LỜI MỞ ĐẦU
Hà Tây là tỉnh có tiềm năng để tạo nên sức hút đầu tư tự nhiên do có vị trí địa lý liền kề với thủ đô Hà Nội, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có điều kiện về địa hình, địa chất thuận lợi, hệ thống giao thông các loại phát triển nhanh, lao động dồi dào… Tuy thế kinh tế của địa phương phát triển chưa xứng tầm với tiềm năng vốn có của tỉnh, phải chăng lý do bắt nguồn từ công tác thu hút và quản lý vốn đầu tư chưa được quan tâm đúng mức?
Để có thể khai thác triệt để mọi tiềm năng
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẵn có nhằm tạo ra một động lực phát triển cho tỉnh trong giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế như hiện nay thì công tác thu hút và sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư là đặc biệt quan trọng. Do vậy sở Kế Hoạch và Đầu Tư tỉnh Hà Tây được thành lập có nhiệm vụ chính là kêu gọi thu hút và quản lý mọi hoạt động đầu tư của tỉnh Hà Tây.
Trong quá trình thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Hà Tây em đã thực hiện đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư” cho chuyên đề thực tập của mình, qua đề tài này em hy vọng mình sẽ có cơ hội hiểu sâu hơn và áp dụng được các kiến thức mình đã tiếp thu trên lớp vào thực tế làm cơ sở cho quá trình công tác sau này.
Chuyên đề này được trình bày theo hai chương:
Chương I: Thực trạng năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư trong giai đoạn 2000 – 2006
Chương II: Các giải pháp và kiến nghị
Lần đầu thực hiện một chuyên đề mang tính khái quát và đòi hỏi trình độ lý luận cao nên em không tránh khỏi những sai sót trong trình bày và nội dung, em mong sẽ được sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô.
CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CỦA TỈNH HÀ TÂY GIAI ĐOẠN 2000 - 2006
I. Tiềm năng của tỉnh Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư
Tỉnh Hà Tây được thành lập tháng 6 năm 1965 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975 Hà Tây hợp nhất với tỉnh Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1978 hai thị xã Sơn Tây và Hà Đông, 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức của tỉnh Hà Sơn Bình cùng một số xã của huyện Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín được chuyển về Hà Nội. Tuy nhiên thị xã Hà Đông vẫn tạm thời là tỉnh lỵ tỉnh Hà Sơn Bình. Tháng 12 năm 1991 tỉnh Hà Tây được tái lập và 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức cùng 2 thị xã Sơn Tây và Hà Đông được trả về cho tỉnh Hà Tây. Tháng 12 năm 2006 Thủ tướng chính phủ ký nghị định thành lập thành phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây với diện tích tự nhiên là 4.791,7 ha, 228.715 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính gồm 7 phường và 8 xã.
Hà Tây bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 12 huyện:
Thành phố Hà Đông
Địa lý
Tỉnh lỵ
Thành phố Hà Đông
Miền
Đồng bằng sông Hồng
Diện tích
2.192,1 km2
Các thị xã, huyện
1 thị xã và 12 huyện
Thị xã Sơn Tây
Huyện Ba Vì
Huyện Chương Mỹ
Huyện Đan Phượng
Huyện Hoài Đức
Huyện Mỹ Đức
Huyện Phú Xuyên
Huyện Phúc Thọ
Huyện Quốc Oai
Huyện Thạch Thất
Huyện Thanh Oai
Huyện Thường Tín
Huyện Ứng Hoà
1. Tiềm năng về địa lý tự nhiên
Hà Tây là một tỉnh đồng bằng sông Hồng - miền Bắc Việt Nam, có toạ độ địa lý: 20031’ – 21017’ vĩ độ bắc, 105017’ -1060 00’kinh đông, nằm liền kề với Hà Nội, phía bắc giáp tỉnh Vĩnh phúc, Phú Thọ, phía đông giáp tỉnh Hưng Yên, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, Phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. Thực tế, tỉnh Hà Tây bao bọc thành phố Hà Nội từ phía tây xuống phía nam, mặt khác lại nằm liền kề với vùng tam giác kinh tế trọng điểm (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), Hà Tây còn là một vùng đất nối liền giữa vùng Tây Bắc và vùng Trung du Bắc Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, với vị trí địa lý thuận lợi đó tỉnh Hà Tây đang được cân nhắc là địa bàn xây dựng mới, là nơi di chuyển các xí nghiệp công nghiệp của Hà Nội, tỉnh có thể tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công - mỹ nghệ… vào Hà Nội và khu tam giác trọng điểm của các tỉnh phía bắc Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Hà Tây có địa hình đa dạng, vùng đồi núi phía tây và đồng bằng phía đông, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Vùng núi có độ cao tuyệt đối 300m trở lên, diện tích 17.000 ha, địa hình dốc trên 250, các núi đá vôi tập trung ở phía Tây Nam tỉnh, địa hình bị chia cắt rất phức tạp, có nhiều hang động lớn. Địa hình vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, mang đặc trưng vùng đồng bằng Bắc Bộ, ô trũng đê viền.
Do đặc điểm của điạ hình, Hà Tây chia thành 3 vùng có khí hậu khác nhau: vùng đồng bằng có khí hậu của đồng bằng sông Hồng, chịu ảnh hưởng của gió biển, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,80C, lượng mưa trung bình 1.700 mm – 1.800 mm; vùng đồi gò có khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng của gió Lào, nhiệt độ trung bình 24,50C, lượng mưa trung bình 2.300 mm – 2.400 mm; vùng núi cao chủ yếu khu vực Ba Vì có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình là 180C.
Với một hệ khí hậu vô cùng phong phú như vậy đã tạo điều kiện cho hệ động thực vật ở đây phát triển mạnh mẽ, Hà Tây có 2 khu rừng tự nhiên: rừng Quốc Gia Ba Vì có diện tích 7.400 ha với chủng loại thực vật phong phú và quý hiếm, 872 loài thực vật bậc cao thuộc 427 chi, trong 60 họ đã được xác định. Khu rừng chùa Hương (huyện Mỹ Đức) cũng có nhiều loài thực vất quý hiếm, được nhà nước công nhận là khu văn hoá lịch sử, được phân loại là rừng đặc dụng.
Hà Tây có tiềm năng về quỹ đất và khả năng phát triển các loại cây trồng, vật nuôi. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 219.299,92 ha. Trong đó đất nông nghiệp là 122.179,31 ha (chiếm 55,7%), đất lâm nghiệp là 15.099,04 ha (6,88%), đất chuyên dùng 39.744,07 ha (18,14%), đất ở đô thị 645.0,6 ha (0,29%), đất ở nông thôn 12.255,27 ha (5,59%), đất chưa sử dụng 29.343.17 ha (13,38%).
Theo kết quả điều tra, Hà Tây có một số khoáng sản chính: đá vôi ở Mỹ Đức, Chương Mỹ trữ lượng 7,2 triệu tấn; sét ở phía Đông Nam thị xã Sơn Tây có trữ lượng 4.129 tấn, và ở Tiền Phương (Chương Mỹ) có trữ lượng 15 triệu m3, Puzơlan ở Thái Hoà (Ba Vì) trữ lượng 124.662 tấn; vàng ở Phú Mãn, Xuân Mai (Chương Mỹ), đôlômit ở Phượng Cách (Quốc Oai), Atbe ở Đông Chay, Yên Bái (Ba vì) mới phát hiện; Latenít ở Phượng Cách, Đông Yên (Quốc Oai) lớp đá ong >2,7m.
2. Tiềm năng về nguồn nhân lực
số dân
mật độ
Nông thôn
Thành thị
2.500.000 người
1.140,5 người/km2
91%
9%
Dân tộc
Việt, Mường, Dao, Tày
Dân số của tỉnh Hà Tây năm 2003 có khoảng 2,47 triệu người với mật độ dân số 1.126 người/km2
Thành phần dân số dân nông thôn chiếm 91%, còn 9% là dân thành thị.
Thành phần dân tộc: Kinh, Mường
3. Tiềm năng về kinh tế xã hội
Hà Tây có 2.000 di tích lịch sử và gần 400 di tích được Nhà nước xếp hạng, trong đó 12 di tích đặc biệt quan trọng, cùng với đình, chùa, đền, miếu và lễ hội được tổ chức hàng năm làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Gắn liền với các di tích lịch sử phát triển của dân tộc qua đấu tranh dựng nước và giữ nước như vùng núi cao Ba Vì với huyền thoại Sơn Tinh - Thuỷ Tinh nay là rừng Quốc Gia Ba Vì, dưới chân núi có nhiều cảnh đẹp, xây dựng các điểm du lịch: Ao Vua, Khoang Xanh, Suối Tiên, Thác Mơ, Suối Hai, Đồng Mô… Dãy núi đá vôi trùng điệp phía Tây Nam tỉnh (Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức) có nnhiều hang động độc đáo, kỳ thú, tiêu biểu là động Hương Tích tạo nên tthắng cảnh Hương Sơn nổi tiếng trong nước và thế giới, hàng năm thu hút hàng vạn khách thập phương đến du lịch và trẩy hội.
Hà Tây còn có nhiều đình chùa có giá trị cao về kiến trúc, điêu khắc, nghệ thuật và tôn giáo: chùa Đậu (Thường Tín) có tên “Thành Đạo Tử”, chùa Tây Phương (Thạch Thất) có kiến trúc độc đáo nổi tiếng với 80 vị La Hán, chùa Thầy (Quốc Oai) có tên “Thiên Phúc Tự” nơi tu hành cho cao tăng Từ Đạo Hạnh được xây dựng từ đời Lý, chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian, chùa Trầm, Đền Và, chùa Mía có 278 pho tượng, lăng Ngô Quyền, đền Nguyễn Trãi, thành cổ Sơn Tây… đều là di tích lịch sử nổi tiếng.
Tỉnh có 3 cụm du lịch: cụm Sơn Tây – Ba Vì là du lịch văn hoá sinh thái, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, tham quan di tích lịch sử và văn hoá dân gian, nghỉ cuối tuần. Cụm chùa Hưong là du lịch tín ngưỡng, tham quan di tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, du lịch hang động. Cụm Hà Đông và phụ cận là du lịch xanh, du lịch văn hoá trong các làng nghề và làng nông nghiệp truyền thống, du lịch thương mại.
Bên cạnh đó, 120 làng nghề với những sản phẩm đặc sắc và được nhiều người ưa chuộng như lụa Vạn Phúc, nón Chuông, quạt Vác, khảm Trai Chuyên Mỹ, hàng mây tre Phú Vinh, đồ mộc Chàng Sơn, tượng gỗ Sơn Đồng v.v. đã không chỉ cung cấp công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động mà còn là một tiềm năng du lịch quan trọng góp phần vào phát triển kinh tế của vùng.
Hiện nay, Hà Tây đang gọi vốn đầu tư liên doanh trong nước và nước ngoài để xây dựng cơ sở khách sạn, nhà hàng theo quy hoạch; đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân viên phục vụ trong ngành du lịch về nghề nghiệp và ngoại ngữ; tập trung đầu tư vốn nâng cấp hệ thống giao thông trong tuyến du lịch khép kín, đảm bảo điện lưới, thông tin liên lạc hiện đại và vệ sinh môi trường ở các cụm du lịch.
Hà Tây liền kề với thủ đô Hà Nội, có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi, đất đai phong phú, cảnh quan đẹp, rất có điều kiện phát triển để trở thành một khu vực vệ tinh phát triển trên cả 3 lĩnh vực: Nông nghiệp, công nghiệp và du lịch dịch vụ. Trong những năm tới, tỉnh Hà Tây phấn đấu kết hợp hài hoà các nguồn lực bên trong và bên ngoài, nhất là vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ và nguyên liệu, phát triển mạnh và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho quá trình trao đổi hàng hoá và phát triển các loại hình dịch vụ.
Với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và nguồn nhân lực như vậy là một lợi thế to lớn cho Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư tuy nhiên trên thực tế lượng vốn đầu tư mà tỉnh thu hút được trong thời gian qua chưa hoàn toàn tương xứng với những tiềm năng đó.
Đánh giá về khả năng thu hút vốn đầu tư của một địa phương chúng ta có thể nhìn vào chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương đó bởi vì chỉ số năng lực cạnh tranh của một địa phương thể hiện mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư của địa phương đó, địa phương nào có chỉ số năng lực cạnh tranh cao có nghĩa môi trường đầu tư của tỉnh đó rất thuận lợi, và các doanh nghiệp , các nhà đầu tư dĩ nhiên không thể bỏ qua mà không đầu tư vào địa phương này, có thể nói khả năng thu hút vốn đầu tư của một địa phương tỉ lệ thuận với chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương đó.
II. Chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong 2 năm 2005 và 2006.
1. Năng lực cạnh tranh là gì?
1.1.Cạnh tranh
Theo từ điển Tiếng Việt thì cạnh tranh là giành giật nhau để chiếm phần thắng.
Đó là một cách hiểu chung nhất còn khi xét trên từng phương diện cụ thể thì chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau vể cạnh tranh. Cạnh tranh theo quan điểm của Mark khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu nghạch. Quan niệm này coi cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu, xem xét cạnh tranh là sự lấn át, chèn ép nhau để tồn tại.
Cạnh tranh theo quan niệm của thế giới hiện đại được hiểu đơn giản là quá trình mà doanh nghiệp khẳng định sự có mặt của mình trên thương trường, nơi có vô số các doanh nghiệp khác cũng đang tồn tại và thông qua các chiến lược kinh doanh để mở rộng thị phần, tìm kiếm thậm chí giành giật từng khách hàng nhằm không ngừng nâng cao uy tín của mình. Nói một cách khác, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp có nghĩa là đảm bảo, duy trì và phát triển vị trí trên thương trường trong nước và quốc tế. Đó là khả năng của một doanh nghiệp có thể bán được nhiều sản phẩm hơn, tăng thị phần, tăng lợi nhuận và tăng mức sống của người lao động.
Cạnh tranh gắn liền với cơ chế thị trường và trở thành quy luật kinh tế đặc thù của nền kinh tế đa thành phần và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Thông qua cạnh tranh toàn xã hội có thể thu được những lợi ích cao nhất từ những nguồn lực hạn chế của mình.
Theo một số khái niệm trên đây thì cạnh tranh còn được hiểu một cách bó hẹp trong phạm vi là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với mục đích cũng rất hạn hẹp là để tăng lợi nhuận hoặc tăng, giữ vững thị phần. Tuy nhiên ngày nay thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng một cách vô cùng rộng rãi và linh hoạt, do vậy mà trong trường hợp này thì định nghĩa của từ điển Tiếng Việt nên được vận dụng: Cạnh tranh tức là giành giật nhau để chiếm phần thắng.
Như vậy thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng trong chuyên đề này là sự cạnh tranh giữa cách tỉnh để nhằm tranh giành các nhà đầu tư với nhau. Để hiểu rõ được thuật ngữ cạnh tranh theo cách sử dụng này chúng ta có thể hình dung 64 tỉnh, thành trong cả nước là các nhà cung cấp cùng một loại hàng hoá như nhau và các nhà đầu tư trong và ngoài nước là các khách hàng. Loại hàng hoá mà các “nhà cung cấp” ở đây cung cấp cho các nhà đầu tư chính là môi trường đầu tư của mình.
Mặc dù môi trường đầu tư được định nghĩa là bao gồm cả ba yếu tố: các yếu tố về môi trường cứng (như cơ sở hạ tầng,…), môi trường mềm; các chi phí các doanh nghiệp phải bỏ ra để gia nhập thị trường; Nhưng trong chuyên đề này để dế dàng trong phân tích về vấn đề năng lực cạnh tranh của địa phương xin hiểu theo một cách khác, trong đó môi trường đầu tư chính là hàng hoá và chỉ bao gồm các yếu tố về môi trường cứng, môi trường mềm, còn chi phí gia nhập thị trường chính là giá mà nhà đầu tư – khách hàng phải trả khi sử dụng sản phẩm hàng hoá đó.
Theo đó, tỉnh hoặc địa phương nào có môi trường đầu tư tốt nhất (theo các tiêu chí đánh giá của dự án nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cùng dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam hợp tác xây dựng năm 2005) với chi phí thấp nhất mà các nhà đầu tư phái trả để được sử dụng môi trường đầu tư đó thì tỉnh hoặc địa phương đó sẽ hấp dẫn được nhà đầu tư nhất. Tuy mục đích cạnh tranh của các địa phương không phải là lợi nhuận hoặc thị phần nhưng cũng như các doanh nghiệp mục đích cuối cùng của cạnh tranh cũng chính là sự tồn tại và phát triển của địa phương, là sự cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân địa phương.
1.2 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Theo Fafchams: khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí trung bình thấp hơn giá của sản phẩm đó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào sản xuất ra các sản phẩm tương tự như của các doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh.
Randall lại cho rằng: khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Theo Dunning: khả năng cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp.
Một quan niệm khác cho rằng: năng lực cạnh tranh là trình độ công nghệ sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng thời duy trì được thu nhập của mình.
Như vậy năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp được hiểu là năng lực của các doanh nghiệp có thể khắc phục được khó khăn và nắm bắt lấy các cơ hội nhằm tồn tại và ngày càng phát triển so với các doanh nghiệp khác.
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau:
Thị phần của doanh nghiệp
Doanh thu/doanh thu của các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
Tỷ lệ chi phí marketing/tổng doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận.
Xét trên phương diện một tỉnh, năng lực cạnh tranh của một tỉnh hoặc một thành phố là khả năng tỉnh hoặc thành phố đó có thể khắc phục các khó khăn thách thức và nắm bắt các cơ hội nhằm thu hút được các nhà đầu tư tiềm năng về đầu tư tại địa phương mình chứ không phải là địa phương khác.
Trở lại với khái niệm cạnh tranh xét trên phạm vi một doanh nghiệp.
Khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì ba vũ khí chính được sử dụng, đây cũng chính là một trong những thước đo chính xác thể hiện năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp.
Ba vũ khí đó là: sản phẩm, giá cả và dịch vụ chăm sóc khách hàng.
Xét trên phương diện một tỉnh hoặc thành phố thì khái niệm năng lực cạnh tranh của tỉnh (thành phố) còn gắn liền với khái niệm môi trường đầu tư, bởi như chúng ta đã đề cập ở trên, khi xem một tỉnh (thành phố) là một nhà cung cấp hàng hoá thì môi trường đầu tư chính là sản phẩm hàng hoá mà một nhà cung cấp cung cấp cho khách hàng của mình là các nhà đầu tư hay các doanh nghiệp. Như vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của các tỉnh (thành phố) chính là cải thiện nâng cao môi trường kinh doanh của tỉnh (thành phố) mình, điều này tương đương với việc nâng cao chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp, làm cho sản phẩm của mình trở nên khác biệt hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh, tức môi trường đầu tư ở tỉnh đó phái thông thoáng; các quy định về đầu tư, ưu đãi đầu tư phải rõ ràng, cụ thể, đơn giản, dể hiểu, dế thực hiện; cơ hạ tầng hiện đại, đáp ứng được các nhu cầu cho hoạt động đầu tư, sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp; … điều này nếu hiểu theo ngôn ngữ marketing đó chính là chíên lược cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Cùng với chất lượng sản phẩm thì giá thành sản phẩm chính là yếu tố quan trọng thứ hai mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn một sản phẩm. Một nhà đầu tư sau khi đã xem xét xong các yếu tố của môi trường đầu tư rồi thì điều tiếp theo họ làm là xem xét chi phí mà họ phải bỏ ra để có thể đầu tư tại địa bàn tỉnh, đó là chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí xin mua, hay thuê đất; chi phí điện nước sản xuất,… nếu có hai hoặc ba địa phương có các yếu tố của môi trường đầu tư tương đương nhau thì địa phương nào có chi phí đầu tư thấp hơn tất nhiên nhà đầu tư sẽ chọn đầu tư ở điạ phương đó
Bên cạnh chất lượng sản phẩm và giá cả, dịch vụ chăm sóc khách hàng trong thời gian gần đây đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc chi phối đến các quyết định của khách hàng.
Như vậy theo cách hiểu môi trường đầu tư của một địa phương là một sản phẩm hàng hoá mà các địa phương rao bán cho các nhà đầu tư, chi phí gia nhập thị trường tại địa phương là giá cả của sản phẩm môi trường đầu tư đó thì dịch vụ chăm sóc khách hàng chính là sự quan tâm, chăm sóc các nhà đầu tư của chính quyền địa phương cả trước khi, trong và sau khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Cụ thể đó là sự quan tâm, đồng cảm của chính quyền với các khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư, sự nhanh chóng nhiệt tình của cơ quan có chức năng trong giải quyết các vướng mắc của các nhà đầu tư hay việc tạo điều kiện tiếp xúc gặp gỡ thường xuyên với các nhà đầu tư để họ có cơ hội chia sẻ các vướng mắc gặp phải…
Nếu mỗi điạ phương tạo được một môi trường đầu tư lành mạnh với chi phí gia nhập thị trường cạnh tranh và một thái độ thân thiện, niềm nở với các nhà đầu tư thì trong một tương lai không xa các nhà đầu tư sẽ tìm đến và vun xới cho mảnh đất xanh tươi đó ngày càng đơm nhiều hoa thơm trái ngọt.
2. Tóm tắt về phương pháp điều tra và đánh gía chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI)
2.1 Phương pháp điều tra và đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh
Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (sau đây gọi tắt là dự án PCI) do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam hợp tác xây dựng từ năm 2005, được cơ quan phát triển quốc tế Hoa kỳ (USAID) tài trợ, mục tiêu của dự án là đánh giá, xếp hạng môi trường kinh doanh và chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân của các tỉnh và thành phố trong cả nước thông qua việc xem xét chỉ của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đăng ký tại các địa phương.
Để có được kết quả đánh giá, nhóm nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu thu thập được từ một điều tra hơn 2.000 doanh nghiệp tại 42 tỉnh khác nhau trong cả nước. Ban nghiên cứu Dự án tiến hành lập phiếu điều tra đề nghị các doanh nghiệp đánh giá về các chỉ số thành phần cấu thành năng lực cạnh tranh. Chỉ số cấu thành để xếp hạng PCI là : chi phí gia nhập thị trường, tính năng động và tiên phong, tính minh bạch và trách nhiệm; ưu đãi doanh nghiệp Nhà nước, chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân; đất đai và mặt bằng kinh doanh; chi phí thời gian/thanh kiểm tra; chi phí không chính thức; thực hiện chính sách của trung ương, ấn định cho mỗi chỉ số thành phần một trọng số nhất định phụ thuộc vào tầm quan trọng của chỉ số đó; phát phiếu điều tra theo đường bưu điện cho các doanh nghiệp theo địa chỉ đề trong đăng ký kinh doanh; thu thập phiếu điều tra; tập hợp kết quả đánh giá của các doanh nghiệp; tổng hợp số điểm của các chỉ số để xác đỉnh tổng số đạt được (tổng số điểm này đã được chuẩn hoá về thang điểm 100) từ đó xác định chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Kết quả xếp hạng được chia thành 5 nhóm tỉnh theo thứ tự : Tốt, khá, trung bình, tương đối thấp và thấp. Khoảng các giữa các nhóm là từ 2/3 điểm trở lên.
Theo kết quả điều tra của năm 2005, nhóm tốt nhất bao gồm các tỉnh: Bình Dương, Đà Nẵng, Vĩnh Long, Bến Tre, Vĩnh phúc, Đồng Nai với các điểm số lần lượt là 76.82; 70.67; 68.56; 65.24; 65.09; 64.14; 62.93. Đây là những tỉnh có kết quả tốt đối với hầu hết các chỉ số cấu thành, thực hiện tốt đối với những chỉ số quan trọng nhất.
So với năm 2005, trong phiếu điều tra PCI 2006 có thêm hai chỉ số thành phần là chỉ số về đào tạo lao động và thiết chế pháp lý, ngoài ra
Chỉ số PCI là một cơ sỏ để lãnh đạo tỉnh, thành phố có thế nhận diện rõ hơn điểm mạnh, điểm yếu của tỉnh, thành phố mình. Các tỉnh có thế nâng cao kết quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc cải thiện điểm số ở những chỉ số thành phần thấp nhất.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của địa phương.
2.2.1 Chi phí gia nhập thị trường
Chi phí gia nhập thị trường là chỉ tiêu chỉ tổng các chi phí (cả chi phí về thời gian và tiền bạc) mà mỗi doanh nghiệp phải chi trả để thành lập doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Chi phí này càng cao thì điểm số của địa phương càng thấp, địa phương bị đánh giá là có lực cản gia nhập thị trường đối với các nhà đầu tư là lớn.
Chi phí gia nhập thị trường được xác định dựa trên các thông số:
phần trăm doanh nghệp phải mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh
phần trăm doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh
thời gian chờ đợi thật sự để được cấp đất (căn cứ vào nỗ lực của chính quyền, không phải các điều kiện cung cầu)
thời gian đăng kí kinh doanh (số ngày)
Thời gian đăng kí lại (số ngày)
Số lượng giấy đăng kí, giấy phép kinh doanh và quyết định chấp thuận mà doanh nghiệp hiện có
Phần trăm doanh nghiệp gặp khó khăn mới có đủ các loại giấy phép cần thiết
2.2.2 Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất:
Chỉ số này cho biết mức độ khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt khi tiến hành xin cấp đất phục vụ cho hoạt động đầu tư. Việc tiếp cận đất đai các doanh nghiệp càng khó khăn và sự ổn định trong sử dụng đất càng thấp thì điểm số này của địa phương càng thấp.
2.2.2.1 Tiếp cận đất đai
Phần trăm doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đang trong quá trình chờ nhận
Khả năng mở rộng kinh doanh nếu dễ có mặt bằng kinh doanh hơn
Phần trăm doanh nghiệp thuê lại đất từ DNNN
Đánh giá của doanh nghiệp về nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
Phần trăm diện tích đất có giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
2.2.2.2 Sự ổn định trong sử dụng đất
Rủi ro mặt bằng kinh doanh do bị chính quyền thu hồi cho mục đích khác
Đánh giá về mức thoả đáng của số tiền bồi thường
Rủi ro về thay đổi các điều kiện cho thuê
Đánh giá về tính công bằng trong cách thức giải quyết tranh chấp về hợp đồng cho thuê
Thời hạn thuê
2.2.3 Tính minh bạch và tiếp cận thông tin:
Chỉ tiêu này giúp đánh giá sự thoáng của môi trường đầu tư ở mỗi địa phương thông qua đánh giá khả năng tiếp cận những thông tin liên quan đến hoạt động đầu tư và kinh doanh của địa phương. Hệ thống thông tin càng minh bạch và doanh nghiệp càng dế dàng tiếp cận thông tin thì điểm số này của địa phương càng cao.
2.2.3.1 Tính minh bạch khác
Tính minh bạch của các tài liệu kế hoạch
Tính minh bạch của các quyết định, nghị định
2.2.3.2 Tính công bằng và sự ổn định trong việc áp dụng các quy định
Vai trò của các “mối quan hệ” để có được các tài liệu kế hoạch của tỉnh
Vai trò của gia đình bạn bè khi thương lượng với cán bộ nhà nước
Thương lượng với cán bộ thuế là phần thiết yếu trong hoạt động kinh doanh
2.2.3.3 Khả năng có thể dự đoán và tính ổn định của các quy định, chính sách
Khả năng có thể dự đoán của việc thực thi pháp luật của tỉnh
Tỉnh có trao đổi ý kiến với doanh nghiệp về những thay đổi trong các quy định pháp luật
Chất lượng dịch vụ tư vấn do cơ quan của tỉnh cung cấp
2.2.3.4 Tính cởi mở: đánh giá trang web của tỉnh. Lưu ý:chỉ tiêu này có hệ số là 40% khi tính điểm chỉ số thành phần này
2.2.4 Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước:
Chỉ số này cho biết mức độ nhiệt tình và năng nổ của cán bộ tỉnh trong việc giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của nhà nước, đồng thời nó cũng phản thông ánh mức độ thông thoáng, đơn giản gọn nhẹ của hệ thống hành chính của địa phương.
Số ngày làm việc với chính quyền địa phương giảm đi sau khi có Luật Doanh Nghiệp
Phần trăm doanh nghiệp sử dụng hơn 10% quỹ thời gian để làm việc với chính quyền
Số cuộc thanh tra và số giờ làm việc với thanh tra thuế
Tỉ lệ giảm số cuộc thanh tra sau khi có luật Doanh Nghiệp
2.2.5 Chi phí không chính thức:
Chỉ số này được xác định dựa trên các tiêu thức
Các chi phí không chính thức là cản trở chính đối với hoạt động kinh doanh
Các doanh nghiệp cùng nghành đều phải trả chi phí không chính thức
Phần trăm doanh nghiệp tốn hơn 10% doanh thu cho các chi phí không chính thức
Cán bộ tỉnh sử dụng quỹ riêng của địa phương với mục đích trục lợi
Công việc được giải quyết sau khi chi trả chi phí không chính thức
2.2.6 Ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước (môi trường cạnh tranh)
2.2.6.1 Đánh giá của doanh nghiệp
Tỉnh ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước
Tỉnh ưu đãi doanh nghiệp cổ phần hoá
Thái độ của tỉnh đối với doanh nghiệp tư nhân
Thái độ đối với doanh nghiệp tư nhân đang được cải thiện
Những đóng góp về tài chính ảnh hưởng đến thái độ đối với doanh nghiệp tư nhân
Đánh giá của doanh nghiệp trong nỗ lực thực hiện cổ phần hoá của tỉnh
2.2.6.2 Điểm số liệu cứng về ưu đãi đối với DNNN
Tương quan về tỉ trọng nợ của DNNN do địa phương quản lý trong tổng số nợ của các doanh nghiệp của tỉnh so với tỉ trọng doanh thu của các DNNN do địa phương quản lý trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp của tỉnh
Phần trăm thay đổi về số lượng DNNN do địa phương quản lý (2000 – 2004)
Tỷ trọng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh cho các DNNN
2.2.7 Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá về một khía cạnh của năng lực cạnh tranh của tỉnh thông qua việc đánh giá về sự năng nổ nhiệt tình, sự sáng tạo của lãnh đạo tỉnh trong việc giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn.
Chỉ số này được xây dựng dựa trên các tiêu thức sau:
Tỉnh triển khai tốt các quy định của Trung ương
Tỉnh sáng tạo và sáng suốt trong việc giải quyết các khó khăn, trở ngại đối với cộng đồng doanh nghiệp
Tỉnh có nhiều sáng kiến tốt nhưng còn nhiều cản trở ở Trung ương
Không có sáng kiến nào cấp tỉnh
Tỉnh tham khảo ý kiến của doanh nghiệp khi xây dựng các quy định
2.2.8 Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân:
Chỉ tiêu này cho thấy phương hướng phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh và những nỗ lực cũng như các biện pháp mà tỉnh đã thực hiện để khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên những tiêu thức sau:
2.2.8.1 Đánh giá chất lượng dịch vụ công
Thông tin thị trường và xúc tiến thương mại
Công nghệ và các dịch vụ liên quan đến công nghệ
Thông tin tìm kiếm đối tác kinh doanh, đầu tư cho các nhà sản xuất địa phương
Xúc tiến xuất khẩu và hội chợ thương mại
Khu công nghiệp
2.2.8.2 Các chỉ tiêu từ dữ liệu cứng
Số lượng hội chợ thương mại do tỉnh tổ chức (2004 – 2005)
So với năm 2005, trong phiếu điều tra PCI 2006 có thêm hai chỉ số thành phần là chỉ số về đào tạo lao động và thiết chế pháp lý.
2.2.9 Chỉ số về đào tạo lao động
Nhằm đánh giá những nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc giải quyết sự thiếu hụt về lao động có kỹ năng tại địa phương.
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên các tiêu thức sau:
Chất lượng dịch vụ giáo dục do các cơ quan của tỉnh cung cấp
Chất lượng dịch vụ đào tạo nghề cho người lao động do các cơ quan của tỉnh thực hiện
Số lượng trường dạy nghề, có điều chỉnh theo số dân của từng tỉnh
2.2.10 Chỉ số về thiết chế pháp lý đánh giá mức độ tin tưởng của doanh nghiệp đối với các thiết chế pháp lý tại địa phương.
Chỉ số này được xác định dựa trên các tiêu thức sau:
Hệ thống pháp lý tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có thể khởi kiện hành vi tham nhũng của cán bộ công quyền
Lòng tin của doanh nghiệp vào thiết chế pháp lý
Chủ yếu sử dụng thiết chế pháp lý để giải quyết tranh chấp
Số vụ tranh chấp (mà bên nguyên không phải là DNNN hay DN có vốn đầu tư nước ngoài) quân trên 100 doanh nghiệp đang hoạt động
Lưu ý: ba chỉ tiêu mềm đầu tiên có hệ số 60%, một chỉ tiêu cứng cuối cùng có hệ số 40% khi tính điểm chỉ số thành phần này.
Bảng 1: Trọng số của các chỉ số thành phần
Chỉ số
Trọng số
trung bình (%)
Trọng số
làm tròn (%)
Loại
trọng số
Chính sách phát triển kinh tế tư nhân
Tính minh bạch
Đào tạo lao động
Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
Thiết chế pháp lý
Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước
Chi phí không chính thức
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất
Chi phí gia nhập thị trường
17,2
16,2
15,3
13,2
11,8
7,7
6,0
5,7
3,6
3,3
100%
15
15
15
15
10
10
5
5
5
5
Cao
Cao
Cao
Cao
Trung bình
Trung bình
Thấp
Thấp
Thấp
Thấp
Ngoài ra, PCI 2006 còn cải tiến và hoàn thiện những chỉ số thành phần hiện có để có một đánh giá tổng quan và chính xác hơn.
Theo tiến sĩ David Ray, Phó giám đốc Dự án VNCI, PCI 2006 có ba nét mới quan trọng. Thứ nhất, phiếu điều tra được gứi tới hơn 31.000 doanh nghiệp trên phạm vi 64 tỉnh, thành – tăng gấp đôi so với năm trước, số phiếu trả lời tăng gấp ba, tỉ lệ phản hồi trên 20%, đạt hơn 6.300 phiếu.
Đáng chú ý là hầu hết các tỉnh đều có trên 50 phiếu trả lời và không có tỉnh nào có số phiếu phản hồi dưới 35. Điều này giúp cho việc phân tích và xử lý số liệu có độ tin cậy cao.
Thứ hai, PCI 2006 có thêm hai chỉ số thành phần là chỉ số về đào tạo lao động và chỉ số về thể chế pháp lý.
Và thứ ba là cải cách những chỉ số thành phần hiện có.
2.3 Với chỉ số bằng bao nhiêu thì đảm bả._.o thu hút được vốn đầu tư?
Xem xét chỉ số năng lực cạnh tranh của một số tỉnh và thành phố qua bảng sau:
Bảng 2: Chỉ số năng lực cạnh tranh của một số tỉnh và thành phố
Stt
Tĩnh, thành phố
Chỉ số PCI 2006
Xếp hạng
Bình Dương
76,23
Rất Tốt
Đà Nẵng
75,39
Bình Định
66,49
Tốt
Vĩnh Long
64,67
Đồng Nai
64,64
Lào Cai
64,11
TP Hồ Chí Minh
63,39
Vĩnh Phúc
61,27
An Giang
60,45
Cần Thơ
58,30
Khá
Đồng Tháp
58,13
Yên Bái
56,85
Trà Vinh
56,83
Quảng Nam
56,42
Bắc Giang
55,99
Hưng Yên
55,97
Bà Rịa Vũng Tàu
55,95
Ninh Bình
55,82
Sóc Trăng
55,34
Khánh Hoà
55,33
Phú Yên
54,93
Bắc Ninh
54,79
Nghệ An
54,43
Phú Thọ
54,42
Quảng Ninh
53,25
Trung Bình
Bến Tre
53,11
Gia Lai
53,06
Thái Nguyên
52,71
Hải Dương
52,70
Bình Thuận
52,66
Hậu Giang
52,61
Lâm Đồng
52,25
Tiền Giang
52,18
Quảng Trị
52,18
Đắc Lắc
51,65
Kiên Giang
51,27
Thái Bình
50,54
TT- Huế
50,53
Long An
50,40
Hà Nội
50,34
Hoà Bình
50,17
Hải Phòng
49,98
Lạng Sơn
49,64
Nam Định
48,89
Tương ĐốiThấp
Bắc Cạn
48,73
Hà Giang
48,49
Tây Ninh
48,35
Quảng Bình
47,90
Hà Nam
47,27
Tuyên Quang
47,21
Cao Bằng
46,63
Bình Phước
46,29
Ninh Thuận
45,82
Thanh Hoá
45,30
Sơn La
45,22
Quảng Ngãi
44,20
Cà Mau
43,99
Bạc Liêu
42,89
Thấp
Hà Tĩnh
42,35
Điện Biên
42,28
Kon Tum
41,38
Hà Tây
40,73
Đăk Nông
38,91
Lai Châu
36,76
Có thể biểu diễn bảng chỉ số trên thông qua biểu đồ:
Như vậy chỉ số cạnh tranh PCI được tính toán nhằm so sánh năng lực cạnh tranh giữa các địa phương. Chỉ số cạnh tranh giữa các địa phương sau khi được tính toán xong dựa vào mối tương quan tương đối giữa chỉ số của các tỉnh mà người ta sắp xếp chúng vào 5 nhóm sau: rất tốt, tốt, khá, trung bình, tương đối thấp và thấp, do vậy nó không phản ánh cụ thể mức độ hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư của các địa phương. Tuy nhiên nhìn vào cách xếp hạng chúng ta có thể thấy rằng chỉ những địa phương có chỉ số năng lực cạnh tranh từ 50 điểm trở lên mới được xếp vào nhóm trung bình, khá, tốt và rất tốt.
Trong 64 tỉnh và thành phố được xem xét, xếp hạng chỉ có 2 tỉnh được xếp hạng rất tốt là Bình Dương và Đà Nẵng.
Số tỉnh được xếp hạng rất tốt chỉ chiếm tỉ lệ 3.125%.
Số tỉnh được xếp hạng tốt là 7 tỉnh, chiếm tỉ lệ là 10.94%
Số tỉnh được xếp hạng khá là 15 tỉnh, chiếm tỉ lệ là 23.44%
Số tỉnh được xếp hạng trung bình là 19 tỉnh, chiếm tỉ lệ 29.69%
Số tỉnh xếp hạng tương đối thấp là 14 tỉnh, chiếm tỉ lệ 21.88%
Số tỉnh xếp hạng thấp là 7 tỉnh, chiếm tỉ lệ 10.94%
3. Thực trạng năng lực cạnh tranh tỉnh Hà Tây
3.1 Năng lực cạnh tranh tỉnh Hà Tây năm 2005
Bảng 3: Chỉ số PCI tỉnh Hà Tây năm 2005
stt
Chỉ số thành phần
Số điềm đạt được đã có trọng số
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Chi phí gia nhập thị trường
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất
Tính minh bạch và tiếp cận thông tin
Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
Chi phí không chính thức
Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước
Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chính sách phát triển kinh tế tư nhân
Chỉ số PCI đã có trọng số
4,27
3,67
3,75
6,10
6,87
4,27
1,20
3,27
33,4
Chỉ số năng lực cạnh tranh tỉnh Hà Tây năm 2005 chỉ có 2 chỉ tiêu đạt trên 5 điểm là chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước và chi phí không chính thức, có thể nói chỉ số năng lực cạnh tranh như vậy là tương đối thấp.
3.2 Công tác nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong năm 2005.
3.2.1.Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh
Ngay sau khi phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam công bố năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2005, Ban thường vụ tỉnh uỷ đã họp và ban hành nghị quyết số 14/NQ – TU ngày 5 tháng 6 năm 2005 đồng thời ban hành kế hoạch số 59 Kế HOạCH – TU để triển khai nghị quyết nêu trên; UBND tỉnh đã xây dựng chương trình hành động, sau đó ban hành nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện.
3.2.2 Các hoạt động cụ thể:
Toàn thể các Sở, Ban, Ngành, Huyện, thị xã trong tỉnh đã tổ chức đợt sinh hoạt sâu rộng nhằm kiểm điểm, nghiên cứu, học tập quán triệt Nghị Quyết, Kế hoạch của tỉnh uỷ và chương trình hành động của UBND tỉnh.
UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, Ban ngành, UBND các huyện, thị tiến hành các hoạt động cụ thể như: tổ chức gặp mặt định kỳ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; quy định ngày thứ 6 hàng tuần tiếp doanh nghiệp và thiết lập đường dây nóng để các doanh nghiệp có thể dễ dàng phản ánh các bức xúc, kiến nghị qua đó các cơ quan công quyền biết và giải quyết, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp; mở hội nghị xúc tiến đầu tư, ban hành một số quy định quan trọng liên quan đến các doanh nghiệp như: Quy định về một số cơ chế khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh, quy định danh mục lĩnh vực, dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2005 – 2010, quy định về khung giá đất trên địa bàn tỉnh, tổ chức chương trình truyền hình trực tiếp Hà Tây - Tiềm năng và cơ hội đầu tư, tham gia triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Các Sở, Ban ngành, UBND các huyện, thị xã đã tập trung kiểm điểm các mặt còn hạn chế, yếu kém ảnh hưởng tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của tỉnh như công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho các đảng viên, cán bộ, quần chúng nhân dân về tầm quan trọng của việc tạo các điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ nói riêng phát triển sản xuất kinh doanh; công tác tổ chức bộ máy, đào tạo và bố trí cán bô, công chức có trách nhiệm trực tiếp hỗ trợ và giải quýêt các công việc liên quan đến các doanh nghiệp; công tác giữ gìn an ninh trật tự trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng; giải quyết nhanh, dứt điểm, đúng pháp luật những vụ việc phức tạp gây ách tắc đến tiến độ triển khai một số dự án của nhà đầu tư; quy trình thủ tục đầu tư, giao đất, cho thuê đất, cấp phép xây dựng…; công tác cải cách hành chính, mẫu hoá, đơn giản hoá các loại hồ sơ, tài liệu liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; công khai hoá, minh bạch hoá các chủ trương, chính sách, quy định, chương trình, kế hoạch của địa phương có liên quan, ảnh hưởng đến sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp…
Căn cứ kết quả kiểm điểm nêu trên, các cơ quan có liên quan và các cấp chính quyền trong tỉnh đã lập các kế hoạch, chương trình cụ thể phát huy các thành tích, ưu điểm đã đạt được và quyết tâm khắc phục vượt qua các yếu kém, nhược điểm đang ngày càng ảnh hưởng không tốt đến năng lực cạnh tranh của tỉnh.
3.2.3 Kết quả thực hiện:
3.2.3.1 Về công tác học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết và Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
UBND tỉnh đã chỉ đạo và các cấp chính quyền, sở ban, ngành đã thực hiện đợt sinh hoạt sâu rộng nhằm nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết, Kế hoạch của Tỉnh uỷ và Chương trình hành động của UBND tỉnh về nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường kinh doanh của tỉnh. Kết quả là, về mặt lý luận và nhận thức, tỉnh đã cơ bản chỉ ra các yếu kém, bất cập trên các lĩnh vực đã ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh, nguyên nhân khách quan và chủ quan, phương hướng, giải pháp và kế hoạch cải thiện môi trường kinh doanh. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Nghị quyết, Kế hoạch trên đã được coi là việc làm thường xuyên, liên tục, không mang tính chiến dịch, đối phó trong nhận thức và hành động của các cấp và các ngành.
3.2.3.2 Về việc ban hành các cơ chế, chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường kinh doanh tỉnh.
UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở, nghành tiến hành rà soát các văn bản liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp, đồng thời ban hành, bổ sung, điều chỉnh một số văn bản để thực hiện mục tiêu trên. Cụ thể:
Văn bản số 2740 CV/UBND – NC ngày 25 tháng 7 năm 2005 của UBND tỉnh ban hành chương trình hành đồng thực hiện Nghị quyết 14 và Kế hoạch 59 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ;
Quyết định số 725/QĐ – UB ngày 21 tháng 6 năm 2005 của UBND tỉnh ban hành quy định việc đấu giá đất ở để tạo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng;
Quyết định số 872/2005/QĐ-UBND ngày 15 tháng 7 năm 2005 của UBND tỉnh ban hành trình tự, thủ tục xây dựng, triển khai cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 917/2005/QĐ-UB ngày 18 tháng 7 năm 2005 của UBND tỉnh ban hành trình tự thủ tục chấp nhận chủ trương đầu tư trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 614/QĐ-UBND ngày 07 tháng 8 năm 2006 của chủ tịch UBND tỉnh về việc thành lập tổ công tác tiếp nhận, xử lý vướng mắc của cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp về thủ tục hành chính…
Quyết định số 1838/2005/QĐ-UBND ngày 06 tháng 12 năm 2005 ban hành danh mục các dự án kêu gọi đầu tư cho giai đoạn 2006 -2010;
Quyết định số 1854/2005/QĐ-UBND ngày 06 tháng 12 năm 2005 của UBND tỉnh ban hành cơ chế ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh (thay thế Quyết định số 15/2005/QĐ-UB ngày 12 tháng 01 năm2005);
Quyết định số 1879/2005/QĐ-UBND tỉnh ngày 09 tháng 12 năm 2005 của UBND tỉnh ban hành khung giá đất trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 762/2006/QĐ-UB ngày 05 tháng 5 năm 2006 của UBND tỉnh về phê duyệt chương trình xúc tiến đầu tư năm 2006;
Văn bản chỉ đạo các cấp, các nghành kiểm điểm về việc thực hiện trách nhiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường kinh doanh theo kết luận số 55KL/TU ngày 26 tháng 3 năm 2006 của Tỉnh uỷ
3.2.3.3 Về công tác quy hoạch
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác quy hoạch đối với việc thu hút đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh, tỉnh đã chú trọng chỉ đạo việc lập, điều chỉnh, bổ sung, phê duyệt hoặc trình phê duyệt và tổ chức thực hiện các quy hoạch, trong đó quan trọng nhất là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2010 vừa được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 195/2006/QĐ – TTg ngày 25/8/2006 và các quy hoạch như: công nghiệp, giao thông - vận tải, du lịch, sử dụng đất, sản xuất vật liệu xây dựng, các khu, cụm và điểm công nghiệp.
Nhiều huyện, thị xã cũng đã quan tâm đến công tác quy hoạch, chủ động trong việc lập và trình duyệt các quy hoạch của huyện nhất là quy hoạch đất đai, quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, quy hoạch cụm, điểm công nghiệp, quy hoạch xây dựng đô thị…
3.2.3.4 Về cải cách tổ chức, bộ máy và thủ tục hành chính
Đã sắp xếp, thu gọn đầu mối các sở, các phòng các huyện, thị theo quy định của Nhà nước và ban hành các quyết định xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy của các sở, ban, ngành, tạo cơ sở pháp lý cho công tác cải cách thủ tục hành chính phục vụ công tác nói chung và nhiệm vụ nâng cao năng lực cạnh tranh môi trường kinh doanh nói riêng.
Đã thống nhất cho thành lập tại mỗi huyện, thị xã một ban quản lý và thành lập các ban bồi thường giải phóng mặt bằng đối với các huyện, thị xã có nhiều dự án đầu tư cần tập trung đầy mạnh công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, đồng thời đã quan tâm bố trí thêm biên chế cho một số sở, ban, ngành, huyện, thị cần tăng cường để giải quyết nhanh các công việc liên quan đến sản xuất – kinh doanh, đầu tư của các doanh nghiệp.
Đã chủ động ban hành kịp thời và đôn đốc kế hoạch thực hiện nghị quyết 01 của Tỉnh uỷ về tăng cường công tác cải cách hành chính, trong đó đặc biệt chú trọng tới các vấn đề trực tiếp liên quan đến môi trường kinh doanh.
3.2.3.5 Về công tác vận động Xúc tiến đầu tư
Công tác tuyên truyền xúc tiến hoạt động đầu tư đã triển khai được những bước quan trọng:
Căn cứ quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đã khảo sát, nghiên cứu, ban hành và công bố danh mục các dự án và kêu gọi đầu tư vào tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 – 2010.
Xây dựng các ấn phẩm, tài liệu xúc tiến đầu tư, bao gồm cả đĩa VCD để cung cấp thông tin chính thống cho các nhà đầu tư.
Tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư tỉnh Hà Tây lần thứ nhất vào ngày 09 tháng 12 năm 2005, qua đó đã tiếp nhận được cam kết của các nhà đầu tư trong và ngoài nước về nhiều dự án lớn.
Tổ chức chương trình truyền hình trực tiếp “Hà Tây - tiềm năng và cơ hội đầu tư”.
Tham gia triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Nội.
Ký thoả thuận hợp tác xúc tiến đầu tư với một số công ty tư vấn đầu tư để vận động xúc tiến đầu tư.
3.2.3.6 Về công tác nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức và cải tiến lề lối làm việc
Các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã đã kiện toàn một bước công tác cán bộ có liên quan đến đầu tư, hầu hết đã thực hiện tốt cơ chế một cửa, công khai các thủ tục hồ sơ trong việc xem xét giải quyết các thủ tục gia nhập thị trường cho các doanh nghiệp, tiếp nhận các dự án đầu tư, giao đất, cấp phép xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến nhà đầu tư bước đầu đã được rút ngắn hơn.
3.2.3.7 Về công tác tạo mặt bằng sẵn cho nhà đầu tư:
Trong thời gian qua, tỉnh thực sự đã tập trung chỉ đạo hoàn thành nhanh công tác giải phóng mặt bằng và đẩy mạnh việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật đồng bộ đối với các cụm công nghiệp như: Cụm CN Phùng Xá, cụm CN Phùng, cụm CN Quất Động… để tiếp tục nhận các dự án đầu tư. Đối với khu công nghiệp Bắc Phú Cát, sau nhiều tháng việc giải phóng mặt bằng bị chậm, nay đã hoàn thành việc đền bù giải phóng mặt bằng được trên 200 ha; mặt khác đang tích cực triển khai giải phóng mặt bằng tiếp khu công nghệ cao Hoà Lạc và ra soát, điều chỉnh bổ sung danh mụcquy hoạch khu, cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo định hướng hợp nhất các cụm công nghiệp gần nhau thành khu công nghiệp để tận dụng các chính sách ưu đãi nhiều mặt của Nhà nước nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho nhà đầu tư và đồng thời xúc tiến đầu tư xây dựng thêm khu công nghiệp tại khu vực phía Nam tỉnh để khai thác nhanh và hiệu quả lợi thế tiện lợi giao thông của khu vực này do cầu Thanh Trì sắp khánh thành đưa vào sử dụng.
3.3. Chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây năm 2006
3.3.1 Chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây năm 2006
Bảng 4: Chỉ số PCI của tỉnh Hà Tây năm 2006
stt
chỉ số thành phần
số điềm đạt được đã có trọng số
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
Chi phí gia nhập thị trường
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất
Tính minh bạch và tiếp cận thông tin
Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước
Chi phí không chính thức
Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước
Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chính sách phát triển kinh tế tư nhân
Đào tạo lao động
Thiết chế pháp lý
Chỉ số PCI đã có trọng số
6,12
4,92
5,56
4,28
5,07
6,70
2,53
3,60
2,92
3,13
40,73
Trong 10 chỉ số nêu trên, tỉnh Hà Tây có 4 chỉ số đạt số điểm trên 5 và 6 , còn lại đạt chỉ số dưới 5.
3.3.2 Phân tích, so sánh sơ bộ về chỉ số PCI của tỉnh Hà Tây trong năm 2006.
So sánh với năm 2005, năm 2006 tỉnh Hà Tây có 6 chỉ số thành phần tăng điểm là:
Bảng 5: So sánh chỉ số PCI của Hà Tây hai năm 2005 và 2006
stt
chỉ số thành phần
số điểm đạt
Năm
2005
Năm
2006
1
2
3
4
5
6
Chi phí gia nhập thị trường
Tiếp cận đất đai và sự ốn định trong sử dụng đất
Tính minh bạch và tiếp cận thông tin
Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước
Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chính sách phát triển kinh tế khu vực tư nhân
4,27
3,67
3,75
4,27
1,20
3,27
6,12
4,92
5,56
6,70
2,53
3,60
Ngược lại có hai chỉ số thành phần giảm điểm là
Stt
chỉ số thành phần
số điểm đạt
Năm 2005
Năm 2006
1
2
Chi phí không chính thức
Chi phí thực hiện các quy định của Nhà nước.
6,87
6,10
5,07
4,28
Ngoài ra, năm 2006 Dự án đưa thêm 2 chỉ tiêu thành phần mới so với năm 2005 để đánh giá là:
stt
chỉ số thành phần
số điểm đạt được đã có trọng số
1
2
Đào tạo lao động
Thiết chế pháp lý
2,92
3,13
3.3.3 So sánh chỉ số năng lực cạnh tranh của Hà Tây với một số tỉnh
Hưng Yên và Vĩnh Phúc là hai tỉnh liền kề với tỉnh Hà Tây nên có một số tương đồng với Hà Tây về điều kiện địa lý và tự nhiên, do vậy chúng ta hãy so sánh chỉ số năng lực cạnh tranh của Hà Tây với hai tỉnh này để nhận thấy sự thay đổi về chỉ số năng lực cạnh tranh của Hà Tây qua hai năm 2005 và 2006
Từ biểu đồ trên ta nhận thấy so với năm 2005 chỉ số PCI của tỉnh Hà Tây năm 2006 đã tăng lên đáng kể, xét về cả giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối trong sự so sánh tương quan với hai tỉnh liền kề là tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Hưng Yên,mặc dù trong ba tỉnh thì Hà Tây vẫn là tỉnh có chỉ số PCI thấp nhất, nhưng sự gia tăng đó là một dấu hiệu đáng mừng chứng tỏ sự nỗ lực của Hà Tây trong một năm sau lần đầu tiên nhận được kết quả điều tra về chỉ số PCI đã được đền đáp.
III. Tình hình thu hút vốn đầu tư của tỉnh Hà Tây trong những năm vừa qua
1.Khái quát về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư.
1.1 Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là một khối lượng tiền hoặc tài sản mà một quốc gia hoặc một doanh nghịêp dùng để phục vụ cho hoạt động đầu tư phát triển của quốc gia hay doanh nghiệp.
Xét về bản chất vốn đầu tư được hình thành từ phần tiết kiệm hay tích luỹ của đất nước hay của doanh nghiệp mà có thể huy động vào quá trình tái sản xuất.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp làm gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm, nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng thêm.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền kinh tế xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, Các Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m), trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng nền sản xuất xã hội là (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. tức là :
(v+m)I >cII
hay nói cách khác:
(c+v+m)I >cII+cI
Điều này có nghĩa rằng tư liệu sản xuất được tạo ra ởi khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế mà còn dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II <(v+m)I + (v+m)II
Có nghĩa là toàn bộ gía trị mới của hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ta của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập cho tái sản xuất mở rộng , quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng.
Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô vốn đầu tư thì một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực, mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực.
1.2 Vốn đầu tư có thể được thu hút từ các nguồn:
Xét trên phương diện một quốc gia thì vốn đầu tư có thể được thu hút từ các nguồn sau: Nguồn vốn Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân, thị trường vốn, nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại quốc tế, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thị trường vốn quốc tế. Ở đây chúng ta xét đến thu hút vốn đầu tư trên phương diện một tỉnh, thành phố, do vậy chỉ quan tâm đến các nguồn vốn từ khu vực tư nhân, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.1 Nguồn vốn của khu vực tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các khu vực dân doanh, các hợp tác xã tư nhân. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn đang sở hữu một tiềm năng vốn rất lớn.
Cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước, một bộ phận không nhỏ dân cư có tiềm năng về vốn do có thu nhập cao hoặc do tích luỹ truyền thống. Nói chung nguồn vốn tiềm năng trong dân cư là rất lớn, thường tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt…Nguồn vốn này chiếm xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng và là đối tượng chủ yếu của chính sách thu hút vốn đầu tư của bất cứ địa phương nào.
1.2.2 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là nguồn vốn quan trọng phục vụ cho quá trình đầu tư và phát triển đối với địa phương, nguồn vốn này có đặc điểm cơ bản là việc tiếp nhận nguồn vốn không phát sinh nợ cho địa phương tíêp nhận nó, thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư nhà đầu tư sẽ nhận được lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án đầu tư. hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài kèm theo việc mang cả những tài nguyên kinh doan vào địa phương tiếp nhận vốn do đó nó thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao, công nghệ mới, hay đòi hỏi lượng vốn lớn.
Kinh nghiệm phát triển của một số nước Đông Á cho thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia này và hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tùy thuộc vào cách thức huy động và quản lý nguồn vốn của nơi tiếp nhận chứ không phụ thuộc nhiều vào mục đích đầu tư của nhà đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là nguồn bổ sung quan trọng cho tổng nguồn vốn đầu tư cho một quốc gia hay một địa phương, nó cũng góp phần quan trọng vào Ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho nguồn lao động ở địa phương, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
1.3 Thu hút vốn đầu tư
1.3.1 Thu hút vốn đầu tư là việc một quốc gia hay một địa phương kêu gọi các nhà đầu tư đưa vốn vào để tiến hành thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại đất nước hoặc địa phương mình.
1.3.2 Xét một cách tổng quát để thu hút được vốn đầu tư thì các địa phương thường hoặc là cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư hoặc thực hiện các ưu đãi dành cho nhà đầu tư. Nâng cao chất lượng môi trường đầu tư bao gồm cả việc cải tạo cơ sở hạ tầng, cải cách bộ máy hành chính, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương.
Ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách nhằm thu hút đầu tư hay định hướng đầu tư theo các mục tiêu nhất định.
Các ưu đãi dành cho nhà đầu tư có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng cơ bản có hai loại là ưu đãi tài chính và ưu đãi phi tài chính.
Ưu đãi tài chính là hình thức ưu đãi có tác dụng kích thích các nhà đầu tư đâu tư vào địa phương thông qua các đòn bẩy tài chính như thuế, trợ cấp…
Một số hình thức ưu đãi tài chính phổ biến:
Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn giảm tiền thuê đất cho các doanh nghiệp trong một thời hạn nhất định, ngoài ra còn có hình thức trợ cấp tín dụng và trợ cấp đầu tư.
Các ưu đãi phi tài chính là hình thức ưu đãi có tác dụng khuyến khích các nhà đầu tư thông qua các công cụ phi tài chính như tạo sự bình đẳng cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện các thủ tục đầu tư hay trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư trong và sau quá trình đầu tư…
Nếu so sánh thì sẽ thấy được rằng trong hai phương thức thu hút đầu tư thì các công cụ của ưu đãi đầu tư chỉ có tác dụng tức thì còn muốn thu hút được vốn đầu tư trong dài hạn với một kết quả chắc chắn thì chỉ có một cách là hoàn thiện, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư.
2. Tình hình thu hút vốn đầu tư của tỉnh Hà Tây trong những năm vừa qua.
2.1 Thu hút vốn đầu tư giai đoạn trước năm 2006
2.1.1 tình hình thu hút vốn đầu tư trong nước giai đoạn 2001 - 2005:
từ năm 2001 – 2005 tỉnh có 350 dự án đăng ký với tổng số vốn đầu tư là 10.398 tỷ đồng, với diện tích đất xin thuê là 1000,85 ha. Trong tổng số 350 dự án, 112 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh ( chiếm 32,09%), 102 dự án đang trong giai đoạn xây dựng (chiếm 29,2%), 136 dự án chưa được triển khai thực thi hoặc chưa được giao đất.
Cụ thể, tại huyện Quốc Oai có số dự án đi vào sản xuất kinh doanh nhiều nhất (17 dự án), tại huyện Hoài Đức có số dự án chưa triển khai hoặc chưa được giao đất lớn nhất (46 dự án). Các dự án đầu tư đã xuất hiện trên tất cả 14 huyện thị, tuy nhiên phân bố rất không đều do lợi thế không giống nhau giữa các địa phương, cụ thể, các huyện, thị ven hoặc gần Hà Nội, hoặc cạnh đường cao tốc, quốc lộ thu hút được nhiều dự án đầu tư hơn, ví dụ: huyện Hoài Đức có số dự án cao nhất (85), huyện Ứng Hoà có số dự án thấp nhất (03)…trong số 112 dự án đã đầu tư đi vào hoạt động, nhìn chung đều đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao và đã thu hút được nhiều lao động, tuy thế nguồn nộp ngân sách của các dự án còn hạn chế vì đa số các dự án đang trong thời gian được hưởng ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế các loại và do sản phẩm mới ra đời nên chưa chiếm được thị phần cao, doanh thu thấp.
2.1.2 tình hình đầu tư nước ngoài giai đoạn 1990 – 2005:
từ năm 1990 đến năm 2005, tỉnh Hà Tây đã thu hút được tổng số vốn đầu tư đăng ký là 629,8 triệu USD (đạt trung bình khoảng 10,1 triệu USD/01 dự án) vốn pháp định là 285,4 triệu USD, vốn đã thực hiện ước đạt 256,8 triệu USD, các nhà đầu tư đến từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ. Do số lượng các dự án ít, đặc thù của loại hình đầu tư, lợi thế thu hút đầu tư của các địa phương không giống nhau, nên chỉ có 11/14 huyện thị có dự án đầu tư nước ngoài trên địa bàn, trong đó nhiều nhất về số lượng là Hà Đông, nhưng nhiều nhất về vốn đầu tư là huyện Thường Tín. Trong tổng số 62 dự án, đã có 41 dự án đi vào sản xuất kinh doanh, trung bình hằng năm tạo ra tổng doanh thu khoảng 300 triệu USD, nộp ngân sách khoảng 20 triệu USD, tạo việc làm ổn định cho khoảng 7.000 người …. 07 dự án đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, 10 dự án chưa triển khai do gặp khó khăn về vốn, thị trường, mặt bằng…
năm 2005, doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 321 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 11,5 triệu USD, nộp ngân sách 20,6 triệu USD tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2004, thu hút 6.600 lao động thường xuyên.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà Tây chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất, chiếm trên 92% tổng vốn đầu tư, hàng năm tạo ra giá trị sản lượng công nghiệp lớn. Đây là lĩnh vực có mức tăng trưởng cao, bình quân trên 20%/năm, ổn định qua nhiều năm, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2 kết quả đầu tư năm 2006:
2.2.1 Đầu tư trong nước năm 2006
năm 2006 tỉnh có101 dự án đăng ký ngoài khu công nghiệp, khu công nghệ cao, tăng 140,4% so với cùng kỳ năm 2005, tổng số vốn đầu tư khoảng 4000 tỷ đồng, bằng 285,7% so với năm 2005, khi đi vào hoạt động doanh thu ổn định hằng năm là 5000 tỷ đồng, tạo nguồn thu cho ngân sách hằng năm là 200 tỷ đồng, sử dụng 13.000 lao động hàng năm với tổng diện tích đất xin thuê là 300 ha.
với kết quả thu hút đầu tư năm 2006 đã đưa tổng số dự án đầu tư trong nước ngoài các khu công nghiệp, khu công nghệ cao tính đến nay là 451 dự án. Trong tổng số 451 dự án, 192 dự án đã đi vào sản xuất – kinh doanh (chiếm 42,6%), 102 dự án đang trong giai đoạn xây dựng (chiếm 22,6%), 157 dự án chưa triển khai thực thi hoặc chưa được giao đất (chiếm 34,6%). Các dự án trong năm 2006 đã xuất hiện trên các huyện, thị xã trong toàn tỉnh nhưng chủ yếu tập trung tại các huyện, thị có điều kiện thuận lợi về giao thông như Hoài Đức (31dự án); Đan Phượng (11 dự án); Chương Mỹ (14 dự án)….
Trong năm 2006, ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh đã tiếp nhận 6 dự án vào đầu tư tại khu công nghiệp Bắc Phú Cát với tổng vốn đầu tư là 313,1 tỷ đồng tăng 100% so với năm 2005; diện tích đất thuê là 19,1 ha; sử dụng 1.072 lao động. như vậy, tính đến 31/12/2006 đã có 08 dự án đầu tư tại khu công nghiệp Bắc Phú Cát với tổng vốn đầu tư là 1.036,3 tỷ đồng; diện tích đất thuê là 31,5 ha; sử dụng khoảng 1400 lao động.
Năm 2006, khu công nghệ cao Hoà Lạc chưa thu hút thêm được dự án đầu tư,do vậy tính đến ngày 31/12/2006 có 03 dự án đầu tư hoạt động trong khu công nghệ cao Láng Hoà Lạc; trong đó có 02 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 7,1 triệu USD, diện tích đất sử dụng là 4 ha; 01 dự án đầu tư trong nước với vốn đăng ký là 97,2 tỷ đồng, diện tích đất xin thuê là 2,5 ha.
Như vậy, tính đến ngày 31/12/2006 trên địa bàn tỉnh Hà Tây đã có 460 dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đăng ký là 14.400 tỷ đồng, diện tích đất xin thuê là khoảng 1307,5 ha. Trong đó số dự án đầu tư trong nước tăng thêm năm 2006 là 110 dự án, số vốn đăng ký là 5133,5 tỷ đồng.
2.2.2 tình hình đầu tư nước ngoài năm 2006:
Trong 10 tháng đầu năm 2006 đã có 12 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký là 46,1 triệu USD, tăng 100% về số dự án và bằng 992,8% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2005.
Quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án trong 10 tháng đầu năm đạt 3,8 triệu USD/dự án. Đặc biệt, trong số các dự án mới cấp phép có một số dự án có quy mô vốn đầu tư đăng ký lớn là: công ty DK vốn đầu tư là 22 triệu đô la Mỹ, trung tâm dạy nghề và ngoại ngữ Forward vốn đầu tư 8 triệu đô la Mỹ, trường đào tạo lái xe vốn đầu tư 4,9 triệu đô la Mỹ.
Trong 10 tháng đầu năm có 2 dự án đầu tư tăng vốn mở rộng sản xuất với số vốn tăng thêm là 1,6 triệu USD.
Tính chung cả dự án cấp mới và tăng vốn, 10 tháng đầu năm 2006 tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 47,7 triệu đô la Mỹ, tăng gấp 10,2 lần sở Kế Hoạch và Đầu Tư tỉnh Hà Tây với cùng kỳ năm 2005.
Hai tháng cuối năm 2006, tỉnh Hà Tây đạt được kết quả hết sức khả quan về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đầu tư mỗi dự án có quy mô lớn.
Số dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư bảy (07) dự án đầu tư, với tổng vốn đầu tư đăng ký lên đến 748,7 triệu đô la Mỹ, tăng gấp 16,2 lần vốn đầu tư đăng ký so với 10 tháng đầu năm 2006; gấp 102,5 lần vốn đầu tư đăng ký so với cả năm 2005 và gấp 1,18 lần tổng vốn đầu tư đăng ký giai đoạn 1990 – 2005. Đó là các dự án:
dự án khu chung cư quốc tế Booyoung, vốn đầu tư đăng ký 171,1 triệu đô la Mỹ.
dự án xây dựng làng Việt kiều châu Âu TSQ, vốn đầu tư đăng ký 59,2 triệu đô la Mỹ.
dự án xây dựng kinh doanh khu đô thị mới Bắc An Khánh của công ty liên doanh TNHH đô thị mới An Khánh, vốn đầu tư đăng ký 211,9 triệu đô la Mỹ (liên doanh giữa công ty Vinaconex và công ty posco – Hàn Quốc)
dự án sản xuất mạch điện tử PCD do công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam làm chủ đầu tư, vốn đầu tư đăng ký 300 triệu đô la Mỹ…
Như vậy, từ đầu đến cuối năm 2006 tỉnh Hà Tây đã thu hút được 19 dự á._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0048.doc