Phân tích những cơ hội và thách thức trong việc thu hút Đầu tư nước ngoài VN sau khi VN hội nhập WTO

LỜI MỞ ĐẨU Sau hơn 20 năm đổi mới - mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã có những thành tựu phát triển kinh tế nổi bật. Tốc độ phát triển luôn đạt ở mức cao, cơ cấu kinh tế chuyển đổi dần theo hướng công nghiệp hoá, thu nhập trên người được nâng cao… Đóng góp vào thành công đó phải kể đến vai trò to lớn của đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới được 2 năm, cùng với đó là sự thay đổi toàn diện về mọi mặt của nền kinh tế để có thể gia nhập ngày càng sâu rộng v

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích những cơ hội và thách thức trong việc thu hút Đầu tư nước ngoài VN sau khi VN hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ào nền kinh tế thế giới. Những cơ hội – khó khăn và thách thức luôn đi kèm với nhau vì vậy luôn cần được nhìn nhận, phân tích 1 cách đúng đắn. Trên cơ sở đó để phát huy tối đa tiềm năng, tận dụng được cơ hội – khắc phục nhược điểm, hạn chế được những khó khăn thách thức. Thu hút ĐTNN là một trong những mục tiêu lớn không chỉ của Việt Nam mà của tất cả các nước đang phát triển trong mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế. Gia nhập WTO kéo theo rất nhiều thay đổi, do vậy những cơ hội và thách thức trong việc thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO cần được nghiên cứu toàn diện và đầy đủ, giúp Việt Nam có thể chủ động đưa ra các chính sách của mình trong thời gian tới. Đề tài “ Phân tích những cơ hội và thách thức trong việc thu hút ĐTNN ở Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO “ cung cấp một cái nhìn tổng thể, bao quát về những cơ hội và thách thức của Việt Nam. Do hạn chế về kiến thức và khả năng các phân tích dưới đây chủ yếu dựa trên cơ sở lý thuyết, các số liệu, phân tích cụ thể, chi tiết, toàn diện chưa có. Chương I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG I. Tổ chức thương mại thế giới và quá trình việt nam gia nhập WTO: 1. Một số vấn đề về tổ chức thương mại thế giới Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization, viết tắt WTO là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5 năm 2005, ông Pascal Lamy được bầu làm Tổng giám đốc thay cho ông Supachai Panitchpakdi, người Thái Lan, kể từ 1 tháng 9 năm 2005. Tính đến ngày 25 tháng 1 năm 2008, WTO có 152 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành viên của WTO (WTO, 2004c). a/ Lịch sử hình thành WTO được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định chung về Thuế quan Thương mại. GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày nay. Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân các nước thành viên.Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thỏa thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ 11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được. Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948. Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay(1986-1994) do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995. b/ Mục tiêu tổ chức: Mục tiêu của WTO được ghi nhận tại Lời mở đầu của Hiệp định thành lập WTO. "Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan hệ của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và thương mại phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau. (Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó; (Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế; Do đó (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này” c/ Nguyên tắc hoạt động + Nguyên tắc không phân biệt đối xử: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử MFN quy định một thành viên phải đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên khác. Đối xử NT quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có ngoại lệ về đối xử MFN và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO. + Nguyên tắc thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: Bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v.. +Nguyên tắc minh bạch hoá: Bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh. d/ Chức năng: Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, WTO có 5 chức năng. 1) WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên. 2) WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra. 3) WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên (''Thoả thuận'' này được quy định trong Phụ lục 2 của Hiệp định thành lập WTO) 4) WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành viên), ''Cơ chế'' này được quy định tại Phụ lục 3 của Hiệp định thành lập WTO; 5) Ðể đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó. e/ Cơ cấu tổ chức của WTO: Theo các quy định tại Ðiều IV của Hiệp định thành lập WTO, có thể mô tả WTO gồm các cấp độ quyền lực như sau: Hội nghị Bộ trưởng; Ðại hội đồng; Các tiểu ban. 1. Hội nghị bộ trưởng: Hội nghị bộ trưởng gồm đại diện của tất cả các nước thành viên của WTO. Cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng - HNBT (Ministerial Conference), họp ít nhất là hai năm một lần. Hội nghị bộ trưởng sẽ thực thi các chức năng của WTO và thực hiện những hành động cần thiết để thực thi các chức năng này. Khi một thành viên nào đó yêu cầu, Hội nghị bộ trưởng cũng có quyền đưa ra những quyết định về tất cả các vấn đề thuộc các hiệp định đa biên, theo trình tự ra quyết định được quy định tại Hiệp định thành lập WO và các hiệp định đa biên. Tính đến thời điểm 12/2005, WTO đã tổ chức được 6 kỳ hội nghị bộ trưởng - HNBT lần đầu tiên họp ở Singapore tháng 12/1996 lập thêm 3 nhóm làm việc về quan hệ thương mại và đầu tư, quan hệ thương mại và cạnh tranh, và tính minh bạch trong mua sắm của Chính phủ. - HNBT lần hai họp tháng 5/1998 ở Geneva đã quyết định WTO phải nghiên cứu thêm về thương mại điện tử. - HNBT lần ba được tổ chức vào ngày 30 tháng 11 đến 03 tháng 12 năm 1999 tại Seattle, Mĩ - HNBT lần tư tại Doha được tổ chức từ ngày 9 đến 13 tháng 11 năm 2001. - HNBT lần năm được tổ chức từ ngày 10 đến 14 tháng 09 năm 2003 tại Cancun, Mexico. - HNBT lần thứ 6 tại Hongkong, tháng 12/2005. 2. Đại Hội đồng Ðại hội đồng gồm đại diện của tất cả các nước thành viên, sẽ họp khi cần thiết. Trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị bộ trưởng thì chức năng của Hội nghị bộ trưởng sẽ do Ðại hội đồng đảm nhiệm. Như vậy, có thể hiểu Ðại hội đồng là cơ quan quyết định tối cao của WTO trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị bộ trưởng. Khi cần thiết, Ðại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của Cơ quan giải quyết tranh chấp. Khi cần thiết, Ðại hội đồng sẽ được triệu tập để đảm nhiệm phần trách nhiệm của Cơ quan rà soát chính sách thương mại. Như vậy, các hoạt động hàng ngày trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội nghị bộ trưởng thuộc trách nhiệm giải quyết của 3 cơ quan: - Ðại hội đồng; - Cơ quan giải quyết tranh chấp; - Cơ quan rà soát chính sách thương mại. Nhưng theo như quy định của WTO, thực chất, cả 3 cơ quan này chỉ là một. Tức là tuỳ theo từng trường hợp cụ thể: + Ðại hội đồng nhóm họp với các chức năng và nhiệm vụ của Cơ quan giải quyết tranh chấp hay là của Cơ quan rà soát chính sách thương mại. + Cơ quan giải quyết tranh chấp giám sát việc thực thi các thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các thành viên (quy định tại Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp). + Cơ quan rà soát chính sách thương mại tiến hành việc phân tích các chính sách thương mại của các nước thành viên (quy định tại Cơ chế rà soát chính sách thương mại). Giữa hai kỳ Hội nghị Bộ trưởng, các công việc được điều hành bởi Đại Hội đồng, gồm các đại sứ hay trưởng phái đoàn của tất cả các nước thành viên tại Geneva, mỗi năm họp một vài lần tại Geneva. Đại Hội đồng còn có vai trò là Cơ quan giám sát chính sách thương mại và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Đại hội đồng hành động nhân danh HNBT và chịu trách nhiệm trước HNBT. 3. Hội đồng các cấp Cấp thứ ba là các Hội đồng về nhiều lĩnh vực khác nhau - Thương mại hàng hóa (Goods Council), - Hội đồng về Thương mại dịch vụ (Servives Council), - Hội đồng về Những Vấn đề liên quan đến Sở hữu trí tuệ (TRIPS Council) - Các Hội đồng này chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng. Như tên gọi của mình, các Hội đồng này làm việc trên các Hiệp định của các lĩnh vực này. Các hội đồng này cũng bao gồm các thành viên của WTO. Ngoài ra, còn có 6 Ủy ban chuyên trách hay nhóm làm việc liên quan đến từng hiệp định hay lĩnh vực riêng lẻ như Thương mại và Phát triển; theo dõi các hoạt động hạn chế thương mại được tiến hành nhằm cân đối các mục đích chi trả; theo dõi các hiệp định thương mại trong khu vực; hợp tác trong môi trường đầu tư; và công tác tài chính cũng như quản trị của WTO. Hội nghị Bộ trưởng năm 1996 tại Singapore quyết định thành lập thêm các nhóm hoạt động mới theo dõi các chính sách đầu tư và cạnh tranh, tính minh bạch trong việc mua sắm của chính phủ và các điều kiện thuận lợi cho thương mại. Những hội đồng, ủy ban hay nhóm này cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên và chịu trách nhiệm trước Đại Hội đồng. 4/ Các tiểu ban Cấp thứ tư là các Tiểu ban trực thuộc Đại Hội đồng và các Hội đồng. Các Tiểu ban này chịu trách nhiệm điều hành việc thực thi Hiệp định WTO về từng lĩnh vực thương mại tương đương. Tham gia các Hội đồng là đại diện của các thành viên. Hội đồng Hàng hóa có 11 Tiểu ban điều hành các công vịệc chuyên biệt (như nông nghiệp, tiếp cận thị trường, các biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp...) Ngoài ra, Hội đồng Hàng hóa còn có Cơ quan giám sát hàng dệt bao gồm 1 Chủ tịch, 10 thành viên và các nhóm chuyên biệt khác phụ trách các thông báo, các công ty thương mại quốc gia. Hội đồng Dịch vụ gồm có các Tiểu ban về dịch vụ tài chính, các tiểu ban về các cam kết cụ thể. Cơ quan Giải quyết tranh chấp của Đại hội đồng có hai Tiểu ban là các hội đồng chuyên gia được chỉ định giải quyết tranh chấp và cơ quan xét xử kháng cáo. Ban thư ký của WTO: Ban thư ký của WTO đặt tại Geneva. Ban thư ký có khoảng 550 nhân viên. Nhân viên của Ban thư ký do Ban thư ký tuyển dụng qua thi tuyển. Ðiều kiện trước tiên là phải thông thạo 3 ngoại ngữ là ngôn ngữ chính thức của WTO gồm Anh, Pháp, Tây Ban Nha. Ðứng đầu Ban thư ký là Tổng giám đốc. Tổng giám đốc của WTO do Hội nghị bộ trưởng bổ nhiệm, quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, điều kiện phục vụ và thời hạn phục vụ của Tổng giám đốc. Nhiệm kỳ của Tổng giám đốc là 4 năm.Tổng giám đốc sẽ bổ nhiệm các thành viên của Ban thư ký. Dưới Tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc. Các vụ chức năng của Ban thư ký trực thuộc Tổng giám đốc hoặc một Phó tổng giám đốc. + Ban thư ký có nhiệm vụ: - Trợ giúp về mặt hành chính và kỹ thuật cho các cơ quan chức năng của WTO (các hội đồng, các uỷ ban, ...) trong việc đàm phán và thực thi các hiệp định; - Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và kém phát triển; - Thống kê và đưa ra phân tích về tình hình, chính sách và triển vọng thương mại thế giới; - Hỗ trợ các quá trình giải quyết tranh chấp và rà soát chính sách thương mại; - Tiếp xúc và hỗ trợ các nước thành viên mới trong quá trình đàm phán gia nhập; tư vấn cho các chính phủ muốn trở thành thành viên của WTO; Phần lớn các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự đồng thuận, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với nhiều tổ chức khác, mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị ngang nhau. Hầu hết các thành viên hiện tại của WTO đều là thành viên trước đây của GATT. Các quốc gia và lãnh thổ tự chủ về chính sách thương mại cũng có thể gia nhập WTO với điều kiện thông thường là được tất cả thành viên chấp thuận. Khi không thể đạt được đồng thuận, việc kết nạp có thể chỉ cần 2/3 số phiếu bầu. Quá trình gia nhập được dựa trên cơ sở xem xét các chính sách kinh tế, thương mại của nước đang xin gia nhập và các cuộc đàm phán song phương về mở cửa thị trường. Việc gia nhập của một nước được chính thức hóa bằng việc ký vào Nghị định thư gia nhập, và có hiệu lực 30 ngày sau khi nộp văn bản thông báo việc cơ quan có thẩm quyền đã thông qua hay phê chuẩn Nghị định thư gia nhập. + Các hội đồng: Các hội đồng trực thuộc Ðại hội đồng, hoạt động theo sự chỉ đạo chung của Ðại hội đồng. Các hội đồng cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên của WTO. Ðại hội đồng có các hội đồng sau: - Hội đồng thương mại hàng hoá - Hội đồng thương mại dịch vụ - Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ Chức năng của các hội đồng là giám sát việc thực hiện các hiệp định liên quan đến lĩnh vực của mình. Các hội đồng sẽ nhóm họp khi cần thiết. Các hội đồng này thành lập ra các cơ quan cấp dưới theo yêu cầu. + Các uỷ ban: Hội nghị bộ trưởng thành lập ra các uỷ ban. Các uỷ ban cũng bao gồm các đại diện của tất cả các thành viên của WTO. Các uỷ ban này đảm nhiệm các chức năng được quy định trong các hiệp định của WTO hoặc các chức năng do Ðại hội đồng giao cho. Tuy cũng trực thuộc Ðại hội đồng nhưng thẩm quyền hoạt động của các uỷ ban hẹp hơn so với các hội đồng. Ðại hội đồng có các uỷ ban sau: - Uỷ ban về thương mại và môi trường; - Uỷ ban về thương mại và phát triển; - Uỷ ban về hiệp định thương mại khu vực; - Uỷ ban về các hạn chế nhằm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; - Uỷ ban về ngân sách, tài chính và quản trị; + Các nhóm công tác: Các nhóm công tác cũng trực thuộc Ðại hội đồng nhưng cấp độ nhỏ hơn và hẹp hơn so với các uỷ ban. Ðại hội đồng có nhóm công tác sau: - Nhóm công tác về gia nhập tổ chức; - Nhóm công tác về quan hệ giữa thương mại và đầu tư; - Nhóm công tác về tác động qua lại giữa thương mại và chính sách cạnh tranh; - Nhóm công tác về minh bạch trong chi tiêu chính phủ; - Nhóm công tác về thương mại, nợ và tài chính; - Nhóm công tác về thương mại và chuyển giao công nghệ. f/ Cơ chế ra quyết định của WTO Về phương diện ra quyết định, WTO là một tổ chức kinh tế quốc tế liên chính phủ khác với một số tổ chức khác. Về nguyên tắc, các quyết định lớn và quan trọng nhất của WTO do chính phủ tất cả các nước thành viên thông qua, hoặc ở cấp Bộ trưởng tại Hội nghị Bộ trưởng hoặc ở cấp Đại sứ tại Đại hội đồng WTO. cả các quyết định này thông thường được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Khác với IMF hoặc WB, Ban thư ký hoặc Tổng giám đốc WTO không được các nước thành viên chuyển giao thực hiện những quyền lực quan trọng và quan điểm của WTO không ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách thương mại của các nước thành viên (đây là sự khác nhau cơ bản giữa WTO và IMF hoặc WB). Những nghĩa vụ trong WTO là kết quả của các cuộc đàm phán thương mại đa phương trên cơ sở nhân nhượng và thoả hiệp giữa tất cả các nước. Việc không thực hiện một nghĩa vụ trong WTO, trong trường hợp xấu nhất chỉ có thể dẫn đến việc nước bị thiệt hại có quyền yêu cầu của WTO cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa nhưng phải tương ứng với mức độ thiệt hại mà nước này đã phải chịu. Nếu so sánh với các biện pháp chế tài của IMF hoặc WB thì có thể nói là "kỷ luật tập thể" ở WTO nói chung vẫn còn "mềm" và "nhẹ" hơn. Theo điều XVI, khoản một của Hiệp định về WTO, cơ chế ra quyết định của WTO sẽ tiếp tục cách làm hơn 40 năm qua của GATT 1947, có nghĩa là WTO sẽ tiếp tục áp dụng nguyên tắc đồng thuận (consensus) trong việc ra quyết định, mặc dù Hiệp định về WTO có một số điều khoản về việc bỏ phiếu.Để tránh trường hợp việc thông qua quyết định có thể bị phong toả hoặc trì hoãn, Hiệp định về WTO quy định một số trường hợp bỏ phiếu như sau: · Quyết định sửa đổi một số nguyên tắc nền tảng như "tối huệ quốc" , nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" (phải được sự nhất trí của tất cả các nước thành viên). · Các quyết định về việc giải thích các điều khoản của Hiệp định WTO và các hiệp định đa biên và cho phép một số nước miễn thực hiện một nghĩa vụ nào đó cần được ba phần tư số phiếu thuận. · Các quyết định sửa đổi các điều khoản khác trong các hiệp định thương mại đa phương cần được hai phần ba số phiếu thuận. Những nước không đồng ý với quyết định của đa số có thể bị Hội nghị Bộ trưởng WTO yêu cầu rút khỏi WTO. 2. Quá trình Việt Nam gia nhập WTO - 4-1-1995: Đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam được Đại hội đồng tiếp nhận. - 31-1-1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam được thành lập với chủ tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO. - 24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác. Năm 1998-1999: Các phiên hỏi và trả lời với ban xem xét công tác xét duyệt. Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ. - 9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO. - 9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho Việt Nam sớm gia nhập WTO. - 12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington trước thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến kết thúc đàm phán song phương. - 18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để Việt Nam gia nhập WTO. -31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. - 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến phút chót. - Ngày 07 tháng 11/2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này. CHƯƠNG II NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC THU HÚT ĐTNN Ở VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO I. Những cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam 1/ Cam kết đa phương Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta. Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may). Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm). Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí… Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm Chính phủ. Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm. Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử của bộ, ngành. Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. 2/ Cam kết về thuế nhập khẩu Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm. Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đ._.ây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. 3/ Cam kết về mở của thị trường dịch vụ Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài mua tối đa 30% cổ phần. Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép). Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt só với các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%).  Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không khác nhiều so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản. II/ Những cơ hội và thách thức trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài khi Việt Nam gia nhập WTO 1/ Cơ hội thu hút ĐTNN khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO 1.1 Tham gia sâu hơn vào phân công lao động quốc tế nhờ đó phát huy được tốt hơn các lợi thế so sánh trong thu hút ĐTNN Tham gia vào WTO sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các dòng vốn ĐTNN di chuyển đến những nơi đầu tư có hiệu quả. Như vậy, các nước nếu biết khai thác tốt các lợi thế so sánh của đất nước mình sẽ có thể tăng cường thu hút vốn ĐTNN phục vụ cho quá trình phát triển đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ của các nước NIC, các con rồng châu Á, một số nước ASEAN, Trung Quốc... nhờ một phần quan trọng vào nguồn vốn ĐTNN và các nguồn vốn bên ngoài khác. Thực tế cho thấy những nước đang phát triển bứt lên được về kinh tế trong hai ba thập kỷ vừa qua là những nước biết nắm bắt các cơ hội thuận lợi trong thương mại và đầu tư mà quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra. Đó là những nước đã thu hút được nhiều vốn ĐTNN nhất trong số các nước đang phát triển, đồng thời là những nước có chính sách kinh tế dựa trên nguyên tắc tự do hoá và hướng ngoại mạnh. Việt Nam có nhiều lợi thế so sánh trong thu hút ĐTNN, cụ thể là: Ổn định cao về chính trị, xã hội: Nhận thức được vai trò quan trọng của việc ổn định chính trị, xã hội đối với sự tăng trưởng kinh tế nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung, trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương từng bước cải cách chính trị, làm trong sạch đội ngũ Đảng, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Các chính sách xã hội của Việt Nam đã bước đầu đảm bảo sự công bằng trong phân phối, tạo động lực để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp. Các vấn đề xã hội nóng bỏng được chú trọng giải quyết như vấn đề việc làm, bảo hiểm và an sinh xã hội, chế độ tiền lương, xoá đói, giảm nghèo, tốc độ tăng dân số và chất lượng cuộc sống, chăm sóc sức khoẻ người dân... Với những chủ trương đúng đắn và được triển khai kịp thời, Việt Nam đã thành công trong việc tạo dựng và duy trì môi trường chính trị, xã hội ổn định. Sự ổn định về chính trị và xã hội của Việt Nam được thế giới đánh giá cao, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình chính trị, xã hội ở nhiều khu vực trên thế giới đang bất ổn vì nạn khủng bố, vì chiến tranh.. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và liên tục: Trong giai đoạn 1990-1995, GDP của Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ năm sau cao hơn năm trước và tốc độ tăng GDP đạt đỉnh cao năm 1995. Sau đó tốc độ tăng GDP có giảm nhưng vẫn ở mức cao trong hai năm 1996, 1997. Năm 1998- 1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, GDP không đạt được tốc độ tăng trưởng cao như những năm trước. Tính riêng trong 10 năm từ 1991 đến 2000, GDP đã tăng gấp 2,07 lần. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ năm 2000 đến năm 2003, tốc độ tăng GDP đã hồi phục. WB và ADB đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2003 cao nhất Đông Nam Á, thứ nhì châu Á (sau Trung Quốc). Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ : Việt Nam có số người trong độ tuổi lao động khá đông, con số này của năm 2004 là hơn 43 triệu người. Nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá là trẻ, chăm chỉ và tiếp thu nhanh. Lương công nhân và kỹ sư Việt Nam có lợi thế so sánh hơn hẳn so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 60-70% của Thái Lan và Trung Quốc; bằng 18% của Singapore và bằng 3-5% của Nhật Bản. Chỉ số phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đạt mức cao hơn trình độ phát triển kinh tế, phản ánh những điểm nội trội của chất lượng nguồn nhân lực (có khả năng tiếp thi và thích nghi với các công nghệ được chuyển giao). Có lợi thế về một số loại chi phí đầu tư: Ở Việt Nam, tuy chi phí thuê đất của các dự án ĐTNN cao hơn nhiều so với các dự án trong nước, nhưng Việt Nam vẫn có lợi thế cạnh tranh về chi phí thuê đất so với các nước trong khu vực. Chi phí viễn thông ở Việt Nam cũng đã thấp hơn mức trung bình của các nước trong khu vực. Giá nước cho kinh doanh và sử dụng thông thường của Việt Nam cũng thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Đây là những lợi thế mà Việt Nam cần phát huy trong thu hút ĐTNN. 1.2. Các rào cản trong việc di chuyển vốn, nhân lực và công nghệ sẽ bị xoá bỏ Tham gia WTO tạo điều kiện thuận lợi hơn cho di chuyển vốn và công nghệ vào nước ta, do đó thu hút vốn đầu tư tăng lên, tạo ra khả năng phát triển nhanh các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ĐTNN. Một ví dụ là trong ngành giao thông vận tải, sau khi gia nhập WTO các hãng tàu liên doanh được chuyển quyền thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, trong các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, mức độ cam kết mở cửa thị trường rộng lớn. Như trong dịch vụ xếp dỡ container cho phép thành lập công ty 50% vốn nước ngoài, dịch vụ thông quan cho phép liên doanh với 51% vốn nước ngoài sau khi gia nhập WTO và sau 5 năm không hạn chế tỷ lệ vốn trong liên doanh. Tương tự, trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông cũng đang mở cửa rộng lớn để dòng vốn và công nghệ chảy vào nước ta... Do vốn trong khu vực ĐTNN tăng lên, sản xuất kinh doanh khu vực này sẽ mở rộng, trở thành khu vực thu hút nhiều lao động chuyên môn, kỹ thuật trên thị trường lao động. Vì vậy, tham gia WTO có tác động thúc đẩy phát triển thị trường đào tạo, dạy nghề và dịch vụ cung ứng lao động chuyên môn, đáp ứng cầu lao động kỹ năng ngày càng tăng của khu vực ĐTNN. Trở thành thành viên của WTO tạo ra khả năng di chuyển dễ dàng hơn của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, do đó có tác động thúc đẩy phát triển xuất khẩu lao động. Đặc biệt là nước ta có cơ hội hơn trong mở rộng thị trường xuất khẩu lao động kỹ thuật sang các nước thành viên WTO như: Mỹ, Canada, các nước châu Âu... Xuất khẩu lao động chuyên môn, kỹ thuật sẽ có tác động tích cực đối với kích thích đào tạo nhân lực trên thị trường lao động, các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn lao động của thị trường lao động của các nước phát triển, là động lực mạnh mẽ của phát triển nguồn nhân lực nước ta. 1.3. Mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp ĐTNN – có thêm thị trường tiêu thụ, mở rộng thị trường xuất khẩu Tự do hoá thương mại và đầu tư trong WTO tập trung vào việc tăng cường tiếp cận và mở rộng thị trường, cắt giảm và dần dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hàng rào thuế quan và phi thuế đối với thương mại và đầu tư. Các thành viên hợp tác thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các cam kết cải cách kinh tế và tiến tới thương mại, đầu tư an toàn, tự do và thông thoáng hơn. Các thành viên của WTO sẽ thực hiện lộ trình giảm thuế và xử lý các rào cản thương mại sau biên giới, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của doanh nghiệp trong khu vực và tạo điều kiện cho việc kinh doanh dễ dàng và chi phí rẻ hơn. WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Tham gia vào một không gian kinh tế lớn hơn rất nhiều, hệ thống chính sách luật pháp minh bạch, phân công lao động toàn cầu.. Trở thành thành viên thứ 150 của WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Ngoài việc sẽ được đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại như tất cả các thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ còn nhận được những ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển. Các doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tăng cường tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO. Thông qua việc mở cửa các thị trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, giảm những hàng rào thuế quan và phi thuế quan, những biện pháp hạn chế về định lượng và hàng rào kỹ thuật, giảm sự phân biệt đối xử trong WTO, các doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường do được tiếp cận nhiều hơn với thị trường trong cũng như ngoài nước và bạn hàng mới để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trở thành thành viên đầy đủ của WTO, chúng ta có điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng truyền thống như may mặc, giày da, thuỷ sản, gạo, đồ thủ công mỹ nghệ, những mặt hàng mới như xuất khẩu phần mềm: xuất khẩu lao động, phát triển du lịch... Hội nhập quốc tế không chỉ mở rộng thị trường xuất khẩu mà còn làm tăng số lượng hàng xuất khẩu ra các nước. Các doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ được hưởng một số ưu đãi, tạo điều kiện cho hàng hoá có mức giá cạnh tranh được với hàng hoá tương tự của các nước khác. Vì vậy, có thể khẳng định, đồng thời với việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, mức thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp ĐTNN có cơ hội thúc đẩy sự thâm nhập hàng hoá của mình vào thị trường các nước trên thế giới. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể tận dụng cơ hội từ những quy định của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất khẩu, chẳng hạn, các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển sẽ được hưởng mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp hoặc không có thuế hoặc hưởng chế độ của hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Hội nhập tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ĐTNN tham gia vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh. Doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ có ưu thế do giá cả rẻ, chi phí thấp (do lương nhân công thấp). Doanh nghiệp ĐTNN Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt hàng truyền thống, sử dụng lao động rẻ, nguyên liệu sẵn có trong nước; hoặc các mặt hàng tận dụng được ưu đãi của thiên nhiên; khí hậu nhiệt đới cho phép trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu, cao su... Một số mặt hàng tuy sử dụng nguyên liệu nhập khẩu như dệt may, da giày... song cũng có thể tận dụng ưu thế chi phí lao động rẻ, tiền lương thấp. Đồng thời đây cũng là những mặt hàng mà đến nay nhiều nước phát triển không tập trung sản xuất nữa. Gia nhập WTO cũng sẽ cho phép các nhà đầu tư tiếp cận được tự do hơn thị trường tiêu thụ trong nước có tiềm năng lớn với quy mô hơn 80 triệu người; tuy mức thu nhập đầu người còn ở mức khiêm tốn như hiện nay nhưng được kỳ vọng sẽ tăng nhanh chóng. Điều không kém quan trọng là với môi trường đầu tư minh bạch, bình đẳng và tự do hơn, các doanh nghiệp ĐTNN hướng xuất khẩu sẽ tìm thấy một miền đất hứa tại Việt Nam với một lực lượng lao động tương đối trẻ, dồi dào và có giáo dục. Đây chính là yếu tố quan trọng để giúp các doanh nghiệp ĐTNN trong các ngành sử dụng nhiều lao động tăng tính cạnh tranh toàn cầu. Ngoài ra, Việt Nam đã trở thành bãi đáp chiến lược thay thế cho Trung Quốc vì những rủi ro chính trị ở nước này. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp, đặc biệt từ Nhật, chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam khi mà thực tiễn cho họ thấy rằng tập trung đầu tư quá nhiều vào Trung Quốc tỏ ra rất rủi ro trong bối cảnh nhạy cảm chính trị trong quan hệ hai nước, điển hình là phong trào bài Nhật nổ ra ở nước này gần đây. 1.4. Hình ảnh Việt Nam được quảng bá rộng rãi và ngày càng hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài Kể từ khi gia nhập WTO, số đoàn doanh nghiệp của các nước vào Việt Nam khảo sát cơ hội đầu tư đã tăng lên, trong đó đáng chú ý là các đoàn lớn của Nhật Bản, các đoàn lớn của Hoa Kỳ, của Cộng hoà liên bang Đức, Tây Ban Nha... Hàng trăm tập đoàn, công ty nước ngoài đã tham dự các Diễn đàn, Hội thảo đầu tư lớn tổ chức tại Việt Nam như Diễn đàn Đầu tư Việt Nam, Diễn đàn đối thoại Việt Đức, Hội nghị về thu hút đầu tư của các TNCs, các hội thảo về xúc tiến đầu tư tại nước ngoài cũng đã thu hút mối quan tâm của đông đảo cộng đồng doanh nghiệp các nước. Hình ảnh của Việt Nam với tư cách là một thành viên của các tổ chức, diễn đàn hợp tác đầu tư sẽ được quảng bá rộng rãi thông qua các chương trình xúc tiến đầu tư chung của toàn khối. Chương trình xúc tiến đầu tư, tăng cường hiểu biết là một trong ba chương trình hành động được đề ra trong hiệp định khung AIA. Các hoạt động xúc tiến chung bao gồm tổ chức hội thảo, mở các lớp đào tạo, tổ chức các chuyến khảo sát làm quen cho các nhà đầu tư từ các nước xuất khẩu vốn, đồng thời triển khai các dự án cụ thể với sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân. Các hoạt động như vậy vừa có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người hơn, vừa giúp các nước thành viên trong đó có Việt Nam tiết kiệm được chi phí xúc tiến đầu tư. Các nước thành viên cũng có thêm cơ hội để trao đổi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong hoạt động xúc tiến đầu tư. Trở thành thành viên của WTO, không những mang lại cơ hội hình ảnh Việt Nam được quảng bá rộng rãi mà chính WTO sẽ khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư. Trước tiên, theo đánh giá mới nhất của Tổ chức Thương mại và Phát triển thuộc Liên Hợp Quốc (UNCTAD), Việt Nam được xếp vào nhóm nước có tiềm năng ĐTNN thấp nhưng hiệu quả hoạt động của khu vực ĐTNN cao. Rõ ràng, trong bối cảnh mới đây chắc chắn sẽ là “liều thuốc kích thích” các nhà đầu tư nước ngoài đến nước ta kinh doanh. Hơn nữa, Việt Nam là một nước còn kém phát triển nhưng trình độ phát triển thấp đồng nghĩa với cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh còn lớn. Cuối cùng là sau bốn năm đẩy nhanh tốc độ biến Trung Quốc thành “công xưởng của thế giới”, do nhiều nguyên nhân khác nhau, công thức Trung Quốc + 1 đang được nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ được xem như nơi tiếp nhận đầu tư thay thế hoặc tiếp ngay sau Trung Quốc. 1.5. Cơ hội mang lại từ việc thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư Việc thực hiện các cam kết quốc tế về đầu tư của Việt Nam cùng với những cải thiện tích cực trong hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngoài trong thời gian qua là những nhân tố quan trọng góp phần củng cố lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam, mở ra cơ hội mới để thu hút đầu tư nước ngoài với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt và môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn một số hạn chế. Các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ trong khuôn khổ các hiệp định song phương, khu vực và thế giới cũng là những nhân tố tích cực góp phần mở rộng thị trường thu hút đầu tư của Việt Nam. Các cam kết với WTO sẽ mở rộng hơn cánh cửa cho doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế và nhiều vùng địa lý của đất nước. Ví dụ những hạn chế về bán lẻ và phân phối sẽ được nới lỏng, các doanh nghiệp nước ngoài được phép thiết lập các cơ sở riêng bán lẻ và phân phối riêng của mình. Trong viễn thông các nhà đầu tư nước ngoài được phép mua tới 50% giá trị của các hãng cung cấp dịch vụ viễn thông. Một số quy chế khác cũng được nới lỏng, mở rộng cánh cửa cho đầu tư nước ngoài vào những ngành bảo hộ trước đây, từ ngân hàng đến nông nghiệp. Chiến lược phát triển của Nhà nước ta cũng là một lực hút lớn đối với các doanh nghiệp ĐTNN. Chiến lược phát triển nhằm sớm đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp hoá và đi lên cao hơn trên bậc thang giá trị gia tăng trong sản xuất và xuất khẩu đã tạo ra nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao. Năm nay, Intel, nhà sản xuất chip máy tính hàng đầu của Mỹ, đã rót hơn 600 triệu USD để xây dụng một nhà máy bán dẫn tại Việt Nam. Trước đó, hàng loạt các tên tuổi thế giới trong ngành công nghiệp điện tử như Sony, Samsung, Canon đã đặt chân đến Việt Nam. Khi nền kinh tế dẫn dần thay đổi cơ cấu, chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, ĐTNN trong lĩnh vực công nghệ sẽ ngày càng là lực đẩy mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế. Sự cam kết của Chính phủ về một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch với những ưu đãi rõ ràng thể hiện trong các cam kết với WTO là một minh hoạ thuyết phục hơn bất kỳ mọi bằng chứng nào khác về một môi trường kinh doanh ổn định và đầy triển vọng của Việt Nam để tạo một cú hích cho những đại gia có tầm cỡ khác trên thế giới an tâm và quyết đặt chân lên Việt Nam, thay vì các nước khác trong khu vực. Việc quyết tâm gia nhập WTO để tăng cường thu hút ĐTNN vào Việt Nam (cùng với đó là quá trình nâng cấp cơ sở hạ tầng để đón chào làn sóng đầu tư kỳ vọng) tự thân nó lại là một cú hích cho ĐTNN. Phát triển năng lực cung cấp điện lực để đáp ứng nhu cầu đang và sẽ ngày càng tăng qua các công trình thuỷ điện mới (Sơn La) và điện hạt nhân (đang trong quá trình thiết kế và chuẩn bị), cùng với quá trình tư nhân hoá Tổng công ty điện lực Việt Nam trong giai đoạn 2006-2007, bên cạnh các dự án khai thác và lọc dầu sẽ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh béo bở cho các doanh nghiệp nước ngoài trong ngành năng lượng, khi mà cánh cửa dẫn đến những cơ hội này đã được mở rộng cho các nhà đầu tư nước ngoài từ thời điểm Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO. 2/ Những thách thức thu hút đầu tư nước ngoài khi Việt Nam trở thành thành viên WTO 2.1/ Những tồn tại căn bản của hệ thống luật pháp Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, điều đó có nghĩa là Việt Nam phải cam kết thực hiện những tiêu chuẩn quốc tế về sự minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và tính hợp lý. Các luật, quy định và các quyết định của toà án liên quan đến thương mại cần phải được công bố công khai để cho công chúng và thế giới biết trước khi chúng có hiệu lực. Mọi yêu cầu về thông tin, thắc mắc và bình luận đều có thể được giải đáp. Tính đồng bộ có nghĩa là các chính quyền địa phương không được đưa ra những đạo luật riêng không thống nhất với những quy định của WTO, tức là chính quyền địa phương phải tuân thủ các nguyên tắc của WTO. Tính công bằng yêu cầu không chấp nhận bất cứ sự thiên vị nào trong việc thực hiện luật pháp. Để tuân thủ tính đồng bộ và tính công bằng, các đạo luật cũng phải mang tính chất hợp lý, phù hợp. So với những tiêu chuẩn quốc tế đó, thì hệ thống luật pháp của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Mặc dù Việt Nam đã có Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài nhưng chúng ta còn thiếu nhiều luật trong những lĩnh vực thương mại cụ thể. Pháp luật về sở hữu trí tuệ là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện kinh tế thế giới phát triển theo hướng kinh tế tri thức và toàn cầu hóa. Việc thể chế hoá các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về sở hữu trí tuệ; nâng cấp, bổ sung và thống nhất quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật đã có và đang được thực hiện thành một luật chung là công việc hết sức quan trọng. Ngày 29/11/2005, Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006. Việc ban hành Luật này sẽ giải quyết được những đòi hỏi thực tế hiện nay, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng; tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế. Việt Nam cũng đã cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới là tại thời điểm gia nhập tổ chức này, mọi nghĩa vụ về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ quy định trong Hiệp định TRIPS sẽ được Việt Nam thực hiện ngay mà không cần thời gian chuyển tiếp. Đồng thời, theo TRIPS, Việt Nam có nghĩa vụ phải tham gia các điều ước quốc tế quan trọng về sở hữu trí tuệ như Công ước Geneva về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống lại sự sao chép trái phép (1971), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình (1961), Công ước Brussels về phân phối tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hóa (1974) và Công ước UPOV về bảo hộ giống cây trồng mới (văn kiện 1991). Nguyên nhân của tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là do: (i) Các quy phạm pháp luật chưa có hiệu lực cao. Hệ thống các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nước ta nằm rải rác, tản mạn trong rất nhiều văn bản, phần lớn là văn bản dưới luật, hiệu lực thi hành thấp, gây khó khăn, phức tạp cho người vận dụng, gây ấn tượng không ổn định, dễ thay đổi. Một số quy phạm pháp luật còn thiếu cụ thể, chưa thống nhất, đồng bộ, chưa có tính khả thi. (ii) Hoạt động của các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ thiếu thống nhất và hiệu quả. Trong số các cơ quan cùng bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay không có cơ quan nào làm đầu mối phối hợp như ở các lĩnh vực khác. Thông tin giữa các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhiều khi không thông suốt. Thậm chí, không hiếm trường hợp mỗi cơ quan thực thi giữ một quan điểm khác nhau về cùng một vụ việc, dẫn đến kết quả xử lý khác nhau. Bên cạnh đó, các cơ quan bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiện nay có rất ít cán bộ được đào tạo về sở hữu trí tuệ. (iii) Nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ còn rất hạn chế Đối với đa số người dân, sở hữu trí tuệ vẫn là một lĩnh vực mới mẻ, thậm chí hơi “xa xỉ” so với những lo toan cuộc sống hàng ngày. Trong khi đó, thông tin về sở hữu trí tuệ là một khâu còn rất yếu, mạng lưới dịch vụ về sở hữu trí tuệ rất mỏng, không tạo điều kiện để nâng cao nhận thức chung và thúc đẩy các hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Kinh nghiệm của các nước đã trải qua cho thấy nếu tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ lên 10% thì đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng 50% và các công nghệ cao sẽ tăng trưởng 40%. Đó là cơ hội vô cùng to lớn mà các nước đang phát triển phải nắm lấy khi mà quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành điều kiện bắt buộc cho các quốc gia khi hội nhập sân chơi quốc tế. 2.2. Thách thức trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài với các nước khác Tự do hoá trong việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến những khó khăn cho Việt Nam trong quá trình cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước thành viên ASEAN trong thu hút đầu tư nước ngoài. Lý do thứ nhất là vì chế độ thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh nhiều lần theo hướng tự do hoá nhưng vẫn còn nhiều rào cản và so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mức độ tự do hoá của Việt Nam chưa cao. Theo kết quả nghiên cứu về tự do hoá đầu tư của các nước APEC của Chiang Rai (Nhật Bản), Việt Nam có được mức độ các rào cản đối với thu hút đầu tư nướcngòai (FDI) đứng thứ 7 trong tổng số 19 nước được nghiên cứu. Lý do thứ hai là vì ngay cả khi môi trường luật pháp, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước khác thì nhiều yếu tố khác của môi trường đầu tư nước ngòai của Việt Nam như cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp phụ trợ... vẫn còn kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Gia nhập WTO sẽ tạo ra một mặt bằng pháp lý chung trong khu vực để điều chỉnh đầu tư nước ngoài. Việc tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận lợi sẽ khiến cho các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào một nước để chiếm lĩnh thị trường nước này, có thể đầu tư mới hoặc mở rộng cơ sở đầu tư đã có ở một quốc gia khác trong khu vực thuận lợi hơn để xuất khẩu hàng hoá sang nước kia mà vẫn được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Điều này sẽ làm cho luồng vốn đầu tư nước vào khu vực tăng song lại mất tính chất đồng đều giữa các quốc gia khi. Trên thực tế, Việt Nam nằm trong khu vực hầu hết các nước đều cạnh tranh gay gắt để thu hút đầu tư nước ngoài . Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar,....đang nỗ lực cải thiện môi trường FDI. Đặc biệt, do rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á về vai trò tích cực của đầu tư nước ngòai so với đầu tư chứng khoán và vay thương mại, các nước Đông Nam Á, Hàn Quốc, Trung Quốc nhanh chóng điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng ngày càng tự do hơn nhằm tăng sức hấp dẫn đối với dòng vốn này. Trong khi đó, mặc dù năm 2006 thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, mức cao nhất trong 10 năm gần đây, nhưng xét về sức hấp dẫn đối với FDI Việt Nam chỉ đứng thứ tư trong ASEAN và đứng thứ 48 trong số 79 nền kinh tế thế giới. Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài nhưng các lợi thế này lại thuộc cấp thấp (lợi thế tĩnh: tài nguyên tự nhiên không có khả năng tái sinh, tiền lương thấp, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao còn hạn chế). Trong khi đó, nhiều nước đã chú trọng và chuẩn bị cho mình các lợi thế cạnh tranh cấp cao (lợi thế động: vốn lớn, công nghệ hiện đại, người lao động có chuyên môn cao, dịch vụ tốt...). Ngoài các lợi thế trên, môi trường đầu tư ở Việt Nam bị đánh giá là kém sức hấp dẫn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do có nhiều rủi ro, chi phí đầu tư cao, hệ thống tài chính - ngân hàng chưa hoàn thiện, chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, cân đối ngoại tệ còn nhiều vướng mắc, kết cấu hạ tầng chưa phát triển, thủ tục sau giấy phép còn nhiều phiền hà, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã chững lại, lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ, chi phí sản xuất thấp, giá thành sản phẩm hạ đang mất dần, dân số đông nhưng sức mua thấp, quy mô thị trường nhỏ bé, có những ràng buộc về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm, tự cân đối ngoại tệ. Có thể minh chứng cho nhận định trên qua việc so sánh giữa môi trưòng đầu tư của các nước ASEAN và của Việt Nam. Bảng 2.6 cho thấy cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn kém so với các nước ASEAN, đây là một bất lợi thế của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài. BẢNG 2.6: So sánh cơ sở hạ tầng của các nước trong ASEAN Nước Sân bay Cảng biển Giao thông Điện lực Viễn thông Bình quân Singapore 4,9 4,9 4,6 4,4 4,7 4,7 Brunei 3,3 3,0 3,3 3,6 3,5 3,3 Malaysia 3,1 3,1 2,7 2,6 3,2 2,9 Thái Lan 3,1 2,5 1,6 2,7 3,0 2,6 Philippin 2,3 2,4 1,9 2,2 2,7 2,3 Indonesia 3,0 2,4 2,3 2,6 2,7 2,6 Việt Nam 1,9 2,0 1,9 1,9 2,2 2,0 Myanmar 1,6 1,5 1,6 1,4 1,4 1,5 Lào 1,5 1,5 1,7 1,5 1,5 Campuchia 1,6 1,5 1,8 1,4 1,4 1,5 Xếp hạng: Điểm 5 là cao nhất                                                                     Nguồn: năm 2006 * Số liệu trong bảng trên được tính toán trên cơ sở phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư về cơ sở hạ tầng, các điều kiện luật pháp, chính sách với thang điểm từ 1-5.Như vậy, khi thực hiện ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24756.doc
Tài liệu liên quan