Sự nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi dưới ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới trong gia đình

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thúy Vinh SỰ NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH Ở TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC PHÂN CÔNG VAI TRÒ GIỚI TRONG GIA ĐÌNH Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC Mã số : 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ XUÂN HỒNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thúy Vinh SỰ NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH Ở TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI DƯỚI

pdf82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Sự nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi dưới ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới trong gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC PHÂN CÔNG VAI TRÒ GIỚI TRONG GIA ĐÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÍ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2011 MỤC LỤC 5TMỤC LỤC5T ............................................................................................................................ 1 5TLỜI CAM ĐOAN5T ................................................................................................................. 3 5TMỞ ĐẦU5T .............................................................................................................................. 1 5T1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI5T .......................................................................................................................... 1 5T2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU5T ................................................................................................................. 2 5T3.KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU5T.................................................................................. 2 5T4.GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU5T ............................................................................................................. 3 5T . NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU5T................................................................................................................. 3 5T6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU5T ........................................................................................... 3 5T7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU5T ......................................................................................................... 3 5T8.ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI5T ........................................................................................................... 5 5TCHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI5T ................................................................... 6 5T1.1. TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ5T..................................................................... 6 5T1.2. VẤN ĐỀ NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH5T ................................................................................................ 7 5T1.2.1. Khái niệm giới tính và nhận dạng giới tính5T ................................................................................. 7 5T1.2.1.1. Giới và giới tính5T ................................................................................................................. 7 5T1.2.1.2. Nhận dạng giới tính5T ............................................................................................................ 9 5T1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận dạng giới tính5T ......................................................................... 10 5T1.2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố sinh học đến nhận dạng giới tính5T ................................................... 10 5T1.2.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố xã hội và tâm lí đến nhận dạng giới tính5T ........................................ 12 5T1.2.3. Sự phát triển nhận dạng giới tính ở trẻ em5T ................................................................................ 18 5T1.2.3.1. Học thuyết phát triển nhận thức của L. Kohlberg5T .............................................................. 19 5T1.2.3.2. Học thuyết về sơ đồ giới tính5T ........................................................................................... 21 5T1.3. VẤN ĐỀ PHÂN CÔNG VAI TRÒ GIỚI TRONG GIA ĐÌNH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH Ở TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI5T .................................................................. 23 5T1.3.1. Khái niệm vai trò giới và khuôn mẫu về giới5T ............................................................................ 23 5T1.3.1.1.Vai trò giới5T ........................................................................................................................ 23 5T1.3.1.2. Khuôn mẫu về giới5T ........................................................................................................... 25 5T1.3.2. Gia đình và vấn đề phân công vai trò giới trong gia đình5T .......................................................... 26 5T1.3.2.1. Khái niệm gia đình5T ........................................................................................................... 26 5T1.3.2.2. Vấn đề phân công vai trò giới trong gia đình5T..................................................................... 27 5T IỂU KẾT CHƯƠNG 15T ......................................................................................................................... 33 5TCHƯƠNG 2. NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC PHÂN CÔNG VAI TRÒ GIỚI TRONG GIA ĐÌNH ĐẾN NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH Ở TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI5T ................................................................................................................................... 34 5T2.1. Tổ chức nghiên cứu5T ......................................................................................................................... 34 5T2.1.1. Mục đích nghiên cứu5T................................................................................................................ 34 5T2.1.2. Địa bàn và khách thể nghiên cứu5T .............................................................................................. 34 5T2.1.3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu5T ...................................................................................... 34 5T2.1.3.1. Khảo sát sự nhận dạng giới tính của trẻ 5-6 tuổi bằng phương pháp đàm thoại (xem Phụ lục: Khảo sát trẻ - 1).5T ..................................................................................................................... 34 5T2.1.3.2. Khảo sát sự hiểu biết của trẻ 5-6 tuổi về vai trò, chức năng của nam giới và nữ giới trong gia đình bằng phương pháp đàm thoại (5T ......................................................................................... 35 5T2.1.3.3. Khảo sát cha mẹ trẻ về sự phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình bằng phương pháp điều tra (Xem Phụ lục: Khảo sát cha mẹ).5T ................................................................ 36 5T2.1.5. Cách xử lý số liệu5T .................................................................................................................... 36 5T2.2. Kết quả nghiên cứu5T.......................................................................................................................... 36 5T2.2.1. Kết quả khảo sát sự nhận dạng giới tính ở mẫu nghiên cứu5T ...................................................... 36 5T2.2.1.1. Sự xác định giới tính của bản thân5T ................................................................................... 36 5T2.2.1.2. Mức độ hiểu tính ổn định của giới tính5T ............................................................................. 37 5T2.2.1.4. Mức độ hiểu tính bất biến của giới tính5T ............................................................................. 38 5T2.2.1.5.Sự nhận biết những điểm khác biệt giữa con trai/con gái ở mẫu khảo sát5T ........................... 39 5T2.2.2. Kết quả khảo sát sự hiểu biết về vai trò, chức năng của nam giới và nữ giới trong gia đình ở mẫu nghiên cứu5T ......................................................................................................................................... 41 5T2.2.2.1. Khi lần lượt cho trẻ xem 18 tranh vẽ và đặt câu hỏi “Theo cháu, người này đang làm5T ....... 41 5T2.2.2.Kết quả khảo sát việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình và mối tương quan của nó với nhận dạng giới tính ở trẻ 5-6 tuổi5T ...................................................................................... 47 5T IỂU KẾT CHƯƠNG 25T ......................................................................................................................... 56 5TKẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT5T ............................................................................................... 58 5TPHỤ LỤC5T ........................................................................................................................... 64 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong một công trình nào khác. Tác giả Trần Thị Thúy Vinh MỞ ĐẦU 1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Gia đình luôn háo hức muốn biết trẻ sơ sinh là trai hay gái. Tại sao người ta lại quan tâm đến giới tính của trẻ? Câu trả lời là “trai” hoặc “gái” hoàn toàn không chỉ là sự khác biệt sinh học. Cùng với nó, những từ này đi kèm với các vai trò xã hội khác nhau. Ngay từ khi còn rất nhỏ, trẻ đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề giới tính - đó là quá trình nhận thức tự nhiên để tìm hiểu thế giới xung quanh. Vai trò đi kèm với giới tính là một trong những vấn đề đầu tiên mà trẻ khám phá. Trẻ nhanh chóng tìm hiểu hành vi được dành cho đàn ông và phụ nữ trong nền văn hóa của mình. Đồng thời, trẻ bắt đầu đồng nhất mình với một trong hai giới này. Như thế, trẻ có sự nhận dạng trong tư cách là trai hoặc gái. I.X.Kon nhận định: “Giới là phạm trù đầu tiên mà trẻ ý thức về bản thân như một cá thể” [24, tr.1]. Nhận dạng giới tính là một vấn đề không thể bỏ qua trong tâm lí học giới tính và tâm lí học lứa tuổi. Ở trẻ, việc ý thức được mình thuộc về giới nào và cần phải có những phẩm chất nào để thể hiện đặc tính giới (những đặc điểm “nam tính” và “nữ tính”) diễn ra đồng thời với sự xác định ý nghĩa của những phẩm chất này đối với cá nhân và đối với xã hội. Đó chính là quá trình hình thành nhận dạng giới tính. Trong lứa tuổi mẫu giáo, đặc biệt từ 5 tuổi trở đi, quá trình phát triển ý thức và tự ý thức của trẻ diễn ra mạnh mẽ. Việc trẻ ý thức về bản thân như đại diện của một giới là thành tố quan trọng đầu tiên trong quá trình hình thành nhận dạng giới tính. Sự phát triển toàn diện của trẻ như đại diện của giới nam hoặc giới nữ có thể phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ của trẻ với cha mẹ và những người thân trong gia đình. Những người mà trẻ yêu quý và tiếp xúc thường xuyên có ảnh hưởng đặc biệt đối với trẻ. Có thể nói, sự phát triển giới tính và sự phát triển xã hội của trẻ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thành tố thứ hai trong quá trình hình thành nhận dạng giới tính là việc trẻ hiểu và tiếp nhận vai trò giới của bản thân. Vai trò giới được hiểu như một hệ thống những yêu cầu, qui tắc, chuẩn mực, kỳ vọng mà trẻ phải đáp ứng để được công nhận là bé trai (đàn ông) hoặc bé gái (phụ nữ) [24, tr.12]. Những kỳ vọng của cha mẹ về trẻ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhận thức giới tính ở trẻ. Việc cha mẹ đối xử với bé trai như với một cô bé sẽ làm rối loạn tự nhận thức về giới tính của trẻ. Và ngược lại, việc người lớn đối xử với bé trai như với một người đàn ông thực thụ sẽ giúp quá trình nhận dạng giới tính của trẻ sẽ diễn ra thuận lợi hơn. Việc lĩnh hội vai trò giới ở trẻ đòi hỏi phải có những mẫu mực điển hình của giới nam và giới nữ. Sự tri giác đồng thời vai trò của cả người cha lẫn người mẹ trong gia đình giúp trẻ so sánh, nhận thức không chỉ sự khác biệt giữa hai giới, mà cả sự thống nhất của hai giới trong một tổng thể. Như vậy, nguồn gốc cơ bản để trẻ lĩnh hội vai trò giới chính là hình ảnh cuộc sống của người lớn, mà trước hết là gia đình. Môi trường gia đình có ảnh hưởng đặc biệt đến sự phát triển giới tính của trẻ. Vai trò giới của cha mẹ càng được thể hiện rõ bao nhiêu thì sự phát triển vai trò giới ở trẻ càng thuận lợi bấy nhiêu. Sự tri giác không rõ ràng về vai trò giới trong gia đình sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức và hành vi của trẻ. Hiện nay, việc nghiên cứu về tâm lí học giới tính và giáo dục học giới tính ở nước ta đang được quan tâm và phát triển. Đây là vấn đề phức tạp và còn nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm cũng như cách thức giáo dục giới tính cho trẻ. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã thống nhất rằng, nên giáo dục giới tính cho trẻ càng sớm càng tốt. Mỗi lứa tuổi nhất định cần có nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục thích hợp. Tùy theo đặc điểm văn hóa, điều kiện của từng vùng mà việc giáo dục giới tính cho trẻ có thể bắt đầu ở những lứa tuổi khác nhau. Đề tài “Sự nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi dưới ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới trong gia đình” đáp ứng được nhu cầu cấp thiết trong việc nghiên cứu và giáo dục giới tính hiện nay. Để giáo dục giới tính cho trẻ, trước hết phải hiểu được đặc điểm hình thành và phát triển nhận dạng giới tính ở trẻ. Sự tìm hiểu các đặc điểm nhận dạng giới tính trong lứa tuổi mẫu giáo tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận cá thể trong quá trình giáo dục bé trai và bé gái, ngăn ngừa những rối loạn trong quá trình hình thành nhận dạng giới tính ở trẻ, phòng tránh những sai lầm trong công tác giáo dục trẻ. Việc giáo dục giới tính rập khuôn, cứng nhắc theo một khuôn mẫu về giới ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển cái Tôi tự nhiên và khả năng sáng tạo của trẻ. Ngược lại, việc đồng nhất hóa trong giáo dục bé trai và bé gái – không chú ý đến sở thích, định hướng giá trị và nhu cầu của từng giới – ảnh hưởng không chỉ đến sự phát triển nhân cách, trong việc chuẩn bị kiến thức và kĩ năng cho trẻ thực hiện vai trò giới trong gia đình và xã hội nói chung, mà có thể còn dẫn đến thái độ đối kháng hoặc không tôn trọng người khác giới nói riêng. 2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tìm hiểu ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình đến sự hình thành nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. 3.KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1.Khách thể nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) và cha mẹ của trẻ. 3.2.Đối tượng nghiên cứu: Sự nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi qua việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình. 4.GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU 4.1. Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có sự phát triển mạnh mẽ về nhận dạng giới tính. 4.2. Sự phân công vai trò giới trong gia đình trọn vẹn có ảnh hưởng tích cực đến nhận dạng giới tính ở bé trai và bé gái 5-6 tuổi. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5.1. Phân tích các quan điểm về vấn đề nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo và vấn đề phân công vai trò giới trong gia đình. 5.2. Khảo sát thực trạng sự nhận dạng giới tính ở bé trai và bé gái 5-6 tuổi. 5.3. Phân tích sự hiểu biết của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi về vai trò, chức năng của nam giới và nữ giới trong gia đình. 5.4. Khảo sát thực trạng việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình. 5.5. Phân tích ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình đến nhận dạng giới tính ở trẻ 5-6 tuổi. 6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới trong gia đình toàn vẹn (có cả cha và mẹ), không tìm hiểu ảnh hưởng của cơ cấu gia đình (số lượng, thành phần, mối quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ…) đến sự hình thành nhận dạng giới tính ở trẻ. Đề tài chỉ nghiên cứu 60 trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cùng 60 cặp cha mẹ của trẻ trong 4 trường mầm non ở TP.HCM. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Cách tiếp cận 7.1.1. Hướng tiếp cận hệ thống - cấu trúc: Vấn đề nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo được nghiên cứu như một bộ phận trong sự phát triển nhận thức nói riêng và sự phát triển nhân cách nói chung của trẻ. Nhận dạng giới tính luôn được đặt trong mối quan hệ thống nhất với các quá trình nhận thức khác. Ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình đến nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo được xem xét trong mối quan hệ thống nhất với các kênh trung gian của quá trình xã hội hoá vai trò giới ở trẻ như: các thành viên khác trong gia đình, bạn bè, trường mẫu giáo và các phương tiện truyền thông đại chúng. 7.1.2. Hướng tiếp cận lịch sử - logic: Ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới trong gia đình đến nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo được nghiên cứu trong tiến trình phát triển của vấn đề, so sánh trong một chừng mực với những thời điểm khác nhau trong tiến trình phát triển của xã hội (về nghiên cứu lí luận, về sự phát triển lứa tuổi của trẻ em ở các quốc gia khác nhau, về sự phân công vai trò giữa cha và mẹ trong các gia đình khác nhau…). 7.1.3. Hướng tiếp cận lịch sử - văn hóa: Trẻ em học được từ người lớn các khuôn mẫu về giới và vai trò giới. Hiện nay, khuôn mẫu về giới có ít nhiều thay đổi, nó có thể mang tính truyền thống nhưng cũng có thể mang phong cách hiện đại. Các khuôn mẫu về giới trong các gia đình khác nhau hoặc nền văn hóa khác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình nhận thức của trẻ. 7.1.4. Hướng tiếp cận thực tiễn: Việc nghiên cứu đảm bảo thu thập được những cứ liệu thực tiễn và mới để phân tích lí luận đã có; đưa ra những đề xuất thiết thực, phục vụ cho giáo dục mầm non. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận Tập hợp, phân tích các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước để làm rõ các khái niệm, các vấn đề lí luận liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. 7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn • Phương pháp đàm thoại với trẻ Tìm hiểu sự nhận dạng giới tính của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi và sự hiểu biết của trẻ về vai trò, chức năng của đàn ông và phụ nữ trong gia đình. • Phương pháp điều tra Điều tra bằng hệ thống phiếu phỏng vấn đối với cha mẹ trẻ để thu thập thông tin thực trạng cách phân công vai trò giữa cha và mẹ trong gia đình. • Phương pháp thống kê Tập hợp toàn bộ số liệu nghiên cứu và xử lí bằng chương trình SPSS 11.5. Từ đó, rút ra kết luận và đề xuất hướng giải quyết. 8.ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI Xác định ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong gia đình đến sự hình thành nhận dạng giới tính của trẻ em Việt Nam 5-6 tuổi. Kết quả nghiên cứu góp phần giúp giáo viên mầm non và phụ huynh có định hướng giáo dục giới tính cho trẻ và có cách tiếp cận cá thể hiệu quả - tùy thuộc vào giới tính của trẻ - ngay từ lứa tuổi mẫu giáo. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Ngay từ thời Cổ đại, vấn đề giới tính, những khác biệt giới tính gắn liền với vai trò giới đã được quan tâm tìm hiểu và ghi nhận như một hiện tượng tự nhiên, tất yếu. Đàn ông là “phái mạnh”, biểu tượng của quyền lực và sự mạnh mẽ, là trụ cột gia đình, là lực lượng sản xuất chính; phụ nữ là “phái yếu”, hiện thân của đức tính dịu dàng và cần được che chở, là người đảm nhận việc nội trợ và chăm sóc con cái [8,12]. Vào thời kỳ tiền khoa học, giới tính kèm theo vai trò giới được xem xét theo quan điểm của tôn giáo và đạo đức. Người ta chú ý dạy dỗ các em gái theo mô hình giống bà và mẹ, còn các em trai theo mô hình của ông và bố. Ở một số nước phương Đông – trong đó có Việt nam – vốn chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, sự phân biệt giữa đàn ông và phụ nữ lại càng nặng nề. Nguyên tắc tam tòng: “Tại gia tòng phụ. Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử” đã đặt người con gái, người vợ vào vị thế phụ thuộc người đàn ông - người cha, người chồng và con trai [7, 10]. Phải trải qua một chặng đường phát triển lâu dài, đến đầu thế kỷ XX, vấn đề giới tính với tư cách là một khoa học về con người mới được chú ý và đề cao ở nhiều nước phương Tây, đặc biệt là thuyết của S.Freud. Tuy nhiên, vào thời kỳ đầu nó cũng vấp phải không ít sự phản ứng vì bị hạn chế bởi vấn đề tính dục [12, tr.10]. Từ giữa thế kỷ XX trở đi, trong lĩnh vực nghiên cứu sự hình thành và phát triển giới tính của con người đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về lí luận cũng như thực tiễn của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như sinh học, y học, tâm lí học, xã hội học... Trong khoa học tâm lí, vấn đề nhận dạng giới tính và nhận thức về vai trò giới ở trẻ em được nghiên cứu và giải thích rõ ràng trong các công trình của các nhà khoa học phương Tây: Lawrence Kohlberg(1966), Ullian (1974); Martin & Halverson (1981), Martin & Little (1990), Berm (1989... Trong tâm lí học Liên Xô cũ có các đại diện tiêu biểu như D.V.Kolexev (1973), L.L.Kolominxki (1985), I.X.Kon (1981), V.X.Mukhina (1999), Kagan V.E (1981)... Các tác giả đã sử dụng hàng loạt kỹ thuật điều tra bao gồm các câu hỏi đóng – mở, câu lựa chọn, thang tỉ lệ ... để thăm dò ở trẻ em những biểu tượng đặc trưng về đàn ông và phụ nữ cũng như vai trò, chức năng của họ trong gia đình và xã hội. Qua kết quả nghiên cứu, Broverman (1972), Spence, Helmvich & Stapp (1975), Ruble (1983) đã đưa ra mô hình khuôn mẫu giới tính với những đặc điểm đặc trưng cho từng giới. Cho đến nay, khuôn mẫu giới tính này vẫn phổ biến ở nhiều nước. Ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, các nghiên cứu của GS. Trần Trọng Thủy, GS. Đặng Xuân Hoài, PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn và PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh là những bước đi đầu tiên trong việc nghiên cứu tâm lí học giới tính. Các công trình này đã nêu lên nhiều vấn đề đa dạng về giới tính và giáo dục giới tính ở nước ta. Riêng trong lĩnh vực giáo dục mầm non, những nghiên cứu về giới tính của trẻ mẫu giáo chưa nhiều và chưa có hệ thống. Các luận án Thạc sĩ của Thái Lan Chi, 1995; Trần Thị Nga, 1995; Nguyễn Thị Thu Hà, 1997; Nguyễn Thị Bích Liên, 1997 (được thực hiện tại trường Đại học sư phạm I Hà Nội) đã đề cập đến sự nhận dạng và những biểu hiện giới tính ở trẻ mẫu giáo, chủ yếu là trong hoạt động vui chơi. Người nghiên cứu chưa tìm thấy các nghiên cứu về ảnh hưởng của việc phân công vai trò giới trong gia đình đến nhận dạng giới tính của trẻ mẫu giáo. Các nghiên cứu kể trên là những gợi ý cho cô giáo mầm non cần chú ý đến đặc điểm giới tính trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ. Mặc dù số lượng còn khiêm tốn nhưng đây chính là những đề tài khai phá cho việc nghiên cứu giới tính của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo ở Việt Nam và là tài liệu quí giá cho việc nghiên cứu của đề tài này. 1.2. VẤN ĐỀ NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH 1.2.1. Khái niệm giới tính và nhận dạng giới tính 1.2.1.1. Giới và giới tính Giới (Gender) là một khái niệm phức tạp, được nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau. Giới có thể được hiểu theo mặt sinh học, là một tập hợp những đặc điểm sinh lí cơ thể đặc trưng ở con người Những đặc điểm sinh lí cơ thể thường bao gồm những đặc điểm di truyền, những hệ cơ quan sinh lí cơ thể, điển hình và quan trọng nhất là hệ cơ quan sinh dục. Cũng có thể nói một cách khác, những đặc điểm sinh lí cơ thể là căn cứ để xác định giới, là cơ sở hình thành giới [12, tr.23] Loài người được chia làm hai giới cơ bản (hai tập hợp người): giới nam và giới nữ. Giới theo nghĩa này được hiểu là giới sinh học, giới di truyền. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có một số người không thuộc về hai giới trên, người ta gọi là giới thứ ba. Giới này xuất hiện do nguyên nhân chủ yếu là hệ cơ quan sinh dục không được bình thường về cấu tạo hoặc chức năng, dẫn dến việc phát triển tâm lí, sinh lí cơ thể không bình thường [12, tr.24]. Giới còn được hiểu theo góc độ xã hội, là những đặc điểm mà xã hội tạo nên ở người nam và người nữ, là qui định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội [12, tr.23]. Như vậy, giới bao gồm hai thuộc tính - thuộc tính sinh lí cơ thể và thuộc tính xã hội. Giới được hiểu như là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh học cơ bản giống nhau [12, tr.23]. Mỗi một tập hợp người này bị chi phối và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội khác nhau, tạo nên những giá trị khác nhau. Từ đó hình thành những đặc tính riêng của từng giới và dần dần hình thành những đặc điểm xã hội đặc trưng cho mỗi giới (về chức năng, vai trò xã hội, nghĩa vụ, quyền lợi…). Ở Việt Nam, “giới” là một khái niệm mới, nó chỉ được sử dụng từ cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Quan niệm này chưa được nhìn nhận ở tầm chiến lược. Một mặt thì nó khích lệ và đòi hỏi phụ nữ phải học hành như nam giới, có các cơ hội nghề nghiệp như nam giới; mặt khác, nó không đòi hỏi hay khích lệ phụ nữ giảm bớt công việc nhà để đàn ông gánh vác. 1TCó thể nói, quan niệm về giới ở 1TViệt Nam1T chưa hoàn toàn thoát ly ý thức phụ quyền. Giới tính (Sex) – theo Từ điển Tâm lí học (2008) – “là những khác biệt giữa nam và nữ về cả yếu tố sinh học lẫn yếu tố tâm lí”. Từ góc độ sinh học, giới tính là tập hợp những dấu hiệu gen tương phản của những cá thể một loài. Từ góc độ xã hội, giới tính là tổ hợp những đặc điểm cơ thể, di truyền, văn hóa - xã hội, hành vi đảm bảo vị thế cá nhân, xã hội và pháp lí của từng người nam giới và phụ nữ” [1, tr.243]. Trước hết, theo từ ngữ, giới tính có thể được hiểu là những đặc điểm của giới. Những đặc điểm này rất phong phú và đa dạng. Giới tính cũng có thể được hiểu là những đặc điểm tạo nên sự khác biệt giới (cả về mặt sinh học lẫn tâm lí xã hội), giúp chúng ta phân biệt giới này với giới kia. Về mặt sinh học, con người sinh ra đã xác định những đặc điểm khác nhau về giới tính. Sự khác biệt giới về mặt sinh học dễ nhận thấy và quan trọng nhất là cấu tạo và chức năng của hệ cơ quan sinh dục, sau đó là hình thái, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan khác trong cơ thể (bộ xương của phụ nữ nhỏ hơn, xương chân tay ngắn hơn; cơ bắp của nam giới phát triển tốt hơn; lượng mỡ trong cơ thể của phụ nữ nhiều hơn so với nam giới, đặc biệt là ở mông, ngực, bụng ...); hiện tượng dậy thì (bé gái dậy thì sớm hơn bé trai), tuổi thọ (bình quân tuổi thọ của nam giới ngắn hơn nữ giới 6-8 năm)... [12, 20] Về mặt xã hội, sự khác biệt giới tính thể hiện qua hành vi xã hội, nhu cầu, thái độ, hoạt động, tình cảm, ý chí, tính cách, năng lực, xu hướng của nam giới và phụ nữ; vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho từng giới; các mối quan hệ và hoạt động xã hội; tư thế, tác phong, cách ăn mặc, trang điểm; các vấn đề thẩm mỹ giới tính và đạo đức giới tính... Khi sinh ra, con người chưa có trong bản thân mình những đặc tính giới mà họ tiếp thu được từ giáo dục, nề nếp của gia đình, quy ước của xã hội và những giá trị, chuẩn mực của một nền văn hoá [12, 20] . Như vậy, giữa hai giới có nhiều đặc điểm rất khác biệt. Sự khác biệt giới tính này chi phối hành vi, nếp sống của con người. Những đặc điểm giới tính về sinh lí, tâm lí làm cho hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, nếp sống của đàn ông có nhiều đặc điểm khác biệt so với phụ nữ: khác biệt từ dáng điệu, cách đi đứng đến thói quen trong sinh hoạt, “lời ăn tiếng nói”...và thể hiện rất đa dạng, phụ thuộc vào phong tục, tập quán, đạo đức xã hội. Ví dụ, người đàn ông thường cao to, khỏe mạnh, tính tình cứng rắn, mạnh dạn, có ưu thế trong các hoạt động đòi hỏi sức mạnh và kỹ năng vận động thô...; còn người phụ nữ thường nhỏ bé, tính tình hiền dịu, nhẹ nhàng, kín đáo, giàu tình cảm, vị tha, có ưu thế trong các hoạt động đòi hỏi sự khéo léo và kỹ năng vận động tinh.... Thậm chí còn có những đặc điểm chỉ có ở người nam, hoặc ở người nữ (ví dụ, chỉ có phụ nữ mới mang thai...). Do có sự khác biệt đó mà giới nam và giới nữ thường có những vai trò, vị trí khác nhau trong xã hội và trong gia đình [8, 19]. Giới tính ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của con người trong xã hội. Những đặc điểm giới tính quy định hoặc chi phối phạm vi hoạt động, lĩnh vực hoạt động và phần nào chi phối hiệu quả hoạt động của con người. Trong xã hội, có những lĩnh vực hoạt động mà nam giới dễ đạt hiệu quả cao hơn và ngược lại, có những công việc phù hợp với nữ giới hơn. Do sự khác biệt giới tính không mang tính chất loại trừ nhau, đối lập nhau, mà phối hợp bổ sung cho nhau, nên hoạt động của con người sẽ thuận lợi hơn nếu như có mối quan hệ cân bằng, hài hòa với người khác giới. 1.2.1.2. Nhận dạng giới tính Nhận thức của cá nhân về bản thân mình là nam hay nữ ở mặt đặc điểm sinh học và tâm lí được biểu hiện ra ở hành vi của người đó được gọi là nhận dạng giới tính [1, tr.54] Như vậy, nhận dạng giới tính (Gender Identity) dùng để chỉ đặc tính cá nhân, ý thức chủ quan của một người là nam hay nữ – có nghĩa là sự khẳng định bên trong rằng “Tôi là đàn ông” hay “Tôi là phụ nữ”. Nhận dạng về giới bắt nguồn từ đâu? Có phải chúng ta sinh ra đã có? Chúng ta học mới biết? Hay cả hai? 1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận dạng giới tính Trong việc hình thành nhận dạng giới tính có sự tham gia của các yếu tố sinh học, tâm lí và xã hội. Di truyền, các hooc môn trước và sau khi sinh, sự khác biệt trong bộ não và cơ quan sinh sản, những khuôn mẫu giới tính trong xã hội..., tất cả – đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận dạng giới tính ở trẻ em. Thực tế này tạo nên mô hình tâm sinh lí xã hội về giới. Với mục đích phân loại những ảnh hưởng khác nhau đến nhận dạng giới tính, trước hết người nghiên cứu đề cập đến các cơ chế sinh học được cho là đã mang đến nhận dạng về giới ở trẻ em và cả những điều kiện nảy sinh từ sự bất thường trong các cơ chế này. 1.2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố sinh học đến nhận dạng giới tính Nam giới và phụ nữ khác nhau về mặt sinh học từ trước và sau khi sinh ra. Trên thực tế, 6Tsự khác biệt về giới tính6T hay quá trình sinh học khiến cho bào thai trở thành nam giới hoặc nữ giới bắt đầu từ rất sớm trong thời kỳ thai nghén. Sự khác biệt do các quá trình sinh học này tương tác với những ảnh hưởng trong nhận thức xã hội sau khi sinh hình thành nên nhận dạng về giới của một người. Sự khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ về mặt sinh học hay tâm lí được gọi là 6Tnhững khác biệt giới. 6TSự khác biệt về nhiễm sắc thể và tuyến sinh dục.6T Di truyền là yếu tố quyết định giới tính của bào thai và nó xuất hiện khi thụ thai. Trên thực tế, đây là vấn đề liên quan đến 6Tnhiễm sắc thể 6T– các cấu trúc sinh học có chứa các gien, hay “các thiết kế” sinh học. Trứng luôn mang một nhiễm sắc thể X. Tinh trùng hoặc là mang nhiễm sắc thể X, hoặc là mang nhiễm sắc thể Y. Bé trai (XY) là kết quả của sự kết hợp giữa trứng và tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y; còn bé gái (XX) là kết quả của sự kết hợp giữa trứng và tinh trùng mang nhiễm sắc thể X. Đó là giới tính di truyền [2,12,14]. Sự thụ tinh như vậy (X + Y hay X + X) trong những điều kiện thông thường, sẽ làm cho thai nhi có cấu tạo đặc trưng của cơ thể nam hoặc nữ tr._.ong quá trình phát triển của nó. Do cấu tạo khác nhau nên hoạt động sinh lí của mỗi giới có những đặc điểm khác nhau. Các tuyến sinh dục và các hooc môn (nội tiết tố) tiết ra từ các tuyến này sẽ qui định những đặc điểm sinh lí cơ thể riêng biệt và các thành phần tạo nên những nét tính cách đặc trưng cho mỗi giới [12, tr.31]. Các tác giả IU.I.Kusniruk và A.P.Serbakov [12, tr.32] cho rằng, chính các tuyến sinh dục (buồng trứng hoặc tinh hoàn) tạo nên “giới tính đích thực” của con người. Giới tính đích thực là giới tính được xác định do sự hoạt động thực tế của hệ cơ quan sinh dục. Ở những người có hệ cơ quan sinh dục nam nhưng hoạt động của nó không bình thường, chẳng hạn không tiết ra được nội tiết tố nam đủ tỉ lệ cần thiết sẽ không thể trở thành một người nam giới bình thường và họ sẽ không có giới tính bình thường. Một số trường hợp đặc biệt sẽ được người nghiên cứu đề cập dưới đây. 6TSự khác biệt về hooc môn và cấu trúc giới tính.6T Hooc môn có ảnh hưởng trực tiếp và có tác động mạnh đến giới tính là những hooc môn được sản sinh bởi tuyến sinh dục – đặc biệt là hooc môn 2Testrogens2T và 2Tprogesterone2T của buồng trứng và hooc môn 2Ttestosterone2T của tinh hoàn [3, 22]. Mặc dù người ta vẫn nói đến hooc môn giới tính nam hoặc hooc môn giới tính nữ, tuy nhiên, khoa học đã chứng minh, trong cơ thể nam giới và phụ nữ đều có cả 2Testrogens và testosterone, có điều với nồng độ khác nhau. Nam giới có nồng độ testosterone nhiều hơn phụ nữ năm lần, trong khi nồng độ estrogens chỉ bằng một phần mười. Chính vì thế, 2Tquan điểm đàn ông là đàn ông và phụ nữ là phụ nữ có thể cứng nhắc [14, tr.281]. 6TSự khác biệt ở bộ não. 6T Theo các nghiên cứu, sự khác biệt về giới tính trước khi sinh cũng xuất hiện trong bộ não. Điều này thường liên quan đến hai vùng chính: (1) 2Tcác bán cầu não2T (phía bên trái và bên phải của não), và (2) 2Tcấu tạo dưới đồi2T (vùng não điều khiển các phản ứng động cơ và cảm xúc) [3, 22]. Sự khác biệt về giới tồn tại trong các bán cầu não của nam giới và nữ giới. Đàn ông có não bộ trung bình lớn hơn phụ nữ 11% và họ có số lượng thần kinh trên vỏ não nhiều hơn so với phụ nữ. Vùng vỏ não đảm trách ham muốn tình dục ở đàn ông lớn hơn ở phụ nữ. Và mặc dù những khác biệt này là khá nhỏ, nhưng theo nhiều nghiên cứu, ở đàn ông các vùng vỏ não liên quan đến tính hiếu chiến, hưng phấn … đặc biệt phát triển và họ thường thể hiện khả năng nhận biết không gian tốt hơn. Ở phụ nữ, vùng hải mã đảm trách ghi nhớ đặc biệt phát triển, họ thường thể hiện khả năng ngôn ngữ tốt hơn (Jill Godstein). Với những trải nghiệm cảm xúc, bán cầu não trái của phụ nữ phản ứng mạnh hơn và sau đó thường chỉ nhớ chi tiết, trong khi đó bán cầu não phải của đàn ông hoạt động tích cực hơn và vì thế đàn ông nhớ chính xác hơn nội dung cơ bản của sự kiện (Lary Cahill…)[6, 22]. Vùng dưới đồi – trong nhiều chức năng quan trọng của mình – đóng vai trò kiểm soát sự sinh sản và tiết ra hooc môn sinh dục bằng cách điều hòa tuyến yến, tuyến yên kích thích các tuyến nội tiết khác sản sinh ra các hooc môn tương ứng. Đến tuổi dậy thì vùng dưới đồi phân biệt nam giới chỉ đạo tuyến yên thúc đẩy việc sản sinh0T 0T2liên tục0T2 0Tcác nội tiết tố sinh dục nam. Vùng dưới đồi phân biệt nữ giới chỉ huy tuyến yên thúc đẩy việc sản xuất0T 0T2định0T2 0T2kỳ0T2 0Tcác nội tiết tố sinh dục nữ. Hầu hết các khác biệt giới tính hoạt động theo như sắp xếp. Tuy nhiên, đôi khi, một trong những cơ chế đó lại làm việc sai chức năng. Nếu các cơ quan sinh dục không tạo ra được sự khu biệt, đứa trẻ có thể được sinh ra với sự kết hợp của các cơ quan sinh dục của cả hai giới, đây được xem là 0T 0T2lưỡng tính 2T [3, tr.36]. Theo các dẫn chứng của George D. Zgourides và Christie S. Zgourides (2007), ba hội chứng mắc phải do những vấn đề liên quan đến sự khu biệt giới tính ở cấp độ nhiễm sắc thể là0T 0T2Hội chứng Turner, Hội chứng Klinefelter, và Hội chứng XYY. 2THội chứng0T2 0T2 urner0T2 0Tđược dùng để chỉ tình trạng bào thai chỉ có một nhiễm sắc thể - OX. Trẻ em bị mắc hội chứng Turner sẽ phát triển vùng sinh dục bên ngoài của nữ giới, và thường cho mình là phụ nữ. Tuy nhiên, các cơ cấu sinh dục bên trong của chúng lại không bao giờ phát triển. Những phụ nữ trưởng thành mắc hội chứng này không có khả năng sinh đẻ. Có khoảng 1 trong 2.500 trẻ sơ sinh nữ sinh ra có nhiễm sắc thể OX. Trẻ em sinh ra mắc0T 0T2Hội chứng0T2 0T2Klinefelter0T2 0Tlà do có cấu trúc nhiễm sắc thể XXY, và do đó về giải phẫu sinh lý đứa trẻ là con trai do có sự xuất hiện của nhiễm sắc thể Y. Mặc dù, những đứa trẻ này bề ngoài trông bình thường giống như những đứa trẻ khác, nhưng họ cũng không có khả năng sinh sản, đôi khi trí tuệ chậm phát triển. Có khoảng 1 trong 400 trẻ sơ sinh nam có nhiễm sắc thể XXY này. 0T 0T2Hội chứng0T2 0T2XYY0T2 0Tdùng để chỉ tình trạng bào thai có cấu trúc nhiễm sắc thể XYY. Nam giới có thêm một nhiễm sắc thể Y thường có trí thông minh thấp hơn mức bình thường và có chiều cao cao hơn bình thường. Có khoảng 1 trong 1000 trẻ sơ sinh nam có nhiễm sắc thể XYY. Như vậy, hầu hết nhận dạng về giới của các cá nhân thường được đưa ra dựa trên cấu tạo sinh lí và ngoại hình, nhưng điều này không có nghĩa là các quá trình tâm lí và xã hội không có ảnh hưởng đến nhận dạng giới tính. Có hàng loạt các yếu tố xã hội và tâm lí liên hệ mật thiết với quá trình này. 1.2.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố xã hội và tâm lí đến nhận dạng giới tính Trong vô vàn các tác động của xã hội đối với sự phát triển của con người – trước hết là sự phát triển giới tính – phải kể đến tác động của cha mẹ, anh chị em trong gia đình, thầy cô giáo, bạn bè. Trong đó, môi trường gia đình có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự nhận dạng và phát triển giới tính của trẻ. Và đặc biệt quan trọng khi trẻ còn thơ ấu, vào lúc cha mẹ thậm chí còn chưa ý thức được là mình đang dạy con. Từ những phản ứng chủ quan khi biết được giới tính của đứa con sắp hạ sinh cho đến những thái độ và chọn lựa như đặt tên cho con, chọn đồ chơi, quần áo và đồ đạc, cách biểu lộ tình cảm đối với con trẻ…, cha mẹ có ảnh hưởng sâu đậm đến quá trình hình thành nhận dạng giới tính của con cái mình hơn bất cứ một tương quan xã hội nào khác. Theo Rubin, Prorenzano và Luria (1974), Stern và Karraker (1989), các bậc cha mẹ thường dùng những từ: nhỏ bé, thanh tú, mảnh mai, xinh xắn, dịu dàng… cho bé gái; và các từ: khỏe mạnh, lanh lợi… cho bé trai. Các bậc cha mẹ cũng xử sự với con cái theo quan điểm của mình về giới tính của trẻ là gái hay trai. Cha mẹ đối xử với các cậu bé một cách mạnh mẽ hơn so với các cô bé. Khi lựa chọn đồ chơi cho con, cha mẹ cũng quan tâm đến những đồ chơi phù hợp với giới tính của trẻ (Caldera, 1989 ; Maccoby, Jacklin, Lytton & Romney). Cha mẹ thường bày tỏ thái độ rõ ràng trước những hành vi và các hoạt động trong trò chơi của trẻ sao cho chúng đi vào đúng quĩ đạo, khuôn mẫu giới tính của trẻ. Ví dụ, bé gái thường được hướng vào những trò chơi với búp bê, trò chơi gia đình; bị ngăn cản trong việc leo trèo, chạy nhảy; còn bé trai được khuyến khích chơi với ô tô hoặc các trò chơi vận động và bị ngăn cản khi chơi với búp bê, nấu ăn... Các nghiên cứu cũng cho thấy, cha mẹ thường củng cố những hành vi trò chơi đóng vai (role playing) phù hợp với giới tính và không khuyến khích những hành vi không phù hợp với giới tính của trẻ [6,10]. Khi chơi với con trai, các ông bố thường không ngại các trò chơi đuổi bắt, những động tác nhanh và mạnh ; trong khi đó, họ ít có những cử chỉ mạnh mẽ đối với con gái, thường họ âu yếm bé gái một cách nhẹ nhàng và dường như dịu dàng hơn (Carsin, Burks và Parke, Siegal). Ngược lại, các bà mẹ ít tỏ ra thái quá trong việc phân biệt giữa bé trai và bé gái. Tuy nhiên, mẹ cũng hay chuyện trò với con gái hơn, dùng ngôn ngữ nhiều hơn trong giao tiếp với bé gái, hay bắt chước cách phát âm của bé gái hơn là đối với bé trai (Silgel, 1987) [8, tr.26] . Theo nghiên cứu của Turner và cộng sự (1993), kiểu đối xử khác biệt này giữa các ông bố và bà mẹ ảnh hưởng đến nhận dạng giới tính của trẻ rất sớm. Hơn nữa, các ông bố – qua cách xử sự khác nhau đối với con trai và con gái – đóng vai trò quan trọng hơn các bà mẹ trong việc hình thành nhận dạng giới tính cho con trẻ. Qua quan sát, người ta thấy các ông bố thường yêu cầu gắt gao đối với các kiểu thể hiện giới tính của con hơn các bà mẹ. Ví dụ, người bố có xu hướng không khuyến khích con trai chơi các trò chơi “của con gái”... [8, 10]. Trong gia đình, tính cách của cha mẹ có ảnh hưởng đến việc nhận dạng và học tập vai trò giới ở trẻ có cùng giới tính với cha hoặc mẹ. Uy quyền của cha mẹ cũng có tác động tương đương đối với giới tính của con cái, đặc biệt là con trai. Trong gia đình mà người mẹ có uy quyền hơn (và người cha thụ động) thì khả năng nhận dạng giới tính của bé trai sẽ bị giảm sút nhiều. Tuy vậy, nữ tính ở bé gái không bị ảnh hưởng gì. Và không cần phải mất nhiều thời gian, những điều liên quan đến cách cư xử thiên kiến về giới của cha mẹ bắt đầu ảnh hưởng đến nhận dạng giới tính ở chính đứa trẻ. Hơn nữa, đứa trẻ cũng không phải là một chủ thể thụ động trong quá trình xã hội hóa giới tính của mình. Trong một thời gian rất ngắn – theo các chuyên gia là khoảng hai năm – trẻ em bắt đầu xây dựng cho mình những hiểu biết về việc chúng là con trai hay con gái, và thường tiếp sau đó là mong muốn thể hiện hành vi phù hợp với giới của mình. Ngoài cha mẹ, trong gia đình nếu trẻ có anh chị em cùng giới hoặc khác giới thì trẻ cũng chịu ảnh hưởng bởi giới tính của anh chị em mình. Về vấn đề này, các nghiên cứu đưa ra các ý kiến trái ngược nhau. Brim, Stoneman, Brody, Mackina kết luận, trẻ có anh chị em cùng giới sẽ có điều kiện thể hiện hành vi và kiểu giới tính thuận lợi hơn so với những trẻ có anh chị em khác giới [4, tr.30]. Trong điều kiện nghiên cứu tự nhiên về hoạt động vui chơi của trẻ từ 4-9 tuổi ở gia đình cho thấy, việc lựa chọn trò chơi thường do người anh hoặc chị của trẻ quyết định, vì vậy, các trò chơi này thường mang những đặc điểm giới tính của anh hoặc chị. Ví dụ, nếu em gái mà có anh trai thì bao giờ cũng chơi những trò có tính chất nam tính nhiều hơn; nếu em trai có chị gái sẽ chơi trò chơi búp bê, bán hàng, nấu ăn ngang với mức của hai chị em gái. Trái lại, Tauber, Grotevant, Levethan lại cho rằng, trẻ trong gia đình có anh chị em cùng giới (con một bề) hay chọn những đồ chơi, trò chơi khác giới hơn là cùng giới với trẻ để chơi; những trẻ có anh chị em cùng giới thường có những đặc điểm tính cách giới tính kém hơn so với những trẻ có cả anh lẫn chị. Để giải thích mâu thuẫn này, các tác giả cho rằng, mỗi anh chị em trong gia đình đều cố tỏ ra khác với anh chị em mình, để mình sẽ là người duy nhất được cha mẹ chú ý đến, mình là nhân vật trung tâm trong gia đình. Vì vậy, trẻ thường cố tình xử sự khác đi. Biểu hiện này đặc biệt phổ biến ở những gia đình có anh chị em cùng giới và những gia đình đông con. Hơn nữa, trong các gia đình có con một bề này dường như cha mẹ thả lỏng việc ép buộc con cái vào khuôn mẫu giới tính phù hợp; các bà mẹ thường chọn đồ chơi khác giới cho con mình hơn; hoặc trẻ thường phải làm các công việc khác giới hơn, như con trai nấu cơm, rửa bát, con gái sửa chữa đồ dùng…(Stoneman, Brody, Kackinon). Như vậy, chính các gia đình có con một bề có thể sẽ tạo cơ hội đặc biệt để trẻ mở rộng lĩnh vực hoạt động sang phạm vi của giới khác [4, 8]. Nhìn chung, ảnh hưởng của anh chị em trong gia đình đối với kiểu giới tính của trẻ ít trực tiếp hơn so với các yếu tố khác như cha mẹ và bạn bè. Ảnh hưởng này đến trẻ rất đa dạng và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô gia đình, khoảng cách lần sinh, thứ tự sinh, quan điểm giáo dục con cái… Khi trẻ rời gia đình đến trường học, bé trai và bé gái tiếp tục được đối xử khác nhau. Nhiều nghiên cứu cho thấy, trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ, giáo viên mầm non và tiểu học thiên về giáo dục nữ tính hơn là nam tính khi đề cao sự vâng lời, phụ thuộc – những phẩm chất mà xem ra chỉ phù hợp với vai trò giới của con gái. Còn những phẩm chất khác như hăng hái, quyết đoán, cạnh tranh, độc lập hầu như ít được tán thành ở trường học. Giáo viên có xu hướng rèn dũa khuôn mẫu giới tính ở bé trai khắt khe hơn so với bé gái. Ở trường mẫu giáo, các bé trai và bé gái đều được khích lệ, tạo điều kiện tham gia vào những hoạt động nhẹ nhàng, yên tĩnh thay vì chạy nhảy, nô đùa, đuổi bắt…Tuy vậy, bé trai vẫn bị cô giáo, bạn bè để ý, phê phán khi có những hành vi của giới khác như khi chơi các trò chơi được cho là “của con gái” hoặc khi quá chăm chút cho diện mạo của mình. Còn các bé gái thì dường như ít bị cô và các bạn chỉ trích khi chơi trò chơi của con trai (Fagot, 1985). Trong lớp học, cô giáo thường chấp nhận sự nhõng nhẽo, giao tiếp bằng cử chỉ điệu bộ của con gái nhiều hơn con trai. Đó là một sức mạnh ngẫu nhiên khiến bé trai có được hành vi giới tính phù hợp hơn bé gái, còn bé gái có cơ hội để “lấn sâu” vào các hành vi giới tính của con trai, vì thế hành vi xử sự của bé gái cũng phong phú hơn bé trai [4,8]. Khi nghiên cứu những phương tiện, thiết bị được sử dụng ở các lớp học của 42 trường mẫu giáo tại 2TNew Zealand, Meade (1985) thấy rằng, số thiết bị dành cho bé trai nhiều gấp hai lần số dành cho bé gái; các đồ chơi mang tính chất “nam tính” rất đa dạng, cho phép các bé trai có những cơ hội khám phá, thí nghiệm, tìm hiểu thế giới khoa học kĩ thuật, phát triển các kĩ năng cơ bắp, kĩ năng toán học, kĩ năng tổ chức, tạo cơ sở để hình thành vai trò thủ lĩnh... Còn đồ chơi mang tính chất “nữ tính” dành cho các bé gái chủ yếu là để thực hiện vai trò giới trong gia đình như chăm sóc, nội trợ... giúp bé gái phát triển những cơ nhỏ, phối hợp tay mắt, sự tập trung chú ý... Điều này có thể nhìn nhận như một sự chuẩn bị cho các hành vi sau này của trẻ [8, tr.36]. 2TChính vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi các bé gái thường học tốt hơn bé trai ở những năm đầu phổ thông, nhất là về các kĩ năng đọc, viết (Lummin & Stevensai, 1990) và thực hiện các qui tắc, nội qui của trường học trong khi bé trai thể hiện sự thiếu hụt trong những mặt này. Trong suốt giai đoạn mẫu giáo và tiểu học, giáo viên luôn phải khống chế các hành vi gây gổ hoặc không phù hợp của cả trẻ gái lẫn trẻ trai, song họ phải bận tâm đến con trai nhiều hơn. Kết quả là, trẻ gái có xu hướng thích gần gũi và nói chuyện với cô giáo nhiều hơn, còn trẻ trai thể hiện tính dứt khoát ở mức độ cao hơn. Chính vì vậy mà giáo viên thường nhận xét “con gái ngoan hơn con trai ”. Kiểu hành vi thụ động và phụ thuộc được giáo viên chấp nhận, khuyến khích ở trẻ gái khi học mẫu giáo và tiểu học về lâu dài trở thành những bất lợi, cản trở sự thành đạt của trẻ trong các lĩnh vực khoa học sau này. Dweck & Leggentt (1988) cho rằng, sự thành đạt về trí tuệ liên quan tỉ lệ nghịch với tính phụ thuộc vì tính độc lập, quyết đoán và không tuân thủ một cách máy móc thường dẫn đến khả năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo và mức độ thành đạt cao hơn ở cả bé gái và bé trai. Thêm vào đó, các nghiên cứu của Dweck Gietz & Strauss (1980); Dweck & Elliott (1983) cho thấy, phản ứng mang tính phân biệt giới tính với kết quả học tập của học sinh từ phía giáo viên cũng có thể góp phần tạo nên sự khác biệt giới tính ở trẻ. Học sinh nữ gặp khó khăn khi giải quyết bài tập thì thường bị xem là thiếu năng lực, còn học sinh nam thì bị cho rằng thiếu động cơ học tập hoặc do các tác động bên ngoài. Sự quy kết này làm các em gái ngày càng giảm đi tính kiên trì, việc thực hiện nhiệm vụ ngày càng kém đi, đôi khi dẫn đến sự thất bại dưới cả mức giới hạn [4,8]. Nhìn chung, những hành vi giới tính một khi đã hình thành sẽ khó sửa. Chính vì vậy, trên nhiều phương diện, trường học với những điều kiện học tập, phương pháp giáo dục, thái độ, cách ứng xử của giáo viên… có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển nhận dạng giới tính và đến sự hình thành khuôn mẫu giới tính ở trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Theo các quan sát, kiểu hành vi giới tính ở trẻ được thể hiện rất sớm (đặc biệt là trong nhóm) và bạn bè là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc duy trì kiểu giới tính này. Trong mối quan hệ bạn bè, trẻ vừa là sản phẩm vừa là người tạo ra những mối quan hệ đó. Cũng chỉ trong xã hội trẻ em thì trẻ mới thực sự sống hết mình, cởi mở, bộc lộ một cách chân thành nhất con người của mình, đồng thời tự khẳng định bản thân, khẳng định vị trí, vai trò giới của mình [8, tr.39]. Quan sát hoạt động của trẻ mẫu giáo trong điều kiện tự nhiên cũng như qua nghiên cứu cho thấy, trẻ chủ động điều chỉnh kiểu hành vi giới tính cho nhau thông qua các kiểu tán thành, ủng hộ nhau… thể hiện ở cách bắt chước nhau hoặc gia nhập nhóm chơi. Nghiên cứu của Fagot (1977) trên 200 trẻ mẫu giáo trong khi chơi đã cho thấy rằng, trẻ có những phản ứng đặc biệt đối với những bạn không thực hiện đúng mẫu hành vi giới tính. Ví dụ, bé trai thích chơi với búp bê sẽ bị bạn chỉ trích nhiều hơn 5-6 lần so với số trẻ tuân thủ vai trò giới. Mặt khác, những trẻ gái thích chơi làm lính cứu hỏa hơn là làm y tá thì lại không bị chỉ trích gì [4,8]. Sự bắt buộc, động viên trong nhóm trẻ cũng tạo ra những hiệu quả khác nhau. Ví dụ, Fagot (1985) trong một nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng, trẻ hay đáp lại thông tin phản hồi của bạn cùng giới hơn là bạn khác giới. Kiểu phản hồi này tạo ra sự thể hiện khác nhau trong hành vi của trẻ. Theo các nghiên cứu của Lamb (1979) và Holden (1980), sự chỉ trích của bạn bè chính là một biện pháp hữu hiệu để chấm dứt những hoạt động không phù hợp với giới tính của trẻ. Đồng thời, những trẻ có hành vi vai trò giới phù hợp, được bạn bè khen ngợi sẽ duy trì hoạt động đó lâu hơn. Cũng chính vì thế mà con gái có xu hướng tìm đến con gái, con trai tìm đến con trai để chơi nhiều hơn là tìm đến bạn khác giới. Các nghiên cứu của Maccoby, Powlishta, Jacklin cho biết, trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi sử dụng thời gian lớn hơn gấp 3 lần để chơi với bạn cùng giới; đến 5-6 tuổi, con số này là 11 lần [4, 8, 22]. Kết quả là hiện tượng tách nhóm giới tính xảy ra ở trẻ em, đồng thời đây cũng là đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong liên kết bạn bè của trẻ. Sự chia tách giới tính này, đến lượt nó, lại tạo điều kiện để trẻ học được những vai trò giới phù hợp với trẻ tốt hơn. Rõ ràng, sự chia tách giới tính hoàn toàn không phải do sức ép từ phía cha mẹ hoặc thầy cô, mà là trẻ tự chọn bạn cùng giới để chơi cho dù người lớn không hướng dẫn, khuyến khích hoặc cấm đoán. Tại sao lại như vậy? Maccoby (1990) đưa ra một số nguyên do để lý giải như sau: trước hết là do kiểu chơi mạnh bạo, có tính cạnh tranh, trấn áp của trẻ trai hoặc các trò chơi mang tính kỹ thuật được xem là không hợp với con gái nên trẻ gái tránh không chơi với trẻ trai. Mặt khác, trẻ gái biết rằng chúng khó mà thuyết phục hoặc gây ảnh hưởng đến các bạn trai với cách xử sự thiên về cảm xúc hoặc điệu bộ nhõng nhẽo…trong khi con trai vốn ưa thái độ rõ ràng, dứt khoát [4,8]. Chính vì thế mà cả trẻ gái và trẻ trai đều chọn bạn cùng giới để chơi với mục đích các ảnh hưởng của mình có hiệu quả với bạn hơn. Như vậy, rõ ràng quan hệ bạn bè đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành nhận dạng vai trò giới của trẻ. Có thể nói, sinh vật học tạo nền tảng, nhưng cuối cùng chính những tương tác của trẻ với môi trường xã hội xây dựng nên nhận dạng về giới tính. Sự hình thành nhận dạng giới tính, cũng như bất kỳ điều gì khác, không phải lúc nào cũng đơn giản một cách hoàn hảo và không có lỗi gì. Một số cá nhân trải nghiệm khó khăn lớn trong việc điều hòa và kết hợp các yếu tố sinh lí, tâm lí và xã hội với giới của mình. Họ trải nghiệm những rối loạn trong tình cảm liên quan đến nhận dạng giới tính. Chẳng hạn như một số cá nhân tin rằng họ bị sinh nhầm giới; giới tính "thật" của họ mâu thuẫn với diện mạo về giới bên ngoài của họ… Hiện tượng 2Trối loạn nhận dạng giới2T tính (chuyển giới tính) – quan niệm chủ quan rằng một cá nhân sở hữu nhầm cơ thể của giới khác – là dạng thức cực đoan nhất của nhận dạng nhầm về giới. Hiện tượng này khác với đồng tính luyến ái, ái nam ái nữ hay luyến ái giả trang. Người đồng tính luyến ái là người bị thu hút, hấp dẫn bởi những người cùng giới với mình; trong khi đó người ái nam ái nữ bị hấp dẫn bởi cả hai giới; người luyến ái giả trang cảm nhận sự hài lòng về tình dục từ việc mặc quần áo của giới tính khác [3, tr.36]. Một người 2Trối loạn nhận dạng giới2T tính thường đặc biệt ghét các cơ quan sinh dục của mình, thường muốn giải thoát bản thân khỏi các đặc điểm giới tính về mặt sinh lí của mình và có được giới tính khác bằng phương pháp0T 0T2phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Các nhà khoa học đến nay chưa khám phá ra nguyên nhân rõ ràng của hiện tượng rối loạn nhận dạng giới tính. Một số học thuyết cho rằng, đó là do sự mất cân bằng hooc môn sau khi sinh, sớm nhận dạng với cha mẹ thuộc giới khác, và những trải nghiệm kiến thức hỗn hợp từ sớm. Do không có những bằng chứng trực tiếp chứng minh cho bất kỳ sự lý giải nào, nên hiện tượng chuyển đổi giới tính rất có thể do nhiều nguyên nhân. 1.2.3. Sự phát triển nhận dạng giới tính ở trẻ em Các ảnh hưởng sinh học, tâm lí và xã hội không phải là những yếu tố duy nhất quyết định nhận dạng giới tính ở trẻ. Sự hiểu biết của chính trẻ về giới và vai trò giới cũng góp phần vào quá trình phát triển nhận dạng giới tính này. Trong đề tài này, người nghiên cứu tập trung phân tích hai cách tiếp cận khác nhau trong việc xem xét, đánh giá sự phát triển nhận thức về giới tính và vai trò giới ở trẻ em là: Thuyết phát triển nhận thức của L. Kohlberg và Thuyết về sơ đồ giới tính của Martin và Halverson. Cả hai thuyết nêu trên đều giả thiết rằng, các cá thể có vai trò tích cực trong việc lĩnh hội và giải thích thông tin từ môi trường bên ngoài. Thay vì cho rằng, con người chịu ảnh hưởng của môi trường một cách thụ động, các nhà khoa học có định hướng nhận thức về việc mỗi cá thể sử dụng “những lí luận” bên trong (ẩn) để giải thích các thông tin của môi trường và khi làm như vậy, họ đã tạo ra môi trường để củng cố những lí luận của họ (Martin, 1992) [8, tr.34]. 1.2.3.1. Học thuyết phát triển nhận thức của L. Kohlberg Công trình của L. Kohlberg là nghiên cứu đầu tiên ứng dụng lối tiếp cận nhận thức nhằm tìm hiểu sự phát triển nhận dạng giới và vai trò giới ở trẻ em. Theo L. Kohlberg, thái độ và niềm tin về vai trò giới ở chính đứa trẻ giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong việc hướng dẫn hành vi tương tác của trẻ với môi trường xung quanh. Thuyết này cho rằng, khả năng phân biệt vai trò giới và tự nhận thức về bản thân của trẻ trước hết là dựa vào các khuôn mẫu cùng giới chứ không phải dựa vào khả năng tự nhận dạng về mình. Khi đứa trẻ – trên cơ sở những khác biệt về thể chất và vai trò giới như quần áo, kiểu tóc hoặc công việc – tự phân loại được mình là con trai hay con gái, luôn mong muốn có những cư xử phù hợp với giới tính và bắt chước các khuôn mẫu cùng giới với nó. Quá trình này được gọi là “tự xã hội hóa” (self-socialization). Bé gái thường nói: “Mình là con gái vì mình giống mẹ và các bạn gái hơn là giống bọn con trai, cho nên mình mặc quần áo con gái, chơi trò chơi con gái...”. Ở đây, tính chất nhất quán giữa giới tính của trẻ, sự tự phân loại bản thân, các tiêu chuẩn ứng xử đạo đức và các hành vi thích hợp là điều cốt lõi để duy trì lòng tự trọng ở trẻ [4, 6, 8]. L. Kohlberg xem xét sự phát triển của ý thức giới tính như là quá trình hình thành khả năng nhận thức tính bất biến của giới tính (Gender constansy). Theo ông, quá trình này trải qua ba giai đoạn: a) Giai đoạn gọi tên giới tính (2 – 3,5 tuổi) Độ tuổi này, trẻ bắt đầu hiểu được các từ: con trai, con gái, đàn ông, phụ nữ ... và sử dụng các từ này khi nói về người này hoặc người khác. Dưới 3,5 tuổi, trẻ mới chỉ nhận biết được mình là trai hay gái nhờ những đặc điểm bên ngoài như trang phục, đầu tóc... song khả năng nhận diện này mang tính tình huống rõ nét, trẻ chưa hiểu được tính ổn định của nó. Khi hỏi: “Khi lớn lên, cháu có trở thành đàn ông/phụ nữ được không?”, trẻ có thể trả lời rất thoải mái là: “Có”. Và cũng không ít trường hợp trẻ hỏi: “Mẹ ơi, khi mẹ còn là em bé thì mẹ là con trai hay con gái?”...Trẻ chưa ý thức được rằng, giới tính là không thay đổi và do vậy, những ước mơ khi nào lớn sẽ trở thành một nhân vật nổi danh khác giới là hiện tượng dễ bắt gặp ở trẻ [4, 6, 8]. Như vậy, đến 3,5 tuổi, trẻ nhận thức về giới hoàn toàn căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài, còn sự khác nhau của bộ phận sinh dục lại chưa có ý nghĩa gì đối với trẻ trong việc phân biệt giới tính. b) Giai đoạn hiểu sự ổn định của giới tính ( 3,5 – 4,5 tuổi) Đây là giai đoạn đầu của việc nhận thức về tính bất biến của giới tính. Trẻ bắt đầu quen dần với suy nghĩ: con trai lớn lên sẽ trở thành đàn ông (chồng/ cha/ chú), còn con gái sẽ trở thành phụ nữ (vợ/ mẹ/ cô). Tuy nhiên, sự hiểu biết về tính bất biến của giới ở trẻ còn mang tính thiếu bền vững, cục bộ, chưa đầy đủ và còn mâu thuẫn với nhau. Đôi khi trẻ vẫn cho rằng, sự thay đổi trang phục, kiểu đầu tóc, quần áo hay công việc có thể làm thay đổi giới tính của người này hay người khác. Chẳng hạn, con gái để tóc giống con trai sẽ trở thành con trai và con trai chơi búp bê sẽ trở thành con gái (Fagot, 1985) [6, tr.229] c) Giai đoạn hiểu tính bất biến của giới tính ( 4,5 – 7 tuổi) Đây là giai đoạn củng cố nhận thức về tính bất biến của giới tính. Tuy còn mang tính tình huống, song vào tuổi này trẻ đã ý thức được giới tính của mình là không thay đổi trong các tình huống và do ý muốn cá nhân. Nhìn chung, trẻ biết được rằng hình thức bề ngoài không làm thay đổi giới tính của mọi người, thậm chí ngay cả trong trường hợp mặc quần áo hoặc làm công việc của giới đối lập. Trẻ 6-7 tuổi thường giải thích tính bất biến của giới bằng nhiều cách. Ví dụ, việc mặc váy không làm đàn ông trở thành phụ nữ, hoặc nếu mẹ đẻ em gái thì lớn lên bé vẫn là con gái.... Còn trẻ 4 tuổi cũng có thể trả lời đúng câu hỏi về tính bất biến giới tính, nhưng hiếm khi trẻ giải thích được lí do tại sao, bởi trẻ vẫn bị ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến bản chất vấn đề như quần áo, kiểu đầu tóc, công việc... Theo L. Kohlberg, phải cho tới sau 7 tuổi trẻ mới hoàn toàn hiểu được rằng, giới tính của chúng được quyết định bởi bộ phận sinh dục (Mc. Conaghy, Thompson, Bentler). Từ vô số các đặc điểm của giới tính, trẻ biết tách riêng những đặc điểm ổn định, bản chất để xác định giới, nhờ đó nhận thức về giới của trẻ được hoàn chỉnh [4, 8]. Nhận dạng giới tính chỉ là bước đầu tiên trong sự lĩnh hội kiến thức về vai trò giới. Trong những kiểm nghiệm trực tiếp thuyết của L. Kohlberg, các nhà nghiên cứu cũng đồng ý rằng, ở trẻ, việc nhận dạng giới tính xuất hiện trước tiên, sau đó đến sự hiểu biết về tính ổn định giới và cuối cùng là sự đánh giá về tính bất biến giới tính. Trình tự xuất hiện những hiểu biết về vai trò giới này phù hợp với dự báo của L. Kohlberg cho cả trẻ trai và trẻ gái (Martin & Little, 1990). Hơn nữa, trẻ em ở những nền văn hóa khác nhau (Kenia, Nepal & American Samia) cũng có các giai đoạn hiểu biết về giới tính tương tự như vậy (Munroe & Shimmin, 1984) [4, 8]. Nghiên cứu của Berm (1989) đã chỉ ra rằng, việc hiểu biết về bộ phận sinh dục là một yếu tố quyết định quan trọng về tính bất biến của giới tính. Như vậy, theo thuyết của L. Kohlberg, khả năng nhận thức về tính bất biến của giới tính là yếu tố cơ bản nhất quyết định hành vi giới tính của trẻ mẫu giáo. Tuy nhiên, cũng chính thực tế cho thấy, từ 3- 4 tuổi trẻ đã có khả năng lựa chọn kiểu hành vi giới tính phù hợp. Nhờ những yếu tố tác động của môi trường xã hội, mà quan trọng nhất là người lớn – những tấm gương về hành vi giới tính – mà ngay từ khi nhận thức giới tính của trẻ chưa đạt tới mức 3, thậm chí mức 2, trẻ đã có thể lựa chọn và thực hiện hành vi phù hợp với giới tính của mình. Bởi trẻ cho rằng, phải làm như vậy thì mới đúng là con trai hay con gái. Mỗi bước tiến bộ trong khả năng nhận thức về tính bất biến giới tính giúp trẻ hiểu ra rằng, giới tính của bản thân là tồn tại vĩnh viễn mà không liên quan gì đến vai trò giới. Điều đó có nghĩa, việc thực hiện công việc của người khác giới cũng không thể làm thay đổi giới tính. Ví dụ, đàn ông cũng có thể nấu ăn rất giỏi và việc một người phụ nữ lái máy bay cũng không phải là điều không thể. Kết quả là, việc lựa chọn các hoạt động và cách ứng xử của người khác giới không còn là điều đáng sợ đối với trẻ nữa. 1.2.3.2. Học thuyết về sơ đồ giới tính Học thuyết của L. Kohlberg nêu cụ thể khi nào trẻ bắt đầu tìm hiểu hành vi và hoạt động thích hợp với giới tính (một khi trẻ đã hiểu tính ổn định giới tính) nhưng không tìm hiểu việc đó diễn ra như thế nào. Học thuyết sơ đồ giới tính của Martin và Halverson (1981) giải thích về điều này. Theo quan điểm thuyết của Martin và Halverson, trẻ thiết lập sơ đồ giới tính (các lí luận sơ đẳng) và nhờ đó trẻ định hướng được trong môi trường thông tin bao quanh, đồng thời thiết kế và tổ chức hành vi của bản thân một cách phù hợp với sơ đồ đó. Thuyết của Martin và Halverson được biểu diễn theo sơ đồ dưới đây [6, tr.230] Trong thuyết sơ đồ giới tính, trước tiên trẻ xác định xem đồ vật, hoạt động hoặc hành vi là nam tính hay nữ tính rồi sau đó sử dụng thông tin này để quyết định liệu mình có nên tìm hiểu về đồ vật, hoạt động hoặc hành vi đó nhiều hơn hay không [6, tr.230]. Lấy một ví dụ: Bé trai lứa tuổi mẫu giáo nhìn thấy các bé gái chơi bán hàng sẽ xác định rằng, chơi bán hàng là trò chơi dành cho con gái, vì mình là con trai, chơi bán hàng không phù hợp. Thấy một nhóm bé trai lớn tuổi hơn chơi đá bóng, cậu bé xác định rằng, đá bóng là trò chơi dành cho con trai, vì mình là con trai nên chơi đá bóng phù hợp và cậu tìm hiểu về đá bóng nhiều hơn. Như vậy, sau khi trẻ hiểu được giới tính, điều này như thể nó nhìn thế giới bằng cặp kính đặc biệt chỉ gom hoạt động điển h._.hỏi. − Trong giới hạn của đề tài, người nghiên cứu không phân tích tương quan giữa trình độ học vấn và tuổi của cha mẹ với việc phân công vai trò giới trong gia đình. Nhưng chúng tôi cho rằng, đó cũng là những yếu tố có ảnh hưởng đến sự phân công lao động giữa vợ và chồng. 2.2.2.3. Để có thể tính trung bình, cũng như tính tương quan giữa cha mẹ với con cái, các lựa chọn trong mỗi nhóm việc nói trên sẽ được quy về thống nhất 2 loại như sau: - Nhóm Việc nội trợ: phần lớn cha mẹ và trẻ cho là việc của phụ nữ. Vì vậy, tập trung vào ý trả lời “Phụ nữ” (con gái/ vợ), các ý còn lại được gộp vào loại “Khác”. Kết quả khảo sát: Thống kê – Bảng 2.13 Việc nội trợ Lựa chọn Trả lời của cha mẹ Trả lời của trẻ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Phụ nữ 43 72.9 47 79.7 Khác 16 27.1 12 20.3 Tổng cộng 59 100 59 100 - Nhóm Việc sửa chữa đồ dùng trong gia đình: phần lớn ý kiến cho là việc của đàn ông (con trai/chồng). Vì vậy, tập trung vào ý trả lời “Đàn ông”, các ý còn lại được gộp vào loại “Khác”. Kết quả khảo sát: Thống kê – Bảng 2.14 Việc sửa chữa đồ dùng trong gia đình Lựa chọn Trả lời của cha mẹ Trả lời của trẻ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Đàn ông 44 74.6 52 88.1 Khác 15 25.4 7 11.9 Tổng cộng 59 100 59 100 - Các nhóm Việc chăm sóc, giáo dục con cái và Việc cộng đồng: phần lớn cha mẹ và trẻ cho là việc của cả hai người (Cha và Mẹ). Vì vậy, tập trung vào ý trả lời “Cả hai”, các ý còn lại được gộp vào loại “Khác”. Kết quả khảo sát lần lượt như sau: Thống kê – Bảng 2.15 Việc chăm sóc, giáo dục con cái Lựa chọn Trả lời của cha mẹ Trả lời của trẻ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Cả cha và mẹ 41 69.5 38 64.4 Khác 18 30.5 21 35.6 Tổng cộng 59 100 59 100 Thống kê – Bảng 2.16 Công việc cộng đồng Lựa chọn Trả lời của cha mẹ Trả lời của trẻ Tần số Tỉ lệ Tần số Tỉ lệ Cả cha và mẹ 42 71.2 47 79.7 Khác 17 28.8 12 20.3 Tổng cộng 59 100 59 100 Như vậy, kết quả tần số và tỉ lệ phần trăm ở từng nhóm công việc cho biết thông tin của hai mức trả lời, trong đó người nghiên cứu quan tâm con số tỉ lệ phần trăm của mức chính, mức Khác là phần còn lại. Tổng hợp 4 nhóm việc với tỉ lệ trả lời của cha mẹ và trẻ ở các lựa chọn chính như sau: Thống kê – Bảng 2.17 Việc nội trợ (Phụ nữ) Sửa chữa đồ dùng (Đàn ông) Chăm sóc, giáo dục con (Cả hai) Việc cộng đồng (Cả hai) Cha mẹ 72.9 74.6 69.5 71.2 Trẻ em 79.7 88.1 64.4 79.7 Nhận xét chung trên 4 nhóm việc, các tỉ lệ phần trăm khá tương ứng giữa trẻ và cha mẹ. Biểu đồ 2.18 – So sánh tỉ lệ trả lời cha mẹ và trẻ em ở 4 nhóm việc Khi tính hệ số tương quan giữa các trung bình tỉ lệ câu trả lời của cha mẹ và trẻ về việc phân công vai trò giới trong gia đình (Xem Phụ lục, Khảo sát tương quan giữa trả lời của con cái và của cha mẹ), chúng tôi có kết quả: Tương quan Việc nội trợ Sửa chữa đồ dùng Chăm sóc, giáo dục con cái Việc cộng đồng Pearson .260* .388** .319* .361** Mức ý nghĩa .047 .002 .014 .005 Chú thích:(*) Hệ số tương quan có ý nghĩa ở mức 0.05 (2 đuôi) (**) Hệ số tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi) Số liệu trên cho thấy, các hệ số tương quan giữa trẻ và cha mẹ tuy không lớn, nhưng ở tất cả 4 nhóm công việc, hệ số tương quan Pearson tính được đều đạt mức ý nghĩa thống kê (5% hay 1%). Với các trị số tương quan từ 0.26 đến 0.39, bước đầu có thể kết luận rằng, có sự tương ứng giữa trẻ và cha mẹ trong các trả lời về 4 nhóm việc khi được hỏi về sự phân công vai trò giới trong gia đình. Nói cách khác, việc phân công vai trò giữa cha và mẹ trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến nhận dạng giới tính, mà đặc biệt là nhận dạng vai trò giới ở trẻ 5-6 tuổi. Cha mẹ, Việc nội trợ (Phụ nữ), 72.9 Cha mẹ, Sửa chữa đồ dùng (Đàn ông), 74.6 Cha mẹ, Chăm sóc, giáo dục con (Cả hai), 69.5 Cha mẹ, Việc cộng đồng (Cả hai), 71.2 Trẻ em, Việc nội trợ (Phụ nữ), 79.7 Trẻ em, Sửa chữa đồ dùng (Đàn ông), 88.1 Trẻ em, Chăm sóc, giáo dục con (Cả hai), 64.4 Trẻ em, Việc cộng đồng (Cả hai), 79.7 Cha mẹ Trẻ em Chúng tôi chọn phân tích một số gia đình cụ thể để tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng của cha mẹ đến trẻ trong vấn đề nghiên cứu này. Câu hỏi đặt ra là: “Ai thường hay làm việc này?”, “Khi nào lớn, cháu có làm việc này không? Vì sao? Bé Phi Long (5 tuổi 8 tháng) cho rằng, “Giặt quần áo là việc của phụ nữ, lớn lên cháu sẽ giặt quần áo vì muốn giúp đỡ khi mẹ mệt; may vá là việc của phụ nữ, cháu sẽ không làm việc đó vì cháu còn phải đi làm việc; đi làm kiếm tiền là việc của cả đàn ông và phụ nữ, cháu sẽ đi làm vì người lớn ai cũng phải đi làm; cho con ăn là việc của phụ nữ, lớn lên cháu sẽ cho con ăn vì việc này cả hai đều làm được; dạy con học bài là việc của đàn ông, cháu sẽ dạy con học bài và cả hai vợ chồng đều dạy con...”. Mẹ bé Phi Long (37 tuổi) cho biết, trong gia đình của bé, người mẹ đảm nhiệm việc nội trợ, cả hai vợ chồng đều có trách nhiệm đi làm mang lại thu nhập cho gia đình, cả hai vợ chồng chia sẻ việc chăm sóc và giáo dục con. Bé Duyên Anh (5 tuổi 10 tháng) trả lời: Rửa chén bát là việc của phụ nữ, lớn lên cháu sẽ làm vì con gái phải rửa chén; sơn tường nhà – cả phụ nữ và đàn ông đều làm được, lớn lên cháu không làm việc đó vì nên để con trai làm; cho em bé ăn là việc của phụ nữ, cháu sẽ làm vì lớn lên cháu sẽ là mẹ; dạy con học bài là việc của cả ba và mẹ, cháu sẽ dạy con học vì cháu thích cả hai người cùng dạy. Mẹ bé Duyên Anh (43 tuổi) cũng cho rằng, sửa chữa đồ dùng trong nhà và giáo dục con là trách nhiệm của cả hai vợ chồng, việc nội trợ và chăm sóc con là bổn phận của người vợ. Bé Minh Khang (5 tuổi 10 tháng) trả lời: giặt quần áo, lau nhà, ủi quần áo là việc của cả đàn ông và phụ nữ, lớn lên cháu sẽ làm vì có thể tự làm được và làm để phụ mẹ; may vá, đi chợ là việc của phụ nữ, cháu sẽ không làm vì đó là việc dành cho con gái; đi làm kiếm tiền và cúng ông bà là việc của đàn ông, cháu sẽ làm những việc này vì cháu là đàn ông; cho con ăn và chăm sóc con ốm là việc dành cho phụ nữ, khi lớn cháu sẽ không làm; chơi với con và dạy con học là việc của cả hai, cháu sẽ làm. Bố của Minh Khang (35 tuổi) cho biết, trong gia đình của bé, người chịu trách nhiệm trong việc đi làm mang lại thu nhập cho gia đình, cúng tổ tiên và công tác xã hội là đàn ông, việc nội trợ và chăm sóc con cái là của phụ nữ, dạy con học là công việc chung của cả vợ và chồng. Các ví dụ nêu trên là minh chứng cho sự đồng nhất giữa nhận dạng của trẻ về vai trò giới và cách phân công vai trò giữa cha và mẹ trong các gia đình khảo sát. Có thể nói rằng, cha mẹ có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách của con cái, mà trước hết là sự phát triển giới tính của trẻ. Ảnh hưởng này hiện hữu từng giờ, từng ngày ngay trong cuộc sống gia đình qua việc làm, qua sự giao tiếp, các hoạt động chung trong gia đình và qua hướng dẫn của người lớn đối với trẻ. Mối quan hệ qua lại, sự phân công công việc giữa cha và mẹ trong gia đình ảnh hưởng đến sự lĩnh hội của trẻ đối với hành vi có liên quan đến giới tính của mình. Sự có mặt của cả hai khuôn mẫu tương ứng về giới (cha với con trai, mẹ với con gái) tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ lĩnh hội các kiểu hành vi phù hợp với giới của mình. Trẻ có sự nhận dạng rõ ràng về vai trò giới, giải thích sự chọn lựa vai trò giới trong tương lai của mình rất tự nhiên và cũng rất hợp lí. Thái độ tích cực của trẻ khi chọn công việc “của giới khác” trong tương lai chứng tỏ trẻ được sống trong các gia đình hòa thuận, giữa cha và mẹ có sự gánh vác, chia sẻ trong công việc. Điều đó cũng chứng tỏ rằng, sự phân công vai trò giới giữa cha và mẹ trong các gia đình khảo sát có ảnh hưởng tích cực đến nhận dạng giới tính và nhận dạng vai trò giới ở trẻ. TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Kết quả thống kê số liệu khảo sát trên trẻ và cha mẹ chứng minh giả thuyết ban đầu của đề tài là hoàn toàn có cơ sở. Các số liệu này cho thấy: Thứ nhất, sự nhận dạng giới tính ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong mẫu khảo sát phát triển mạnh, thể hiện rõ qua tỉ lệ trẻ xác định giới tính của bản thân, hiểu tính ổn định của giới tính, nhận thức vai trò giới của đàn ông và phụ nữ trong gia đình. Thứ hai, có mối liên hệ mật thiết giữa việc trẻ nhận biết giới tính của bản thân và sự thể hiện hành vi giới tính cũng như vai trò giới. Trẻ có khả năng nhận thức về sự phân công vai trò giới giữa đàn ông và phụ nữ trong gia đình. Hơn thế, trẻ biết vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân vào việc giải thích sự chọn lựa vai trò giới của mình trong tương lai một cách linh hoạt và hợp lí. Thứ ba, sự tương ứng giữa câu trả lời của cha mẹ và trẻ chứng tỏ việc phân công vai trò giới trong gia đình có ảnh hưởng quan trọng đến sự lĩnh hội của trẻ đối với hành vi có liên quan đến giới tính của mình. Trẻ có sự hiểu biết rõ ràng về sự phân công vai trò giới giữa cha và mẹ cũng như sự kết hợp hài hòa giữa hai giới trong việc giải quyết các công việc chung của gia đình. Chúng tôi cho rằng, chính sự có mặt của cả hai khuôn mẫu tương ứng về giới trong các gia đình được khảo sát tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ trong quá trình phát triển nhận dạng giới tính và lĩnh hội các kiểu hành vi phù hợp với giới của mình. Thứ tư, có sự khác biệt về mức độ hiểu tính bất biến của giới tính ở trẻ 5-6 tuổi trong nghiên cứu thực tiễn so với nghiên cứu lí luận. Cần tiến hành khảo sát trên mẫu lớn hơn và căn cứ vào kết quả đó để có biện pháp giúp đỡ trẻ. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Qua kết quả tổng hợp, phân tích lí luận và khảo sát thực tiễn, người nghiên cứu rút ra các kết luận sau: 1. Nhận dạng giới tính là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc tự nhận thức về giới tính ở trẻ. Nó mang giá trị định hướng về giới tính cho trẻ dưới dạng vai trò xã hội. Việc trẻ nhận thức được giới tính cũng như vai trò giới của bản thân góp phần phát triển nhận dạng giới tính ở trẻ. Nó đảm bảo cho trẻ sự thống nhất trong nhận thức về giới tính và hành vi được xác định cho giới này hoặc giới khác. 2. Lứa tuổi mẫu giáo là giai đoạn nền tảng của sự tự nhận thức về giới tính. Sau 5 tuổi trẻ có khả năng sử dụng các chuẩn mực cư xử, trong đó có chuẩn mực giới tính để tự nhận xét, đánh giá bản thân một cách khách quan hơn so với trẻ dưới 5 tuổi. 3. Xã hội hóa giới tính là yếu tố quan trọng trong việc hình thành nhận dạng giới tính ở trẻ em. Trên nền tảng của quá trình này, trẻ có khả năng nhận thức được vai trò giới được qui định cho giới nam và giới nữ trong nền văn hóa của mình thông qua sự phân công vai trò giữa cha và mẹ trong gia đình. 4. Gia đình là môi trường xã hội hóa giới tính đầu tiên và quan trọng nhất đối với trẻ. Cha mẹ chính là nguồn thông tin mạnh mẽ về khuôn mẫu vai trò giới cho trẻ. Xã hội hóa về giới trong gia đình được thể hiện qua sự giáo dục, qua sự tương tác giữa cha và mẹ, giữa người lớn và trẻ, qua sự phân công vai trò giới ... Cha mẹ là người thầy đầu tiên về nét nam tính/nữ tính, về mẫu người đàn ông/phụ nữ và quan hệ qua lại giữa hai giới. Trẻ có thể học được từ cha mẹ hình mẫu quan hệ khác giới về sự bình đẳng, về vai trò chức năng của giới nam và giới nữ và trách nhiệm trong quan hệ vợ chồng. 5. Sự thể hiện vai trò giới của cha và mẹ trong gia đình như đại diện của giới nam và giới nữ rất đa dạng và phức tạp. 6. Sự nhận dạng giới tính của bản thân ở trẻ 5-6 tuổi trong mẫu khảo sát khá phù hợp với nghiên cứu lí luận. Tuy nhiên, mức độ hiểu tính bất biến của giới tính ở một số trẻ còn thấp so với chuẩn lứa tuổi vì còn bị các dấu hiệu bên ngoài như kiểu tóc hoặc trang phục chi phối. 7. Ở trẻ được khảo sát, sự nhận dạng vai trò giới phát triển mạnh mẽ. Số liệu thống kê chứng tỏ, có sự tương quan giữa câu trả lời của trẻ và cha mẹ về vấn đề được hỏi. Điều này cho thấy, sự phân công vai trò giữa cha và mẹ trong gia đình đóng vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hóa giới tính ở trẻ. Từ những kết luận nêu trên, người nghiên cứu có một số đề xuất sau: 1. Cần có những nghiên cứu sâu và rộng hơn về nhận dạng giới tính của trẻ mẫu giáo ở các giai đoạn lứa tuổi khác nhau để kịp thời có biện pháp phối hợp giữa gia đình và trường mầm non trong việc giáo dục giới tính cho trẻ. 2. Điều kiện lí tưởng để giáo dục giới tính nói chung và giáo dục nhận thức về vai trò giới nói riêng cho trẻ là sự hiện diện của cả cha và mẹ trong gia đình cùng với sự thống nhất, hợp tác, chia sẻ trong các vai trò khác nhau và bổ túc cho nhau. 3. Cha mẹ phải thể hiện được đúng vai trò, chức năng và các đặc điểm giới tính trong sinh hoạt hàng ngày. Mặc dù trong các gia đình hiện đại thường có sự san sẻ với nhau trong công việc, nhưng vai trò chính của người cha là người bảo vệ, trụ cột trong gia đình và người mẹ – người chăm lo vun đắp tình cảm cho tổ ấm, đảm nhiệm công việc nội trợ luôn là khuôn mẫu giới trọn vẹn nhất đối với trẻ. Nếu các chức năng, vai trò của cha mẹ bị giao hoán cho nhau thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tự nhận thức về giới, đến sự hình thành những nét giới tính và hành vi của trẻ. 4. Cha mẹ và giáo viên mầm non cần quan tâm đến những biểu hiện khác biệt giới tính giữa bé trai và bé gái để phát huy tính tích cực của từng giới. Cần phát triển ở trẻ cảm xúc và thái độ tích cực đối với giới tính của bản thân; lòng tự hào về giới tính và mong muốn thể hiện nét văn hóa trong cư xử với người khác giới. 5. Cần có sự phối hợp giữa gia đình và trường/lớp mẫu giáo trong việc tạo điều kiện và môi trường cho trẻ thể hiện đặc tính giới. Trước hết là việc nêu gương tốt của người lớn và của trẻ trong các hoạt động sống ở nhà và ở trường. Cần chú ý giáo dục nhận thức giới tính cho trẻ, nhất là nhận thức về vai trò giới, tránh những biểu hiện xem nhẹ vai trò của người phụ nữ, đặc biệt là trong công việc nhà. 6. Trường mầm non cần chú trọng hơn nữa việc giáo dục giới tính cho trẻ mẫu giáo qua việc tổ chức các buổi tọa đàm với phụ huynh về sự phát triển giới tính và cách thức giáo dục giới tính cho trẻ; cùng trẻ đọc sách báo, xem tranh ảnh và đàm thoại với trẻ về sự phát triển giới tính của con người; đố vui, kể chuyện để giáo dục các gương tốt... 7. Vì sự phát triển nhận thức giới tính là một quá trình tự nhiên, nên để làm tốt công tác giáo dục giới tính cho trẻ, trước hết giáo viên phải hiểu rõ các giai đoạn trong quá trình hình thành và phát triển giới tính của trẻ; cần có thái độ tự nhiên, tôn trọng, nhẹ nhàng đối với trẻ, có sự can thiệp khéo léo trong các quan hệ giới tính của trẻ, không áp đặt trẻ, tránh làm trẻ bị tổn thương. 8. Trò chơi đóng vai có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhận thức về giới tính, nó giúp trẻ thể hiện đặc tính giới và vai trò giới. Vì vậy, cần thiết lập môi trường và các điều kiện cần thiết cho trò chơi đóng vai của trẻ, khuyến khích cả trẻ trai và trẻ gái cùng tham gia vào trò chơi; mở rộng chủ đề chơi và xây dựng các chủ đề chơi kích thích sự hứng thú ở trẻ; hướng dẫn trẻ hiểu các mối quan hệ qua lại giữa người lớn trong xã hội một cách khéo léo, tế nhị (nhận một vai trong trò chơi của trẻ); giúp trẻ phân biệt được cái đẹp, cái đúng, cái sai trong những quan hệ đó để trẻ dễ dàng tái tạo chúng trong trò chơi. 9. Trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ, giáo viên nên có cách tiếp cận cá thể đối với từng trẻ, tổ chức và sử dụng các tình huống sư phạm một cách tự nhiên để khuyến khích trẻ thể hiện nét đẹp trong cách ứng xử như đại diện của một giới. Uốn nắn hoặc khen ngợi trẻ kịp thời khi trẻ thể hiện hành vi giới tính không phù hợp hoặc đáng nêu gương. 10. Cha mẹ và giáo viên phải luôn là niềm tin của trẻ, là khuôn mẫu giới để trẻ noi theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Nguyễn Thanh Bình (chủ biên), Vũ Thị Sơn, Lưu Thu Thủy, Đào Thị Oanh (1999), Giáo dục giới tính cho con, NXB Giáo dục. 2. Vũ Dũng (2008), Từ điển Tâm lí học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa. 3. Nguyễn Thị Thu Hà (1997), Tìm hiểu một số biểu hiện giới tính trong hành vi chơi của trẻ mẫu giáo lớn, Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục mầm non, trường Đại học sư phạm I Hà Nội. 4. Ngô Công Hoàn (1993), Tâm lý học gia đình, Trường đại học sư phạm Hà Nội I. 5. Đặng Phương Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam. Những giá trị truyển thống và các vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, NXB Lao động. 6. Nguyễn Thị Bích Liên (1997), Tìm hiểu sự nhận diện giới tính dưới một số biểu hiện trong hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, Luận văn Thạc sĩ khoa học Giáo dục mầm non, trường Đại học sư phạm I Hà Nội. 7. Nguyễn Xuân Nghĩa (2000), Quá trình xã hội hóa về giới ở trẻ em, NXB Đại học mở bán công Tp. Hồ Chí Minh. 8. Nguyễn Xuân Nghĩa (2007), Quan hệ về giới và quá trình xã hội hóa trong gia đình ở trẻ em, (Nghiên cứu tại nội thành TP.HCM), Tạp chí Khoa học, trường ĐHM TP.HCM, 11/2007, tr.98-106. 9. Bùi Ngọc Oánh (2008), Tâm lí học giới tính và Giáo dục học giới tính, NXB GD. 10. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 11. Nguyễn Thơ Sinh (2008), Tâm lý xã hội học, NXB Lao động. 12. Nguyễn Thơ Sinh (2009), Sinh tâm lý học, NXB Lao động. 13. Hoàng Bá Thịnh (2005). Xã hội học về giới và phát triển. Trường ĐHKHXH&NV. 14. Dương Thiệu Tống (2006), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học Xã hội. 15. Nguyễn Ánh Tuyết (2006), Những điều cần biết về sự phát triển của trẻ thơ, NXB Giáo dục. 16. Lê Ngọc Văn (2006), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa, NXB Giáo dục. 17. George D. Zgourides, Christie S. Zgourides (2007), Thực tế về hoạt động tình dục ở con người, www.360-books.vn. 18. J.P.Masơlôva (1999), Giới tính tuổi hoa, NXB Hà Nội 19. Robert V.Kail và John C.Cavanaugh (2006), Nghiên cứu về sự phát triển con người, NXB Văn hóa Thông tin. 20. V. Sakhizanhia (2006), Trò chuyện với bác sĩ về các vấn đề giới tính, NXB Văn hóa thông tin. Tiếng Nga 21. Абраменкова ВВ (1987), Половая дифференциация и межличностные отношения в детской группе //Вопросы психологии, 1987, N 5 22. Алешина ЮН , Волович АС (1991), Проблемы усвоения ролей мужчины и женщины /Вопросы психологии, N 4 23. 1TМ. Е. Васильевнаб (2007), 1TПроблема полоролевой социализации дошкольников 24. O.И.Иванова, А.М.Щетинина (2006), Формирование позитивной идентичности у детей старшего дошкольного возраста, Великий Новгород. 25. Каган В Е (1994), Половые аспекты индивидуальности //Психологические проолемы индивидуальности. Вып. 2 26. Кериг ПК (1990) Семейный контекст: удовлетворенность супружеством, родительскийстиль и речевое поведение с детьми //Вопросы психологии, N.1 27. Кон И. С (1988), Введение в сексологию, М.: Медицина 28. 5TКислова Елена Евгеньевна5T (2005), Половое воспитание дошкольников 29. Клецина И.С (1998), Тендерная социализация. - СПб.: Издательство РГПУ им. А И. Герцена. 30. Роберт Крукс, Карла Баур (2002), Сексуальность, М.: Медицин. 31. Лодкина ТВ, Лепихина И.В (2000), Дифференциальный подход в воспитании и развитии детей дошкольного возраста с учетом их половой принадлежности. Научно - методические рекомендации. – Вологда. 32. И.Е.Павлович (2003), Дифференциальная психофизиология мужчины и женщины, СПб.: Издательство РГПУ им. А И. Герцена. 33. 1T .А. Репина (2004), 1TПроблема полоролевой социализации. 34. U Суслова Эмма Константиновна (2006), Половое воспитание детей дошкольного возраста. PHỤ LỤC DANH MỤC PHỤ LỤC 1. Phần khảo sát 1.1. Bảng hỏi: Khảo sát nhận dạng giới tính của trẻ 5-6 tuổi 1.2. Bảng tổng hợp khảo sát nhận dạng giới tính của trẻ 5-6 tuổi 1.3. Hình khảo sát nhận dạng vai trò giới của trẻ 5-6 tuổi 1.4. Bảng hỏi: Khảo sát nhận dạng vai trò giới của trẻ 5-6 tuổi 1.5. Phiếu khảo sát cha mẹ về việc phân công vai trò giới trong gia đình 2. Phần thống kê 2.1. Bảng 1: So sánh theo giới tính của trẻ. Câu hỏi: “Ai làm công việc này?” 2.2. Bảng 2: So sánh theo giới tính của trẻ. Câu hỏi: “Tại sao cháu biết mình là trai hay gái?” 2.3. Bảng 3: So sánh theo giới tính của trẻ. Câu hỏi: “Có thể trở thành giới khác khi thay đổi bề ngoài?” 2.4. Bảng 4:Thống kê tần số và tỉ lệ. Câu hỏi: “Con gái và con trai khác nhau ở điểm nào?” 2.5. Bảng 5: So sánh theo giới tính của trẻ. Câu hỏi: “Con gái và con trai khác nhau ở điểm nào?” 2.6. Bảng 6 Khảo sát tương quan giữa trả lời của cha mẹ và trẻ Khảo sát trẻ - 1 BẢNG HỎI KHẢO SÁT NHẬN DẠNG GIỚI TÍNH CỦA TRẺ 5-6 TUỔI Tên trẻ: Giới tính: Năm sinh: 1. Cháu là con trai hay con gái? Tại sao cháu biết? 2. Khi nào lớn, cháu sẽ trở thành: A) Chú hay cô? B) Chồng hay vợ? C) Bố hay mẹ? 3. Cháu thích trở thành: A) Chú hay cô? B) Chồng hay vợ? C) Bố hay mẹ? 4. Có khi nào cháu nghĩ rằng, buổi tối cháu đi ngủ là con trai/gái và sáng mai khi thức dậy lại trở thành con gái/con trai không? 5. Nếu được như vậy, thì cháu muốn trở thành con trai hay con gái? 6. Nếu cho cháu mặc quần áo hoặc để tóc kiểu con trai/con gái thì cháu có trở thành con trai/con gái không? 7. Theo cháu, con trai và con gái khác nhau ở những điểm nào? (Nếu trẻ không hiểu, hỏi: Con trai và con gái có giống nhau hoàn toàn không? Làm thế nào để biết được đó là con trai/con gái?) Khảo sát trẻ - 3 (3b) Khảo sát trẻ 3 (3a) BẢNG HỎI KHẢO SÁT NHẬN DẠNG VAI TRÒ GIỚI Ở TRẺ 5-6 TUỔI Họ và tên trẻ: Giới tính: Tuổi: Cho trẻ xem tranh và hỏi: Hình ảnh 1.Trong tranh, người này đang làm gì? 2.Theo cháu, ai thường hay làm việc này? 3. Trong gia đình cháu, ai thường hay làm việc này? 4. Khi nào lớn lên, cháu có làm việc này không? 5.Vì sao cháu thích/không thích làm công việc đó? Đàn ông Phụ nữ Cả hai Ba Mẹ Cả hai Có Không Không biết Hình ảnh các công việc trong đời sống 1. Nấu ăn 2. Rửa chén bát 3. Giặt quần áo 4. Lau nhà 5. Ủi quần áo 6. Sửa vòi nước 7. Đóng bàn ghế 8. Sơn tường /quét vôi 9. May vá 10. Đi chợ 11. Cúng ông bà 12. Đi làm/công tác 13. Thăm hỏi ông bà Hình ảnh các việc làm của cha mẹ với con cái 1. Cho con ăn 2. Chơi với con 3. Chăm sóc con ốm 4. Dạy con học bài 5. Chở con đi học PHIẾU KHẢO SÁT (Dành cho phụ huynh) Để giúp chúng tôi tìm hiểu về việc phân công vai trò giữa cha và mẹ trong các hoạt động thiết yếu của gia đình, xin anh/chị vui lòng cho biết một số vấn đề sau bằng cách đánh dấu X vào ô trống: 1.“Trong gia đình anh/chị, ai là người thường làm công việc nội trợ (mua thức ăn, nấu cơm, giặt giũ, dọn nhà)? Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  2. Ai là người quyết định các khoản chi tiêu hằng ngày? Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  3. Người chịu trách nhiệm trong việc quyết định các công việc quan trọng trong gia đình (mua sắm đồ dùng đắt tiền, xây dựng nhà cửa...) là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  4. Người chịu trách nhiệm sửa chữa đồ dùng trong nhà là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  5. Người chịu trách nhiệm trong công việc chăm sóc sức khỏe cho con cái là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  6. Người hay đưa con đi chơi, tham quan, dã ngoại là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  7. Người chịu trách nhiệm trong việc đưa đón con đi học là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  8. Người chịu trách nhiệm trong việc giáo dục con cái là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  9. Người chịu trách nhiệm trong việc thăm viếng họ hàng, ma chay, cưới hỏi... là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  10. Người chịu trách nhiệm trong việc thờ cúng tổ tiên là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  11. Người chịu trách nhiệm trong các công việc xã hội (phường, xã...) là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  12. Người chịu trách nhiệm trong công việc mang lại thu nhập cho gia đình là: Chồng  Vợ  Cả hai  Người khác  Xin anh/chị vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: - Giới tính: Nam  Nữ  Tuổi: - Trình độ học vấn: a. Trung cấp  b. Cao đẳng  c. Đại học  d. Sau đại học  e. Khác  Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của anh/chị! THỐNG KÊ - BẢNG 1 So sánh theo giới tính của trẻ. Câu hỏi: “Ai làm công việc này?” CV1Ai * PhaiTinh Crosstab 0 1 1 .0% 3.2% 1.7% 25 28 53 86.2% 90.3% 88.3% 4 2 6 13.8% 6.5% 10.0% 29 31 60 100.0% 100.0% 100.0% Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Dan ong Phu nu Ca hai CV1Ai Total 1 2 PhaiTinh Total CV2Ai * PhaiTinh CV3Ai * PhaiTinh Chi-Square Tests 1.772a 2 .412 2.169 2 .338 1.499 1 .221 60 Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Assoc iation N of Valid Cases Value df Asymp. Sig. (2-sided) 4 cells (66.7%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .48. a. Crosstab 0 1 1 .0% 3.2% 1.7% 0 1 1 .0% 3.2% 1.7% 25 26 51 86.2% 83.9% 85.0% 4 3 7 13.8% 9.7% 11.7% 29 31 60 100.0% 100.0% 100.0% Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Khong tra loi Dan ong Phu nu Ca hai CV2Ai Total 1 2 PhaiTinh Total Chi-Square Tests 2.098a 3 .552 2.869 3 .412 1.433 1 .231 60 Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Assoc iation N of Valid Cases Value df Asymp. Sig. (2-sided) 6 cells (75.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .48. a. THỐNG KÊ - BẢNG 2 So sánh theo giới tính của trẻ. Câu hỏi: “Tại sao cháu biết mình là trai hay gái?” Giới tính của bé Tổng cộng Nam Nữ Tại sao cháu biết? Tóc Số lượng 11 16 27 % với Giới tính của bé 37.9% 51.6% 45.0% Quần áo Số lượng 1 2 3 % với Giới tính của bé 3.4% 6.5% 5.0% Đồ chơi Số lượng 1 0 1 % với Giới tính của bé 3.4% .0% 1.7% Cha, Mẹ nói Số lượng 6 6 12 % với Giới tính của bé 20.7% 19.4% 20.0% Tự cháu biết Số lượng 5 0 5 % với Giới tính của bé 17.2% .0% 8.3% Crosstab 0 1 1 .0% 3.2% 1.7% 23 17 40 79.3% 54.8% 66.7% 6 13 19 20.7% 41.9% 31.7% 29 31 60 100.0% 100.0% 100.0% Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Count % within PhaiTinh Dan ong Phu nu Ca hai CV3Ai Total 1 2 PhaiTinh Total Chi-Square Tests 4.417a 2 .110 4.864 2 .088 1.966 1 .161 60 Pearson Chi-Square Likelihood Ratio Linear-by-Linear Assoc iation N of Valid Cases Value df Asymp. Sig. (2-sided) 2 cells (33.3%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .48. a. Tóc, quần áo Số lượng 1 6 7 % với Giới tính của bé 3.4% 19.4% 11.7% Tóc, đồ chơi Số lượng % với Giới tính của bé 2 6.9% 0 .0% 2 3.3% Không biết Số lượng % với Giới tính của bé 2 1 3 6.9% 3.2% 5.0% Tổng cộng Số lượng 29 31 60 với Giới tính của bé 100.0% 100.0% 100.0% Value df Asymp. Sig. (2-sided) Pearson Chi-Square 13.112Pa 7 .069 Likelihood Ratio 16.597 7 .020 THỐNG KÊ - BẢNG 3 Có thành giới khác khi thay đổi bề ngoài (so sánh theo giới tính của trẻ) Giới tính của bé Tổng Nam Nữ Có thành giới khác khi thay đổi bề ngoài? Không Số lượng 9 14 23 % với Giới tính của bé 31.0% 45.2% 38.3% Có Số lượng 20 17 37 % với Giới tính của bé 69.0% 54.8% 61.7% Tổng Số lượng 29 31 60 % với Giới tính của bé 100.0% 100.0% 100.0% Chi-Square Tests Value df Asymp. Sig. (2-sided) Exact Sig. (2-sided) Exact Sig. (1-sided) Pearson Chi-Square 1.265Pa 1 .261 Continuity CorrectionPb .738 1 .390 Likelihood Ratio 1.273 1 .259 Linear-by-Linear Association 1.177 1 .278 N of Valid Cases 60 a. 12 cells (75.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .48. Fisher's Exact Test .298 .195 Linear-by- LinearAssociation 1.244 1 .265 N of Valid CasesPb 60 a. 0 cells (.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 11.12. b. Computed only for a 2x2 table THỐNG KÊ - BẢNG 4 Điểm khác biệt giữa trai và gái (Tần số, tỉ lệ) Trả lời của trẻ Tần số Phần trăm Bề ngoài (tóc, quần áo…) khác nhau 52 86.7 Trò chơi/đồ chơi khác nhau 5 8.3 Tính cách khác nhau 2 3.3 Bộ phận sinh dục khác nhau 1 1.7 Tổng 60 100.0 THỐNG KÊ - BẢNG 5 Điểm khác biệt giữa trai và gái (So sánh theo giới tính) Gioi tinh cua be Total Nam Nu Diem khac biet giua trai va gai. Do ve be ngoai (toc, quan ao, ..) Count 26 26 52 % within Gioi tinh cua be 89.7% 83.9% 86.7% Do tro choi, do choi Count 1 4 5 % within Gioi tinh cua be 3.4% 12.9% 8.3% Do Tinh cach Count 1 1 2 % within Gioi tinh cua be 3.4% 3.2% 3.3% Bo phan sinh duc Count 1 0 1 % within Gioi tinh cua be 3.4% .0% 1.7% Total Count 29 31 60 % within Gioi tinh cua be 100.0% 100.0% 100.0% a. 6 cells (75.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .48. Chi-Square Tests Value df Asymp. Sig. (2- sided) Pearson Chi-Square 2.736Pa 3 .434 Likelihood Ratio 3.247 3 .355 Linear-by-Linear Association .008 1 .929 N of Valid Cases 60 THỐNG KÊ - BẢNG 6 KHẢO SÁT TƯƠNG QUAN GIỮA TRẢ LỜI CỦA CHA MẸ VÀ TRẺ Correlations 1 .388** .002 59 59 .388** 1 .002 59 59 Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N PH_Sua do dung GD CC_Sua do dung GD PH_Sua do dung GD CC_Sua do dung GD Correlation is significant at the 0.01 level (2-tai led).**. Correlations 1 .319* .014 59 59 .319* 1 .014 59 59 Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N PH_Cham soc CC_ Cham soc PH_ Cham soc CC_ Cham soc Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).*. Correlations 1 .260* .047 59 59 .260* 1 .047 59 59 Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N PH_Viec Noi tro CC_Viec Noi tro PH_Viec Noi tro CC_Viec Noi tro Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).*. Correlations 1 .361** .005 59 59 .361** 1 .005 59 59 Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N Pearson Correlation Sig. (2-tai led) N PH_Viec Cong Dong CCCDong PH_Viec Cong Dong CCCDong Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).**. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5594.pdf
Tài liệu liên quan