Tóm tắt Luận án Biến đổi văn hóa vùng ven biển Nghệ An qua nghiên cứu trường hợp thị xã Cửa Lò

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HIẾU BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÙNG VEN BIỂN NGHỆ AN QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP THỊ XÃ CỬA LÒ Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 9229040 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2018 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN THỊ AN Phản biện 1: PGS. TS. TRẦN ĐỨC NGÔN Phản biện 2: PGS. TS. LƯƠNG HỒNG QUANG P

pdf27 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Biến đổi văn hóa vùng ven biển Nghệ An qua nghiên cứu trường hợp thị xã Cửa Lò, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hản biện 3: TS. ĐỖ LAN PHƯƠNG Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại: Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào hồi giờ ngày tháng năm 2018 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học Xã hội 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Biến đổi văn hóa là hiện tượng tất yếu nảy sinh trong quá trình vận động và phát triển. Nó có thể được nhận thấy chậm hơn so với biến đổi xã hội nhưng để lại những tác động lâu dài. Vì vậy, biến đổi văn hóa luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều góc nhìn, để đánh giá những tác động của nó đến sự phát triển của con người và xã hội. 1.2. Văn hóa biển, hiện đang được Nhà nước và nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 09-NQ/TW, ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”: Phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo an ninh và bảo vệ môi trường. Hiện nay, các vấn đề về kinh tế, văn hóa biển và chủ quyền biển đảo đang được nhận thức một cách đầy đủ nhất. Việc nghiên cứu những vấn đề về biến đổi văn hóa vùng biển ngoài ý nghĩa bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống còn có ý nghĩa về chính trị. 1.3. Nghệ An có 82 km bờ biển, có nhiều cư dân định cư lâu đời ở các làng ven biển. Trong hơn 2 thập kỷ qua, trước xu thế chung của cả nước, Nghệ An có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh. Thực tế này đã đưa đến những biến đổi văn hóa ở các vùng nói chung, văn hóa các làng biển nói riêng. Thông qua trường hợp thị xã Cửa Lò, có thể thấy sự phát triển kinh tế đã kéo theo những thay đổi trong văn hóa của cư dân vùng biển. Sự xuất hiện những luồng văn hóa mới đan xen với văn hóa truyền thống của một làng ngư nghiệp trong bối cảnh đô thị hóa đã trở thành một thị xã vừa giữ ngư nghiệp vừa phát triển du lịch, dịch vụ. Từ những lí do trên tôi chọn vấn đề “Biến đổi văn hóa vùng ven biển Nghệ An qua nghiên cứu trường hợp thị xã Cửa Lò” làm đề tài luận án tiến sĩ. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận án đặt mục tiêu nghiên cứu về biến đổi văn hóa dưới tác động của kinh tế biểu hiện trong mối quan hệ gia đình và trong thực hành tín ngưỡng; từ đó chỉ ra những xu hướng biến đổi văn hóa của cộng đồng cư dân ven biển ở thị xã Cửa Lò trong bối cảnh hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích thực trạng biến đổi văn hóa gia đình qua tác động của kinh tế. 2 Phân tích thực trạng biến đổi văn hóa qua hoạt động tín ngưỡng của cư dân vùng biển Cửa Lò. Phân tích xu hướng và những vấn đề đặt ra trong biến đổi văn hóa của cư dân Cửa Lò trong bối cảnh hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu về biến đổi văn hóa của cư dân vùng biển Cửa Lò. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi nội dung Luận án, chúng tôi giới hạn nghiên cứu ở hai khía cạnh: Biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế gia đình (trong quan hệ gia đình) và biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng (đi lễ đền làng, tín ngưỡng đi biển, lễ hội) 3.2.2. Phạm vi không gian, thời gian Phạm vi không gian: Luận án được khảo sát cộng đồng cư dân sống tại 3 phường: Nghi Tân, Nghi Thủy, Nghi Hải. Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu những biến đổi văn hóa từ khi thành lập Thị xã Cửa Lò (1994) đến thời điểm nghiên cứu luận án (2013 - 2017). 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cách tiếp cận Luận án sử dụng các cách tiếp cận chuyên ngànhVăn hóa học. Bên cạnh đó luận án sử dụng các cách tiếp cận liên ngành như Nhân học, Sử học, Xã hội học 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp quan sát tham dự Tác giả đã thực hiện phương pháp quan sát tham dự đối với một số hoạt động của người dân trên địa bàn phường: Tham gia một số bữa ăn gia đình vào dịp giỗ, tết; vào ngày rằm, mồng một, tham dự Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập thị xã Cửa Lò, Lễ hội Sông nước Cửa Lò được tổ chức vào dịp 30/4;1/5; tham dự vào các cuộc họp khối của người dân. 4.2.2. Điều tra xã hội học Luận án sử dụng phương pháp điều tra thông qua bảng hỏi tới người dân tại phường Nghi Thủy, Nghi Tân, Nghi Hải. 4.2.3. Phỏng vấn sâu Phỏng vấn cán bộ lãnh đạo thị xã, cán bộ phường, ban quản lý đền làng. Phỏng vấn người dân trên địa bàn các phường..., độ tuổi từ 18 đến 80 tuổi. 4.2.4. Phương pháp thảo luận nhóm Chủ đề chính cho các cuộc thảo luận nhóm tập trung vào những biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế, hoạt động tín ngưỡng. 3 4.2.5 Phân tích tài liệu thứ cấp Luận án thu thập các văn bản báo cáo tại các ban ngành: Công an; Hội liên hiệp Phụ nữ; phòng Văn hóa; Chi cục Thống kê Thị xã.... 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Từ nghiên cứu trường hợp cộng đồng cư dân ven biển Cửa Lò ở phương diện biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế gia đình và hoạt động tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Nghệ An, luận án đóng góp vào nhận thức chung trong nghiên cứu văn hóa. Qua hoạt động kinh tế, luận án chỉ ra sự thay đổi vị thế của từng cá nhân trong gia đình cư dân vùng biển. Thông qua nghiên cứu về những biến đổi trong thực hành tín ngưỡng, luận án góp phần làm sáng tỏ thêm các quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước về biến đổi văn hóa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận 6.1.1. Góp phần làm sáng rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại trong bối cảnh hiện nay của cư dân vùng biển. 6.1.2. Làm rõ hơn sự biến đổi văn hóa của cộng đồng cư dân vùng ven biển trong tác động của du lịch và ảnh hưởng của hiện đại hóa nhìn từ cộng đồng cư dân của một thị xã ven biển. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lí, các cấp có thẩm quyền trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Luận án còn góp phần vào nhận thức người dân và chính quyền địa phương về những giá trị văn hóa truyền thống từ đó tiếp tục phát huy trong đời sống hiện đại. 7. Bố cục luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương chính sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu Chương 2: Biến đổi văn hóa qua hoạt động động kinh tế gia đình Chương 3: Biến đổi văn hóa qua thực hành tín ngưỡng Chương 4: Xu hướng và những vấn đề đặt ra qua biến đổi văn hóa ở Cửa Lò hiện nay 4 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan nghiên cứu về biến đổi văn hóa cư dân vùng biển ở Việt Nam 1.1.1. Nghiên cứu biến đổi văn hóa qua hoạt động kinh tế Từ thời đại sắt sớm, cư dân vùng biển đã có những thay đổi lớn trong nghề nghiệp. Vấn đề này, tác giả Tống Trung Tín đã đề cập trong bài viết Văn hóa biển nhìn từ góc độ khảo cổ học. Tác giả Nguyễn Đăng Vũ (2008), nhìn từ bối cảnh đương đại, khi đề cập đến sự biến đổi văn hóa làng của cư dân vùng biển Quảng Ngãi thông qua nghề nghiệp. Trong bài viết Vài nhận xét về cách ứng xử của người Việt trước biển, tác giả Từ Chi và Phạm Đức Dương (1996) đã nhấn mạnh đến yếu tố tiếp nhận nghề nghiệp từ biển và là một yếu tố, cầu nối quan trọng trong giao lưu tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng tộc người ven biển. Trong nghiên cứu Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam (2002), từ việc khảo sát một số làng chài của ngư dân ven biển miền Trung, tác giả Nguyễn Duy Thiệu đã So sánh, làm rõ những biến đổi của các tổ chức nghề cá, tác động của quá trình đổi mới lên nghề cá. Đề cập đến bản chất nghề nghiệp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những biến đổi về quan hệ trong gia đình ngư dân, trong nghiên cứu Tìm hiểu về phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền trung, (1998) tác giả Lê Tiêu La và Lê Ngọc Hùng đặc biệt quan tâm đến vấn đề phân công lao động và vai trò của các thành viên trong gia đình ngư dân ven biển. Các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa biển qua hoạt động kinh tế đã phản ảnh rõ đặc trưng về nghề nghiệp của cư dân miền biển. Những nghiên cứu về biến đổi “văn hóa biển” dưới tác động của kinh tế của cư dân vùng biển ở nước ta còn khá khiêm tốn so với yêu cầu thực tiễn đặt ra. 1.1.2. Nghiên cứu biến đổi văn hóa từ khía cạnh tín ngưỡng Nghiên cứu về sự biến đổi nguồn gốc, nghi lễ thờ cá Voi tại các vùng miền ở nước ta qua giao lưu tiếp xúc giữa các nền văn hóa, được nhiều nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Bàn về nguồn gốc của tục thờ cá Voi, một số người cho rằng tục thờ cá Voi ban đầu vốn là của người Chăm, trải qua quá trình giao lưu tiếp xúc cảm hóa, được người Việt tiếp nhận phong tục này. Làm rõ hơn vấn đề này trong bài viết Giao lưu văn hóa Việt - Chăm, nhìn từ tục thờ cá Ông, Nguyễn Thanh Lợi (2003) đã đưa ra những dẫn chứng, chứng minh rõ nét hơn nguồn gốc tục thờ cá Voi Ông mà người Việt tiếp thu được từ người Chăm 5 Trong cuốn Lễ tục lễ hội truyền thống xứ Thanh, tác giả Hoàng Anh Nhân (2006) chỉ ra sự phong phú trong việc thờ cá Voi ở Thanh Hóa. Tác giả Nguyễn Thanh Lợi (2006) cho biết:Tục thờ cá Ông của người Việt ngày nay đã có những biến đổi rất cơ bản qua đối tượng thờ tự, nghi lễ, diễn xướng, kiến trúc, bài trí. Bàn về nguồn gốc xuất xứ của tục thờ cá Voi, tác giả Ngô Đức Thịnh (2004) chỉ ra 2 yếu tố: một là tục thờ cá - một tín ngưỡng dân gian nguyên thủy; hai là từ thực tiễn cuộc sống mà người đi biển tích lũy được trong quá trình tiếp xúc với cá Voi. Đề cập đến vấn đề biến đổi trong nghi thức thờ cá Voi, tác giả Trần Xuân Phong (2006) nhấn mạnh trong quá trình tiếp biến văn hóa, người Việt đã có những thay đổi, biến cải rất cơ bản. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương hiện rất phổ biến ở nhiều làng ven biển người Việt, đặc biệt là miền biển Trung Bộ, trung tâm là Đền Cờn (Nghệ An). Theo Ninh Viết Giao, ngoài đền Cờn còn có hơn 30 làng khác nữa ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) thờ Tứ Vị Thánh Nương.. Trong bài viết Tìm hiểu sự hình thành truyền thuyết Tứ vị thánh nương (qua các nguồn thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng, tác giả Trần Thị An làm rõ thêm về quá trình phát triển thành vị trí trung tâm của đền Cờn Tín ngưỡng thờ Tứ vị Thánh nương được thờ phổ biến ở cửa Trương Quảng Nam, cửa Cờn Nghệ An, cửa Triều ở Thanh Hóa, cửa Lác ở Nam Định. Ngoài ra, tục này còn được thực hành tại đền Lộ ven sông Hồng và trở thành Tứ vị Thánh mẫu, tiếp nối tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân Việt cổ. Vấn đề này đã được Trần Thị An (2016) lý giải trong bài Truyền thuyết dân gian với việc kết nối các dạng thức không gian biển Việt Nam . Sự khác biệt trong Lễ hội đền Cờn (Trung bộ), Lễ hội đền Lộ (Bắc bộ) cũng đã được các nghiên cứu khác đề cập đến. Trong cuốn Lễ hội cổ truyền không có các lễ thức hay trò diễn này, mà trọng tâm của lễ hội lại đặt vào lễ cấp thủy/ rước nước - một lễ thức điển hình của cư dân trồng lúa nước.. Làm rõ hơn về những thay đổi trong tục thờ Tứ vị Thánh nương, Lê Thanh Tùng (2013) khẳng định vai trò quan trọng của tín ngưỡng Tứ vị Thánh nương trong đời sống tâm linh của cư dân ven biển Hải Phòng, nguồn gốc của tục thờ Tứ vị Thánh nương và nét tương đồng trong văn hóa từ vùng Hải Dương, Thanh Hóa, Nghệ An ở các làng xen kẽ nông ngư. Tô Duy Hợp và Đặng Vũ Cảnh Linh (2008), đi sâu nghiên cứu về quá trình phát triển và biến đổi của văn hóa biển đảo qua giao lưu và tiếp xúc, tác động liên tục của con người và bối cảnh xã hội. Đề cập đến biến đổi về tín ngưỡng của cư dân vùng biển thời kỳ đổi mới tác giả Lê Hồng Lý (2002) đã đề cập đến những tác động của nền kinh tế thị trường. 6 Từ những nghiên cứu các tác giả, một lần nữa khẳng định thêm trong quá trình giao lưu phát triển hoạt động văn hóa tín ngưỡng của cư dân vùng biển có sự biến đổi. 1.2. Nghiên cứu về văn hóa vùng ven biển Nghệ An 1.2.1. Từ góc độ các hoạt động kinh tế Đề cập đến văn hóa biển một cách tổng thể, tác giả Ninh Viết Giao (2001) trong công trình Văn hóa làng biển ở xứ Nghệ đã làm rõ hơn về nguồn gốc xuất xứ, đặc trưng nghề nghiệp của cư dân xứ Nghệ. Trong cuốn Nghề, làng nghề thủ công truyền thống Nghệ An, tác giả Ninh Viết Giao (1998) đã xếp Phương Cần vào danh mục làng nghề, làng buôn. Theo ông, ngư dân vùng Phương Cần có thế mạnh về nghề buôn và nghề thủ công, đây cũng là một nét đặc trưng rất riêng của cư dân ven biển Nghệ An. Trong cuốn Quỳnh Lưu phong thổ ký, Hồ Tất Tố nhấn mạnh đến thế mạnh trong buôn bán nghề cá Trong bài viết Cửa Sót - Thiên nhiên và con người, tác giả Nguyễn Duy Thiệu (1983) chỉ rõ nghề thuần túy của cư dân chủ yếu sống bằng nghề đánh cá biển. Tìm hiểu nguyên nhân sự thích ứng với biển từ phương diện sinh kế của người Việt trong bối cảnh đương đại, Trần Thị An (2015) chỉ ra hai nguyên nhân chính: Sự vơi cạn nguồn lợi từ biển và sự phát triển du lịch đã tác động mạnh đến người dân, khiến họ chuyển dịch sinh kế của mình việc hoàn toàn khai thác biển sang việc đồng thời vừa khai thác biển vừa kinh doanh du lịch theo thời vụ. 1.2.2. Từ góc độ thực hành tín ngưỡng Bài viết Tục thờ cá Ông ở ven biển Nam Trung bộ, Nguyễn Thanh Lợi (2006) cho biết ở một số nơi thờ Tứ vị Thánh nương là do dân ở Quỳnh Lưu mang theo trong cuộc di dân như: đền Lộ (Thường Tín, Hà Tây), đền Tống Hậu ở cửa Lạch Lác, Trực Ninh, Nam Định, đình Lớn/đình Bà Càn ở Cảnh Dương (Quảng Bình)... Có nơi thì rước chân hương ở đền Cờn về hợp tự tại đền làng mình như đình Phong Cốc (Quảng Ninh). Trong cuốn Phong tục tập quán xứ Nghệ, tác giả Lê Tài Hòe (2013) nghiên cứu về nét đặc trưng và những biến đổi trong phong tục tín ngưỡng của ngư dân vùng biển Nghệ An. Bàn về sự tiếp biến trong văn hóa biển bài viết Biển xứ Nghệ nhìn từ văn hóa, tác giả Phan Thắng đã đề cập đến vấn đề hình thành và phát triển và những vấn đề liên quan đến biến đổi trong văn hóa của vùng ven biển Nghệ An. Qua tổng quan công trình nghiên cứu của các tác giả có thể thấy: Thứ nhất: Các nghiên cứu thể hiện được hoạt động kinh tế của cư dân vùng biển... Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu về biến đổi “văn hóa biển” còn quá khiêm tốn so với yêu cầu thực tiễn đặt ra, đặc biệt là còn thiếu những công trình 7 nghiên cứu về biến đổi văn hóa cư dân vùng biển mang tính hệ thống, toàn diện và sâu sắc về nội dung cũng như phương pháp luận. Thứ hai: Ở Nghệ An từ trước tới nay đã có một số công trình, bài viết đề cập đến vấn đề về biển đổi văn hóa của cư dân vùng biển qua hoạt động kinh tế và tín ngưỡng... Tuy nhiên, nghiên cứu về những biến đổi văn hóa của cư dân vùng biển ở Nghệ An đến thời điểm hiện nay chưa nhận được nhiều sự quan tâm. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu của các tác giả đi trước về tư liệu lẫn cách tiếp cận, luận án “Biến đổi văn hóa vùng ven biển Nghệ An qua nghiên cứu trường hợp thị xã Cửa Lò” sẽ góp phần làm rõ thêm một số vấn đề còn bỏ ngỏ. 1.3. Các khái niệm 1.3.1. Biến đổi văn hóa Luận án tiếp cận biến đổi văn hóa của Deninis O’Neil qua lý giải tác giả Hà Đình Thành. Tếp cận khái niệm biến đổi văn hóa và đặt nó trong bối cảnh phát triển dưới sự chi phối tác động của kinh tế. Khi nghiên cứu các nội dung trong quan hệ gia đình, xã hội của cư dân ven biển đặt trong hoạt động kinh tế gia đình, trong hoạt động tín ngưỡng từ đó làm rõ xu hướng biến đổi. 1.3.2 Khái niệm vùng ven biển Vùng ven biển (coastal area) là vùng chuyển tiếp giữa biển và lục địa Vùng ven biển Nghệ An bao gồm 1 thị xã và 3 huyện: Thị xã Cửa Lò, huyện Nghi Lộc, huyện Diễn Châu và huyện Quỳnh Lưu 1.3.3. Khái niệm văn hóa gia đình Luận án sử dụng khái niệm Văn hóa gia đình của tác giả Lê Ngọc Văn. Tiếp cận khái niệm này để định hình rõ hơn về văn hóa gia đình trước sự biến đổi gắn liền với sự phát triển kinh tế của cư dân vùng biển. 1.3.4. Khái niệm tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng Tiếp cận khái niệm về tín ngưỡng của Patrick B. Mullen qua trích dẫn của tác giả Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan. Thông qua khái niệm để hiểu hoạt động tín ngưỡng còn là hệ thống những niềm tin và cách thức thể hiện những niềm tin ấy bằng những hành động cụ thể của con người đối với một hiện tượng siêu nhiên, xã hội, thậm chí là một sự vật nào đó, hoặc cá nhân có liên quan đến cuộc sống thực tại của họ đã được thiêng hóa để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. 1.4. Cơ sở lý thuyết Luận án tiếp cận lý thuyết chức năng của B. Malinowski. Malinowski nhấn mạnh đến các nghi lễ ma thuật của người dân đảo Trobriand ở Thái Bình Dương. Khi 8 họ ra khơi với những nguy hiểm, họ thường dựa vào nghi lễ ma thuật để làm dịu bớt nỗi sợ để trấn an chính mình về mặt tâm lí, mong được an toàn và được mẻ cá to. Cách nhìn nhận theo chức năng tâm lý của B. Malinowski để làm rõ hơn về nhu cầu đời sống tâm linh của cư dân vùng biển Cửa Lò trong bối cảnh hiện nay. Ở Việt Nam, tác giả Phạm Đức Dương khi bàn đến biến đổi văn hóa, ông quy văn hóa dưới hai dạng cấu trúc là cấu trúc bề mặt và cấu trúc chiều sâu: Cấu trúc bề mặt (được gọi là biểu tầng); Cấu trúc chiều sâu (được gọi là cơ tầng) là cấu trúc bên trong của văn hóa, ít biến đổi. Sử dụng quan điểm trên của Phạm Đức Dương trong nghiên cứu luận án, để tác giả chứng minh rõ hơn về đặc trưng trong biến đổi văn hóa của cư dân vùng biển Cửa Lò hiện nay. Qua khảo sát thực tiễn biến đổi ở Cửa Lò hiện nay chủ yếu về mặt hình thức, còn bản chất bên trong của văn hóa không có sự thay đổi. 1.5. Địa bàn nghiên cứu 1.5.1. Điều kiện tự nhiên vùng đất Cửa Lò Thị xã Cửa Lò nằm về phía Đông của tỉnh Nghệ An, với vị trí tiếp giáp: phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Nghi Lộc, phía Bắc giáp huyện Diễn Châu, phía Nam giáp thành phố Vinh (Nghệ An) và huyện Nghi Xuân (tỉnh Hà Tĩnh). Bờ biển Cửa Lò dài 10,2 km, bãi biển rộng, cát trắng mịn, bằng phẳng. Cửa Lò được thiên nhiên ưu đãi 3 hòn đảo lớn, nhỏ là đảo Ngư, đảo Mắt và đảo Lan Châu, là điều kiện thuận lợi cho du lịch biển Cửa Lò phát triển. Với những lợi thế đó, khu du lịch biển Cửa Lò - Nghệ An đã nổi tiếng từ những năm đầu thế kỷ XX. Theo văn bản ký ngày 05/6/1907 của toàn quyền Đông Dương về việc “cho phép tiếp tục sử dụng đất ở Cửa Lò”, đây có thể xem là mốc mở đầu cho quá trình hình thành khu du lịch biển Cửa Lò. Hiện nay Cửa Lò đã tích cực tận dụng khai thác các cảnh quan và sinh thái vùng ven biển, kêu gọi đầu tư để phát triển nhanh cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch và tạo ra nhiều sản phẩm du lịch đa dạng có chất lượng cao. * Phường Nghi Thủy, Nghi Tân, Nghi Hải Phường Nghi Thủy: Nghi Thủy là phường nằm phía Bắc thị xã Cửa Lò có diện tích 175 ha. Toàn phường hiện có 2.032 hộ, 8.800 nhân khẩu, được chia thành 10 khối dân cư. Phường Nghi Tân: Phường Nghi Tân phía Đông giáp phường Nghi Thủy, phía Nam phía Bắc, phía Tây giáp huyện Nghi Lộc. Diện tích 108ha, nhân khẩu 9091, 2.328 hộ thuộc hơn 70 dòng họ sinh sống tại 9 khối dân cư, trong đó có 1/3 dân số theo đạo thiên chúa. 9 Phường Nghi Hải: Phường Nghi Hải cách trung tâm Thị xã Cửa Lò 6 km, với diện tích 534 ha, dân số gần 10 ngàn người. Toàn phường hiện có 11 khối dân cư với trên 2.200 hộ dân, trong đó có 02 khối có đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo (khối Tân Nho và khối Tân Lộc). 1.5.2. Truyền thống lịch sử văn hóa vùng đất Cửa Lò * Về tên gọi vùng đất: Địa danh “Cửa Lò” theo cách giải thích của người dân địa phương hiện nay là cách nói chệch đi và gọn lại của tên gọi “Cửa Lùa” trước đây. Về nguồn gốc tên gọi của vùng đất Cửa Lò đến thời điểm hiện nay đang còn nhiều ý kiến khác nhau. * Lịch sử văn hóa vùng đất Cửa Lò Theo cuốn An Tĩnh cổ lục của tác giả H. L. Bretone thì “vào đầu thế kỷ XV, Cửa Lò chưa có ngọn núi, từ đường cái quan đến Cửa Lò là một hòn đảo mà hai dòng chảy của sông Cấm lượn quanh bắt đầu từ làng Đò Cấm (gần ga Đò Cấm). Nhánh bắc cửa sông vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay. Nhánh Nam hình thành nên Cửa Xá, ngày nay hầu như đã bị cát bồi đắp hoàn toàn. Vào năm 1469, Thái úy - Đô đốc Nguyễn Sư Hồi (con trai trưởng của Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí) được giao chỉ huy lực lượng thủy quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển phía nam quốc gia Đại Việt. Tại Nghệ An ông chọn vùng Cửa Xá cạnh làng Thượng Xá làm đại bản doanh (Cửa Xá là nơi con sông Cấm đổ ra biển. Bao bọc Cửa Xá là núi, như những bức tường thành tự nhiên che chắn cho vùng đất này). Sau Nguyễn Xí, Nguyễn Sư Hồi, công cuộc khai phá đất đai, kiến lập làng xã dọc ven biển Cửa Xá - Cửa Lò được tiếp nối bởi Hoàng hậu Hoàng Thị Lê, Đô đốc tướng quân Phùng Phúc Kiều. Hầu hết các làng xã dọc ven biển Cửa Lò, chủ yếu được hình thành từ nửa cuối thế kỷ XV trở về sau. Cư dân trong vùng từ xưa đã có thêm nghề phụ như: Nghề nấu muối, nghề mộc, trong đó có nghề còn truyền mãi và ngày càng ưu việt như nghề đóng tàu thuyền. Ngoài ra còn có nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, làm nón, chế biến nước mắm, bện đay, đan lưới và đan lát đổ dùng bằng tre. Bên cạnh phong tục thờ Thành Hoàng và các vị thần dân gian quen thuộc ở nhiều vùng nông thôn đất Việt, người dân địa phương còn thờ cá Ông và cả những vị thần trong lĩnh vực nông nghiệp, thương nghiệp 1.5.3. Quá trình phát triển kinh tế 1.5.3.1. Bối cảnh tác động đến sự phát triển kinh tế tại Cửa Lò Cửa Lò đổi mới từ sau Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, vùng ven biển nhận được nhiều đầu tư lớn, 10 dần tạo ra những trung tâm công nghiệp hướng ngoại. Cơ cấu kinh tế biển chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, ngư nghiệp. Sự thay đổi về kinh tế kéo theo những chuyển biến trong văn hóa, cụ thể quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, hội nhập và phát triển. Bên cạnh đó những thách thức mới trong văn hóa được đặt ra, sự tiếp thu thiếu chọn lọc văn hóa ngoại lai làm ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống. 1.5.3.2. Từ ngư nghiệp truyền thống sang phát triển kinh tế dịch vụ, du lịch * Ngư nghiệp truyền thống Cư dân sinh sống trên địa bàn thị xã vốn xuất phát từ các làng chài nhỏ ven biển. Ở các làng chài đại bộ phận đàn ông làm nghề đánh cá biển và làm thêm nhiều nghề phụ khác để kiếm sống Những hoạt động mưu sinh truyền thống trước đây của cư dân Cửa Lò được thể hiện qua hoạt động buôn bán tại chợ Lò. Tư liệu sản xuất, phương pháp đánh bắt truyền thống của ngư dân chủ yếu là đi lộng và đi khơi. Cá sau khi đánh bắt từ biển về, ngoài phần lớn tiêu thụ tươi, bán cho con buôn và mang ra chợ Lò và các chợ lân cận thuộc huyện Nghi Lộc, thành phố Vinh, số còn lại được đem về làm cá khô, chế biến nước mắm. Việc phân công lao động trong các gia đình cư dân hoàn toàn mang tính tự nhiên, gắn với đặc thù công việc. Ngoài nghề đi biển, phụ nữ trong gia đình phải buôn bán thêm ở các chợ vùng lân cận. Mặc dù nghề đi biển cho thu nhập không cao, thường gặp rủi ro từ thiên nhiên, nhưng những cư dân ở Cửa Lò vẫn luôn ý thức phải truyền nghề cho con cái họ. * Chuyển đổi từ ngư nghiệp sang kinh doanh dịch vụ Một hiện trạng phổ biến trong quá trình đô thị hóa ở Cửa Lò là việc chuyển đổi nghề nghiệp của người dân, từ ngư nghiệp sang kinh doanh, dịch vụ,.... Quá trình chuyển đổi nghề nghiệp từ ngư nghiệp truyền thống sang kinh doanh, dịch vụ, du lịch bắt đầu từ năm 2000 và phát triển mạnh từ năm 2008 đến nay. Số còn lại còn bám nghề là do có thu nhập ổn định từ nghề đi biển. Mặt khác hầu hết các sản phẩm đánh bắt được của đều có thị trường tiêu thụ thuận lợi. Trong bối cảnh toàn thị xã Cửa Lò đang đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành kinh tế, trong đó phát triển nhất là ngành du lịch đã tạo ra môi trường thuận lợi để người dân trên địa bàn mở rộng các hình thức kinh doanh buôn bán, nâng cao thu nhập và chuyển đổi nghề nghiệp. 11 Một số hộ gia đình vẫn theo nghề truyền thống nhưng có sự chuyển đổi phương thức làm ăn mới để đem lại hiệu quả hơn. Hiện trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngư nghiệp giảm, kinh doanh dịch vụ tăng là điều tất yếu xảy ra hiện nay ở Cửa Lò. Nguyên nhân là do trong những năm gần đây Cửa Lò ưu tiên phát triển kinh tế du lịch, thị xã đã và đang huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện cho du lịch phát triển. Tiểu kết chương 1 Nghiên cứu về biến đổi văn hóa cư dân vùng biển đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội quan tâm bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau. Cửa Lò là vùng đất được hình thành và khai phá từ sớm, ở vào vị trí địa lý thủy, bộ đều thuận lợi, lại là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh. Cửa Lò là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, cư dân nơi đây đã xây dựng cho mình những nét văn hóa mang đặc trưng riêng của cư dân vùng biển xứ Nghệ. Cửa Lò là đô thị ven biển vùng Bắc Trung bộ đang trong giai đoạn biến đổi có sự kết nối giữa văn hóa biển truyền thống và văn hóa biển đô thị, vừa đậm chất dân gian vừa cởi mở linh hoạt trong phát triển kinh tế. 12 Chương 2 BIẾN ĐỔI VĂN HÓA QUA HOẠT ĐỘNG KINH TẾ GIA ĐÌNH 2.1. Biến đổi quan hệ giữa bố mẹ và con cái 2.1.1. Biến đổi qua định hướng nghề nghiệp Trước đây ngay từ khi còn nhỏ con trai trong gia đình nối nghiệp bố, được bố truyền nghề, truyền kinh nghiệm. Ngày nay, khi nghề nghiệp thay đổi theo hướng mở rộng, con cái trong gia đình có quyền chọn cho mình một nghề riêng. Mọi người có thêm cơ hội để tìm kiếm công việc phù hợp. Đây là cơ sở quan trọng để nhiều người không nối nghề. Đây cũng là những nguyên nhân làm thay đổi sự ràng buộc giữa bố mẹ với con cái trong gia đình. Mặc dầu sự ràng buộc của bố, mẹ tới con cái được cởi bỏ song vai trò người bố, người mẹ trong gia đình truyền thống vẫn luôn được truyền dạy cho con cái trong cuộc sống thường ngày. 2.1.2. Biến đổi qua nhu cầu cuộc sống và phát triển kinh tế Nhu cầu nói chuyện và chia sẻ. Trước đây mỗi thành viên trong gia đình thường chia sẻ về nhu cầu cuộc sống làm thế nào để có đủ cơ ăn, áo mặc mọi người trong gia đình không phải chịu đói rét. Ngày nay, những chia sẻ đó nó được thể hiện phong phú hơn không chỉ dừng lại ở nhu cầu ăn, ở, mặc mà còn hưởng thụ. Nhu cầu việc truyền dạy cho con cái trong gia đình. Trước đâyhầu như bố, mẹ giáo dục con cái về đạo đức, nhân cách làm người nhiều hơn. Còn ngày nay khi kinh tế phát triển bố, mẹ truyền dạy cho con kỹ năng tư duy, kỹ năng cạnh tranh... Trước đây, hầu hết quyền thừa hưởng tài sản bố mẹ đương nhiên sẽ thuộc về con trưởng. Ngày nay, quan niệm con trưởng là người thừa hưởng nhà ở do bố mẹ để lại không còn nặng nề. Con trưởng có thể nhường lại nhà cho con thứ để ra ở riêng, để phù hợp với việc kinh doanh buôn bán. Thậm chí có những gia đình con cái tách hẳn bố mẹ để dễ làm ăn buôn bán. Kỹ năng sinh tồn trong xã hội được những cư dân quan tâm, trai hay gái, số lượng con nhiều hay ít không phải là vấn đề chính mà cái cần thiết nhất chính là việc nuôi dạy để con phát triển toàn diện. Khi kinh tế khả giả việc phân chia tài sản cho con cái trong gia đình công bằng hơn, con trai cũng như con gái đều được bố mẹ chia đều tài sản. Khi lớp trẻ ít quan tâm đến ngư nghiệp truyền thống, họ buộc phải chuyển sang kinh doanh, dịch vụ, du lịch. Thời gian dành cho công việc nhiều hơn, mọi người trở nên bận rộn ít có thời gian chăm sóc gia đình. 13 Sự tác động của kinh tế vô hình chung đã tách dần mối quan hệ mật thiết giữa ông, bà, bố mẹ và con cái. Người lớn bận công việc, trẻ em bận đi học, nhiều gia đình không có lấy một bữa cơm chung gia đình, bố mẹ con cái ít có thời gian bên nhau. Nhiều gia đình bố mẹ phó mặc việc chăm sóc con cho người giúp việc, cho ông bà hay các con tự chăm sóc lẫn nhau. Cái cốt lõi trong gia đình là tình yêu thương của bố, mẹ tới con cái vẫn không thay đổi. Đó chính là những giá trị văn hóa truyền thống hoàn toàn không mất đi trong bối cảnh kinh tế, xã hội có nhiều đổi thay. 2.2. Biến đổi quan hệ anh, chị, em trong gia đình Với gia đình cư dân truyền thống họ thường tương trợ nhau trong cuộc sống cùng hộ trợ nhau trong nghề nghiệp. Ngày nay, do nhu cầu làm ăn lớn đòi hỏi vốn để phát triển kinh doanh vì vậy anh, chị, em trong gia đình đã hợp sức nhau lại để phát triển kinh tế. Các thành viên trong gia đình sử dụng các kỹ năng trong kinh doanh để hộ trợ và phát triển, biết vượt qua, điều tiết các mối quan hệ khi có những xung đột xảy ra. Mô hình kinh doanh khép kín theo nhóm hộ gia đình góp phần vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, vừa tạo ra mối liên hệ bền chặt về tình cảm của anh, chị, em. 2.3. Biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình 2.3.1. Biến đổi vai trò người phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày Ngày trước, người đàn ông trong gia đình đóng một vai trò quan trọng, hầu như mọi công việc đều do người chồng quyết định. Và ngày nay, khi kinh tế phát triển, phụ nữ có nhiều cơ hội hơn để tìm cho mình công việc phù hợp. Chính sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội và ý thức làm chủ cuộc sống đã làm biến đổi vai trò của người phụ nữ trong đời sống gia đình. 2.3.2. Biến đổi vai trò người phụ nữ trong kinh doanh Người phụ nữ miền biển bây giờ đã biết chủ động hơn trong cuộc sống, không quá phụ thuộc vào người chồng. Vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế thể hiện trên nhiều lĩnh vực du lịch, dịch vụ, chế biến hải sản, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nông nghiệp. Từ văn hóa ứng xử trong kinh doanh, đã giúp người phụ nữ có được mạng lưới khách hàng bền vững, giúp họ có thu nhập ổn định thường xuyên hơn. Sự phát triển kinh tế đã làm thay đổi tư duy, nhận thức của những cư dân ven biển theo hướng tích cực hơn. Vị trí của người đàn ông và người phụ nữ xích lại gần nhau hơn. 14 Tiểu kết chương 2 Biến đổi văn hóa là hiện tượng phổ biến trong gia đình cư dân hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế, quá trình biến đổi trở nên phức tạp hơn. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình có nhiều thay đổi theo hướng mở từ đó kéo theo vị trí của từng cá nhân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_bien_doi_van_hoa_vung_ven_bien_nghe_an_qua_n.pdf