Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chúng ta đang sống ở một thời đại có nhiều biến chuyển lớn lao. Những thay đổi này diễn ra với một gia tốc mạnh mẽ không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn mang tính toàn cầu, tất yếu dẫn đến những triển vọng to lớn và cả những thách thức nghiêm trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Phát triển trong thời đại ngày nay đòi hỏi nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới. Trong vài thập niên trở lại đây, văn hóa có vai trò quan trọng chưa t

doc127 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1910 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừng thấy trong lịch sử. Sự tiến bộ hay lạc hậu của một quốc gia, sự phát triển hay trì trệ của một dân tộc, sự thành công hay thất bại của một chiến lược phát triển, sự hưng thịnh hay suy vong của một đất nước... đều phụ thuộc vào chỗ văn hóa đã được nhận thức và sử dụng như thế nào trong phát triển kinh tế - xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng, sự phát triển tiến bộ, bền vững của mỗi quốc gia dân tộc chỉ có thể có được khi nó được tạo lập trong một môi trường văn hóa (MTVH) trong sạch, lành mạnh, phong phú và mang đậm truyền thống của dân tộc. Về vấn đề này, ông Federico Mayor - Tổng Giám đốc UNESCO - đã lên tiếng cảnh báo: "Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách khỏi môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hóa, và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy giảm rất nhiều" [9, tr. 8]. Nhận thức rõ vị trí vai trò quan trọng của MTVH qua tổng kết lịch sử phát triển mấy nghìn năm của dân tộc, kết hợp với nghiên cứu xem xét các yếu tố cơ bản dẫn đến thành công hay thất bại của một số nước trên thế giới, tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) Đảng ta khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội". Theo tinh thần của Nghị quyết, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) mà chúng ta đang tiến hành nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) đang đặt ra nhiệm vụ cấp bách là xây dựng một xã hội không chỉ có nền kinh tế và khoa học công nghệ phát triển cao, mà cùng với nó phải là một MTVH trong sạch, lành mạnh, thực sự là nguồn năng lượng tinh thần vô giá, là "cái nôi" nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách con người. Nhiệm vụ này hoàn toàn thống nhất với mục tiêu của con đường đi lên CNXH mà Đảng ta đã lựa chọn: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [16, tr. 163], hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng thiết tha của toàn thể dân tộc ta. Thành tựu lớn lao của chặng đường hơn 15 năm đổi mới toàn diện đất nước càng khẳng định xây dựng MTVH phải trở thành yêu cầu bức thiết và là điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới, đảm bảo sự phát triển tiến bộ, bền vững của quốc gia dân tộc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng khẳng định phải phát triển nhanh nhưng bền vững; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mục tiêu chân - thiện - mỹ là đích vươn tới của văn hóa Việt Nam. Cũng cần phải nghiêm túc thừa nhận rằng, bên cạnh những thành tựu đáng tự hào mà chúng ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới vừa qua, thực trạng MTVH nước ta còn nhiều những hạn chế, bất cập đáng lo ngại: sự gia tăng nhanh chóng của tệ nạn xã hội; sự băng hoại đạo đức, lối sống của một lớp người trong xã hội, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ; sự tấn công, phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang làm xói mòn đạo đức, lối sống, phá vỡ thuần phong mỹ tục, chao đảo kỷ cương, phép nước... Tất cả dẫn đến nguy cơ nhiễu loạn, ô nhiễm MTVH, cản trở con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tuy nhiên, việc xây dựng MTVH đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ của CNH, HĐH đất nước còn là vấn đề khá mới mẻ, chưa được quan tâm nhiều trong hoạt động nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn xây dựng MTVH ở các địa phương cho nên không tránh khỏi những hạn chế, bất cập trong nhận thức và giải quyết vấn đề. Hạ Long (thuộc tỉnh Quảng Ninh) là một thành phố trẻ, một trung tâm du lịch của cả nước, có tầm cỡ thế giới. Đặc biệt, với hệ thống đường biển và cảng biển phong phú và thuận lợi, Hạ Long là cửa ngõ giao thông quan trọng của các tỉnh phía Bắc trong giao lưu với các nước trong khu vực và quốc tế. Vì vậy, xây dựng MTVH của thành phố càng là vấn đề cấp thiết và không kém phần khó khăn, phức tạp. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Về vấn đề MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến như: Văn hóa - một số vấn đề lý luận của PGS. Trường Lưu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Tác giả đã xem xét MTVH trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên (MTTN) và môi trường xã hội (MTXH), từ đó đặt ra yêu cầu trong hoạt động xây dựng MTVH cần có sự kết hợp hài hòa, đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng MTTN và MTXH nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của văn hóa, xã hội. GS.TS Hoàng Vinh trong cuốn Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999 nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở - bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Từ việc đi sâu nghiên cứu khái niệm, bản chất, chức năng của văn hóa, GS.TS Trần Văn Bính trong Đề cương bài giảng lý luận văn hóa (cho hệ đào tạo cao học và nghiên cứu sinh), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000 xem MTVH được hình thành bởi các giá trị mà hoạt động của con người tạo ra. Trong công trình nghiên cứu Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002, GS.TS Đỗ Huy đã tiếp cận MTVH theo thước đo giá trị lịch sử - xã hội, làm hiện diện bản chất của MTVH như một di sản có nhiều năng lượng quý hiếm mà tất cả các thế hệ tiếp nối đều phải gìn giữ và sáng tạo tiếp. Từ đó đề ra việc đánh giá MTVH phải được dựa vào một hệ chuẩn nhất định. Tiếp cận văn hóa như một tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị mang tính nhân văn, TS. Văn Đức Thanh trong cuốn Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề phương pháp luận trong quá trình xây dựng MTVH cơ sở. TS. Trần Lê Bảo và các tác giả của cuốn Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001 lại xem xét vấn đề văn hóa, MTVH từ góc độ quan hệ hữu cơ của con người với tự nhiên, với môi trường sinh thái (MTST) của nó, coi đó là cơ sở để giải quyết vấn đề MTST - nhân văn, cũng là MTST - xã hội đang trở nên bức xúc hiện nay. Ngoài ra, nhiều tác giả không trực tiếp đề cập đến MTVH mà đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa như: Văn hóa và đổi mới của Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Vấn đề văn hóa và phát triển của GS.TS Hoàng Trinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Quản lý hoạt động văn hóa của Nguyễn Văn Hy - Phan Văn Tú - Hoàng Sơn Cường, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998; Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Những vấn đề văn hóa Việt Nam đương đại của GS.TSKH Bùi Khái Vinh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001... Đây thực sự là những công trình nghiên cứu có giá trị, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu toàn diện về MTVH. Trong những năm gần đây, đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu về MTVH ở các lĩnh vực khác nhau và các địa phương khác nhau. Tuy nhiên, MTVH vẫn đang đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết tiếp và vấn đề "Xây dựng môi trường văn hóa ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay" chưa có công trình nào đề cập đến. Kế thừa những thành tựu đã đạt được, luận văn này sẽ tập trung đi sâu vào tìm hiểu toàn diện hơn về MTVH và làm rõ những vấn đề đang đặt ra trong việc xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về MTVH, luận văn khảo sát và đánh giá thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây dựng MTVH thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Nhiệm vụ: - Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận MTVH. - Khảo sát và đánh giá đúng thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu lực, hiệu quả xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long, từ đó đề ra các giải pháp sát thực, hữu hiệu. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng về văn hóa và xây dựng MTVH trong thời kỳ đổi mới hiện nay. - Kết hợp các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử; tiếp thu và sử dụng linh hoạt các phương pháp so sánh, thống kê, điều tra xã hội học; sử dụng kiến thức liên ngành về văn hóa - môi trường trong quá trình nghiên cứu. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về MTVH và xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng MTVH ở thành phố Hạ Long. - Đề xuất một số giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả xây dựng MTVH ở địa phương trong thời kỳ đổi mới hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận văn thành công sẽ là đề tài tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy môn Lý luận văn hóa trong hệ thống các trường Đảng địa phương. - Luận văn cung cấp nguồn tư liệu cho các cấp các ngành và chính quyền địa phương tham thảo trong hoạt động lãnh đạo quản lý xây dựng MTVH trên địa bàn thành phố. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI 1.1. QUAN NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói đến việc phát huy những năng lực bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nghiên cứu MTVH trên cơ sở phương pháp luận mácxít thực chất là nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa con người với hoàn cảnh. Con người là một thực thể xã hội được hình thành trong những điều kiện hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định, trong đó con người không chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà còn là kẻ sáng tạo ra hoàn cảnh, là chủ thể tích cực của hoàn cảnh. Mác và Ăngghen đã khẳng định rằng: "Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy" [28, tr. 55]. Như vậy, xét theo góc độ văn hóa, con người vừa là chủ thể sáng tạo, tích lũy và phát triển văn hóa, vừa là khách thể trong sự tác động trở lại của văn hóa nhằm tạo nên những nhân cách toàn diện. Toàn bộ những sản phẩm văn hóa do con người sáng tạo ra bằng tri thức, lao động và tất cả các hoạt động khác của nó hợp thành một "thế giới nhân tạo" phân biệt với thế giới tự nhiên, được gọi là "hệ sinh thái văn hóa". Cùng với hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái văn hóa thường xuyên tác động đến con người, nuôi dưỡng tâm hồn, phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách con người. Trong sự tác động qua lại nhiều chiều ấy, "nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống của con người được hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách rời đại tự nhiên, cũng như con người không thể thực sự là con người nếu tách rời môi trường văn hóa" [8, tr. 65]. Từ góc độ nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của MTVH, cần thiết phải tìm hiểu các khái niệm văn hóa, MTVH. 1.1.1. Văn hóa và môi trường văn hóa Khái niệm văn hóa Văn hóa là một thuật ngữ có nội hàm ngữ nghĩa khá phong phú và phức tạp, có nguồn gốc cả ở phương Tây và phương Đông. Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện rất sớm trong đời sống ngôn ngữ, ban đầu nó là một từ có căn gốc La tinh "colere", sau trở thành "cultura" nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau, "cultura" được chuyển sang nghĩa rộng hơn là sự vun trồng tinh thần, trí tuệ. Cicéron, nhà chính trị hùng biện thời La Mã (thế kỷ I Tr. CN) từng có câu nói nổi tiếng: "Filosofia cultura animiest" nghĩa là: Triết học là văn hóa (sự vun trồng) tinh thần, chính là nói về quá trình giáo dục, bồi dưỡng về các mặt tinh thần, trí tuệ cho con người. Ở phương Đông, từ văn hóa xuất hiện vào thời Tây Hán. Lưu Hướng (năm 77-6 Tr. CN) trong sách Thuyết Uyển, bài Chỉ Vũ có viết: "Bậc thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức, sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt" [38, tr. 13]. Ở đây, văn hóa được hiểu như một cách giáo hóa đối lập với vũ lực, theo đó văn hóa là "văn trị giáo hóa" tức là dùng "văn trị" (cái hay cái đẹp) để "giáo hóa" (giáo dục cảm hóa) con người. Như vậy có thể thấy, ngay từ thuở rất xa xưa, ở cả phương Tây và phương Đông, con người đã ý thức được về văn hóa và vai trò của nó đối với việc giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ và tình cảm con người. Mặc dù có mặt rất sớm trong đời sống ngôn ngữ như vậy, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa mới được đưa vào sử dụng như một thuật ngữ khoa học với ý nghĩa: văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội của con người, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Cuối thế kỷ XIX, sau khi công trình "Văn hóa nguyên thủy" của E.B. Taylor được công bố (1871), ngành khoa học về văn hóa mới chính thức được khẳng định. Tuy nhiên, chỉ đến thế kỷ XX, đặc biệt là những thập niên cuối của thế kỷ, việc nhận thức về văn hóa và vai trò của nó đối với đời sống xã hội mới thực sự được chú ý. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ khiến con người tiến nhanh về phía trước với những bước đi của "người khổng lồ", song bên cạnh đó là sự sụp đổ về mô hình phát triển ở một số quốc gia dân tộc chỉ chú trọng phát triển kinh tế thuần túy, xem nhẹ vai trò của văn hóa đã khiến cho con người bắt đầu nhìn nhận văn hóa với một nhãn quan mới. Văn hóa được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bằng lập luận của mình, mỗi nhà khoa học đều có sự phân tích, bổ sung thêm, làm cho văn hóa trở thành một đối tượng đặc biệt có nội hàm không ngừng được mở rộng, được nhìn nhận với một thái độ rất văn hóa và cũng rất khoa học. Bởi lẽ đó, cho đến nay, theo thống kê của một nhà dân tộc học người Mỹ, có khoảng hơn 400 định nghĩa về văn hóa. Có thể nói, có bao nhiêu người nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa, và việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về văn hóa là vô cùng khó khăn. Jacques Dérrida, nhà nghiên cứu văn hóa người Pháp đã phải thốt lên: "Văn hóa chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn không cùng với những ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó" [19, tr. 35]. Từ điển Triết học đưa ra định nghĩa: "Văn hóa gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội... Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội" [43, tr. 1329-1330]. Hiện nay UNESCO đang nhìn nhận văn hóa với một ý nghĩa rộng rãi hơn, coi văn hóa như một phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm... khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Năm 1988, khi phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor cũng đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc" [9, tr. 23]. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên. Ở Việt Nam nước ta, văn hóa từ danh từ chuyển hóa thành thuật ngữ đa nghĩa cả trong ngôn ngữ thường ngày lẫn trong luận điểm khoa học. Xa xưa, ông cha ta dùng từ "văn hiến" thay cho từ văn hóa như hiện nay và nội hàm của nó cũng chưa mở rộng như các giai đoạn sau này. Từ đời Lý (1010), người Việt đã tự hào nước mình là một "văn hiến chi bang". Đến đời Lê (thế kỷ XV), danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: "Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang" (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ "văn hiến" mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nền văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng. Năm 1942, tại "Mục đọc sách" viết xen trong bản thảo "Nhật ký trong tù", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa hết sức xác đáng: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa" [30, tr. 431]. Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh bằng cách tiếp cận biện chứng đã nắm bắt trạng thái vận động và cả trạng thái tĩnh của văn hóa. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương cũng đưa ra một nhận định mang dáng nét tương đồng với quan niệm của Hồ Chủ tịch: "Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: "Văn hóa tức là sinh hoạt"" [2, tr. 13]. Những năm gần đây, nghiên cứu văn hóa thực sự trở thành một môn khoa học tại Việt Nam. Một số học giả tập trung nghiên cứu về văn hóa tiếp tục đưa ra các quan niệm của mình về văn hóa. Trên cơ sở phân tích các định nghĩa về văn hóa, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa: "Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" [42, tr. 27]. Định nghĩa này đã nêu bật bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa là: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Ngoài ra, một số các định nghĩa khác của GS. Hà Văn Tấn, GS. Trần Quốc Vượng, GS. Hoàng Vinh, GS. Trần Văn Bính, PGS. Trường Lưu... cũng là những đóng góp quan trọng bổ sung cho nhận thức chung về văn hóa. Mặc dù đứng ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau nên cách giải thích, cách quan niệm cũng khác nhau song nhìn chung, đại đa số các nhà nghiên cứu văn hóa đều quan niệm văn hóa gắn với con người, là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra, trở thành bộ phận cơ bản trong xã hội. Tóm lại, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt có tính ngành nghề. Đó là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bản chất của con người, vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Văn hóa là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân và hoạt động có hướng đích nhằm đạt tới một giá trị nào đó trong xã hội. Văn hóa là "thiên nhiên thứ hai", là "cái nôi' nuôi dưỡng tâm hồn và hình thành nên phẩm giá con người. Một không gian văn hóa lành mạnh bao gồm toàn bộ những sản phẩm, hành động, khuôn mẫu ứng xử... chứa đựng hệ thống giá trị nhân văn và vốn kinh nghiệm xã hội, sẽ tạo thành "môi trường văn hóa" lành mạnh nuôi dưỡng đời sống tinh thần con người, phát triển con người ngày càng hoàn thiện về mọi mặt. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp cận, nghiên cứu về MTVH. Khái niệm môi trường văn hóa Trước đây ở nước ta, một số khái niệm liên quan đến môi trường như: môi trường sống, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội... thường được dùng phổ biến để chỉ phạm vi những điều kiện thiết yếu cho sinh vật (trong đó có con người) tồn tại và phát triển. Từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng Cộng sản Việt Nam, một thuật ngữ mới là "môi trường văn hóa" bắt đầu xuất hiện, được đông đảo mọi người tiếp nhận và nhanh chóng thu hút sự tập trung chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Đây thực sự là vấn đề mới mẻ trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, cho đến nay chưa có được một quan niệm thống nhất. Từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, khái niệm "môi trường" mới chỉ được tiếp cận ở góc độ khoa học tự nhiên thuần túy ở phương Tây nên môi trường chỉ được coi là những gì thuộc về tự nhiên hay thế giới vật chất bao quanh con người như không khí, đất, nước, các loài sinh vật v.v... Quan niệm này trở thành khá phổ biến ở nhiều nước trên thế giới trong suốt một thời gian dài. Ở Việt Nam những năm gần đây, quan niệm này vẫn còn tồn tại trong giới nghiên cứu khoa học. Tạp chí Cộng sản số 19/1996 đưa ra quan niệm: "Môi trường là tổng hợp các điều kiện cư trú về tự nhiên và sinh thái của con người, của một hay nhiều loài động vật, thực vật hoặc sinh vật", từ đó dẫn đến quan niệm về bảo vệ môi trường là "tổng hợp các biện pháp nhằm quản lý, duy trì, sử dụng hợp lý, phục hồi, nâng cao hiệu quả sử dụng môi trường tự nhiên giúp cho cuộc sống của con người và thiên nhiên có sự hài hòa, phù hợp" [44, tr. 58]. Qua đó có thể thấy, khái niệm môi trường bị đồng nhất (hoặc lẫn lộn) với khái niệm MTTN, MTST. Thực ra, nhìn nhận vấn đề ở tầm khái quát có thể thấy khái niệm "môi trường" chỉ một phạm vi rất rộng lớn. Theo định nghĩa của UNEP (chương trình môi trường của Liên hợp quốc) thì: "Môi trường là thế giới mà chúng ta đang sống trong đó"; trong quan niệm của nhà nghiên cứu Ấn Độ Suriyakuran, "môi trường có thể được xác định như là tổng di sản hành tinh và tổng số của tất cả các tài nguyên" [31, tr. 25]. Michel Batisse, nhà nghiên cứu người Pháp nổi tiếng về môi trường và tài nguyên thiên nhiên đã khẳng định: "Môi trường không chỉ bó hẹp ở những không gian được gọi là tự nhiên và đã bị biến đổi ít nhiều qua các thời kỳ mà còn bao gồm cả những không gian nhân tạo làm thành khung cảnh cho cuộc sống của hầu hết mọi người" [29, tr. 47-48]. Trên cơ sở những quan niệm về môi trường theo nghĩa rộng mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra, PGS. Trường Lưu khái quát lại: "Về một định nghĩa chung nhất thì môi trường là những gì gắn chặt và bao quanh con người" [27, tr. 241]. Tập hợp tất cả các ý kiến trên, có thể rút ra nhận định: Môi trường là một khái niệm "mở", nó bao gồm "mọi thứ quanh ta", "có liên quan mật thiết với ta". Đó là những yếu tố tự nhiên hay nhân tạo, thuộc phạm trù vật chất hay tinh thần, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội. Theo đó có thể hiểu, môi trường sống của con người không chỉ là MTTN và MTXH, đó là còn là MTVH - môi trường sống đặc biệt chỉ có ở cộng đồng người. Các yếu tố này có quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau, đan xen vào nhau tạo nên điều kiện sống và điều kiện phát triển của cá nhân và của xã hội. Như vậy, MTVH chính là một bộ phận của môi trường sống của con người, nhưng nó không tồn tại tự thân mà nó chính là kết quả của sự "đan bện" rất phức tạp và đa dạng giữa các hệ môi trường với nhau, tạo nên một môi trường đặc biệt riêng có ở con người, gắn với cuộc sống của con người, còn gọi là môi trường nhân văn (MTNV). Khái niệm MTVH lần đầu tiên được đề cập đến trong tác phẩm "Sinh thái nhân văn" năm 1975 của Giáo sư sinh - nhân chủng học người Pháp Georges Olivier, trong đó MTVH hay MTNV được tạo nên bởi "sự tác động của con người tới con người" và "tổ chức xã hội của chúng ta", còn "sự tác động của con người với tự nhiên cũng như sản phẩm từ nền công nghiệp đương nhiên đã có và phải có" [20, tr. 10]. Theo ý nghĩa này, MTVH là khái niệm mang tính đa phương, đa diện: MTVH là không gian văn hóa chứa đựng các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với xã hội, con người với con người. Theo quan niệm của nhà nghiên cứu Xô viết GS.TS Triết học A.I.Ác-nôn-đốp , MTVH là "tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con người hiện diện văn hóa" [1, tr. 75]. Ở Việt Nam những năm gần đây, MTVH trở thành vấn đề bức xúc, thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Xuất phát từ những mục đích nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đề cập và tiếp cận MTVH từ các góc độ và cấp độ cũng khác nhau. Trong công trình nghiên cứu khoa học "Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam" của Bộ Quốc phòng, "môi trường văn hóa là tổng hòa những thành tố vật chất và tinh thần tương đối ổn định, trong một thời gian và không gian cụ thể, ở đó các cá nhân tác động đến nhau, con người là yếu tố quan trọng nhất của môi trường văn hóa" [46, tr. 32]. Từ góc độ lãnh đạo, quản lý, các tác giả của cuốn sách "Quản lý hoạt động văn hóa" năm 1998 nhận định: "Môi trường văn hóa là một tổng thể các sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa, hành vi văn hóa, thiết chế, phương tiện và cảnh quan văn hóa... mà cá nhân tiếp xúc trong suốt đời mình và có ảnh hưởng qua lại với mình" [24, tr. 77]. Mới đây, xuất phát từ quan điểm giá trị học, GS.TS Đỗ Huy cho rằng: "Môi trường văn hóa gắn với toàn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi trường gắn liền với sự đối tượng hóa các năng lực bản chất của con người..." [23, tr. 24]. Từ đó, tác giả đi đến kết luận: "Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình" [23, tr. 35-36]. Như vậy, có thể hiểu MTVH là tổng hòa các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tác động đến con người và cộng đồng trong một không gian và thời gian xác định, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng. Theo ý nghĩa này, MTVH đồng nghĩa với MTNV, bởi theo TS. Vũ Hào Quang, MTNV chính là "những điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội xung quanh con người, có tác động trực tiếp tới sự hình thành phát triển nhân cách của cá thể, lối sống của các nhóm xã hội cũng như của toàn thể xã hội" [34, tr. 3-4]. MTVH chính là dạng "môi trường sống đặc biệt" chỉ có ở cộng đồng người. Và nếu tiếp cận văn hóa như sự phát triển những "giá trị người" theo cái chân - thiện - mỹ trong tiến trình lịch sử thì môi trường sống của con người bao quát toàn bộ MTXH và những gì thuộc MTTN nhưng được con người "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa". Mặc dù góc độ nghiên cứu, cấp độ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và cách diễn giải về MTVH khác nhau nhưng các tác giả đều đi đến khẳng định MTVH là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong môi trường sống của con người. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để phân tích khái niệm cũng rất đa dạng, song nhìn chung, quan niệm về MTVH của các tác giả mang tính đồng thuận, đồng chiều, không có sự đối lập, mâu thuẫn, phủ định nhau. Tuy nhiên, để nắm được một cách đầy đủ bản chất của MTVH, cần đối chiếu, so sánh và phân biệt khái niệm MTVH với một số khái niệm khác có liên quan. Lâu nay, văn hóa được coi là "thiên nhiên thứ hai" do con người tạo nên, là "cái nôi" nuôi dưỡng đời sống tinh thần, tình cảm con người. Gần đây, khi khái niệm MTVH xuất hiện, người ta cũng gọi MTVH là "cái nôi" nuôi dưỡng tinh thần và phát triển nhân cách con người. Đó không phải là những cách hiểu thiếu chiều sâu dẫn đến sự lẫn lộn, không phân biệt hoặc đồng nhất hai khái niệm này. Nguyên do là ở chỗ giữa hai khái niệm "văn hóa" và "môi trường văn hóa" có những nét tương đồng. Nếu văn hóa là "sự phát huy các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người nên văn hóa trở thành năng lực tinh thần đặc biệt, giúp con người hoàn thiện nhân cách, tâm hồn, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của con người" [8, tr. 65], thì một khi đã hình thành, văn hóa lại tạo ra môi trường sống, MTVH của con người, góp phần quan trọng trong việc hình thành con người như một thực thể văn hóa. Trong mối quan hệ nhiều chiều của môi trường sống đến con người, văn hóa và MTVH đều là những nhân tố có ảnh hưởng, tác động quan trọng đến phát triển toàn diện con người. Bên cạnh những nét tương đồng, có thể nhận thấy giữa văn hóa và MTVH có những sự khác biệt tương đối để phân định, không thể đồng nhất. Văn hóa hàm chứa một ý nghĩa rất rộng lớn. Văn hóa được nhìn nhận là trình độ, năng lực bản chất người, là hoạt động sáng tạo và sản phẩm (giá trị) sáng tạo của con người. Văn hóa vừa tiềm ẩn trong con người, vừa được thể hiện ra thế giới xung quanh con người. Còn MTVH lại chính là một bộ phận của môi trường sống được "nhân hóa", "văn hóa hóa", "thẩm mỹ hóa"..., là sự biểu hiện văn hóa của con người ra bên ngoài cùng với con người hoạt động văn hóa. Hơn thế nữa, văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng định hướng, chi phối bản chất, trình độ phát triển của MTVH, bởi theo GS.TS Trần Văn Bính, "văn hóa không dừng lại ở các hoạt động. Các hoạt động sẽ tạo ra các giá trị. Giá trị là hạt nhân tạo nên văn hóa, là hòn đá thử vàng để phân biệt các hoạt động văn hóa với các hoạt động phản văn hóa. Các giá trị này đến lượt nó lại hình thành nên khái niệm mà ta gọi là môi trường văn hóa" [8, tr. 67]. Trong mối quan hệ với con người, MTVH giữ vai trò khách thể, là cái "bao quanh" con người, tác động trở lại con người một cách khách quan. Con người là yếu tố quan trọng, giữ vai trò chủ thể của văn hóa. Văn hóa luôn luôn vận động biến đổi. Thông qua sự vận động và phát triển của văn hóa, MTVH luôn luôn được bồi đắp các giá trị mới, đó là các giá trị nhân văn, nhân bản, hiện đại, đảm bảo cho sự phát triển tiếp nối các giá trị truyền thống, tạo ra tính đa dạng, linh hoạt của MTVH. "Môi trường văn hóa là thành quả kết tinh của một thời đại cụ thể" [23, tr. 67], song nó không đơn thuần chỉ là sản phẩm của nền văn hóa trong xã hội hiện tại mà còn là sự phát triển tiếp nối của truyền thống dân tộc, của hệ thống các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, các phương thức hoạt động, khuôn mẫu ứng xử... được các thế hệ liên tục nuôi dưỡng và bồi đắp thêm, đã định hình và tương đối ổn định trong suốt tiến trình vận động và phát triển nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, MTVH là một bộ phận quan trọng, một phư._.ơng diện cốt lõi của văn hóa, phản ánh bản chất, trình độ phát triển của nền văn hóa trong một xã hội cụ thể. Theo quan điểm giá trị học, MTVH là tổng thể các giá trị tinh thần "bao quanh con người". Chất lượng của MTVH trong từng giai đoạn lịch sử nhất định là yếu tố quyết định sự phát triển con người, phát triển xã hội trong giai đoạn lịch sử ấy. Trong thực tế, MTVH được biểu hiện như sự đan xen phức hợp giữa MTTN và MTXH. Không nên lẫn lộn hay đồng nhất MTVH với MTXH mặc dù chúng có quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động hữu cơ với nhau: "Môi trường xã hội nói chung, trong đó bao gồm nhiều yếu tố văn hóa, hay môi trường văn hóa cũng đồng thời là môi trường xã hội nếu hiểu văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội" [27, tr. 241]. Có nghĩa là, MTXH và MTVH vừa thống nhất hữu cơ, vừa khu biệt theo cơ chế tổ chức. Cũng không nên quan niệm MTVH, do chỗ là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra nên nó biệt lập, tách rời MTTN. Đến đây có thể thấy rõ, sự phân định môi trường sống của con người ra thành ba lĩnh vực: MTTN, MTXH, MTVH như trên chỉ có tính tương đối. MTVH là một lĩnh vực riêng có trong môi trường sống của con người, nó có tính độc lập tương đối với quy luật vận động và phát triển mang tính đặc thù. Sự "đan bện" phức hợp giữa ba hình thái môi trường này sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người. Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người ngày càng được tạo điều kiện để phát huy năng lực hoạt động sáng tạo của mình nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của xã hội. Xã hội càng phát triển thì phạm vi của MTVH càng rộng mở và càng có tác động tích cực đến đời sống con người và xã hội. MTVH hình thành nên những biểu trưng giá trị cho con người và cộng đồng, xác định nội dung tư tưởng, điều chỉnh nhu cầu và nguyện vọng, định hướng cho mọi hoạt động sáng tạo trong xã hội hướng tới chân - thiện - mỹ. Nói cách khác, MTVH là tổng hòa các điều kiện vật chất, tinh thần, hoàn cảnh, tổng hòa các mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng, tác động đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, phát triển năng lực sáng tạo của con người. Vì lẽ đó, xem xét con người không bao giờ được tách rời khỏi mối quan hệ với ba hình thái môi trường nêu trên. Và, thực hiện nhiệm vụ xây dựng MTVH ở nước ta phải dựa trên cơ sở kết hợp đồng bộ, hài hòa và chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng MTTN và MTXH thực sự phong phú, trong sạch, lành mạnh. Xây dựng MTVH là phải giải quyết tốt các mối quan hệ giữa con người với xã hội, con người với tự nhiên và con người với con người. "Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người giao tiếp với tự nhiên, phát triển hài hòa với tự nhiên. Môi trường văn hóa của chúng ta là môi trường mà ở đó con người được sống bình đẳng, tự do và hạnh phúc, và bộ giá trị chân - thiện - mỹ là hướng vận động cơ bản" [23, tr. 25]. Trên cơ sở những phân tích lý giải trên, có thể rút ra một khái niệm chung về MTVH như sau: Môi trường văn hóa là tổng hòa các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể bao quanh con người, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với con người trong một không gian và thời gian xác định, có ảnh hưởng tác động đến sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, phù hợp với sự vận động và phát triển của đời sống xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Là chủ thể tích cực của MTVH, con người luôn luôn đóng vai trò quyết định trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa, hình thành những quan hệ văn hóa, lựa chọn, tổ chức, tham gia những hình thái hoạt động văn hóa và điều tiết, phát huy tác dụng của những thiết chế đảm bảo đời sống văn hóa, hợp thành MTVH. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của MTVH, con người vừa là chủ thể xây dựng MTVH, vừa là sản phẩm chủ yếu nhất của MTVH, bởi con người - theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - là con người xã hội. Tách khỏi đời sống xã hội và MTVH, con người không thể hình thành và phát triển nhân cách của mình được: "Người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục" [59, tr. 129]. Vì vậy, để phát triển con người một cách toàn diện theo yêu cầu của xã hội và thời đại, cần phải tiến hành xây dựng và bảo vệ tốt MTVH. 1.1.2. Cấu trúc của môi trường văn hóa Văn hóa là một cấu trúc phức hợp, đa diện và đa nghĩa, theo đó MTVH cũng có cấu trúc hết sức phức tạp theo cả chiều rộng và chiều sâu. Có thể tiếp cận cấu trúc đó ở nhiều phương diện khác nhau như: phân chia thành những yếu tố vật thể và những yếu tố phi vật thể; phân chia thành những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội; phân chia thành những yếu tố đã có, đã hoàn thiện, được kế thừa, chọn lọc và những yếu tố đang ở dạng tiềm năng, đang trong quá trình phát sinh, hình thành và phát triển... Cũng có thể tiếp cận cấu trúc đó ở nhiều góc độ khác nhau như: tiếp cận từ vấn đề và hiện tượng sẽ thấy MTVH bao gồm các hình thái chuẩn mực (phong tục, tập quán), các hình thái giá trị (truyền thống yêu nước, thương dân, quên mình vì nghĩa lớn) và hình thái biểu tượng (các vua Hùng, Lạc Long Quân - Âu Cơ, các vị anh hùng dân tộc dựng nước và giữ nước). Bất luận từ phương diện nghiên cứu hay góc độ nghiên cứu nào để nhìn nhận, xem xét, đánh giá thì MTVH cũng gắn với một không gian xác định và những cấp độ khác nhau. Nếu phân chia theo phạm vi không gian thì MTVH sẽ bao gồm hai cấp độ cơ bản là: - MTVH vi mô: là môi trường mà ở đó diễn ra quá trình nhập thân văn hóa đầu tiên của con người, là nơi con người có sự chuyển biến quan trọng từ chỗ là một sinh thể (con người tự nhiên) trở thành một con người xã hội, một thực thể văn hóa, làm cho nhân cách mỗi người ngày càng hoàn thiện hơn. Nói đến MTVH vi mô là nói đến MTVH ở phạm vi nhỏ hẹp, có quan hệ trực tiếp và tác động qua lại nhiều chiều, thường xuyên đối với mỗi cá nhân như MTVH gia đình, dòng tộc..., MTVH làng bản, khối phố, trường học..., MTVH công sở, cơ quan, đơn vị công tác, sản xuất... Gia đình là MTVH vi mô của xã hội, có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, thái độ, hành vi, niềm tin của con người. Đó là nơi con người hình thành cá tính và khám phá bản thân. Văn hóa gia đình ngoài các chức năng kinh tế - xã hội còn có hai thiên chức không gì thay thế được là: duy trì nòi giống và giáo dưỡng tình cảm, tính nhân bản của con người. Do đó, gia đình là môi trường cơ bản của xã hội, đảm nhận chức năng khởi nguồn của đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội. Đặc biệt, gia đình là nơi bảo toàn và trao truyền các giá trị văn hóa, nơi hình thành các giá trị nhân văn của xã hội, nơi lưu truyền và phát triển các giá trị nhân bản nhất của con người. Văn hóa gia đình như một MTVH đặc thù với những giá trị chuẩn mực "chi phối đời sống, quan hệ trong nội bộ gia đình với tư cách là một tế bào của xã hội" [22, tr. 262]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã chỉ rõ: "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng cho gia đình no ấm, hòa thuận, tiến bộ" [11, tr. 15]. Tinh thần này tiếp tục được khẳng định ở Đại hội IX của Đảng: "Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội" [16, tr. 116]. MTVH làng bản, khối phố, trường học; MTVH công sở, cơ quan, đơn vị công tác, sản xuất... là những đơn vị cơ bản có quan hệ hết sức gắn bó với mỗi cá nhân và cộng đồng trong quá trình sinh hoạt, học tập, công tác, rèn luyện nhân cách; là nơi tiếp tục hoàn thiện nhân cách, phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng cống hiến, tính tích cực chính trị của mỗi công dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đã đề ra nhiệm vụ: "Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường xây dựng phong cách lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, nơi thể hiện tình đồng chí, tình đồng đội, hình thành nhân cách con người mới và nền văn hóa mới" [11, tr. 19]. Các dạng thức trên của MTVH vi mô không đứng biệt lập mà chính là những bộ phận cấu thành nên MTVH vĩ mô. - MTVH vĩ mô: là nơi mà những giá trị văn hóa, hoạt động văn hóa và giao tiếp văn hóa của mỗi cá nhân và cộng đồng được mở rộng với những mối quan hệ rộng lớn hơn. Ở cấp độ vĩ mô có MTVH tỉnh thành, vùng, miền, quốc gia, quốc tế. Nhìn chung, cách phân chia MTVH theo hai cấp độ nêu trên chỉ là tương đối. Nói tới MTVH là nói tới cả cấp độ vi mô và cấp độ vĩ mô của nó. Hai cấp độ này có thể chuyển hóa lẫn nhau một cách biện chứng. Chẳng hạn, hệ "sinh thái nhân văn" - theo cách dùng của Georges Olivier - được coi như MTVH vĩ mô, nhưng ngay trong một MTVH xác định, cụ thể cũng đã chứa đựng ý nghĩa sinh thái nhân văn rồi. Chính vì vậy, mỗi MTVH đều chứa đựng trong nó cả tính nhân loại, tính khu vực, đồng thời in đậm bản sắc dân tộc và sắc thái riêng của tiểu cộng đồng, tức là vừa phản ánh tính phổ quát, vừa phản ánh tính bản sắc của văn hóa. Theo đó, MTVH xã hội (MTVH vĩ mô) là tổng hòa MTVH của tất cả các cá nhân riêng lẻ, của gia đình và của các cộng đồng lớn nhỏ. Cũng cần khẳng định rằng, MTVH vi mô hay vĩ mô đều có tầm quan trọng đối với sự phát triển của mỗi người, mỗi cộng đồng và cả loài người, và đều chịu sự tác động lẫn nhau. Lớn hay nhỏ ở đây là phạm vi, kích thước. MTVH nếu được coi trọng đúng mức sẽ tác động mạnh mẽ đến các môi trường khác trong quan hệ tương tác và sự khoan hòa giữa MTTN, MTXH và MTVH là một trạng thái lý tưởng cho sự phát triển của con người như một tổng hòa các quan hệ xã hội. MTVH hết sức đa dạng và phong phú cho nên ngoài cách phân chia cấu trúc theo hai cấp độ cơ bản trên còn có thể có nhiều cách phân chia khác nữa, không theo một khuôn mẫu nhất định nào. Chẳng hạn, nếu xem xét cấu trúc MTVH trên phương diện các thành tố cơ bản cấu thành nên nó thì MTVH bao gồm: - Văn hóa chính trị tư tưởng: là lĩnh vực đặc thù trong thượng tầng kiến trúc cũng như trong kết cấu một chế độ xã hội, nó là lĩnh vực phức tạp, nhiều khi trừu tượng, có thể định tính mà không định lượng được. Một chế độ xã hội phát triển và ổn định thì lĩnh vực tư tưởng - văn hóa cũng phát triển và ổn định; và ngược lại, lĩnh vực tư tưởng - văn hóa phát triển lành mạnh cũng tác động tích cực đến sự ổn định, phát triển của một chế độ xã hội nói chung và kinh tế nói riêng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh... Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ Đảng viên. Các cấp ủy tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và vận động nhân dân, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu. Cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước [16, tr. 139-140]. - Văn hóa đạo đức, lối sống: đạo đức và lối sống là những giá trị cốt lõi của văn hóa. Đạo đức là những chuẩn mực ứng xử của con người, là những quy tắc và cam kết của cộng đồng mà con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích cá nhân và tiến bộ xã hội. Con người sẽ hành động ra sao, xã hội sẽ đi tới đâu, môi trường sinh thái sẽ bị hủy hoại như thế nào nếu như hoạt động của con người thiếu những yếu tố đạo đức. Do vậy, văn hóa đạo đức là một thành tố đặc biệt quan trọng của MTVH. Nền tảng nhân cách, phẩm hạnh của con người, cũng như nền tảng tinh thần của xã hội có phát triển lành mạnh, ổn định vững chắc hay không tùy thuộc rất nhiều ở chất lượng của thành tố này. Dự thảo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) xác định phải xây dựng con người Việt Nam mới, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân ái, nghĩa tình, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng... chính là nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để ổn định và phát triển văn hóa đạo đức, lối sống. - Văn hóa khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo: là hình thái đặc thù của MTVH, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với trình độ phát triển của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia, dân tộc, nhân loại. Có thể coi đây là lĩnh vực có sự kết hợp hài hòa các điều kiện chủ quan và khách quan phục vụ cho các hoạt động dạy - học, nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm nâng cao trình độ học vấn, thúc đẩy ý thức sáng tạo của con người trong thực tiễn đời sống, xây dựng con người phát triển toàn diện, có đủ năng lực làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân. Tiếp theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Đại hội IX của Đảng một lần nữa khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [16, tr. 12]. - Văn hóa thẩm mỹ: văn hóa thẩm mỹ cũng là một bộ phận trong đời sống văn hóa của xã hội, song nó không thể hiện trong một xã hội cụ thể như các thứ văn hóa khác; trái lại, nó có mặt trong mọi hoạt động của con người: trong lao động sản xuất, trong quan hệ giao tiếp, trong sáng tạo và thưởng thức các giá trị tinh thần, trong xây dựng môi trường sống và làm việc, trong việc hoàn thiện nhân cách. Và, "ở một mức độ nào đó, có thể nói, văn hóa thẩm mỹ là biểu hiện một trình độ tổng hợp của văn hóa xã hội" [21, tr. 141]. Theo Mác (trong "Bản thảo kinh tế - triết học" năm 1844) thì bản chất của con người là biết sáng tạo hiện thực theo quy luật cái đẹp, đó chính là dấu hiệu cơ bản để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động của con vật. Bởi vậy, văn hóa thẩm mỹ có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách theo định hướng giá trị xã hội, ươm mầm những phẩm chất tốt đẹp cao quý của con người. Ở một mức độ nào đó, nó tạo nên khả năng tự điều chỉnh của con người. Vì vậy, Macxim Goocki hoàn toàn có lý khi gọi mỹ học là "đạo đức học của tương lai". Xem xét cấu trúc của MTVH theo các thành tố cơ bản cấu thành như trên cũng chỉ là sự phân tách tương đối, bởi giữa các thành tố cấu thành MTVH nêu trên có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau khó thể tách rời. Trong một chỉnh thể môi trường sống nói chung của con người, MTVH chính là một trong những yếu tố cấu thành quan trọng nhất. Song khi đặt vấn đề nghiên cứu MTVH như một đối tượng nghiên cứu độc lập thì nó trở thành một hệ thống bao gồm các yếu tố cấu thành có chức năng riêng nhưng vẫn có quan hệ với nhau hết sức chặt chẽ. Điều đó nói lên tính thống nhất mà đa dạng của MTVH, đồng thời đặt ra yêu cầu khi nghiên cứu MTVH, dù ở cấp độ nào, phạm vi nào cũng phải đặt nó trong một hệ thống, xem xét ngoại diên (đặt MTVH trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống đó), kết hợp với xem xét nội hàm của nó (mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên MTVH). Từ đó giúp chúng ta nhận định đúng những đặc điểm của MTVH để định ra những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, sát hợp trong xây dựng MTVH theo mục tiêu đã đề ra. 1.1.3. Đặc điểm của môi trường văn hóa Là sản phẩm hoạt động tinh thần của xã hội, MTVH không thể không phản ánh và chịu sự quy định của phương thức sản xuất vật chất. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định hình thành một kiểu MTVH nhất định tương ứng với nó. Trong đó, hệ tư tưởng, ý thức hệ của giai cấp thống trị luôn là hạt nhân cốt lõi của MTVH, giữ địa vị thống trị và chi phối toàn bộ sự phát triển của văn hóa, định hướng việc tạo lập và phát huy tác dụng của MTVH phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội đó. Bởi vậy, thích ứng với đặc thù của mỗi quốc gia dân tộc, mỗi vùng miền, mỗi đơn vị cơ sở là một hình thái MTVH mang sắc thái riêng biệt. Tuy nhiên, đó chỉ là những nét khác biệt tương đối. Nhìn chung, MTVH nào cũng mang những đặc điểm chung cơ bản sau: Một là, có sự kết hợp hài hòa biện chứng giữa các giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong MTVH. Theo dòng lịch sử, mỗi cộng đồng dân tộc sinh sống trong một giai đoạn lịch sử nhất định đều tồn tại và phát triển trong một MTVH tương ứng với nó. Là dòng chảy liên tục luôn gắn kết với lôgíc phát triển của xã hội, trên thực tế không có MTVH nào xuất hiện từ con số không. Các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng không chỉ là sự tiếp nối biện chứng từ quá khứ đến hiện tại mà còn không đứt đoạn từ hiện tại đến tương lai. Mỗi cộng đồng dân tộc chỉ có thể phát triển vững chắc trên nền tảng truyền thống nối liền quá khứ với hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. MTVH luôn phát triển một cách hài hòa giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, là cái "quá khứ làm nên hiện tại, và hiện tại cùng với quá khứ sẽ làm nên tương lai với cái vốn giàu có nhất, quý báu nhất của một dân tộc, của một chế độ" [18, tr. 70]. Đứng vững trên "cái nền" của truyền thống, MTVH mới có thể tiếp thu những yếu tố hiện đại một cách chọn lọc, chuyển hóa những yếu tố đó thành sức sống và giá trị lâu bền của bản thân nó. Đến lượt nó, MTVH lại trở thành động lực quan trọng để phát huy truyền thống, làm tăng bề dày truyền thống. Vì lẽ đó, quá trình xây dựng, phát triển MTVH phải hết sức chú trọng tới mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, làm sao để hai yếu tố này thực sự tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, bổ sung lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển nhằm đạt tới một MTVH vừa phản ánh chiều sâu văn hóa truyền thống, vừa vươn tới những chân giá trị hiện đại một cách vững chắc, đúng hướng. Nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề này, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã nói: "Việc tạo ra môi trường văn hóa của chủ nghĩa xã hội trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn là trách nhiệm to lớn của toàn Đảng, toàn dân ta" [32, tr. 21]. Đổi mới, chuyển đổi giá trị là yêu cầu tất yếu của sự phát triển, nó tạo ra sự vận động không ngừng của MTVH để bổ sung thêm những nhân tố mới phù hợp với sự phát triển của thời đại. MTVH muốn phát triển bền vững phải có sự gắn bó chặt chẽ giữa truyền thống với cái mới nảy sinh từ hiện thực hết sức sinh động của đời sống xã hội. Truyền thống văn hóa Việt Nam, mà tinh hoa cốt lõi của nó là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân"... chính là nền tảng tinh thần để nhân dân ta vươn tới một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Hai là, MTVH có tính thống nhất trong đa dạng. Thống nhất trong đa dạng văn hóa là quy luật phổ biến của quá trình phát triển văn hóa, trong đó sự đa dạng văn hóa là điều kiện để hình thành và bảo đảm cho sự thống nhất MTVH. Nền văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng diễn ra trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ở một không gian và thời gian xác định nên nó vừa phản ánh quá trình phát triển từ quá khứ, vừa là yếu tố cơ bản để tạo nên MTVH thống nhất trong đa dạng. Tính đa dạng của MTVH được quy định bởi sự khác biệt về sắc tộc, phương ngữ, tập quán, phương thức sản xuất... của văn hóa địa phương, vùng, miền, quốc gia dân tộc. Bởi vậy, mỗi MTVH như một chỉnh thể thống nhất các giá trị văn hóa của một cộng đồng nhưng chứa đựng vô vàn sắc thái đa dạng, phong phú, sống động của từng tộc người, từng vùng miền khác nhau. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, do điều kiện địa lý, sinh thái ở mỗi nơi khác nhau nên đã hình thành 6 vùng văn hóa chính với những đặc trưng riêng, tạo nên tính phong phú và đa dạng của MTVH Việt Nam (ở bình diện quốc gia dân tộc là mô hình đơn ngữ đa văn hóa, nhưng ở bình diện vùng văn hóa và văn hóa tộc người là đa ngữ đa văn hóa). Vì vậy, sự đa dạng văn hóa và tính thống nhất trong đa dạng văn hóa luôn là điều kiện, môi trường quy định sự bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Qua các thời kỳ lịch sử, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự giao lưu tiếp biến văn hóa và chuyển đổi hệ thống giá trị cho phù hợp với xu thế phát triển càng làm tăng thêm tính đa dạng, phức tạp của MTVH. Tuy nhiên, sự đa dạng, phong phú đó không tạo ra sự pha tạp hỗn độn mà luôn nằm trong tính thống nhất, tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Ba là, MTVH không tồn tại một cách biệt lập mà luôn nằm trong mối quan hệ tương tác hữu cơ với các môi trường khác. Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng: MTVH là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong đời sống con người. Tuy nhiên, con người không chỉ sống trong MTVH mà còn sống trong MTTN và MTXH, trong đó: Nếu môi trường xã hội hình thành theo dòng lịch sử và những biến đổi của thời cuộc, môi trường tự nhiên hình thành từ một không gian địa lý ảnh hưởng đến phương thức sản xuất, tâm lý và tập tục một cộng đồng dân cư, thì môi trường văn hóa hình thành theo bản chất của một chế độ chính trị và định hướng của một nền văn hóa, từ đó tạo thành mối quan hệ giữa các hình thức môi trường [27, tr. 241]. MTTN và MTXH chính là điều kiện cho sự hình thành và phát triển của MTVH, quy định đặc trưng, tính chất của MTVH cụ thể. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn xây dựng MTVH cần phải có sự chỉ đạo kết hợp chặt chẽ, hài hòa và đồng bộ với các nhiệm vụ chăm sóc bảo vệ MTTN thật sự trong sạch, đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của con người và tạo dựng một MTXH thực sự lành mạnh, dân chủ, tiến bộ, văn minh nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của văn hóa, xã hội. Bốn là, MTVH được tạo nên bởi sự kết hợp hai yếu tố: bên trong (nội sinh) và bên ngoài (ngoại sinh). Trong thế giới hiện thực, sự vật phát triển được trước hết là nhờ có nội sinh. Nhân tố ngoại sinh có khả năng kích thích hoặc giữ vai trò xúc tác nhưng cũng phải thông qua nội sinh mới phát huy được tác dụng. Điều đó cho thấy, sức mạnh nội sinh giữ vai trò nền tảng, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển. Trong lĩnh vực văn hóa, MTVH của một cộng đồng, một quốc gia trong quá trình tồn tại và phát triển cũng luôn có sự tác động của những yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Quan hệ biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh trở thành quy luật vận động tất yếu của mọi nền văn hóa. Phát huy nội lực của văn hóa dân tộc chính là tạo nên một dòng chảy liên tục của truyền thống văn hóa dân tộc nhằm khẳng định bản sắc và bản lĩnh của văn hóa. Đây chính là nền tảng chủ yếu để xây dựng "nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", là "bộ kênh sàng lọc" các giá trị văn hóa ngoại nhập, chống lại những tác động phi văn hóa, phản văn hóa từ bên ngoài. Nói đến những yếu tố ngoại sinh của văn hóa là nói đến việc tiếp thu những giá trị văn hóa của thế giới để bổ sung và làm giàu cho văn hóa nội sinh, biến chúng thành động lực cần thiết cho sự phát triển. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, những yếu tố ngoại sinh mang ý nghĩa tích cực sẽ thúc đẩy MTVH của các cộng đồng, quốc gia và khu vực phát triển phong phú, đa dạng hơn. Sự chi phối, tác động của những yếu tố ngoại sinh đối với mỗi nền văn hóa là một quy luật tất yếu khách quan. Theo cố Thủ tướng Ấn Độ, danh nhân văn hóa thế giới Nêru thì không một nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối cổ xưa, thuần khiết, không bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa khác. GS. Vũ Khiêu cũng từng nhận định: Chỉ dựa vào nhân tố nội sinh và đóng cửa không tiếp nhận gì từ bên ngoài thì một con người dù lành mạnh, một dân tộc dù có truyền thống lâu đời cũng sẽ dần dần suy yếu đi và không còn sinh khí nữa. Ngược lại, chỉ chú ý đến nhân tố ngoại sinh, không chuẩn bị đầy đủ những điều kiện nội sinh thì nhân tố ngoại sinh dù hay đến đâu cũng sẽ bị bật ra ngoài. Đó là điểm rất quan trọng trong quan hệ bên trong và bên ngoài [25, tr. 175-176]. Trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu hiện nay, việc giải quyết mối quan hệ giữa nội sinh và ngoại sinh trong xây dựng MTVH có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển lâu dài và bền vững của quốc gia, dân tộc. Nhật Bản là một nước tư bản, do giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh nên đã liên tục đạt được những bước tiến "thần kỳ" về kinh tế, rất đáng để chúng ta học tập. Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp phát triển đất nước một cách bền vững đang được đẩy mạnh trên nền tảng văn hóa dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chủ trương phát huy nguồn lực văn hóa dân tộc bằng cách: "Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài" [14, tr. 84]. Quán triệt đường lối đó, toàn Đảng, toàn dân ta đang cố gắng khơi dậy và phát huy tới mức cao nhất nội lực của một nền văn hóa có bề dày truyền thống và bản lĩnh cao cường trong suốt hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đồng thời, cũng trong gần nửa thế kỷ qua, chúng ta đã kịp thời bổ sung cho mình một số giá trị văn hóa của nước ngoài mà chế độ thực dân luôn tìm cách ngăn trở, cấm kỵ; nâng cao được sự hiểu biết nhất định về tri thức nhân loại cho nhân dân ta. Tuy nhiên, trong điều kiện đổi mới hiện nay, vấn đề là làm sao để có thể nhận thức được nhanh hơn, chắc hơn và kịp thời hơn những tinh hoa văn hóa của nhân loại cần thiết cho sự phát triển nhanh chóng của đất nước. Điều quan trọng là phải biết biến những cái của người thành những cái của ta thông qua một sự sàng lọc và thực tiễn hóa, Việt Nam hóa theo kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác. Năm là, MTVH luôn có sự đan xen giữa văn hóa và phản văn hóa, giữa giá trị và phản giá trị. Qua quá trình phát triển của lịch sử, MTVH ngày càng được bổ sung thêm nhiều giá trị mới kết tinh từ thành quả lao động sáng tạo của nhiều thế hệ tiếp nối nhau. Song, cũng trong quá trình phát triển, con người bộc lộ những tật xấu như: bảo thủ, ngu dốt, tham lam, ích kỷ, coi đồng tiền là thước đo mọi giá trị xã hội... làm hình thành và tồn đọng không ít những phản giá trị. Hơn nữa, giao lưu văn hóa vốn là điều kiện cần thiết để phát triển thì ngoài mặt tích cực là tỏa sáng giá trị văn hóa dân tộc góp phần làm phong phú thêm tinh hoa văn hóa nhân loại, trong khi tiếp nhận các yếu tố văn hóa từ bên ngoài, hoạt động này đã làm cho không ít những giá trị ngoại lai, độc hại, xa rời đạo lý truyền thống dân tộc..., những yếu tố phản văn hóa từ nước ngoài tràn vào, uốn lệch, gây tập nhiễm, độc hại MTVH của dân tộc, xác lập những định hướng giá trị xa lạ với cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Phản văn hóa là hiện tượng có tính tất yếu lịch sử và xét theo phạm vi không gian, nó có tính chất toàn cầu. Bên cạnh sự phát triển tiến bộ hướng tới tương lai của các quốc gia dân tộc với những giá trị tinh hoa truyền thống và những giá trị nhân bản hiện đại là những dấu hiệu của phản văn hóa gây nên tình trạng lệch chuẩn xã hội: khủng hoảng về định hướng giá trị, về xu hướng nhân cách, kèm theo các tệ nạn xã hội... Trong quá trình phát triển của xã hội, chuyển đổi giá trị là một tất yếu đặt ra yêu cầu lựa chọn giữa cái cũ và cái mới, cái bảo thủ, lạc hậu và cái tiến bộ, văn minh, các giá trị và phản giá trị. Hệ quả của quá trình chuyển đổi là có những giá trị chuẩn mực trong điều kiện mới không còn phù hợp, trở thành những phản giá trị gây lực cản nguy hại đối với sự phát triển của xã hội, cần phải loại bỏ. Tuy nhiên, do có cả một quá trình định hình và ăn sâu bám chắc vào phong tục tập quán, tâm lý, lối sống của cả một cộng đồng nên những phản giá trị này thường tồn tại dai dẳng trong MTVH của thời đại mới, không dễ gì chối bỏ và loại trừ ngay được. Điều đó đòi hỏi phải có sự cân bằng và hợp lý trong phương thức xử lý nhiều chiều và đa dạng. Quan trọng nhất là phải nhận diện được các hiện tượng phản văn hóa, phản giá trị, lấy đó là cơ sở đầu tiên của việc loại trừ nó. Từ đó tiến tới chống tự phát văn hóa (thực chất là tự phát về chuẩn giá trị), xóa bỏ tình trạng xô bồ, cào bằng giữa giá trị và phản giá trị, xác lập một hệ giá trị chân chính cho sự phát triển tiến bộ của xã hội, làm trong sạch và lành mạnh MTVH. 1.2. VAI TRÒ CỦA XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI 1.2.1. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đến nay, đất nước ta bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn đổi mới có tính cách mạng vượt qua biết bao khó khăn và thử thách để đi lên. Hơn 15 năm đổi mới vừa qua là một chặng đường phấn đấu quyết liệt, gian khổ nhưng hết sức vẻ vang của cách mạng nước ta, là giai đoạn chuyển tiếp đặc biệt, đưa đất nước chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN. Đại hội VIII của Đảng (1996) nhận định: "Nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", từ đó đề ra mục tiêu của CNH, HĐH , cũng là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta là: Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội [14, tr. 18-19]. Trên chặng đường mới này, công cuộc đổi mới đã được toàn Đảng, toàn dân triển khai ngày càng sâu rộng, đồng bộ và toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội. Đổi mới đã thực sự trở thành phong trào cách mạng sâu sắc, đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng đảm bảo sự thành công của cách mạng nước ta trong những năm tiếp theo. Tiếp nối tinh thần của Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng là mốc son đánh dấu thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ "phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [16, tr. 10]. Sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN mà chúng ta tiến hành đặc biệt coi trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực để phát huy sức mạnh quyết định của nhân tố con người, chăm lo giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của nhân dân, củng cố khả năng bảo vệ an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây là chủ trương chiến lược rất quan trọng, là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên C._.ật kết hợp với việc sử dụng sức mạnh của dư luận xã hội trong việc điều chỉnh và xử lý các hành vi vi phạm đạo đức xã hội. Đây là hoạt động vừa thể hiện tính chất nghiêm minh của pháp luật, vừa thể hiện bản chất nhân đạo XHCN. Xây dựng môi trường thẩm mỹ phong phú, lành mạnh nhằm giáo dục tình cảm thẩm mỹ cho đông đảo nhân dân, đưa cái đẹp vào cuộc sống. Năng lực sáng tạo cái đẹp và thưởng thức cái đẹp là thuộc tính bản chất của con người. Xuất phát từ yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới là xây dựng những con người phát triển toàn diện, nhất thiết phải khởi dậy và phát huy ở mỗi con người nhu cầu, khả năng thưởng thức và sáng tạo cái đẹp. Muốn vậy, phải chú trọng xây dựng một môi trường thẩm mỹ trong sáng, cao đẹp, giúp con người có một đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, tạo cơ sở cho việc điều chỉnh hành vi của mình hướng tới cái đúng, cái tốt. Cần sử dụng một số biện pháp tích cực sau: - Tăng cường giáo dục nhận thức thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh, giúp nhân dân nhận thức được cái đẹp trong sinh hoạt thường ngày, có ý thức xây dựng, vun trồng cái đẹp trong cuộc sống, không dung nạp những biểu hiện thiếu lành mạnh, đi ngược lại thị hiếu thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ của cộng đồng. Hiện nay, vấn đề giáo dục thẩm mỹ ở thành phố Hạ Long đã được chú trọng hơn bằng việc đưa giáo dục thẩm mỹ vào trong nhà trường hoặc phổ biến trong cộng đồng, xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (sách, báo, truyền hình, đài phát thanh...), song nhìn chung chưa đáp ứng được một cách đầy đủ yêu cầu của xã hội. Một bộ phận nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên do chưa được giáo dục thẩm mỹ tốt dẫn đến không đánh giá được một cách chính xác các hiện tượng thẩm mỹ trong cuộc sống thường ngày. Từ cái nhìn lệch lạc, đánh giá sai lầm đó dẫn đến những hành vi thiếu thẩm mỹ trong cuộc sống. Sự bất đồng trong cách nhìn nhận các giá trị và phản giá trị giữa các thế hệ (thậm chí giữa các hế hệ trong một gia đình) thường xuyên xảy ra. Do vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải tăng cường giáo dục thẩm mỹ, đưa nó trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động giáo dục thế hệ trẻ hiện nay. Trong công tác giáo dục thẩm mỹ cần đặc biệt chú trọng phát huy vai trò tích cực của văn học nghệ thuật, lĩnh vực hết sức nhạy cảm trong việc bồi dưỡng tình cảm, dẫn dắt hành vi ứng xử của con người thông qua hình tượng nghệ thuật. Nghệ thuật không chỉ làm giàu thêm khả năng thưởng thức cái đẹp của con người mà còn làm nảy sinh ở con người nhu cầu sáng tạo cái đẹp cho cộng đồng, cho xã hội. Bởi vậy, phải đưa nghệ thuật trở thành một phương tiện quan trọng trong việc giáo dục văn hóa thẩm mỹ cho quần chúng nhân dân, góp phần giáo dục con người toàn diện trong công cuộc đổi mới hiện nay. - Xây dựng hệ thống các chính sách, chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với các tài năng nghệ thuật kết hợp với tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nghệ thuật. Phải xây dựng được một môi trường thông thoáng cho văn nghệ sĩ lao động sáng tạo, đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất, đảm bảo tự do sáng tạo và tôn trọng cá tính sáng tạo của văn nghệ sĩ, thực hiện dân chủ hóa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa nhằm khơi nguồn và phát triển các tài năng sáng tạo, đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của người dân thành phố. Cần xây dựng chính sách ưu tiên cho việc sưu tầm, bảo quản, khôi phục và phổ biến các giá trị văn nghệ dân gian của các dân tộc, năng động hóa các giá trị truyền thống hướng tới vun đắp đời sống tinh thần của nhân dân. - Chú trọng bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa, các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh trên địa bàn thành phố. Xây dựng, nâng cấp các công trình văn hóa như: tượng đài anh hùng liệt sĩ, đài tưởng niệm, công trình tôn giáo... trở thành những biểu tượng đẹp trong lòng người dân thành phố, đồng thời chú ý xây dựng, cải tạo cảnh quan môi trường "xanh - sạch - đẹp" tạo nên nét đẹp khỏe khoắn, vui tươi của thành phố du lịch. Hiện nay, việc triển khai thực hiện quy hoạch thành phố Hạ Long đang diễn ra một cách tích cực, khẩn trương. Tuy nhiên, cần hết sức coi trọng công tác quản lý quy hoạch đô thị để hoạt động cải tạo và xây dựng thành phố vừa không ảnh hưởng đến cảnh quan di tích, vừa không gây ra những tiêu cực trong nếp sống sinh hoạt thường ngày như lối sống xô bồ nhộn nhạo, xu hướng di dời về trung tâm thành phố, tình trạng độc hại do ô nhiễm môi trường... - Tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động xây dựng NSVM và GĐVH, tạo ra cái đẹp lành mạnh trong đời sống cộng đồng. Ở tất cả các cơ quan ban ngành, đoàn thể trên địa bàn thành phố phải phát động các phong trào: sống và làm việc theo pháp luật, xây dựng "cơ quan văn hóa", "công sở văn hóa", "nhà trường kiểu mẫu"... để tạo ra nếp sống, lối sống đẹp cho mọi người dân, thông qua đó bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ, thúc đẩy lao động sáng tạo, xây dựng thành phố giàu đẹp, văn minh. Cần làm tốt hơn nữa công tác phòng chống TNXH, bài trừ văn hóa phẩm độc hại, lên án và có biện pháp xử lý thích đáng những hành động càn quấy, gây rối trật tự an toàn xã hội, phá hoại mỹ quan thành phố. Tóm lại: Phát huy vai trò của văn hóa ở mọi lĩnh vực kể trên (kinh tế, chính trị, pháp luật, GD-ĐT, KH-CN, đạo đức, thẩm mỹ) chính là giải pháp thiết thực nhằm tạo ra một tổng thể những nhân tố tích cực, những điều kiện thiết yếu nhất cấu thành nên MTVH chung của thành phố trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay. 3.2.2. Đẩy mạnh các phong trào hoạt động của nhân dân góp phần bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường văn hóa của thành phố Xây dựng MTVH trong sạch, lành mạnh, ổn định, vững chắc không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của các cấp lãnh đạo, các cơ quan ban ngành đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội mà nó còn phải được thực hiện tốt ở việc xây dựng những không gian văn hóa trong phạm vi sống và sinh hoạt của từng nhóm dân cư trong cộng đồng. Nhiệm vụ đó phải được cụ thể hóa bằng việc thực hiện tốt các hoạt động sau: Xây dựng gia đình văn hóa Gia đình là một thành tố thuộc cấp độ vi mô trong cấu trúc của MTVH, hình thành và tồn tại dựa trên quan hệ hôn nhân và huyết thống. Với tư cách là "tế bào của xã hội", gia đình là hạt nhân quan trọng nhất trong việc hình thành tư tưởng, đạo đức, lối sống của con người. Việc nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần, xây dựng con người có văn hóa bắt đầu từ mỗi gia đình trong cộng đồng dân cư. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) khẳng định xây dựng MTVH phải chú ý "giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa" [32, tr. 60]. Là "cái nôi thân yêu nuôi dưỡng suốt cả đời người", gia đình không chỉ đảm nhiệm chức năng duy trì nòi giống mà còn có vai trò to lớn trong việc "văn hóa hóa con người". Văn hóa gia đình là yếu tố cơ bản để gia đình thực hiện vai trò "hạt nhân xã hội" của nó. Vì vậy, xây dựng GĐVH là hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Xây dựng GĐVH là hoạt động được chú trọng đẩy mạnh từ nhiều năm qua ở thành phố Hạ Long, và đã có những đóng góp quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng MTVH của thành phố trong thời kỳ đổi mới. Để làm tốt hơn nhiệm vụ xây dựng GĐVH, mỗi gia đình cần thực hiện theo những yêu cầu sau: - Phải tạo lập một nền giáo dục gia đình thật tốt cho mọi thành viên trong gia đình. Ông bà, cha mẹ phải có nếp sống và sinh hoạt mẫu mực cho con cháu noi theo. Phải định hướng cho sự phát triển nhân cách, tạo dựng cầu nối những truyền thống tốt đẹp của gia đình cho các thế hệ kế tiếp để hình thành và hoàn thiện nhân cách con người trong xã hội hiện đại. - Chú trọng giáo dục gia đình ý thức học tập, công tác, tu dưỡng đạo đức, sống có lý tưởng, có hoài bão, biết quan tâm chăm sóc gia đình và làm những việc có ích cho xã hội. Có ý thức kết hợp thực hiện cuộc vận động xây dựng GĐVH với nhiệm vụ xây dựng MTVH của thành phố, hướng mọi sinh hoạt của gia đình vào các hoạt động lành mạnh, bổ ích như học tập, thể thao, vui chơi giải trí lành mạnh, bảo vệ cảnh quan, giữ vệ sinh trong gia đình và nơi công cộng... - Xây dựng mối quan hệ hòa thuận, đoàn kết gắn bó giữa các thành viên trong gia đình, thương yêu, đùm bọc, sẻ chia giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Do tập quán của người Việt Nam, ở thành phố Hạ Long hiện nay song song tồn tại hai loại gia đình: gia đình truyền thống (3-4 thế hệ cùng chung sống) và gia đình hạt nhân (gia đình 2 thế hệ), đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự quan tâm đầy đủ với nhau, giữ vững nền tảng gia đình khiến cho gia đình luôn là tổ ấm sau mỗi ngày làm việc, học tập. - Xây dựng mối quan hệ đoàn kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau với xóm giềng và bạn bè xung quanh. Rèn luyện lối sống lành mạnh, giản dị, cởi mở, chân thành, sống hòa đồng với tổ dân, khối phố, tích cực tham gia các phong trào hoạt động xã hội do địa phương tổ chức. Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội, hình thành môi trường giáo dục tốt cho con em có đủ điều kiện để phát triển, đồng thời ngăn chặn kịp thời những biểu hiện của TNXH xâm lấn vào từng gia đình. Việc xây dựng gia đình thành một đơn vị văn hóa ổn định, trong đó mọi sinh hoạt đi vào nề nếp, có tác dụng hữu ích cho mỗi cá nhân trong gia đình không chỉ là trách nhiệm của mỗi gia đình mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng GĐVH, chính quyền địa phương các cấp phải xây dựng được một hệ thống các chính sách, quy chế, tiêu chuẩn về xây dựng GĐVH để khuyến khích, động viên, đánh giá chính xác tình hình thực hiện trên địa bàn. Có các chính sách hỗ trợ hoạt động xây dựng GĐVH tới từng gia đình, tập trung vào chính sách lao động, giải quyết công ăn việc làm, hỗ trợ các gia đình ở diện chính sách, neo đơn, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn... để nâng dần mức sống, mức hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của người dân thành phố. Làm cho xây dựng GĐVH trở thành hoạt động tích cực, rộng khắp, hình thành nên các quan hệ nhân tính, góp phần tạo dựng MTVH cho sự phát triển bền vững của thành phố. Xây dựng khối phố văn hóa Khối phố, thôn là những cộng đồng dân cư nhỏ thuộc đơn vị phường, xã do thành phố quản lý. Là đơn vị có quan hệ trực tiếp, gần gũi nhất của chính quyền địa phương đến mỗi gia đình, cá nhân nên khối phố (thuộc đơn vị phường) và thôn (thuộc đơn vị xã) chịu trách nhiệm bao quát, quản lý, điều chỉnh mọi hoạt động của khu vực dân cư mình quản lý. Vai trò chủ yếu của khối phố, thôn được thể hiện ở việc phổ biến mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến từng hộ gia đình; khuyến khích, động viên mọi cá nhân, gia đình tham gia vào các cuộc vận động, các phong trào do thành phố phát động, tổ chức triển khai, giám sát, điều chỉnh để hoạt động đạt kết quả tốt. Thành phố Hạ Long bao gồm 16 phường và 2 xã, dân cư chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, vì vậy, việc xây dựng khối phố văn hóa ở thành phố được thực hiện trong một số điều kiện tương đối thuận lợi: cơ sở hạ tầng đảm bảo, các phương tiện thông tin đại chúng khá phát triển, các thiết chế văn hóa ngày càng nhiều và có chất lượng, trình độ dân trí khá cao và đồng đều, đời sống vật chất được ổn định và nâng cao dần, đời sống văn hóa tinh thần được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, cũng có những khó khăn nhất định cần khắc phục: quan hệ cư dân trong cộng đồng lỏng lẻo, lối sống và nếp sống không thuần nhất, người dân thành phố du lịch dễ nhạy cảm với cái mới mà không lường hết những ảnh hưởng tiêu cực do mặt trái của nó gây nên. Do vậy, nhiệm vụ xây dựng khối phố văn hóa ở thành phố Hạ Long hiện nay là nhiệm vụ quan trọng và phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp tích cực: - Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền kết hợp chặt chẽ với hoạt động của các tổ chức, đoàn thể quần chúng và sự triển khai giám sát của khối phố, tổ dân tới từng gia đình. Triển khai sâu rộng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", đồng thời phát động các phong trào tự quản, đảm bảo mọi hoạt động phải được tiến hành theo những quy định và tổ chức chặt chẽ, có đánh giá, tổng kết, báo cáo, rút kinh nghiệm kịp thời. - Giáo dục ý thức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước thông qua các buổi sinh hoạt và thực tiễn hoạt động của tổ dân, khối phố, đảm bảo phát huy quyền dân chủ cho nhân dân. - Củng cố mối quan hệ cư dân, xây dựng tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lối sống trọng nghĩa tình để cùng nhau xây dựng cái mới, cái tốt đẹp, xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu; ngăn chặn, loại trừ cái xấu, cái ác len lỏi trong đời sống xã hội. - Từng bước khắc phục tình trạng đói nghèo tiến tới không còn hộ đói ở từng tổ dân, khối phố, giảm dần khoảng cách phân hóa giàu nghèo. Vận động các hộ gia đình hỗ trợ, giúp đỡ nhau làm kinh tế, nâng dần mức sống của cư dân trong khu vực, phấn đấu đến năm 2005 có 80% và năm 2010 đạt 100% phường xã hoàn thành nâng cao mức sống cho đối tượng chính sách [53, tr. 3]. - Giáo dục ý thức giữ gìn môi trường cảnh quan sạch đẹp, đường phố vệ sinh, các điểm vui chơi giải trí hoạt động lành mạnh, thiết thực, bổ ích. Ở vùng nông thôn, miền núi, trên địa bàn thôn, xã có thuận lợi là cư dân ổn định, thuần phác, quan hệ cộng đồng chặt chẽ hơn trong các mối quan hệ dòng tộc, xóm giềng, song lại thường là nơi tồn tại những phong tục tập quán cổ hủ lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém, phương tiện thông tin đại chúng còn hạn chế, trình độ dân trí thấp, tư duy chậm đổi mới... Vì vậy, ngoài những biện pháp trên, việc xây dựng thôn văn hóa ở hai xã của thành phố cần có thêm một số ưu tiên như: đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các thiết chế văn hóa, mua sắm thêm phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, xóa dần khoảng cách giữa nông thôn và đô thị. Đẩy mạnh công tác giáo dục, vận động quần chúng xóa bỏ các phong tục, nếp sống lạc hậu, xây dựng một môi trường cởi mở, tiếp thu nhanh những tiến bộ văn minh của xã hội hiện đại. Các hoạt động xây dựng khối phố văn hóa, thôn văn hóa ở thành phố Hạ Long đã và đang tạo nên những biến chuyển sâu sắc, góp phần làm thay đổi hẳn diện mạo cũng như chất lượng phát triển của thành phố trong thời kỳ đổi mới. Xây dựng công sở văn hóa Công sở là một từ chung dùng để chỉ tất cả các đơn vị, tổ chức, đoàn thể... có trụ sở hoạt động, thuộc quyền quản lý của Nhà nước như: cơ quan, xí nghiệp, bệnh viện, trường học, đơn vị bộ đội... Công sở bao gồm lực lượng được đào tạo tốt nhất, năng động nhất, tích cực nhất trong mọi mặt hoạt động của xã hội... Hầu hết các cá nhân trong khu vực này là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước, lại đồng thời là thành viên trong mỗi gia đình, mỗi khối phố, thôn bản. Vì vậy, xây dựng công sở văn hóa là yêu cầu cấp thiết góp phần quan trọng để tạo ra MTVH lành mạnh, khỏe khoắn, nơi hội tụ những điều kiện thiết yếu thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp phát triển của thành phố trong thời kỳ đổi mới. Nhiệm vụ xây dựng công sở văn hóa cần được thực hiện bằng các biện pháp sau: - Nâng cao trình độ nhận thức của mọi thành viên trong đơn vị về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, khắc phục tình trạng phai nhạt lý tưởng, thờ ơ trước thời cuộc dẫn đến tư tưởng tiêu cực, yếm thế trong cán bộ, đảng viên, quần chúng. - Xây dựng nội quy, quy chế hoạt động của đơn vị một cách chặt chẽ, khoa học để đưa mọi hoạt động, sinh hoạt của đơn vị vào nề nếp, quy củ. Trong đó chú ý tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc đẩy mạnh hoạt động học tập, lao động sáng tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ KHKT vào thực tiễn... tạo ra hiệu quả cao, phục vụ tốt cho đời sống xã hội. - Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy tinh thần đoàn kết nội bộ, giúp nhau trong công tác và trong đời sống. Nghiêm khắc đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong đơn vị như quan liêu, cửa quyền, đố kỵ, phá hoại của công..., thẳng thắn phê phán những hành vi và những mối quan hệ thiếu lành mạnh trong đơn vị. Xử lý nghiêm minh các vụ việc sai phạm, giữ cho bầu không khí hoạt động của đơn vị luôn sôi nổi, tích cực, khẩn trương, đạt hiệu quả công việc. - Xây dựng quy chế giữ vệ sinh nơi công sở, trong đó có những quy định rõ về ăn mặc, giao tiếp, ứng xử, phong cách làm việc, sinh hoạt... của các thành viên. - Các cấp ủy Đảng, chính quyền thành phố cần có sự phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng ở công sở những tiêu chuẩn thi đua sát hợp để phát huy tính tự giác, kỷ luật trong lao động. Lãnh đạo đơn vị cần đề ra các kế hoạch kiểm tra giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của đơn vị, tăng cường hoạt động của Ban thanh tra nhân dân nhằm ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực, đồng thời phải định ra được những tiêu chuẩn đánh giá năng lực và chất lượng công việc của từng cá nhân, tập thể một cách công bằng, khách quan. Có chế độ khen thưởng thỏa đáng để khuyến khích lao động sáng tạo và ý thức phấn đấu của tập thể, cá nhân. Do bao quát nhiều mặt hoạt động của các cá nhân và tổ chức trong đơn vị như: công tác chuyên môn, công tác Đảng, công tác phụ nữ, công tác thanh tra... cho nên, xây dựng công sở văn hóa một mặt tạo ra ý thức, thái độ, tác phong lao động, sinh hoạt theo lối công nghiệp, tiến bộ, văn minh, mặt khác có tác dụng thúc đẩy năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị theo mục tiêu đã đề ra. Xây dựng công sở văn hóa ở thành phố Hạ Long hiện nay được xem là một trong những biện pháp tích cực để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, cũng là biện pháp hữu hiệu góp phần xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Tóm lại, xây dựng MTVH là một vấn đề có nghĩa quan trọng và cấp thiết đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta, đồng thời cũng là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp trong giai đoạn cách mạng mới, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng và tinh thần quyết tâm cao độ của toàn Đảng, toàn dân ta. Xây dựng MTVH ở thành phố Hạ Long trong thời kỳ đổi mới hiện nay đang là hoạt động thiết thực nhất để thúc đẩy nhanh tiến trình phát triển của thành phố, đồng thời góp phần tích cực vào nhiệm vụ xây dựng MTVH chung của cả nước. Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ mới mẻ, có nội dung đa dạng, phong phú đòi hỏi phải có một nhận thức sâu sắc để có những bước đi đúng đắn, sát hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, kết hợp đồng bộ các giải pháp hữu hiệu nhằm đạt tới những hiệu quả cao nhất, xây dựng thành phố Hạ Long giàu đẹp, tiến bộ, văn minh. KẾT LUẬN Nói đến văn hóa là nói đến giá trị. Một tập hợp các yếu tố văn hóa tồn tại trong một môi trường nhất định tạo nên một MTVH, nơi mà các giá trị văn hóa biểu hiện một cách cụ thể, sinh động và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Bước vào thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển như vũ bão của KHKT trên phạm vi toàn cầu, vai trò quan trọng của văn hóa đối với phát triển cũng ngày càng được khẳng định. Xây dựng MTVH phong phú, văn minh, hiện đại đã trở thành nhiệm vụ trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới và trong khu vực, đem lại cho những nước này những bước phát triển mạnh mẽ, vững chắc, thậm chí những bước nhảy vọt đáng tự hào. Dưới dự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, MTVH của ta cũng đang vận động mạnh theo hướng kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống và hiện đại, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên cơ sở giữ gìn bản sắc, sức sống và tâm hồn Việt Nam. Đó là MTVH phong phú, lành mạnh, tiến bộ, thống nhất trong đa dạng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, phát triển theo định hướng XHCN. Đó là MTVH tiêu biểu cho tinh thần tiên tiến của thời đại, hướng tới mục tiêu cao cả là giải phóng và phát triển toàn diện con người, xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Vì vậy, bảo vệ và xây dựng MTVH là một nhiệm vụ chiến lược trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ khác, góp phần quan trọng tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã đề ra. Hạ Long là một thành phố trẻ rất giàu tiềm năng và triển vọng, đang được chú trọng xây dựng trở thành một đô thị văn minh, hiện đại. Đặc biệt, với cảnh quan nổi tiếng Vịnh Hạ Long hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thế giới cùng với những giá trị nổi trội về văn hóa - lịch sử lâu đời của mảnh đất và con người nơi đây, Hạ Long đang trở thành điểm du lịch thu hút ngày càng đông khách du lịch trong nước và quốc tế. Thực tế ấy đòi hỏi, cùng với những biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thành phố phải đặc biệt quan tâm vấn đề bảo vệ và xây dựng MTVH lành mạnh, tiến bộ, nhân văn nhằm từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Đây là điều kiện quan trọng và cấp thiết đảm bảo cho sự phát triển nhanh và bền vững của thành phố trước tác động nhiều mặt của xu thế hội nhập kinh tế và giao lưu văn hóa toàn cầu hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu trên đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và cá nhân trên địa bàn thành phố, tạo ra một sức bật mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong thời kỳ đổi mới. Phấn đấu, xây dựng Hạ Long trở thành một thành phố có tầm vóc tương xứng với vị thế "trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa" của tỉnh Quảng Ninh, trở thành một trong những khu du lịch và công nghiệp cảng lớn của Việt Nam. Công cuộc đổi mới toàn diện theo chủ trương, đường lối của Đảng từ năm 1986 đến nay đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo nên những đổi thay kỳ diệu về diện mạo của thành phố, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên, chất lượng sinh hoạt văn hóa cộng đồng và mức hưởng thụ văn hóa tinh thần được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, ở thành phố Hạ Long trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu nổi bật về xây dựng MTVH mà Đảng bộ và nhân dân thành phố đã quyết tâm nỗ lực phấn đấu để đạt được cũng còn không ít những tồn tại, yếu kém cần khắc phục. Tình hình đó đặt ra yêu cầu nhiệm vụ mới cho hoạt động xây dựng MTVH của thành phố Hạ Long trong thời gian tới là phải tiến hành khảo sát, điều tra, nghiên cứu, tổng kết toàn diện, sâu sắc thực trạng MTVH của thành phố, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống những chính sách và giải pháp đồng bộ, hữu hiệu. Kết hợp phát huy vai trò tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân, khai thác tốt nhất những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng MTVH. Phấn đấu xây dựng ở thành phố Hạ Long một MTVH phong phú, lành mạnh, tiến bộ văn minh mà giá trị lớn lao của nó tập trung vào các tiêu điểm phát triển MTVH đã được Đại hội lần thứ IX của Đảng thông qua: tăng trưởng nguồn lực con người, vì sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa dân tộc và quốc tế trên nền tảng chân - thiện - mỹ. Góp phần đáng kể vào việc thực hiện nhiệm vụ "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" nhằm xây dựng một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", tiến bước vững chắc lên CNXH. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A.I. Ác-nôn-đốp (Chủ biên) (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương (tái bản), Nxb Tổng hợp, Đồng Tháp. Ban Quản lý vịnh Hạ Long (2000), Hạ Long những lời đánh giá và ngợi ca, Quảng Ninh. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2000), Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng - văn hóa, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS. Đào Đình Bắc (1998), "Cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục môi trường nhân văn theo tinh thần hòa hợp với thiên nhiên", Kỷ yếu hội thảo: Khoa học về giáo dục môi trường nhân văn, tr. 72. Nguyễn Đức Bình (1995), "Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (11), tr. 3-5. GS.TS Trần Văn Bính (Chủ biên) (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS.TS Trần Văn Bính (Chủ nhiệm đề tài) (2000), Đề cương bài giảng lý luận văn hóa (Cho hệ đào tạo cao học và nghiên cứu sinh), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao (1992), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thế giới, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương (khóa VII), Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Federico Mayor (1993), "Ban đầu và cuối cùng là văn hóa", Người đưa tin UNESCO, (10), tr, 35. Georges Olivier (1992), Sinh thái nhân văn, Nxb Thế giới, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Văn hóa xã hội chủ nghĩa (Tập bài giảng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (Dùng cho hệ cử nhân chính trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS.TS Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Nguyễn Văn Hy - Phan Văn Tú - Hoàng Sơn Cường (1998), Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. GS. Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Võ Văn Kiệt (1997), "Chấn hưng, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc là nhiệm vụ trực tiếp của báo chí, xuất bản", Nghiên cứu nghệ thuật, tr. 13. PGS. Trường Lưu (1999), Văn hóa - một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Michel Batisse (1999), "Ngôi nhà xanh của chúng ta", Người đưa tin UNESCO, (11), tr. 47-48. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Một số khái niệm về sự kiện và môi trường" (1992), Tư tưởng văn hóa, (10), tr. 25. Đỗ Mười (1993), Chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, Nxb Sự thật, Hà Nội. GS.TS Phan Ngọc (1993), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Vũ Hào Quang (1999), "Giáo dục chủ nghĩa yêu nước truyền thống, vấn đề cốt yếu của môi trường nhân văn", Văn hóa nghệ thuật, (11), tr. 3-4. Sở Giáo dục - Đào tạo Quảng Ninh, Phòng Giáo dục - Đào tạo thành phố Hạ Long (2000), Báo cáo tổng kết ngành giáo dục - đào tạo Hạ Long năm học 1999 - 2000. Sở Giáo dục - Đào tạo Quảng Ninh, Phòng Giáo dục - Đào tạo thành phố Hạ Long (2001), Báo cáo tổng kết công tác năm 2001. Sở Y tế Quảng Ninh, Trung tâm Y tế thành phố Hạ Long (2001), Báo cáo kết quả hoạt động y tế năm 2001. Tập thể tác giả (1993), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, Hà Nội. Văn Đức Thanh (1999), Cơ sở phương pháp luận xây dựng môi trường văn hóa bộ đội không quân hiện nay, Luận án tiến sĩ quân sự, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. Thành ủy Hạ Long (2000), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2000 và phương hướng công tác năm 2001. Thành ủy Hạ Long (2001), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2001. Trần Ngọc Thêm (1997) Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Cung Kim Tiến (Biên soạn) (2002), Từ điển Triết học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. "Tìm hiểu khái niệm môi trường - bảo vệ môi trường" (1996), Tạp chí Cộng sản, (19), tr. 58. Lê Toán (2000), "Nơi hội tụ của Rồng", Báo Quảng Ninh, ngày 17/10, tr. 1. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1999), Nuôi dưỡng giá trị văn hóa trong nhân cách người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh (1997), "Số chuyên đề về nếp sống văn minh đô thị", Khoa học xã hội, (32). Hà Xuân Trường (1994), Văn hóa - khái niệm và thực tiễn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Ban chỉ đạo phòng chống tệ nạn xã hội (1999), Báo cáo kết quả công tác cai nghiện ma túy 1994 - 1999 tại thành phố Hạ Long. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long (2001), Chương trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của thành phố năm 2001. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long (2002), Dự thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hạ Long đến năm 2010. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Phòng Tổ chức - Lao động - Thương binh xã hội (2001), Báo cáo tổng kết công tác năm 2001. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Phòng Tổ chức - Lao động - Thương binh xã hội (2001), Chương trình phát triển dân số, lao động và giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2010. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Phòng Tổ chức - Lao động - Thương binh xã hội (2002), Báo cáo kết quả công tác tệ nạn xã hội 6 tháng đầu năm 2002. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Phòng Văn thể (2001), Báo cáo công tác văn hóa thông tin năm 2001. Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, Phòng Văn thể (2002), Báo cáo công tác 6 tháng đầu năm 2002. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường (2001), Báo cáo kiểm điểm kết quả 5 năm (1997 - 2001) thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. GS.TS Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTS0099.DOC
  • docBAIBAO1.DOC
  • docBIA.DOC
  • docDECUONG1.DOC
  • docDECUONG2.DOC
  • docMUCLUC1.DOC
  • docTAILIEU1.DOC
  • docTIEULUAN1.DOC
  • docTIEULUAN2.DOC
  • docTOMTAT1.DOC
  • docVIETTAT.DOC
Tài liệu liên quan