nghiệm rút ra. Qua tìm hiểu thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân của một số nước trên thế giới và tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân của Việt nam trong nhiều năm. Em rút ra được một số kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ nông dân như sau: -Kinh tế hộ nông dân (kinh tế trang trại) là hình thức tổ chức cơ sở trong nông nghiệp. Được phát triển phổ biến và nó cần tạo điều kiện để phát triển vì kinh tế hộ nông dân có nhiều ưu điểm mà các hình thức sản xuất khác không có được. -Không thể áp dụng, áp đặt phương pháp sản xuất công nghiệp vào nông nghiệp, nghĩa là không thể tách quản lý sản xuất ra khỏi sản xuất, các chủ hộ sẽ vừa là người quản lý, vừa là người lao động trực tiếp và vừa là người kinh doanh. Để quản lý nông trại hiện đại, người chủ hộ phải có những kiến thức rộng, phải có năng lực và đặc biệt là phải có thái độ người chủ đồng thời là người thân thiết gần gũi đối với đất đai, vật nuôi, cây trồng. -Con đường phát triển kinh tế hộ nông dân tự cấp tự túc nên kinh tế trang trại không phải là quy luật riêng của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà là quy luật phát triển chung của nền nông nghịêp thế giới, là một tất yếu khách quan trong quá trình chuyển từ nông nghiệp tự nhiên sang nông nghiệp hàng hoá. -Hộ nông dân chuyển từ sản xuất tiểu nông lên sản xuất hàng hoá, tất yếu phải phát triển theo quy mô trang trại gắn với hình thức hợp tác cần thiết. Nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế hộ bằng cơ chế, chính sách, biện pháp hỗ trợ người nông dân của mình. -Tư liệu sản xuất là điều tối cần thiết đối với kinh tế hộ đặc biệt là đất đai và vốn sản xuất. -Các hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động gia đình kết hợp với phương tiện hiện đại mọi xu hướng đi ngược đều không mang lại hiệu quả cao. -Quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân phải gắn liền với quá trình tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp. IV- Chủ trương - chính sách của Đảng và nhà nước đối với sự phát triển của kinh tế hộ nông dân ở nước ta. Kể từ ngày giành lại độc lập cho đất nước, ý thức được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta, Đảng và nhà nước đã có nhiều chủ trương. Chính sách nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân hợp với quy luật khách quan, xu thế phát triển của nông nghiệp và yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bước đầu đã đem lại được những kết quả đáng mừng. -Ngay sau khi kháng chiến thực dân pháp thắng lợi (1954) chính phủ Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành một số chính sách khuyến khích hộ phát triển. +Bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất. +Tự do thuê mướn nhân công, tự do thuê và cho thuê trâu bò. -Năm 1979 tại hội nghị Trung ương lần VI (khoá IV) đã chủ trương tạo điều kiện cho kinh tế hộ nông dân bung ra bằng các giải pháp: +Thừa nhận kinh tế nhiều thành phần. +Cho các hộ xã viên mượn đất nhằm khắc phục tình trạng bỏ đất hoang. +ổn định nghĩa vụ lương thực, điều chỉnh giá mua nông sản, thực hiện mua theo giá thoả thuận. +Bỏ việc phân phối định xuất, thực hiện phân phối theo lao động. +Hạn chế trích lập các quỹ tập thể nhằm tăng thu nhập cho xã viên. +Thừa nhận kinh tế gia đình và coi kinh tế gia đình là một bộ phận hợp thành của kinh tế XHCN. -Chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng (1981). Tiếp tục phát triển và khẳng định chủ trương năm 1979. Ngoài ra kinh tế hộ nông dân còn được đảm nhận ba trong tám khâu khoán việc trong quá trình sản xuất. Nhận khoán và nộp thuế. -Nghị quyết số 10 của Bộ chính trị (4/1988) khẳng định: +Thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ nhận khoán. +Nông dân chỉ còn một nghĩa vụ nộp thuế. +Thực hiện chính sách một giá, với nông dân chủ yếu là gía thoả thuận. +Thương mại hoá vật tư. -Luật đất đai 1993 và luật đất đai sửa đổi 1997 nêu rõ: +Toàn bộ quỹ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý trên phạm vi cả nước. +Ruộng đất do nhà nước giao quyền sử dụng ổn định, lâu dài cho những người làm nông, lâm, ngư nghiệp. Các hộ nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê và thế chấp quyền sử sụng đất trong thời hạn được giao. +Người sử dụng đất có trách nhiệm sử dụng đất đúng mục đích tiết kiệm, có hiệu quả và phải bảo vệ, cải tạo đất. Kiên quyết xoá bỏ những phương thức kinh doanh lạc hậu làm huỷ hoại đất đai. -Ngòai những chính sách đã nêu, nhà nước còn ban hành một số chính sách như: Nghị quyết Trung ương lần thứ V (khoá VII) và Nghị định 14/CP ngày 2/3/1993 của chính phủ về chính sách cho hộ nông dân vay vốn; Nghị định 13/CP ngày 2/3/1993 của chính phủ quy định cụ thể về công tác khuyến nông; Nghị quyết Trung ương lần V (khoá VII) về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn; Nghị quyết Trung ương IV (1997) và Nghị quyết số 06 năm 1998 của Bộ chính trị về phát triển nông nghiệp nông thôn; Quyết định số 67/1999/QĐ-UB ngày 30/3/1999 về vay vốn không phải thế chấp; Quyết định số 30/1998/NĐ-CP ngày 13/5/1998 về quy định thuế thu nhập; và gầ._., trên địa bàn huyện mới có 7 Quỹ tín dụng đang hoạt động ở giai đoạn thử nghiệm. Nhưng lỗi lo về sự đổ vỡ của các Quỹ tín dụng như các HTX trước kia vẫn còn đó, đòi hỏi một sự kiểm tra giám sát chặt chẽ hơn của các cơ quan chức năng đối với các Quỹ tín dụng này. Theo em, trong gian đoạn hiện nay ở Thanh Miện, để quản lý các Quỹ tín dụng cần thực hiện nghiêm chỉnh các biện pháp sau đây: + Thực hiện đúng, đủ các văn bản, chỉ thị, thông tư, quyết định đã ban hành đối với các Quỹ tín dụng nhân dân. + Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, đảm bảo yêu cầu giám sát hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân tuân thủ theo quy định của pháp luật, điều lệ và quy định, quy chế đã đề ra, cung cấp thông tin kịp thời, chung thực về hoạt động của các đơn vị cho Ngân hàng Nhà nước.Phối hợp với các cơ quan ban ngành của huyện trong việc kiểm tra. + Hoàn chỉnh hồ sơ cho vay theo quy định, chấn chỉnh công tác tín dụng, thực hiện nghiêm túc quy định về thẩm định vốn vay. Kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. + Có biện pháp giúp đỡ các Quỹ tín dụng, nhất là Quỹ tín dụng Chi Lăng Bắc thu hồi nợ cho vay để có thể đưa tỷ lệ nợ quá hạn tại các Quỹ xuống mức cho phép. Các giải pháp trên đây đối với toàn bộ quá trình tín dụng cho các hộ nông dân cần được thực hiện đồng bộ ngay từ bây giờ. Tránh tình trạng không phát huy được tác dụng của các giải pháp khi không có sự phối hợp giữa chúng với nhau. 3- Giải pháp về thị trường: 3.1-Thị trường sản phẩm đầu vào cho các hộ nông dân. Như chúng ta đã thấy ở phần thực trạng, thị trường các sản phẩm đầu vào cho hộ nông dân ở Thạnh Miện còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung nhu cầu có khả năng thanh toán của các hộ nông dân đã được đáp ứng đầy đủ về số lượng một cách dồi dào. Bên cạnh đó thì việc hàng giả, hàng kém chất lượng đã được cung ứng cho các hộ sử dụng; tự ý nâng giá tới mức cao khi khan hiếm; việc hướng dẫn sử dụng đúng loại, đúng thời điểm chưa được quan tâm. Thêm vào đó là tình trạng khuyến cáo sử dụng thuốc trừ cỏ, trừ sâu bừa bãi đã diễn ra gây thiệt hại rất lớn cho bà con nông dân. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là việc thị trường đầu vào hịên nay đang bị thả nổi, thiếu kiểm tra, kiểm soát và quy định của các cấp các ngành có liên quan. Sự thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về các sản phẩm mình bán ra của những chủ hộ kinh doanh mặt hàng này. Vì vậy theo em, trong thời gian tới để giải quyết tồn tại đó Thanh Miện phải có những biện pháp thắt chặt hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, quản lý thị trường này, cụ thể: -UBND huyện cần có kế hoạch giao cho Phòng NN&PTNT kết hợp với số Phòng ban khác của huyện lập danh sách các giống lúa, những loại thuốc trừ sâu bệnh, những loại thuốc trừ cỏ, những loại phân bón nông dân nên sử dụng. Khuyến cáo cho các hộ nông dân biết danh sách này, đặc biệt là đối với các nguồn cung ứng giống lúa. Cần lập danh sách các nguồn cung ứng được phép hoạt động trong thị tường của huyện. Theo em hiện nay, trong các nguồn cung ứng giống lúa ở Thanh Miện có Công ty giống cây trồng TW I-Đông Hưng, Thái Bình và XN giống cây trồng Quỳnh Hưng-Quỳnh Phụ, Thái Bình là có chất lượng giống đảm bảo hơn cả. Qua nhiều năm cung ứng giống lúa vào thị trường Thanh Miện, hai nguồn này chưa để xảy ra một trường hợp đáng tiếc nào về chất lượng các loại giống. Vì vậy nên đặc biệt chú ý khuyến cáo các hộ nông dân biết điều đó. Dựa trên các văn bản của Nhà nước và của sở NN&PTNT tỉnh Hải Dương đã ban hành mà Phòng NN&PTNT lập danh mục những loại thuốc bảo vệ thực vật, những loại phân bón được phép bán cho các hộ nông dân trên địa bàn huyện. Khuyến cáo đến mọi hộ nông dân và những người bán bản danh sách này. -Các cơ quan, ban ngành chức năng của huyện phối hợp với các UBND xã thực hiện đầy đủ việc đăng ký kinh doanh cho những cửa hàng cung ứng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như những hộ kinh doanh khác. Riêng đối với cửa hàng này cần có thêm các thủ tục sau đây: + Thực hiện niêm yết danh sách những giống cây trồng, những loại phân bón, những loại thuốc bảo vệ thực vật nên dùng và được phép lưu hành, sử dụng trên địa bàn huyện do Phòng NN&PTNT đã lập ra. +Thực hiện cho các cửa hàng kinh doanh làm cam kết chỉ cung ứng những mặt hàng có trong danh mục được phép lưu hành như đã niêm yết ở trên. -Các cơ quan chức năng của huyện cần có sự phối hợp với nhau, thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với các cửa hàng. Đặc biệt là đội quản lý thị trường của huyện cần làm tốt hơn nữa chức năng và nhiệm vụ của mình, tăng cường sự kiểm soát đối với các mặt hàng đầu vào trước khi chúng được đưa vào bầy bán trên thị trường huyện. Phối hợp chặt chẽ với chi cục thuế của huyện trong việc kiểm tra giám sát đi đôi với công tác thu thuế trên địa bàn. Hàng tháng lập bảng kê khai cho các hộ kinh doanh về nguồn cung cấp sản phẩm cho các cửa hàng trong thời gian vừa qua để có sự xử lý kịp thời mỗi khi phát hiện hàng giả, hàng kém chất lượng đã được sử dụng. Phối hợp với các cơ quan, đoàn thể tại các xã trong việc giám sát hoạt động của các cửa hàng. Có hình thức sử lý thật nghiêm khắc những trường hợp vi phạm. -Cần có sự hoạt đông thường xuyên của các Phòng ban liên ngành như công an; Phòng NN&PTNT; Trạm bảo vệ thực vật; Trạm thú y;Trung tâm khuyến nông huyện trong việc kiểm tra chất lượng các đầu vào tại các cửa hàng. Kết luận của Phòng ban liên ngành này là cơ sở cho việc cấp phép hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh của các cửa hàng nêu trên. -Phòng NN&PTNT huyện phối hợp với Trạm bảo vệ thực vật, Trạm thú y, Trung tâm khuyến nông huyện mở lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản có liên quan cho các chủ cửa hàng kinh doanh đầu vào của sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian ngắn, bồi dưỡng cho họ những kiến thức cơ bản về giống, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón và thời điểm sử dụng những sản phẩm này. -Các tổ tổ chức tín dụng cần có chính sách cho vay vốn ưu đãi với mức vốn đủ lớn tới các HTX dịch vụ nông nghiệp trong huyện. Với số vốn có được các HTX dịch vụ này sẽ có kế hoạch nhập và cung ứng cho các hộ nông dân những đầu vào đảm bảo chất lượng. Trong những năm vừa qua do thiếu vốn kinh doanh lên các HTX đã không thể hoạt động cung ứng đầu vào cho hộ nông dân hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Trong năm 2000 vừa qua chỉ có 8/24 HTX thực hiện dịch vụ này. Điều này đã gây nên tình trạng khó kiểm soát, phó thác cho các hộ tư nhân mặc sức kinh doanh sản phẩm đầu vào như hiện nay. -Phòng NN&PTNT nên tổng kết những kinh nghiệm đã đạt được trong công tác nhân giống lúa tại 6 HTX trong huyện năm 2000 vừa qua. Từ đó có kế hoạch nhân rộng mô hình này ra toàn huyện, giúp vừa chủ động về giống lúa, vừa tiết kiệm được chi phí cho các hộ nông dân. Hiện nay công tác nhân giống lúa lai huyện nhà không thể tự làm được vì vậy cần có kế hoạch chủ động ký kết hợp đồng với một nguồn cung ứng ổn định, đủ tin cậy để cung cấp cho các hộ nông dân. -Trong thời gian tới, UBND huyện nên kiện toàn lại cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty vật tư nông nghiệp huyện cũng như có biện pháp hỗ trợ về vốn và các điều kiện khác nhằm vực dậy công ty và đưa nó hoạt động trở lại.Em tin rằng với quy mô hoạt động, cung ứng và dự trữ to lớn của nó sẽ giúp ổn định lại thị trường sản phẩm đầu vào cho các hộ nông dân cũng như việc ổn định thị trường giá cả các sản phẩm này. Phần nào hạn chế được tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng bày bán và tình trạng tư nhân tự ý nâng giá bán khi thị trường khan hiếm. 3.2-Thị trường sản phẩm đầu ra cho các hộ nông dân. Hiện nay, sản phẩm hàng hoá do các hộ nông dân trong huyện sản xuất ra còn rất ít, vì vậy trong những năm vừa qua thị trường đầu ra cho các sản phẩm của các hộ nông dân thực sự chưa được quan tâm nhiều. Ngoài Tổng kho dự trữ lương thực và trạm lương thực huyện hàng năm mua một phần trong tổng khối lượng thóc bán ra của các hộ nông dân còn Trạm khuất khẩu nông sản thực phẩm của huyện bao tiêu toàn bộ số dưa chuột xuất khẩu; hành; tỏi; ớt hàng hoá mà hộ nông dân bán ra, thì không có một tổ chức nào khác của nhà nước thu mua nông sản hàng hoá của các hộ nông dân trong huyện. Các mặt hàng khác đều do tư nhân thu mua và tự quyết định việc thu mua của mình. Vì vậy mặc dù thị trường đầu ra có sức bán không lớn nhưng các nguồn thu mua đã thể hiện sự không ổn định trong hoạt động của mình, gây thiệt hại rất nhiều cho các hộ nông dân. Trong thời gian sắp tới, khi mà công cuộc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi của huyện diễn ra mạnh mẽ , lượng sản phẩm hàng hoá do các hộ nông dân sản xuất ra sẽ ngày một lớn, và điều này đòi hỏi một sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành đối với thị trường đầu ra của huyện. Vì vậy trong thời gian tới, theo em cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây: -Hoàn thiện công tác quy hoạch và phát triển các xã, các điểm sản xuất chuyên môn hoá với khối lượng nông sản phẩm sản xuất ra lớn, tạo điều kiện thuận tiện cho công tác thu gom lớn. Tại những nơi này huyện nên khuyến khích, tạo điều kiện để những gia đình có vốn, có đủ điều kiện đầu tư xây mới các cơ sở sơ chế nông phẩm hàng hoá trước khi cung ứng ra thị trường và các điểm chế biến khác. Kinh nghiệm của xã Ngô Quyền về sơ chế nấm ăn cần được phổ biến, nhân rộng, áp dụng vào các mặt hàng khác trên toàn huyện. -UBND huyện nên lập ra một ban chuyên trách về các vấn đề tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân. Trước mắt ban chuyên trách này cần xem xét, rà soát lại toàn bộ thị trường đầu ra, phân tích đánh giá các nguồn thu mua nông sản phẩm hàng hoá, nguồn thu mua những loại sản phẩm nào đã tương đối ổn định và mặt hàng nào chưa làm được điều đó. Từ đó củng cố, mở rộng các kênh lưu thông đã có, đã làm tốt; tìm kiếm các kênh lưu thông mới cho tất cả các mặt hàng, đặc biệt chú trọng mặt hàng chưa có kênh tiêu thụ ổn định. Hiện nay ở Thanh Miện Trạm xuất khẩu nông sản hàng hoá đảm nhận việc thu mua toàn bộ lượng dưa chuột xuất khẩu; hành; tỏi; ớt hàng hoá do các hộ nông dân sản xuất ra với một điều kiện là phải ký hợp đồng với Trạm, chịu sự hướng dẫn và giám sát về kỹ thuật của Trạm, giống được Trạm cung ứng. Trong vụ đông vừa qua, Trạm mới ký hợp đồng và làm được 128 ha cây trồng các loại nhưng theo lời ông Trạm trưởng thì Trạm có khả năng bao tiêu toàn bộ các sản phẩm này nếu có ký hợp đồng và tuân thủ mọi quy trình kỹ thuật. Như vậy trong các nông sản hàng hoá chỉ có nhãn, vải, gà, lợn sữa là chưa có một thị trường đầu ra ổn định. Theo em mặt hàng nhãn, vải có thể thành lập một hội những người trồng nhãn, vải trong huyện, có sự giúp đỡ của UBND huyện tìm kiếm nguồn thu mua ổn định, đặc biệt là ở vùng chuyên canh Thanh Hà. Trong thời gian xa hơn phải tính chuyện lập những cơ sở chế biến nhãn , vải nhỏ trong huyện tạo nguồn thu mua ổn định cho những người chuyển dịch. Với mặt hàng lợn sữa phải có sự liên kết với cơ sở chế biến tại Ninh Giang, ký hợp đồng cung cấp nguyên liệu cho cơ sở này, tạo một môi trường pháp lý cho đầu ra của hộ nông dân chăn nuôi. Ban chuyên trách không những củng cố các kênh lưu thông đã có, tìm kiếm những kênh lưu thông mới cho những mặt hàng đã chuyển đổi mà còn phải tìm kiếm đầu ra cho những mặt hàng sắp có của huyện. Đánh giá, phân tích các kênh lưu thông này, từ đó tham mưu cho UBND huyện chỉ đạo công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. -Hiện nay mạng lưới chợ nông thôn ở Thanh Miện đã phát triển khá rầm rộ và rộng khắp nhưng cơ sở hạ tầng ở đây rất kém. Vì vậy để tạo điều kiện cho hàng hoá của các hộ nông dân được trao đổi dễ dàng, UBND các xã cần lập kế hoạch, xin trợ cấp một phần ngân sách từ cấp trên, phần còn lại huy động từ nhân dân sửa sang, xây mới các chợ này cũng như việc củng cố, lành mạnh hoá công tác quản lý các chợ ở nông thôn. -UBND huyện cần tạo điều kiện thuận lợi cả về pháp lý, điều kiện hoạt động cho Trạm xuất khẩu nông sản của huyện, bởi sự hoạt động tốt của Trạm này có tác dụng tích cực đến việc bảo đảm đầu ra cho các sản phẩm cây ngắn ngày của huyện. -Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế, mọi gia đình có điều kiện đầu tư vào việc thu mua các sản phẩm hàng hoá cho hộ nông dân trên địa bàn huyện được thành lập và hoạt động có hiệu quả. 4- Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp được coi là một trong những biện pháp hàng đầu phát triển kinh tế hộ nông dân ở huyện Thanh Miện hiện nay. Những cây trồng được đưa vào chuyển đổi gồm 2 loại đó là cây dài ngày như nhãn, vải và cây trồng hàng năm như dưa chuột, ớt,tỏi, hành, rau mầu các loại. Những diện tích cây trồng cần chuyển đổi là một số diện tích lúa và diện tích cây vụ đông. Trong những năm vừa qua, mặc dù đã có sự chỉ đạo sát sao của các cấp, ngành và sự cố gắng của các hộ nông dân như quá trình chuyển dịch vẫn diễn ra hết sức chậm chạp. Đến năm 2000 vừa qua, toàn huyện mới chỉ chuyển đổi được 162,9 ha sang trồng cây lâu năm từ diện tích đất nông nghiệp và trong năm 2000 mới có 236,9 ha cây trồng hàng năm được chuyển đổi từ diện tích cây lúa và 150 ha chuyển đổi trong diện tích cây vụ đông. Có nhiều xã, nhiều địa điểm chưa thực hiện chuyển dịch đối với cây lâu năm. Sở dĩ có sự chậm chạp trong công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở đây là do: -Tâm lý ngại chuyển đổi trong các hộ nông dân, chỉ quen canh tác trên những diện tích cũ và với các cây trồng cũ. Chưa thấy được hiệu quả kinh tế cao có từ việc chuyển đổi. -Một số diện tích chuyển đổi cây lâu năm đã hợp đồng xong với các hộ nhận khoán nhưng chưa hết thơì gian hoặc các hộ chưa có vốn để chuyển đổi. -Sự hiểu biết về giống, kỹ thuật chăm sóc của người nông dân về những cây trồng mới, những cây trồng đưa vào chuyển đổi chưa đầy đủ. Việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho công tác chuyển đổi cây trồng còn hạn chế. -Thị trường đầu vào, đầu ra cho những sản phẩm chuyển đổi chưa hình thành rõ nét. Gía cả nông sản phẩm trên thị trường còn thấp và không ổn định, gây khó khăn cho công tác tiêu thụ sản phẩm của các hộ. Các HTX dịch vụ nông nghiệp chưa phát huy tốt vai trò của mình trong việc hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nông dân. -Chỉ tiêu chuyển đổi cây trồng mới ở mức phát động, chưa trở thành một chỉ tiêu kế hoạch cụ thể giao cho các xã. Các điển hình tiên tiến trong công tác chuyển đổi chưa được phổ biến và nhân rộng. Do đó trong những năm vừa qua diện tích chuyển đổi còn nhỏ, thường xuyên thấp hơn mức kế hoạch do huyện đề ra. Năm 2000 diện tích chuyển đổi cây trồng hàng năm có giá trị kinh tế cao mới chỉ chiếm 73,7% kế hoạch và chỉ bằng 98,3% so với diện tích cùng loại năm 1999. Mục tiêu của huyện trong những năm tới được xác định rõ trong Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX là: đến năm 2005 toàn huyện giữ ổn định từ 6.500 đến 7.000 ha đất trồng lúa, còn lại tập trung chuyển đổi sang lập vườn trồng cây có gía trị kinh tế cao và nuôi thả cá ở những vùng hợp lý từ 100 đến 150 ha/năm. Mở rộng diện tích chuyển đổi cây trồng ngắn ngày từ đất lúa đạt 400 đến 500 ha/năm. Diện tích cây vụ đông phấn đâu từ 2500 dến 3000 ha/năm. Đến năm 2005 đạt sản lượng 1500 tấn cá. Để thúc đẩy nhanh quá trình chyển dịch cơ cấu cây trồng trên địa bàn huyện. Thực hiện đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra với hiệu quả cao nhất, theo em trong những năm tới đây, Thanh Miện nên chú ý vào một số công việc sau: -Cần có sự quy hoạch rõ ràng những vùng chuyên canh cây chuyển đổi và những cây chuyển đổi được đưa vào canh tác trên đồng đất của huyện ở nhừng vùng cụ thể, thích hợp. Muốn vậy bộ phận lập kế hoạch và quy hoạch chuyển đổi của huyện phải quan tâm, nghiên cứu mức độ thích ứng của cây trồng đối với từng cánh đồng của những xã cụ thể thông qua sự phân tích cao độ đất nông nghiệp của huyện. Từ đó có sự chỉ đạo những cây trồng nào chuyển đổi được ở những cánh đồng nào, những diện tích nào thì đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thể, theo em những cánh đồng thuộc chân cao có cốt đất từ 2,4 trở lên trồng lúa không cho hiệu quả cao như ở Ngô Quyền; Đoàn Kết; Tân Trào; Hồng Quang;Cao Thắng; Lam Sơn có nhiều ưu điểm khi đưa vào chuyển đổi thành cây ăn qủa như nhãn, vải. Những diện tích, những cánh đồng có cao độ đất từ 1,8 trở lên sẽ rất thích hợp cho trồng cây ngắn ngày và những cây chuyển đổi hàng năm như dưa xuất khẩu, ớt, hành, đỗ tương, những chân thấp và triều chũng chúng ta có thể chuyển đổi trồng cây lâu năm. Đặc biệt những diện tích có cao độ đất từ 1,0 trở xuống như có ở Tứ Cường; Ngũ Hùng; Diên Hồng; Thanh Giang chúng ta dành để trồng lúa một vụ và thả cả ở thời gian còn lại trong năm hoặc đào ao thả cá. Mặc dù biết rằng với những cây trồng chuyển đổi cụ thể chỉ thích hợp với những chất đất cụ thể, nhưng tổng quát lại dựa vào cao độ đất ta có thể đánh giá phần nào sự thích hợp giữa chúng. Mặt khác cũng dựa vào cao độ đất ta có thể đánh giá mức độ hiệu quả của việc trồng lúa trên những vùng đất cụ thể. Từ đó có sự chỉ đạo phù hợp với quá trình chuyển đổi cây trồng trong huyện. -Phòng NN&PTNT, trung tâm khuyến nông của huyện cần kết hợp với các trạm ,trại giống cây trồng của cả TW và địa phương nghiên cứu, tìm hiểu, chọn lựa những giống cây trồng đạt năng xuất cao, chất lượng tốt, phù hợp với chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng của huyện, phù hợp với đặc điểm tự nhiên và đồng đất của huyện hướng dẫn bà con nông dân mua và ứng dụng vào sản xuất thực tế. Đặc biệt, hiện nay cần phối hợp với trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng tỉnh Hải Dương, nơi có khá đầy đủ các loại giồng cây trồng phù hợp với chủ trương chuyển đổi, đã được trồng thử nghiệm, kiểm tra phù hợp với đặc điểm sản xuất của Thanh Miện nói riêng và Hải Dương nói chung, có thể cung cấp đầy đủ theo yêu cầu của huyện về số lượng và đảm bảo về chất lượng các loại giống cây trồng. Trước khi đưa về trồng đại trà các loại cây trồng mới, Phòng NN&PTNT cần kết hợp với trung tâm khuyến nông mở những lớp bổ túc kỹ thuật, hướng dẫn quy trình sản xuất các giống cây mới này cho cán bộ kỹ thuật của các xã để các cán bộ này về phổ biến rộng khắp trong xã mình. -Bằng nhiều hình thức khác nhau như mở lớp, thăm thực tế, phát tài liệu ... Trung tâm khuyến nông huyện chuyển giao khoa học kỹ thuật về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, kỹ thuật chăm sóc những cây trồng chủ yếu sẽ đưa về chuyển đổi cho bà con nông dân. Thông qua các HTX dịch vụ nông nghiệp, các đoàn thể như hội nông dân, hội phụ nữ, đoàn thanh niên ở cơ sở phổ biến những kiến thức cần thiết, những kinh nghiệm tích luỹ được của chính những hộ nông dân đã làm tốt công tác chuyển đổi ở những vụ trước cho tất cả các hộ . Tổ chức học tập kinh nghiệm, biểu dương và phổ biến những điển hình tiên tiến trong huyện. Từ đó có những hình thức thích hợp tuyên truyền, vận động phân tích cho các hộ nông dân thấy rõ lợi ích cũng như hiệu quả kinh tế sẽ mang lại từ việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. -UBND huyện chỉ đạo các phòng ban , các tổ chức tín dụng có những hình thức ưu tiên cụ thể về đất đai, vốn, thuế... Cho các dự án chuyển dịch cơ cấu cây trồng của các hộ nông dân. Đặc biệt , hiện nay ở Thanh Miện tình trạng thiếu vốn cho chuyển dịch đang xẩy ra phổ biến. Vì vậy các tổ chức tín dụng nên có sự đánh giá khách quan về các dự án của các hộ nông dân, từ đó có cơ chế cho vay phù hợp. Đối với dự án chuyển đổi thành cây ăn quả lâu năm nên cho vay dài hạn và đầu tư lớn. Cho vay trung và ngắn hạn đối với những dự án chuyển dịch cây hàng năm và cây ngắn ngày. -Hàng năm trên cơ sở nghiên cứu điều kiện thực tế ở từng xã và những khả năng có thể khai thác. Huyện nên có những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể giao cho các xã trong việc chuyển đổi cây trồng. Kết hợp với khuyến khích, phát động thì việc giao chỉ tiêu cụ thể sẽ khiến các cán bộ có chức năng tích cực hơn với công việc chuyển đổi cây trồng tại xã mình. -Đến năm 2000 vừa qua, toàn huyện có 11.415 vườn trồng cây ăn quả từ 100m2 trở nên trong đó 10.054 vườn đã được cải tạo và 7.665 vườn đã cho thu hoạch sản phẩm chính. Trong những năm tới huyện nên đôn đốc việc cải tạo nốt số vườn tạp còn lại với cây trồng chính là nhãn, vải, cây trồng xen là cam quýt, táo, quất... dần dần từng bước đưa vườn mới cải tạo vào thu hoạch. -Trung tâm khuyến nông huyện kết hợp với các phòng ban chức năng tích cực thực hiện và phát triển chương trình “nạc hoá đàn lợn” và “sind hoá đàn bò” tới các hộ nông dân. Hướng dẫn bà con chăn nuôi có hiệu quả, nhân rộng những điển hình tiên tiến. -Theo em quá trình chuyển cơ cấu cây trồng ở huyện Thanh Miện phải gắn liền với việc thay đổi chủng loại và cơ cấu các loại cây trồng, đặc biệt là các giống lúa. Bộ giống lúa hiện nay của huyện đã được gieo cấy nhiều năm nên mặc dù trình độ thâm canh của người nông dân tăng cao qua các năm nhưng năng xuất và sản lượng lúa của huyện tăng rất thấp. Lý do của tình trạng này là các hộ nông dân đã gần đạt tới ngưỡng năng xuất cao mà họ có thể đạt được.Vì vậy trong những năm tới đây việc từng bước thay đổi bộ giống lúa là điều cần thiết. Phòng NN&PTNT nên liên kết với các trại giống lúa trong vùng trong việc tuyển chọn những loại giống đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật chăm sóc cao hơn nhưng năng xuất cũng đạt được cao hơn, chất lượng tốt hơn. Cụ thể vụ chiêm xuân nên cấy các giống X21, Xi 23, khảo nghiệm giống 98-30, P4, Q5, Khang dân 18, Lúa lai, Nếp 415, ND1, ND3. Vụ mùa cấy Q5 Khang dân 18, Nếp IR352, lúa lai hai dòng Xi23, NX30, đặc biệt nên nhân rộng diện tích lúa lai hai dòng. Đưa các giống lúa này về trồng thử nghiệm tại các xã, sau đó nhân rộng vào các vụ sau. Khuyến cáo cho các hộ nông dân biết hiệu quả cao hơn từ việc gieo cấy các giống lúa mới này. -Khuyến khích các hộ nông dân chuyển nhượng, chuyển đổi ruộng đất cho nhau, lập thành những khoảng ruộng lớn, thuận tiện cho việc canh tác và chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Dần hình thành những trang trại trồng trọt ở Thanh Miện. -Trên cơ sở quy hoạch những diện tích chuyển đổi cây lâu năm đã lập, UBND huyện cần có kế hoạch trình UBND tỉnh phê duyệt và cho phép, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho những hộ nông dân thực hiện chuyển đổi trên những diện tích này. 5- Phát huy vai trò chủ động tích cực của các hộ nông dân. Ngoài các giải pháp tác động một cách khách quan như đã nêu ở trên thì việc phát huy vai trò chủ động tích cực của chính bản thân các hộ nông dân trên địa bàn toàn huyện, để phát triển kinh tế gia đình mình cũng là một giải pháp tốt nhằm giúp các hộ nông dân tiếp cận với trình độ khoa học mới, làm quen dần với cách thức sản xuất hàng hoá sẽ đến với họ trong tương lai. -Học tập phương pháp lập kế hoạch làm ăn, chuẩn bị các nguồn lực và công nghệ cho sản xuất, cho dịch vụ và thương mại mà mình sẽ thực hiện. Học tập cách làm ăn có hiệu quả thông qua các điển hình tiên tiến trong công cuộc phát triển kinh tế cũng như việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng. -Tiến hành ghi chép, theo dõi bằng tiền mặt việc thu chi của gia đình phục vụ cho sản xuất hay trong tiêu dùng. Từ đó có thể biết được việc sử dụng tiền mặt vào sản xuất, vào sinh hoạt một cách rõ ràng để có kế hoạch cân đối và xác định số dư cần thiết trong mỗi tháng dùng để trả nợ, tích luỹ đầu tư mở rộng sản xuất hoặc gửi tiết kiệm. -Tập hạch toán giá thành sản phẩm từ giản đơn tới đầy đủ, tập phân tích hiệu quả công việc làm ăn sau mỗi vụ, mỗi năm sản xuất. Từ đó có thể nhận biết những khâu công việc nào cần đầu tư, dành nhiều tiền vốn và những khâu công việc nào cần sự đầu tư ít. Giúp xác định được nguồn vốn phải có cho mỗi thời điểm sản xuất cũng như cho cả quá trình sản xuất để có kế hoạch chuẩn bị tương tự vào vụ sau. Cũng qua hạch toán giá thành sản phẩm xác định được những cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, những cây trồng, vật nuôi cho nguồn thu nhập chủ yếu. Từ đó có kế hoạch sản xuất hiệu quả hơn vào vụ sau và năm sau. -Không ngừng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm sản xuất sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là tiếp thu các khoa học tiên tiến, những cách làm ăn hiệu quả, những biện pháp canh tác và chăm sóc cây, con mới cũng như không ngừng nâng cao trình độ thâm canh những cây, con quen thuộc để phục vụ cho việc phát triển kinh tế gia đình mình. -Tăng cường hợp tác trong mọi lĩnh vực của các hộ nông dân. Nhằm tìm kiếm lợi ích thiết thực cho từng thành viên cũng là điều cần thiết. Đồng thời với quá trình thúc đẩy ngành nông nghiệp của huyện phát triển thì việc tích cực thu hút các dự án đầu tư phát triển TTCN với quy mô vừa và nhỏ. Tập trung phát triển chế biến hàng nông sản, thực phẩm theo quy mô gia đình. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ tư nhân đầu tư phát triển TTCN. Mở rộng các ngành nghề, làng nghề truyền thống gắn với thị trường, tạo thêm ngành nghề mới, làng nghề mới, hướng vào sản xuất hàng hoá có chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước. Tranh thủ sự giúp đỡ của TW và tỉnh xây dựng một số cơ sở chế biến nông sản thực phẩm, dệt may hoặc giầy dép xuất khẩu. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ-thương nghiệp, phục vụ cho sản xuất và đời sống, hình thành các khu thương mại tập trung tại thị trấn, thị tứ. Cải tạo nâng cấp, mở rộng số chợ hiện có, xây thêm một số chợ mới ở những địa điểm thuận lợi, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá. Chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ xây dựng, cung ứng vật liệu, vật tư, dịch vụ thuỷ nông, làm đất bằng cơ giới, dịch vụ BVTV, dịch vụ vật tải và chuyển giao tiến bộ khoa học tiến bộ trong khâu sản xuất, chế biến tiêu thụ sản phẩm. Đổi mới và nâng cao chất lượng dịch vụ thông tin liên lạc ngày càng hiện đại, là những điểm mà Thanh Miện phải đạt được trong những năm tới đây. Sự phát triển đồng bộ của tất cả các ngành Nông nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp-Thương nghiệp-Dịch vụ trên địa bàn huyện sẽ là động lực lớn thúc đẩy sự phát triển của từng ngành, tạo đà cho nền kinh tế Thanh Miện phát triển lên một tầm cao mới tương xứng với đặc điểm và tiềm năng của huyện. Hy vọng rằng trong những năm tới đây, với sự cố gắng, đoàn kết, phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ và sức lực của toàn Đảng bộ và nhân dân trong huyện, kinh tế huyện Thanh Miện sẽ đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa. Thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế-xã hội đã đề ra, góp phần quan trọng đưa Thanh Miện vững bước tiến lên phát triển cùng đất nước. Kết luận Bằng những kiến thức đã được học, kết hợp với sự tìm hiểu, nghiên cứu thực tế tại địa phương, đề tài “Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương” đã tập chung làm rõ: -Những lý luận chung về kinh tế hộ nông dân đó là khái niệm, bản chất, đặc trưng, vai trò, những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hộ; sự phát triển của kinh tế hộ nông dân ở một số nước điển hình trên thế giới. Từ đó có sự nhận thức đúng đắn về kinh tế hộ nông dân trên cơ sở phân tích các khái niệm đã có từ nhiều góc độ, thấy được vai trò to lớn của nó đối với sự tồn tại và phát triển của ngành nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, nhận thức được nhữnh nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế hộ, rút ra được sự tồn tại lâu dài và xu hướng phát triển tất yếu của kinh tế hộ nông dân cũng như những bài học kinh nghiệm từ chính sự phát triển của nó trong thời gian vừa qua. -Những chủ trương-chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của kinh tế hộ nông dân thông qua một số văn bản chủ yếu đã ban hành. Thấy được quan điểm của Đảng và Nhà nước, sự định hướng, quan tâm tạo điều kiện và đảm bảo tính pháp lý cho kinh tế hộ nông dân tồn tại và phát triển. -Trên cơ sở khái quát những lợi thế và tiềm năng, những khó khăn và hạn chế của điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở Thanh Miện cũng như tình hình sản xuất của huyện trong một số năm vừa qua, bài viết đã đi sâu phân tích thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân trên các mặt cơ cấu các loại hộ; các yếu tố sản xuất của hộ nông dân; thị trường đầu vào, đầu ra cho hộ; vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và kết quả sản xuất kinh doanh của hộ. Từ đó rút ra nhận xét, đánh giá về những việc đã làm tốt, những việc chưa làm được và những vấn đề tồn tại còn giải quyết trong qúa trình phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Thanh Miện cho đến nay. -Trên cơ sở phân tích các quan điểm phát triển của kinh tế hộ nông dân, bám sát các mục tiêu đã được Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX xác định, em đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa những ưu điểm đã đạt được, khắc phục, tháo gỡ dần những vướng mắc, tồn tại có trong quá trình phát triển kinh tế hộ nơi đây đó là: Giải pháp về đất đai; giải pháp về vốn, tín dụng cho các hộ nông dân giải pháp về thị trường; giải pháp về chuyển dịch cơ cấu cây trồng và giải pháp phát huy vai trò chủ động, tích cực của chính bản thân các hộ nông dân. Trong thời gian thực thập và thực hiện bài viết em đã có được sự giúp đỡ rất nhiều từ các phòng, ban và những hộ dân đã tiếp xúc trong toàn huyện. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nguồn số liệu chưa thật đầy đủ và ăn khớp, tình hình thực tế chưa được các cán bộ cơ sở nắm chắc, sâu, sát vì vậy có rất nhiều vấn đề em đã phải tự tìm hiểu và điều tra nhưng do thời gian quá ngắn so với khối lượng công việc phải làm, địa bàn nghiên cứu rộng lên trong phạm vi bài viết này em chỉ mới đề cập đến những điều cơ bản nhất về kinh tế hộ nông dân ở Thanh Miện. Chưa làm rõ được những vấn đề của từng xã, từng vùng cụ thể. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, phê bình của các thầy, cô; các bác, các chú, các bạn và tất cả những người quan tâm đến đề tài này để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng cháu xin chân thành cám ơn các bác, các chú công tác tại phòng NN&PTNT; Phòng địa chính; Phòng thống kê; Phòng kế hoạch-tài chính- thương nghiệp; Phòng tổ chức-lao động-xã hội; Phòng giao thông-công nghiệp-xây dựng; Ngân hàng NN&PTNT huyện; Chi nhánh ngân hàng phục vụ người nghèo huyện; Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Thanh Miện; Trạm xuất khẩu nông sản thực phẩm huyện Thanh Miện và tất cả những hộ gia đình đã tiếp xúc, đã giúp đỡ cháu hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo: - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng. - Giáo trình “Kinh tế nông nghiệp”-NXB nông nghiệp 1996 - Giáo trình “Quản trị doanh nghiệp Nhà nước”-NXB nông nghiệp 1996. - Tạp chí con số và sự kiện số 3 - 2001. - Tạp chí cộng sản 4 - 1999. - Phát triển kinh tế nông hộ theo hướng SX hàng hoá NXB nông nghiệp - Hà nội 1993. - Kinh tế hộ: NXB khoa học xã hội 1995. - Một số tài liệu khác. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0034.doc
Tài liệu liên quan