Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long

LÊ VĂN ÚT HIỀN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh Năm 2009 LÊ VĂN ÚT HIỀN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - ngân hàng Mã số: 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GSTS. NGUYỄ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp phát triển bảo hiểm tiền gửi ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N THANH TUYỀN TP. Hồ Chí Minh Năm 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn này là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 02 năm 2009 Tác giả LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy GSTS Nguyễn Thanh Tuyền, người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Trường Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh; Khoa Kinh tế - QTKD Trường Đại học Cần Thơ, đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt khóa học. Xin cảm ơn Ban Giám đốc Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ, chia sẻ nhiều thông tin quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tác giả MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục hình, bảng biểu Mở đầu 1 Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 5 1. 1. Bảo hiểm tiền gửi 5 1.1.1. Khái nệm về Bảo hiểm tiền gửi 5 1.1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi 6 1.1.3. Chức năng của Bảo hiểm tiền gửi 7 1.1.4. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi 8 1.2. Kinh nghiệm BHTG ở một số nước trên thế giới 17 1.2.1. Bảo hiểm tiền Mỹ 17 1.2.2. Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản 19 1.2.3. Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan 23 Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở ĐBSCL 25 2.1. Sự cần thiết khách quan hình thành BHTG Việt Nam 25 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 25 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam 26 2.2. Những thành tựu của BHTG Việt Nam (từ năm 1999 – 2008) 29 2.2.1. Đối với hệ thống NHTM và tổ chức phi ngân hàng 29 2.2.2. Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 32 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 33 2.3.1. Những hạn chế 34 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế 47 2.4. Thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam ở khu vực ĐBSCL 49 2.4.1. Quá trình thành lập 49 2.4.2. Những thành tựu của Chi nhánh khu vực ĐBSCL 50 2.4.3. Những tồn tại trong hoạt động của Chi nhánh 53 2.4.4. Nguyên nhân của những tồn tại 55 Chương 3 : NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BHTG VIỆT NAM Ở ĐBSCL 57 3.1. Những định hướng chủ yếu về phát triển BHTG ở ĐBSCL 57 3.1.1. Chiến lược phát triển của BHTGVN giai đoạn 2006 – 2015 57 3.1.2. Chiến lược phát triển của BHTGVN Khu vực ĐBSCL 58 3.2. Dự báo về phát triển BHTG ở ĐBSCL 59 3.2.1. Yêu cầu phát triển kinh tế và lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng. 59 3.2.2. Đối với quản lý rủi ro 60 3.3. Các giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi ở ĐBSCL 61 3.3.1. Hoàn thiện qui trình cho vay hỗ trợ tài chính đối với các QTDND tạo chỗ dựa vững chắc cho tín dụng ở nông thôn 61 3.3.2. Xây dựng quỹ hỗ trợ tiền gửi ngân hàng, từ nguồn vốn của NHTM nhằm hỗ trợ rủi ro tiền gửi 66 3.3.3. Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ BHTG ở ĐBSCL 66 3.3.4. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tiền gửi 67 3.3.5. Tái cơ cấu bộ máy quản lý của hệ thống BHTG ở ĐBSCL 68 3.3.6. Xây dựng mô hình BHTGVN trong điều kiện hội nhập 68 3.4. Các giải pháp hỗ trợ 75 3.4.1. Của Chính phủ 75 3.4.2. Của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76 3.4.3. Môi trường pháp lý 78 3.4.4. Đào tạo nguồn nhân lực 79 Kết luận 81 Danh mục tài liệu tham khảo Các phụ lục, mô hình DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nguyên văn IADI Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế BHTG Bảo hiểm tiền gửi BHTGVN Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam CDIC Công ty Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan FDIC Công ty Bảo hiểm tiền gửi Hoa Kỳ DICJ Công ty Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long NHNN Ngân hàng Nhà nước TCTD Tổ chức tín dụng NHTM Ngân hàng thương mại NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần QTDND Quỹ tín dụng nhân dân QTDTW Quỹ tín dụng Trung ương HTX Hợp tác xã WTO Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC HÌNH BẢNG BIỂU Số TT Tên hình Trang Hình 1.1 Sơ đồ Ngân hàng làm trung gian tín dụng 10 Hình 1.2 Tiền gửi tiết kiệm qua các năm 16 Hình 2.1 Sơ đồ bộ máy tổ chức của BHTG Việt Nam 27 Hình 2.2 Đồ thị minh hoạ thu hồi tiền gửi được bảo hiểm tại khu vực ĐBSCL 37 Hình 2.3 Mức độ hiểu biết của công chúng về BHTG 45 Hình 3.1 Mô hình chiến lược phát triển bền vững của BHTGVN 57 Hình 3.2 Mô hình cho vay theo phương thức tín dụng dự phòng 65 Bảng 1.1 Sự khác nhau giữa BHTG với các loại bảo hiểm khác 6 Bảng 2.1 Phân chia mẫu điều tra theo đối tượng có gửi tiền 44 Bảng 2.2 Mức độ hiểu biết của công chúng về BHTG 45 Bảng 3.1 Khách hàng hiện tại của BHTGVN 67 MỞ ĐẦU Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ luôn chứa đựng những yếu tố rủi ro tiềm ẩn, trong những nền kinh tế đang phát triển mà đặc biệt là Việt Nam. Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, việc mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản, tạo ra những phản ứng dây chuyền trong hệ thống các tổ chức tín dụng làm suy yếu hệ thống tài chính quốc gia, do việc công chúng rút tiền gửi tiết kiệm hàng loạt tại các Ngân hàng thương mại, là nguồn gốc dẫn đến khủng hoảng nền tài chính quốc gia. Trong khi đó người gửi tiền chưa được pháp luật bảo vệ quyền lợi một cách chính đáng, sự tổn thất của công chúng không những làm cho chính sách tiền tệ quốc gia suy yếu mà còn làm bất ổn về chính trị. Lĩnh vực tín dụng tiền tệ là lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm, nó đòi hỏi những yêu cầu về tính an toàn và phòng ngừa rủi ro là rất lớn, vì vậy việc ra đời tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là hết sức cần thiết trong nền kinh tế phát triển. Nhiều quốc gia trên thế giới, đã thiết lập những cơ chế khác nhau nhằm bảo vệ người gửi tiền và duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Để kiến tạo niềm tin cho công chúng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng, Chính phủ của nhiều nước đã chọn là hình thức bảo hiểm tiền gửi nhằm góp phần thực thi chính sách tiền tệ quốc gia mà điều chủ yếu là bảo vệ người gửi tiền. Ở Việt Nam trong những thập niên 80 việc đổ vỡ hàng loạt các Hợp tác xã tín dụng, là hệ quả của một chính sách quản lý trong lĩnh vực tiền tệ yếu kém đã dẫn đến khủng hoảng tài chính mà kết quả là người gửi tiền không được bảo vệ khi gửi tiền vào các HTX tín dụng, nó tác động nghiêm trọng đến đời sống của công chúng, khi mà người gửi tiền vào các TCTD bị mất khả năng chi trả dẫn đến phá sản làm cho họ phải trắng tay, dẫn đến hoảng loạn rút tiền hàng loạt. Sự mất lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng quốc gia, mà hệ quả là sự bất ổn về chính trị. Nhận thức tầm quan trọng đó vào năm 1999 tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời, là một tổ chức bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người gửi tiền đây là một chính sách quan trọng của Chính phủ trong việc đều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã được 9 năm, có vài ý kiến cho rằng hoạt động của BHTG Việt Nam hiện nay thuần túy là thu phí mà ít chú ý đến chức năng hỗ trợ cho các TCTD. Qua nghiên cứu về chức năng nhiệm vụ và những thành quả mà BHTG Việt Nam đã đạt được ở Việt Nam mà đặc biệt là tại khu vực ĐBSCL, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thể hiện được vai trò tích cực của mình là bảo vệ lợi ích người gửi tiền. Tuy nhiên nhằm phát huy vai trò của BHTG Việt Nam đối với đặc thù của khu vực cần phải có những giải pháp phù hợp đó chính là lý do mà tôi chọn đề tài “Các giải pháp phát triển Bảo hiểm tiền gửi ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long” Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu những giải pháp của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam một định chế tài chính của Chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận đối với hoạt động ngân hàng ở Việt Nam nói chung và tại khu vực ĐBSCL nói riêng có một ý nghĩa to lớn, nó khẳng định sự cần thiết đối với hoạt động ngân hàng trong việc bảo vệ người gửi tiền thông qua hoạt động của mình, từng bước khẳng định vai trò của tổ chức BHTG đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ. Chính sách BHTG ngoài việc bảo vệ những người gửi tiền cũng có tác động nhất định đến người nghèo một cách trực tiếp lẫn gián tiếp bằng cách cung cấp cho người nghèo những lợi ích thông qua việc phân phối lại từ khu vực tài chính. Qua việc phân tích thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc về cơ chế, chính sách cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn hiện và nâng cao chất lượng hoạt động BHTG Việt Nam tại Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của BHTG Việt Nam. Nghiên cứu về mối quan hệ của BHTG Việt Nam đối với các TCTD Phạm vi nghiên cứu - Hoạt động của BHTG ở Việt Nam - Hoạt động của BHTG tại Chi nhánh khu vực ĐBSCL . Giới hạn vùng nghiên cứu - Các tỉnh thành khu vực ĐBSCL và tham khảo KV Tp.Hồ Chí Minh. - Hoạt động của BHTG ở Việt Nam và khu vực ĐBSCL. Phương pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp phân tích - Phương pháp phân tích đánh giá - Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp kết hợp với điều tra chọn mẫu. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Cho thấy mối quan hệ cần thiết giữa tổ chức BHTG Việt Nam và các định chế tài chính trung gian, nguyên nhân và kết quả trong hoạt động ngân hàng với tổ chức BHTG Việt Nam. - Cho chúng ta một cách nhìn bao quát về thực trạng hoạt động của BHTG Việt Nam tại Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL, cũng như những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong hoạt động của BHTG Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp phát triển BHTG Việt Nam tại Chi nhánh ĐBSCL, những đề xuất nhằm hoàn thiện về cơ chế, chính sách cho hoạt động của BHTG Việt Nam theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế trong tiến trình Việt Nam hội nhập. Cấu trúc đề tài: Luận văn gồm có 3 chương, bố cục như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về Bảo hiểm tiền gửi . Chương 2: Thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Đồng bằng sông Cửu long. Chương 3: Những giải pháp phát triển BHTG Việt Nam ở Đồng bằng sông Cửu long. Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI 1. 1. Bảo hiểm tiền gửi . 1.1.1. Khái niệm về Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ chức BHTG cam kết trả tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG bao gồm phần gốc và lãi, trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động hoặc mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết công khai này được thể hiện dưới hình thức một hợp đồng bảo hiểm gồm có ba đối tượng: tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG (các định chế trung gian tài chính có huy động tiền gửi) và người gửi tiền. Việc phát triển hoạt động BHTG về qui mô nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tài chính tiền tệ của quốc gia trong nền kinh tế phát triển và hội nhập là một tất yếu khách quan. Khi các TCTD có huy động tiền gửi đề nghị tham gia BHTG và được tổ chức BHTG chấp thuận, điều này sẽ hình thành một hợp đồng giữa ba đối tác nói trên được hình thành. Mỗi quốc gia có những chính sách khác nhau trong việc xác định loại tiền gửi nào thuộc đối tượng được bảo hiểm. Trách nhiệm và quyền lợi tài chính của ba đối tác được thể hiện như sau: - Tổ chức bảo hiểm tiền gửi: Là đối tác nhận đóng góp tài chính từ các tổ chức tham gia BHTG và có trách nhiệm chi trả tiền gửi cho người có tiền gửi tại các tổ chức huy động tiền, trong trường hợp có sự đổ vỡ từ các tổ chức tham gia BHTG. - Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (Tổ chức huy động tiền gửi): Là các định chế trung gian tài chính bao gồm: các ngân hàng thương mại các tổ chức phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi tham gia đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG phải chi trả tiền gửi cho công chúng tại các tổ chức này, trong trường hợp các tổ chức này mất khả năng thanh toán hoặc bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hoạt động. - Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm: Là khách hàng của những tổ chức tham gia BHTG, những người gửi tiền này không phải đóng góp tài chính trực tiếp cho tổ chức BHTG, họ được thanh toán tiền gửi trong hạn mức chi trả theo qui định pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm của Bảo hiểm tiền gửi Sản phẩm bảo hiểm tiền gửi cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm y tế …) đều dựa vào nguyên tắc chung là lấy số đông bù số ít nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro cho khách hàng. Nhưng BHTG khác với các loại bảo hiểm khác ở một số điểm cơ bản (bảng 1.1). Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa BHTG với các loại bảo hiểm khác Bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm khác ] Người gửi tiền được bảo hiểm mà không phải ký hợp đồng với tổ chức bảo hiểm ] Chỉ thực hiện bảo hiểm theo từng hợp đồng riêng lẻ ] Số tiền đền bù khi có tổn thất được quy định bởi các văn bản luật, người gửi tiền không thể tăng mức đền bù bằng cách tăng phí đóng góp ] Số tiền đền bù có thể thỏa thuận với tổ chức bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể tăng mức đền bù bằng cách tăng mức đóng góp ] Người được bảo hiểm không trực tiếp điều hành hoạt động rủi ro của mình, hoạt động rủi ro do tổ chức tham gia BHTG kiểm soát. ] Người mua hợp đồng là người trực tiếp điều hành các hoạt động rủi ro ] Bắt buộc cung cấp cho khách hàng mà không cần có sự đồng ý hay hiểu biết của khách hàng ] Chỉ có thể cung cấp khi có sự đồng ý của khách hàng 1.1.3. Chức năng của Bảo hiểm tiền gửi Hoạt động BHTG là một dịch vụ cung cấp hàng hóa công mang tính xã hội cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học sản phẩm dịch vụ của BHTG là loại hàng hóa công không thuần túy. Dựa vào tính chất không loại trừ hưởng thụ một cách tuyệt đối, do mục đích của dịch vụ BHTG là góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ BHTG là toàn xã hội. Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ chính sách BHTG bằng việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền khi mà ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất khả năng chi trả cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm. Như vậy tổ chức BHTG thực hiện hai chức năng cơ bản là: bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định hệ thống tài chính hoạt động từ đó tạo hiệu ứng cho các ngành kinh tế phát triển thông qua các định chế trung gian tài chính cung cấp. Tóm lại, chức năng hoạt động của bảo hiểm tiền gửi thực hiện các chức năng cơ bản như sau: Bảo vệ người gửi tiền nhỏ là những đối tượng có những hạn chế trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi. Chức năng phòng ngừa đổ vỡ ngân hàng, góp phần bảo vệ hệ thống tài chính ổn định tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính. Góp phần xây dựng một thị trường tài chính có tính cạnh tranh và bình đẳng giữa các tổ chức tài chính có qui mô và trình độ khác nhau. Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ, thông qua việc qui định những quyền lợi của người gửi tiền và của các tổ chức nhận tiền gửi. Những nghiên cứu của các nhà kinh tế cũng như qua thực tiễn, người có tiền gửi nhỏ là được tổ chức BHTG quan tâm nhất và là cơ sở xuất phát điểm cho mục đích hoạt động của BHTG, đây là tầng lớp dân cư có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận những thông tin về hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi, đời sống của tầng lớp công chúng có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các đối tượng khách hàng khác, những người này thường quan tâm đến lãi suất tiền gửi và họ có được khoản tiền lãi từ nguồn tiền gửi ít ỏi của mình là hết sức quan trọng, do đó sự nhạy cảm trong những thông tin xấu của các tổ chức nhận tiền gửi là cực kỳ quan trọng, do hạn chế khả năng phân tích cũng nhưng tầm nhận thức, tâm lý bất ổn với những thông tin về đổ vỡ ngân hàng làm cho họ có những ứng xử theo tâm lý, từ đó rút tiền ồ ạt. Ở Việt Nam ta bằng chứng là sự kiện của Ngân hàng TMCP Á Châu vào tháng 10/2003 là một minh chứng, các hiện tượng trên nếu không xử lý một cách khoa học có thể là nguyên nhân dẫn đến phản ứng dây chuyền làm hàng loạt ngân hàng bị phá sản, đây là một trong những nghiệp vụ mà tổ chức BHTG cần phải quán triệt. 1.1.4. Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi. Vai trò của hoạt động BHTG đối với quốc gia có thể biểu hiện trên nhiều góc độ do xuất phát từ bản chất của hàng hóa mà dịch vụ BHTG cung cấp là loại “hàng hóa công không thuần túy”. Theo lý thuyết kinh tế học về hàng hóa công bao hàm hai đặc tính: - Tính không thể loại trừ: Đặc tính này cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc họ sử dụng hàng hóa này. - Tính không cạnh tranh: Tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó thì không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử dụng nó. Bản chất của dịch vụ BHTG cung cấp tiện tích cho tất cả các thành viên trong cộng đồng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Vai trò chính của BHTG là thúc đẩy sự kết hợp hài hòa giữa nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng hướng tới thu hút được tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong cộng đồng và sự cộng tác tích cực của các thành viên trong xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi. Từ đó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế vững chắc. Như vậy vai trò hoạt động của BHTG đối với quốc gia được phản ánh gián tiếp qua vai trò của hệ thống ngân hàng của chính quốc gia đó. Vai trò của hoạt động của BHTG đối với một quốc gia được thể hiện ở ba mặt cơ bản: - Tạo niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng thương mại. - Góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống ngân hàng quốc gia phát triển lành mạnh. - Huy động tiền gửi tại NHTM được tăng trưởng ổn định, tạo nguồn lực cho đầu tư quốc gia. 1.1.4.1. Hoạt động BHTG tạo niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng thương mại. - Tạo niềm tin của công chúng vào các NHTM. Các ngân hàng thương mại trong hệ thống của một quốc gia muốn có được uy tín đối với công chúng cần có khả năng thực hiện có hiệu quả các chức năng của họ, bao gồm ba chức năng cơ bản như sau: chức năng trung gian tín dụng, chức năng thanh toán và chức năng tạo tiền . Chức năng trung gian tín dụng: thực hiện chức năng này các NHTM làm cầu nối giữa người cần vốn và nơi có vốn. Thông qua việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, các NHTM hình thành quỹ cho vay và cung cấp tín dụng cho toàn bộ nền kinh tế, quá trình này diễn ra liên tục làm tiền đề và điều kiện cho nhau, với chức năng này các NHTM là người đi vay để cho vay, từ đó mà phân bổ các nguồn vốn một cách hợp lý làm cho nền kinh tế vận hành một cách thông suốt theo những quy luật của nó. (Hình 1.1) Gửi tiền NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Cá nhân Cá nhân Cho vay Doanh nghiệp Đầu tư Ủy thác đầu Tư Doanh nghiệp Hình 1.1 - Sơ đồ: Ngân hàng làm trung gian tín dụng Chức năng trung gian thanh toán: khi họ thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, bằng những nghiệp vụ của mình với chức năng này NHTM đóng vai trò là người thanh toán thay cho các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển cao, chức năng này càng được phát huy, hoạt động này có ý nghĩa to lớn trong bất kỳ nền kinh tế nào, nó thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, làm tăng trưởng kinh tế. Chức năng tạo tiền: chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, các NHTM có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng. Khi Ngân hàng Trung ương phát hành tiền ra lưu thông qua thị trường tiền tệ (cấp vốn, tái cấp vốn), thị trường mở (mua bán chứng khoán nợ), hoặc qua thị trường ngoại hối (mua bán ngoại tệ)... thì lượng tiền này sẽ nằm trong lưu thông chủ yếu dưới dạng tiền gửi của các tổ chức, cá nhân tại các NHTM và tiền mặt trong lưu thông. Từ khoản tiền vốn (tiền gửi, tiền vay) ban đầu này, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống NHTM có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần so với số vốn tăng thêm ban đầu. Các chức năng của các NHTM có mối quan hệ chặc chẽ với nhau, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là cơ bản nhất nó tạo điều kiện để thực hiện hai chức năng còn lại. Trong khi đó, chức năng thanh toán thể hiện niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. - Hoạt động BHTG góp phần thúc đẩy chức năng hoạt động của NHTM. Hoạt động BHTG là nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự duy trì hoạt động lành mạnh trong hệ thống ngân hàng của một quốc gia, thông qua các hoạt động chuyên môn của tổ chức BHTG nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG tập trung vào các hoạt động sau: Cung cấp cho công chúng về hoạt động của các NHTM thông qua hoạt động của mình. Hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG khi gặp khó khăn nhằm duy trì hoạt động có hiệu quả. Chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán. Tham gia vào quá trình thanh lý tài sản sau khi chi trả, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền chưa được thanh toán hết số tiền gửi vượt mức chi trả ban đầu, duy trì quỹ BHTG để bảo vệ người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG khác. Như vậy về thực chất, tổ chức BHTG là cầu nối cho các NHTM mất khả năng thanh toán tiếp tục thực hiện chức năng thanh toán cho người gửi tiền. Qua đó chúng ta thấy rằng việc duy trì niềm tin của các ngân hàng đang hoạt động đối với công chúng là hết sức quan trọng, việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm tạo nên sự ổn định tránh sự đổ vỡ dây chuyền, trong đó sự bảo đảm can thiệp kịp thời và có hiệu quả của tổ chức BHTG. Ngoài ra nhằm góp phần duy trì tính ổn định của hệ thống ngân hàng, tổ chức BHTG còn thực hiện chức năng giám sát và kiểm tra các hoạt động của các NHTM tham gia BHTG nhằm ngăn chặn kịp thời những biểu hiện thiếu lành mạnh và thiếu an toàn trong hoạt động ngân hàng, những hoạt động đó góp phần cho các NHTM tham gia BHTG thực hiện có hiệu quả ba chức năng của mình. 1.1.4.2. Hoạt động BHTG tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống NHTM phát triển Hoạt động của tổ chức BHTG làm tăng cường niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia, cũng từ đó tạo động lực để các NHTM phát triển tốt hơn. Với những cải thiện và nâng cao uy tín trong cộng đồng, các NHTM huy động vốn dễ dàng hơn từ đó phát triển được mạng lưới rộng hơn và đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho công chúng những sản phẩm tài chính mà các tổ chức này cung cấp cho toàn xã hội. Nhìn chung hoạt động của tổ chức BHTG đối với các NHTM được biểu hiện qua ba tác dụng chính : + Tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM mới ra đời và các ngân hàng có qui mô nhỏ phát triển tốt hơn: trong kinh tế thị trường, nhìn ở góc độ huy động vốn thì các NHTM lớn có bề dày lịch sử hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thì có nhiều ưu thế hơn những ngân hàng nhỏ, các QTDND cơ sở và các ngân hàng mới thành lập, việc quảng bá thương hiệu cần phải trải qua một quá trình hoạt động, thì các ngân hàng này mới tạo được niềm tin cho công chúng, mặc khác những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mang tính xã hội cao cần phải được khẳng định qua thời gian hoạt động, đặc biệt trong lĩnh vực huy động vốn, họ phải tạo cho công chúng niềm tin khi gửi tiền vào các định chế tài chính trung gian này. Trong khi đó ngân hàng nhỏ và những ngân hàng mới thành lập chưa khẳng định được thương hiệu trên thị trường, thì người gửi tiền thông thường nghi ngờ vào năng lực tài chính và tâm ý e ngại khi gửi tiền vào những tổ chức này là điều không tránh khỏi. Khi hoạt động BHTG với chính sách là bắt buộc, tất cả các NHTM và các tổ chức phi ngân hàng đều phải tham gia, từ đó tiền gửi của công chúng được bảo vệ dù gửi bất kỳ nơi đâu không phân biệt qui mô hay thương hiệu của bất kỳ tổ chức tín dụng nào. Từ đó tâm lý lo ngại của người gửi tiền không còn nữa, chính yếu tố này làm cho các ngân hàng mới thành lập và các ngân hàng có qui mô nhỏ huy động vốn một cách dễ dàng hơn, làm cho hoạt động của NHTM thuận lợi hơn, hỗ trợ các ngân hàng triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ tài chính đáp ứng nhu cầu của xã hội. + Hoạt động của BHTG giúp cho toàn hệ thống ngân hàng hoạt động một cách ổn định: qua hoạt động của mình tổ chức BHTG đánh giá kịp thời những khả năng hoạt động của các NHTM và nhất là tổ chức tín dụng nhỏ (ở Việt Nam là các QTDND cơ sở), từ đó giúp cho hệ thống ngân hàng thương mại không bị phản ứng dây chuyền một khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng, bằng cách đưa các ngân hàng yếu kém rút khỏi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ một cách có trật tự mà không làm ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Đối với các ngân hàng không thể duy trì được, tổ chức BHTG sẽ đưa ra các giải pháp như: chi trả tiền gửi được bảo hiểm và tiến hành thanh lý tài sản, sáp nhập với các ngân hàng có tiềm lực mạnh hơn. Đối với trường hợp nếu một ngân hàng bị mất khả năng thanh toán nhưng chưa đến mức phá sản thì tổ chức BHTG sẽ cho vay hỗ trợ tài chính nhằm cứu các ngân hàng này vượt qua được giai đoạn khó khăn trong quá trình hoạt động ngân hàng. Nhìn chung những hoạt động của BHTG là tạo niềm tin cho công chúng là yếu tố hàng đầu, thông qua việc xử lý các trường hợp sau khi thanh lý tiếp tục chi trả tiền cho công chúng có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì niềm tin ở người gửi tiền, tránh những tin đồn gây ra bất lợi cho các ngân hàng khác . + Hoạt động BHTG tạo động lực để các ngân hàng giám sát lẫn nhau, thúc đẩy nhau nâng cao chất lượng hoạt động: Tổ chức BHTG hoạt động trên cơ sở thúc đẩy cơ chế hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng các tổ chức huy động tiền gửi để giải quyết khó khăn, nhất là trong tình trạng ngân hàng bị mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Bằng chính nguồn lực huy động từ các tổ chức tham gia BHTG sẽ hỗ trợ cho các thành viên. Ở những quốc gia có hình thức đóng góp sau, khi một ngân hàng thành viên bị phá sản thì tổ chức BHTG yêu cầu các thành viên sẽ phải đóng góp một khoản phí theo một tỷ lệ căn cứ vào mức thiệt hại của ngân hàng bị đổ vỡ. Chính theo hình thức đóng góp sau này sẽ làm cho các ngân hàng tự giám sát lẫn nhau nhằm tránh tình trạng ngân hàng hoạt động an toàn phải đóng góp để hổ trợ những ngân hàng có mức độ rủi ro cao hơn họ. 1.1.4.3. Hoạt động BHTG góp phần tăng trưởng huy động tiền gửi cho các NHTM. Tiền gửi tiết kiệm dân cư trong bất kỳ quốc gia nào là một trong những nguồn vốn mà có chi phí rẻ nhằm đầu tư cho phát triển kinh tế đất nước, nguồn vốn tiết kiệm của một quốc gia bao gồm: tiết kiệm dân cư và của Chính phủ là nguồn vốn quyết định đối với đầu tư phát triển kinh tế bền vững. đặc điểm của nguồn vốn huy động trong dân cư là nguồn vốn ổn định và có thời hạn ổn định. Đối với những NHTM lớn, ngoài nguồn tiền gửi của dân cư các ngân hàng này còn thu hút một lượng lớn tiền gửi từ các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, so sánh hai loại tiền gửi của cá nhân và tổ chức, thông thường tiền gửi từ cá nhân có tính ổn định cao hơn so với các tổ chức, nếu như tiền gửi tiết kiệm dân cư có thời hạn dài thì tiền gửi của các tổ chức có thời hạn rất ngắn và không thể xem là nguồn ổn định cho đầu tư phát triển. Sự biến động lớn về tiền gửi dân cư còn tùy thuộc nhiều vào tính ổn định của hệ thống ngân hàng, trong đó vai trò của BHTG là nền tảng của niềm tin công chúng vào hệ thống NHTM của quốc gia. Nhìn chung, bản chất cơ bản nhất của hoạt động BHTG là bảo vệ người gửi tiền, thông qua những nghiệp vụ của mình cung cấp cho các tổ chức tham gia BHTG những sản phẩm dịch vụ làm tăng uy tín cho ngành ngân hàng, làm cho niềm tin của công chúng tăng lên. Như vậy hoạt động BHTG là nhân tố gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD huy động tiền gửi dân cư. Nghiên cứu về vai trò của tổ chức BHTG nhiều nước trên thế giới, nếu mô hình hoạt động BHTG theo cơ chế bảo hiểm theo loại tiền gửi, thì tốc độ huy động tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm có xu hướng tăng, còn tiền gửi không thuộc đối tượng bảo hiệm có xu hướng giảm. Nếu chính sách BHTG không phân biệt loại tiền gửi được bảo hiểm thì tổng số tiền gửi tại các NHTM sẽ tăng lên. Vai trò của hoạt động BHTG đối với huy động tiền gửi tiết kiệm tăng qua hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng, nhất là những quốc gia có nhu cầu tăng cao về đầu tư phát triển (hình 1.2) ĐVT: Triệu đồng Hình 1.2 -Tiền gửi tiết kiệm qua các năm (Nguồn: NHNN TP.HCM) Qua số liệu tiền gửi tiết kiệm tại khu vực TP. Hồ Chí Minh từ năm 2005 đến tháng 5/2008, chúng ta nhận thấy rằng do chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam là có phân biệt đối tượng tiền gửi được bảo hiểm, mà Việt Nam đang áp dụng mô hình bảo hiểm tiền gửi bắt buộc và đối tượng chính được bảo hiểm là người gửi tiền tiết kiệm nhỏ, qua số liệu trên chứng tỏ tiền gửi tiết kiệm ở khu vực này năm 2005 là 280.890.000.000 đồng, so với năm này tăng trưởng qua các năm như sau: năm 2006 tăng 69% năm 2007 đạt 658.881.000.000 đồng tăng 43%, đến tháng 05/2008 tăng 33,3% với số tiền gửi tiết kiệm đạt 842.682.000.000 đồng. Sự tăng trưởng tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm qua các năm đã chứng minh rằng chính sách BHTG đã góp phần đáng kể trong việc huy động vốn của các tổ chức tham gia BHTG. 1.2. Kinh nghiệm Bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới 1.2.1. Bảo hiểm tiền ở Mỹ Công ty BHTG liên bang Mỹ (FDIC), ra đời ngày 1/1/1934, nơi triển khai hoạt động BHTG đầu tiên, là tổ chức điển hình trong triển khai đồng bộ ba loại nghiệp vụ và phát huy tối đa hiệu quả của chính sách BHTG trong bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, là mô hình được nhiều nước trên thế giới tham khảo để thành lập và cải tiến hoạt động BHTG. Thành công của chính sách BHTG ở Mỹ có thể được tóm tắt ở một số điểm nổi bật như sau: Thứ nhất, sự ra đời và triển khai chính sách BHTG ở Mỹ đã khẳng định năng lực kiểm soát rủi ro ngân hàng của chính sách BHTG theo mô hình chức năng đầy đủ là rất lớn: Tính từ tháng 10 năm 1929 đến cuối năm 1933, thời điểm ra đời của FDIC, ở Mỹ đã có 4.000 ngân hàng đổ vỡ. Một phần nhờ có sự triển khai chính sách BHTG của tổ chức FDIC, trong năm 1934 ở Mỹ chỉ có 9 ngân hàng đổ vỡ. Trong giai đoạn 1934-1941 mặc dầu ở Mỹ đã có 370 ngân hàng ._.đóng cửa, nhưng FDIC đã tạo điều kiện để các ngân hàng này rút khỏi lĩnh vực hoạt động ngân hàng mà không ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Trong giai đoạn có khủng hoảng tiết kiệm và cho vay ở Mỹ trong những năm 1980, FDIC đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kịp thời sản phẩm hỗ trợ tài chính để giảm đi phần nào sự đổ vỡ không đáng có của nhiều ngân hàng. Trong giai đoạn 1982-1991 ở Mỹ có hơn 1.400 ngân hàng lâm vào tình trạng nguy kịch, có thể dẫn đến đóng cửa, nhờ sự hỗ trợ tài chính của FDIC, 131 ngân hàng trong số các ngân hàng đó đã vượt qua được khó khăn và duy trì được hoạt động. Thứ hai, quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ kịp thời, giảm tổn thất cho người gửi tiền, ngân hàng và nền kinh tế: Năm 1934 đến 1997, ở Mỹ có 2.192 ngân hàng đổ vỡ, đã được FDIC giải quyết nhanh gọn, giảm thiểu tối đa ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng Mỹ. Người gửi tiền ở các ngân hàng bị phá sản trong thời gian này đã nhận được tiền chi trả bảo hiểm với tổng số tiền là 106.560 triệu USD. Mới đây, FDIC đã đóng vai trò tích cực trong việc tiếp nhận xử lý ngân hàng gặp vấn đề. Từ đầu năm 2008 tới nay, FDIC đã tiếp nhận và xử lý 16 ngân hàng đổ vỡ. Ngoài ra, trong bản kế hoạch giải cứu ngành tài chính trị giá 700 tỉ USD được quốc hội thông qua ngày 1.10.2008, FDIC đã nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi từ 100.000 USD lên 250.000 USD (hạn mức này duy trì đến hết năm 2009) để củng cố niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính. Thứ ba, Mỹ dành nhiều quan tâm tới giám sát hoạt động ngân hàng: Ngay sau khi thành lập, FDIC đã cử 4.000 kiểm tra viên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các ngân hàng nhằm đánh giá tiêu chí là thành viên của FDIC. Nguồn nhân lực thực hiện công tác giám sát hoạt động ngân hàng ở Mỹ được đầu tư đáng kể so với nhiều quốc gia khác, số lượng thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Nhật Bản vào thời điểm năm 1995 là 400 người, trong khi đó số thanh tra viên của Hệ thống ngân hàng Mỹ năm 1995 là 8.000 người. Thứ tư, nguồn lực để triển khai chính sách BHTG ở Mỹ được đầu tư rất lớn: có cơ sở pháp lý cao (Luật BHTG) ngay từ đầu và được điều chỉnh kịp thời trong quá trình triển khai; có nguồn tài chính lớn và có cơ chế huy động tài chính thích ứng với đặc thù và vai trò quan trọng của chính sách BHTG trong giải quyết rủi ro của lĩnh vực tài chính- ngân hàng; có nguồn nhân lực lớn đáp ứng yêu cầu triển khai của chính sách (nhân lực của FDIC vào thời điểm tháng 3/2005 là 4.993 người) 1.2.2. Bảo hiểm tiền gửi ở Nhật Bản Công ty Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản (DICJ) được thành lập năm 1971, với bề dày hoạt động sau 37 năm đã và đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong mạng an toàn tài chính Nhật Bản. Mục tiêu chính của hệ thống BHTG Nhật Bản là bảo vệ những người gửi tiền và các bên liên quan trong trường hợp tổ chức tài chính không có khả năng chi trả tiền gửi, và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua nhiều công cụ nghiệp vụ trong đó có nghiệp vụ tiếp nhận và xử lý Thực tế trong quá trình hoạt động, DICJ đã thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ đối với việc tiếp nhận và xử lý các tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, cùng với các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính Nhật Bản, DICJ đã thực hiện tốt vai trò xử lý khủng hoảng, giảm thiểu tác động của khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra là ổn định hệ thống tài chính ngân hàng, cơ chế xử lý tổ chức tài chính bị đổ vỡ tại Nhật Bản quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm và thời điểm can thiệp của các cơ quan có thẩm quyền liên quan trên nguyên tắc xử lý kịp thời, chi phí tổi thiểu. Cơ chế xử lý tổ chức tài chính bị đổ vỡ tại Nhật Bản Ban đầu, khi hệ thống bảo hiểm tiền gửi mới được thành lập, chỉ có phương pháp chi trả bảo hiểm tiền gửi được áp dụng như là một cơ chế bảo vệ người gửi tiền khi xử lý tổ chức bị đổ vỡ ở Nhật Bản. Tuy nhiên, phương pháp hỗ trợ tài chính đã được bổ sung và quy định trong Luật Bảo hiểm tiền gửi sửa đổi năm 1986. Phương pháp chi trả bảo hiểm Khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, Công ty BHTG Nhật Bản sẽ tiến hành chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức đó dựa trên yêu cầu thanh toán của người gửi tiền. Nguồn chi trả sẽ được lấy từ nguồn thu phí bảo hiểm hàng năm từ các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Hiện nay mức bảo hiểm tối đa mà Công ty áp dụng là 10 triệu yên tổng số tiền gốc của người gửi tiền và tiền lãi của nó.   Phương pháp hỗ trợ tài chính Xử lý đổ vỡ bằng phương pháp hỗ trợ tài chính là việc dùng một tổ chức tài chính vững mạnh (tổ chức tiếp nhận) tiếp quản các chức năng tài chính của tổ chức tài chính bị đổ vỡ.  Việc tiếp nhận này phải đảm bảo rằng tổ chức tài chính tiếp nhận phải được tiếp nhận các tài sản có tương ứng với trách nhiệm nợ phải tiếp nhận. Nhưng trên thực tế thì hầu như trong mọi trường hợp, tài sản có và tài sản nợ của tổ chức tài chính bị đổ là không cân bằng. Vì thế, DICJ sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức tài chính tiếp nhận có thể tiếp quản tổ chức tài chính bị đổ vỡ với điều kiện tài sản có cân bằng với tài sản nợ bằng cách cấp số tiền tương ứng với khoản tài sản nợ vượt quá tài sản có của tổ chức tài chính bị đổ vỡ cho tổ chức tài chính tiếp nhận. Ngoài ra, đối với các khoản nợ xấu của tài sản có của tổ chức tài chính bị đổ vỡ, thủ tục bán các khoản nợ này sẽ được DICJ đảm nhận bằng cách mua lại tài sản như một phần của hoạt động hỗ trợ tài chính. Theo các chuyên gia bảo hiểm tiền gửi của Nhật Bản, thì trong chừng mực có thể cần ưu tiên phương pháp hỗ trợ tài chính để tránh việc gây ra những tác động xấu nghiêm trọng của đổ vỡ đối với các hoạt động tài chính liên quan. Khi áp dụng phương pháp hỗ trợ tài chính, những chủ nợ thông thường bao gồm cả người gửi tiền sẽ hy vọng được thanh toán dựa trên giá trị của tài sản có tính đến các hoạt động tài chính, chứ không phải là giá trị thanh lý. Như vậy, sẽ giúp tránh được các tổn thất về kinh tế phát sinh do sự giải thể hoàn toàn của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Ngoài ra, người gửi tiền cũng sẽ có lợi vì họ được tiếp tục bảo vệ tại tổ chức tài chính tiếp nhận và tiếp tục được hưởng lãi. Hơn nữa, khi áp dụng phương pháp hỗ trợ tài chính, DICJ cũng giảm được chi phí hơn so với trường hợp phải chi trả bảo hiểm. Đối với các hoạt động chuyển giao toàn phần hoặc một phần hoạt động của tổ chức tài chính bị đổ vỡ sang tổ chức tài chính tiếp nhận, DICJ sẽ cung cấp hỗ trợ tài chính để thực hiện việc chuyển giao đó. Trong trường hợp chuyển giao một phần hoạt động, những tài sản có và tài sản nợ không được chuyển giao sẽ vẫn thuộc về tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Để đối xử công bằng đối với tất cả các chủ nợ của tổ chức tài chính bị đổ vỡ, DICJ sẽ cung cấp hỗ trợ tài chính (không hoàn lại) cho tổ chức tài chính bị đổ vỡ sau khi đã thực hiện chuyển giao nhằm đảm bảo tiền lãi cổ tức thanh lý của các chủ nợ của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Ngoài ra, sau khi thực hiện hỗ trợ tài chính cho việc chuyển giao, DICJ có thể tiếp tục hỗ trợ tổ chức tài chính tiếp nhận. DICJ có thể đăng ký mua cổ phiếu ưu đãi của tổ chức tài chính tiếp nhận và các tổ chức liên quan khác khi được Hội đồng Cơ quan dịch vụ tài chính và Bộ tài chính chấp thuận. Mục đích của hoạt động này là nhằm ngăn chặn việc giảm mức độ an toàn vốn của tổ chức tiếp nhận sau do thực hiện chuyển giao. Sau khi chuyển giao, nếu các khoản vay được tiếp nhận từ tổ chức tài chính bị độ vỡ bị suy giảm giá trị vì không thể thu hồi hoàn toàn, thì tổ chức tài chính tiếp nhận sẽ phải chịu tổn thất này. DICJ sẽ có thể ký kết một thỏa thuận bồi thường một phần các tổn thất này trong một thời gian nhất định cho tổ chức tài chính tiếp nhận. Ngược lại, nếu những khoản vay này làm tăng lợi nhuận sau khi chuyển giao, thì một phần lợi nhuận đó sẽ được trả cho DICJ. Cơ quan quản lý tài chính Khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, nhưng chưa thể thực hiện việc sáp nhập, chuyển giao toàn bộ hoạt động kinh doanh hoặc việc giải thể tổ chức tài chính đó có thể gây nhiều trở ngại đến sự luân chuyển của luồng tiền và sự thuận tiện của người sử dụng trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động của tổ chức tài chính đó, Hội đồng Cơ quan dịch vụ tài chính Nhật Bản có thể ban hành lệnh chuyển giao việc quản lý hoạt động và tài sản của tổ chức tài chính đó cho một cơ quan quản lý tài chính.   Cơ quan quản lý tài chính sẽ do Hội đồng cơ quan dịch vụ tài chính bổ nhiệm, và thuộc sự giám sát của Hội đồng. Cơ quan quản lý tài chính có trách nhiệm thực hiện một cách phù hợp việc quản lý công việc kinh doanh của tổ chức tổ chức tài chính bị đổ vỡ, thực hiện những công việc theo yêu cầu để chuyển giao lại công việc kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ cho tổ chức tiếp nhận. Cơ quan quản lý tài chính còn có trách nhiệm thực hiện điều tra cần thiết để làm rõ trách nhiệm gây ra đổ vỡ theo quy định của pháp luật. Việc chuyển giao công việc kinh doanh cho tổ chức tiếp nhận trong vòng một năm kể từ ngày có quyết định quản lý và có thể được gia hạn thêm một năm khi cần thiết. Ngân hàng bắc cầu Theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi, khi xử lý đổ vỡ, DICJ cũng có thể thành lập Ngân hàng bắc cầu với 100% vốn của DICJ. Ngân hàng bắc cầu có nhiệm vụ chính là tiếp tục công việc kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ khi chưa có tổ chức tài chính tiếp nhận, thực hiện hỗ trợ tài chính để duy trì và tiếp tục các hoạt động kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. Tổ chức tài chính bị đổ vỡ sẽ ký kết thỏa thuận cơ sở về việc tiếp tục kinh doanh và các thoả thuận kèm theo với ngân hàng bắc cầu trước khi gửi đơn yêu cầu bắt đầu thực hiện thủ tục phục hồi dân sự sau khi xảy ra đổ vỡ. Sau đó, ngân hàng bắc cầu cung cấp hỗ trợ tài chính dưới hình thức thực hiện các nghĩa vụ, cấp tiền hoặc cho vay để duy trì và tiếp tục các giá trị kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ. 1.2.3. Bảo hiểm tiền gửi ở Đài Loan Ngày 9/1/1985 Luật BHTG Đài Loan được thông qua và ngày 27/9/1985 Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Trung ương Đài Loan (CDIC) khai trương hoạt động. Mặc dầu triển khai chậm hơn nhiều nước trên thế giới, chính sách BHTG ở Đài Loan đã khẳng định được vai trò to lớn trong kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặt biệt có tác dụng kiểm soát hiện tượng hoảng loạn và đột biến rút tiền gửi ở quốc gia này. Thành công của chính sách BHTG Đài Loan có thể được thể hiện ở các khía cạnh sau: - Thứ nhất: nghiên cứu có hiệu quả kinh nghiệm của các quốc gia đi trước về lĩnh vực BHTG, nhờ vậy đã đạt được kết quả cao trong xây dựng các nội dung của chính sách BHTG trong thời gian ngắn và phát huy hiệu quả cao, nhờ học tập một cách sáng tạo kinh nghiệm của Mỹ, Canada v.v.., sau 5 năm hoạt động, CDIC là quốc gia đầu tiên ở châu Á áp dụng thành công phí BHTG theo mức độ rủi ro CDIC đã xây dựng hệ thống cảnh báo sớm tình hình tài chính của các tổ chức tham gia BHTG một cách xuất sắc và được Bộ Tài chính Đài Loan ủy quyền phát triển và xây dựng thành công Hệ thống cảnh báo sớm tài chính quốc gia. - Thứ hai: hoạt động nghiệp vụ BHTG (giám sát, kiểm tra, xử lý ngân hàng có vấn đề, quan hệ công chúng…) được triển khai bài bản, có hiệu quả cao, có đóng góp to lớn trong đảm bảo an toàn và ổn định hoạt động ngân hàng ở đất nước này. Mặc dầu cho tới nay, ở Đài Loan chưa có tổ chức tham gia BHTG nào bị đóng cửa và phải chi trả từ quỹ BHTG của CDIC, từ tháng 6/1990 đến tháng 4/2004, CDIC đã hỗ trợ giải quyết thành công khó khăn của 54 tổ chức huy động tiền gửi bị hoảng loạn và đột biến rút tiền CDIC đã làm nổi bật vai trò quan trọng của chính sách BHTG theo mô hình chức năng đầy đủ đối với hoảng loạn ngân hàng. Kết luận Chương 1: Qua nghiên cứu một số lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi, giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, những đặc điểm riêng biệt của loại hình BHTG là một loại hình BHTG đặc biệt, thông qua vai trò, chức năng của BHTG cho chúng ta thấy đây là một loại hình bảo hiểm mang tính đặc thù của ngành tài chính ngân hàng. Chương này cũng tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về hoạt động BHTG trong việc tiếp nhận và xử lý đổ vỡ ngân hàng, là những kinh nghiệm quý báu cho BHTG Việt Nam chúng ta cần nghiên cứu ứng dụng. Chương 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở KHU VỰC ĐBSCL 2.1. Sự cần thiết khách quan hình thành BHTG Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Trong công cuộc đổi mới đất nước, hòa cùng với công cuộc trọng đại lịch sử đất nước, hệ thống ngân hàng nhà nước đã tiến hành đổi mới từ những năm 1988. Trong giai đoạn này, ngành tài chính ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, trong bối cảnh lạm phát tăng phi mã, nhiều Hợp tác xã (HTX) tín dụng đã bị phá sản, dẫn đến mất lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng hết sức nghiêm trọng, khắp nơi trên toàn quốc, người dân gửi tiền vào các HTX tín dụng bị đóng cửa do phản ứng dây chuyền, không có khả năng thanh toán tiền gửi cho công chúng được. Trong bối cảnh này nhiệm vụ của Ngân hàng nhà nước là cấp thiết, trước mắt phải kìm chế lạm phát, củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia. Qua những vụ đổ vỡ tín dụng, mang tính hệ thống dây chuyền trong thập niên 80, Ngân hàng nhà nước Việt Nam nhận ra rằng cần phải có một tổ chức đứng ra nhằm thực hiện chức năng bảo vệ người gửi tiền vì những quyền lợi hợp pháp của họ và giúp những TCTD rút lui khỏi thị trường kinh doanh tiền tệ một cách an toàn mà không làm ảnh hưởng đến sự hoạt động lành mạnh của các ngân hàng khác, đó chính là lý do mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit Insurance of VietNam) ra đời, là tổ chức tài chính nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, đánh dấu một bước tiến trong quá trình cải cách cũng như hội nhập quốc tế đối với ngành tiền tệ quốc gia. Ngành bảo hiểm tiền gửi trước đây đã có Công ty Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ này theo Quyết định số 390/QĐ-TTg, ngày 27/07/1993 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn, được ban hành. Theo quyết định này Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ đầu tiên đánh dấu bước đầu của ngành BHTG đầu tiên tại Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động BHTG của Bảo Việt là loại hình bảo hiểm theo nguyên tắc tự nguyện, mục tiêu của Bảo Việt xem hoạt động tiền tệ như một sản phẩm thông thường chứ không quan tâm đến tính chất đặc biệt của loại hình kinh doanh tiền tệ, cái mà Bảo Việt quan tâm là mục tiêu lợi nhuận, không có cơ chế hỗ trợ tổ chức tham gia BHTG, chính từ đó mà BHTG của Bảo Việt không được sự quan tâm của các NHTM mà chỉ có một số ít QTDND cơ sở tham gia. Tính đến năm 1995 chỉ có 162 QTDND tham gia BHTG, năm 1996 có 300 đơn vị tham gia, đầu năm 1997 có 370 đơn vị, với số tiền thuộc đối tượng bảo hiểm là 322 tỷ đồng, trong giai đoạn này cả nước có 918 QTDND, hoạt động trên 52 tỉnh thành phố. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của BHTG Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, thực hiện các nhiệm vụ trên BHTG Việt Nam có cơ cấu tổ chức bộ máy bao gồm: Hội đồng quản trị, ban điều hành, các phòng ban, bộ phận tại Hội sở chính và có sáu chi nhánh cấp khu vực. (xem hình 2.1) Hình 2.1 – SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC CỦA BHTG VIỆT NAM Phòng kiểm tra tại chỗ Phòng giám sát Phòng tư vấn luật Phòng công nghệ TT Phòng tài chính KT Phòng xử lý nợ và chi trả Văn Phòng Phòng kiểm soát nội bộ Phòng TC&PTNNL Phòng nguồn vốn & ĐT Phòng hỗ trợ tài chính Chi nhánh khu vực tại TP. HCM Chi nhánh khu vực ĐBSCL tại TP. Cần Thơ Chi nhánh khu vực Nam trung bộ & TN tại Khánh Hòa Chi nhánh khu vực Đông Bắc bộ tại Hải Phòng Chi nhánh khu vực Hà Nội Chi nhánh khu vực Bắc trung bộ tại Nghệ An HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN ĐIỀU HÀNH BAN KIỂM SOÁT BAN THƯ KÝ HĐQT Nhiệm vụ chính của BHTG Việt Nam là: Nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan đến hoạt động ngân hàng. Giám sát, kiểm tra việc chấp hành những qui định về BHTG, các hoạt động ngân hàng của các tổ chức tham gia BHTG. Hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG. Bảo toàn và phát triển vốn của BHTG Việt Nam. Chi trả tiền gửi được bảo hiểm, tham gia hội đồng thanh lý tài sản tại các tổ chức được BHTG chi trả. Tuyên truyền hoạt động BHTG đến công chúng. 2.1.2.1. Bảo hiểm tiền gửi Trung ương Cơ quan trung ương của BHTG Việt Nam là Hội sở chính đặt trụ sở tại Hà Nội bao gồm nơi làm việc của Ban Tổng giám đốc, và các Phòng, ban chức năng. Hoạt động của Hội sở chính là hoạch định các chính sách ở tầm vĩ mô, triển khai hoạt động của BHTG Việt Nam, ban hành các chính sách quy định và giám sát kiểm tra các chính sách được ban hành. 2.1.2.2. Các chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực Mạng lưới chi nhánh được tổ chức theo khu vực: bao gồm Chi nhánh khu vực Hà Nội, Chi nhánh khu vực Đông bắc bộ tại Hải Phòng, Chi nhánh Bắc trung bộ tại Nghệ An, Chi nhánh Nam trung bộ và Tây nguyên tại Khánh Hòa, Chi nhánh khu vực TP. Hồ Chí Minh và Chi nhánh khu vực ĐBSCL tại Cần Thơ , các chi nhánh khu vực chịu trách nhiệm triển khai các nhiệm vụ cụ thể đến tổ chức tham gia BHTG. Hiện nay các chi nhánh của BHTG Việt Nam thực hiện các nghiệp vụ đối với khách hàng như sau: nhận phí BHTG đối với các QTDND cơ sở, các NHTMCP nơi có Hội sở đóng trên địa bàn của chi nhánh quản lý, nghiệp vụ kiểm tra, giám sát, chi trả tiền gửi được bảo hiểm, tham gia hội đồng thanh lý tại các tổ chức nhận tiền gửi có BHTG chi trả, quan hệ công chúng, tư vấn hỗ trợ khách hàng. 2.1.2.3. Mối quan hệ giữa Bảo hiểm tiền gửi Trung ương với các Chi nhánh khu vực. Quan hệ theo mô hình trực tuyến chức năng, tạo nên sự thống nhất tập trung từ Tổng giám đốc, các Giám đốc các chi nhánh khu vực chịu sự lãnh đạo trực tuyến không có sự phân quyền trong lãnh đạo, kể cả nhân sự, các chi nhánh không được tuyển dụng nhân viên. Về mặt nghiệp vụ, các chi nhánh khu vực thực hiện các nghiệp vụ nêu trên đối với tổ chức tham gia BHTG trên địa bàn của chi nhánh quản lý, các NHTM có Hội sở chính đặt tại chi nhánh nào do chi nhánh phụ trách. Nhìn chung theo cơ cấu quản trị, mô hình này chỉ phù hợp đối với những công ty nhỏ, đối với BHTG Việt Nam hoạt động không theo mô hình công ty mẹ - con, việc áp dụng mô hình này làm thiếu tính linh hoạt. 2.2. Những thành tựu của BHTG Việt Nam (từ năm 1999 – 2008) 2.2.1. Đối với NHTM và các tổ chức phi ngân hàng - Hoạt động của BHTG Việt Nam góp phần củng cố và tăng cường uy tín của các NHTM và các tổ chức phi ngân hàng.. Thời gian qua nhiều hoạt động của BHTG Việt Nam đã thực sự góp phần củng cố niềm tin của khách hàng đối với hệ thống NHTM và các tổ chức phi ngân hàng, hoạt động kiểm tra tại các tổ chức này, bằng những kiến nghị nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng mà đặc biệt là các QTDND cơ sở. Công tác chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các tổ chức bị chấm dứt hoạt động làm củng cố niềm tin cho công chúng đối với hệ thống ngân hàng là hết sức quan trọng, từ khi ra đời đến nay BHTG Việt Nam đã tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các QTDND cơ sở, những người gửi tiền đã thực sự tin tưởng vào chính sách của Đảng và điều họ quan tâm nhất là tiền gửi được Chính phủ trả lại tiền của họ. Như chúng ta đã biết, dư âm của sự đổ vỡ hàng loạt các HTX tín dụng hồi thập niên 80 với hơn 8.000 HTX tín dụng bị đổ vỡ hàng loạt người gửi tiền đã không được nhận lại tiền hoặc không nhận đủ được số tiền của mình gửi tại các HTX tín dụng do các tổ chức này bị mất khả năng chi trả. Khi đó, không một tổ chức nào đứng ra bảo vệ họ nên niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng bị suy giảm nghiêm trọng, vẫn còn để lại nhiều bài học cay đắng. Ngày nay nhờ có chính sách chi trả tiền gửi kịp thời của BHTG Việt Nam, đã làm cho hiện tượng rút tiền gửi ồ ạt từ các tổ chức nhận tiền gửi khác đã không xảy ra. Tính đến nay, BHTG Việt Nam đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 1.517 người gửi tiền tại 35 QTDND cơ sở ở 12 tỉnh, thành phố với số tiền là gần 18 tỷ đồng, với thời gian hoạt động vừa qua con số chi trả tiền gửi được bảo hiểm còn khiêm tốn nhưng tác dụng của nó đối với sự ổn định về mặt chính trị cũng như tạo niềm tin thật vững chắc vào hệ thống NHTM là rất lớn, trong đó có phần đóng góp của BHTG Việt Nam. - Hoạt động BHTG Việt Nam góp phần củng cố hoạt động ngân hàng ở Việt Nam. Theo nguyên lý chung hoạt động của ngành bảo hiểm là lấy thu từ số đông để bù đắp rủi ro cho số ít, trong thời gian qua BHTG Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng có qui mô nhỏ và hệ thống QTDND hoạt động dễ dàng hơn. Bên cạnh đó giúp cho các tổ chức tín dụng rút tên ra khỏi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ mà không hề làm ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, hoạt động của BHTG thực sự góp phần thúc đẩy tiến trình củng cố ngân hàng ở Việt Nam đang được tích cực triển khai. Qua 8 năm hoạt động, với nguồn lực là quỹ bảo hiểm tiền gửi đủ khả năng can thiệp kịp thời khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng khó khăn, bảo hiểm tiền gửi đã giúp ngăn chặn và cô lập kịp thời hiệu ứng rút tiền hàng loạt và sụp đổ của hệ thống ngân hàng khi một vài tổ chức ngân hàng gặp rắc rối, BHTG Việt Nam đã giải quyết chi trả tiền gửi cho người gửi tiền thuộc đối tượng bảo hiểm một cách nhanh chóng, kịp thời bằng chính nguồn vốn của các tổ chức tham gia BHTG đóng góp, cơ chế chi trả vừa qua không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng khác. Bảo hiểm tiền gửi là nhân tố cực trong việc duy trì niềm tin của công chúng vào hệ thống NHTM. Đối với Việt Nam ngày nay BHTG là một lĩnh vực còn mới mẻ trong hệ thống tài chính ngân hàng, vai trò của BHTG Việt Nam hết sức khiêm tốn trong nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện tình hình tài chính thế giới hiện nay nhiều bất ổn tác dụng của nó đối với các TCTD ở Việt Nam là không tránh khỏi, trong điều kiện mà Việt Nam gia nhập WTO và những cam kết mở cửa ngành tài chính ngân hàng trong những năm sắp tới đã tác động đến hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam, từ những tháng cuối năm 2007 đến nay, do lạm phát trong nước đã làm cho chính sách điều hành tiền tệ của chính phủ Việt Nam làm cho lãi suất không còn hấp dẫn đối với công chúng, mặt khác trong những năm đầu thành lập thị trường chứng khoán Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã đổ vào đầu tư cổ phiếu trên thị trường này và thị trường bất động sản, trong khi đó trong một thời gian dài do lãi suất chưa hấp dẫn nên kênh huy động tiền gửi của các NHTM là rất khiêm tốn. Mặt khác, do tình hình lạm phát nên một phần lớn tiền nhàn rỗi được công chúng dự trữ dưới dạng vàng hoặc hàng hóa, điều này gây tác động xấu cho ngành ngân hàng khi một lượng tiền mặt tạm thời rút khỏi lưu thông, từ đó cũng làm giảm giá trị của tổ chức BHTG Việt Nam. 2.2.2. Đối với hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân Trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay hòa cùng sự chuyển biến chung của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập, nông thôn Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ trong việc phát triển một nền nông nghiệp bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu, lượng vốn chu chuyển trong lĩnh vực này đòi hỏi ngày một lớn. Thực tế hiện nay Tổ chức tín dụng ở đây cụ thể là các Ngân hàng thương mại chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho phát triển sản xuất, do chiến lược kinh doanh của họ đã bỏ qua những phân khúc của thị trường này, việc khai thác và đầu tư tín dụng cho sản xuất chủ yếu do Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) đảm trách, nhưng không đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Từ đó việc thành lập hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân là một trong những giải pháp nhằm đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi thực tiễn ở nông thôn. Là loại hình tín dụng hợp tác hoạt động trong lĩnh vực Tiền tệ – Tín dụng, dịch vụ Ngân hàng chủ yếu ở nông thôn nhưng mục tiêu hoạt động của QTDND là nhằm huy động nguồn vốn tại chỗ để cho vay tại chỗ, tương trợ cộng đồng, vì sự phát triển bền vững của các thành viên là chủ yếu. Có thể nói do quy mô tổ chức, địa bàn hoạt động gắn liền với dân cư, giao dịch thuận tiện nên chỉ trong thời gian ngắn mô hình QTDND được cấp uỷ Đảng, Chính quyền và nhân dân ở nhiều địa phương ủng hộ và quan tâm phát triển, vì vậy đã mở ra một kênh chuyển tải vốn mới, đa dạng hoá các hình thức hoạt động tín dụng, từng bước góp phần xóa bỏ hụi, tệ cho vay nặng lãi ở địa bàn nông thôn. Xuất phát điểm tài chính của các QTDND là rất nhỏ, mô hình hoạt động QTDND ở Việt Nam non trẻ nhưng đã thể hiện được tính tích cực của loại hình ngân hàng “mini” này, vai trò của QTDND không những tương trợ cộng đồng mà còn góp phần tích cực phát triển kinh tế xã hội đối với địa phương. Theo thống kê hiện nay cả nước có 913 QTDND (chưa tính Quỹ Trung ương và 24 Chi nhánh) hoạt động với tổng nguồn vốn gần 7.000 tỷ đồng, tính trung bình là 7,6 tỷ đồng/Quỹ, thu hút trên 1 triệu thành viên. Theo tính toán ở thị trường nông thôn với địa bàn của 1 xã thì lượng vốn như vậy sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn, tạo thêm nguồn lực mạnh mẽ hỗ trợ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Tuy nhiên hoạt động của hệ thống QTDND thiếu tính liên kết, vốn nhỏ, địa bàn hẹp, trình độ quản lý yếu, chưa ứng dụng công nghệ thông tin, không có các sản phẩm dịch vụ chủ yếu là huy động tiền gửi và cấp tín dụng, nên chứa đựng nhiều rủi ro. Mặt khác, hệ thống QTDND có cùng một tên gọi và biểu tượng trên cả nước, đều này làm cho việc tổn thương một QTDND cơ sở ở địa phương này, sẽ làm cho tâm lý lây lan đến những QTDND khác, tạo hiệu ứng rút tiền hàng loạt một khi có một QTDND bị đổ vỡ. Hoạt động của BHTG Việt Nam đã góp phần duy trì sự hoạt động ổn định của các tổ chức này và đã nhận được sự ủng hộ và được đánh giá cao từ phía các QTDND cơ sở khi làm việc với BHTG Việt Nam. Tính đến 31/12/2007. BHTG Việt Nam đã tiến hành kiểm tra toàn diện về hoạt động của hệ thống QTDTW, 236 QTDND cơ sở trên cả nước, trong quá trình kiểm tra tổ chức BHTG Việt Nam đã kịp thời kiến nghị với các đơn vị những yếu kém trong hoạt động ngân hàng nhằm ngăn chặn và đưa ra cảnh báo kịp thời, làm cho các đơn vị hoạt động hiệu quả hơn. 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. 2.3.1. Những hạn chế. Từ những năm được thành lập và đi vào hoạt động đến nay, BHTG Việt Nam có những hạn chế thể hiện trên những vấn đề như sau: 2.3.1.1.Về tính pháp lý: Các quốc gia trên thế giới, khi tổ chức bảo hiểm tiền gửi được thành lập và đi vào hoạt động thì đã có luật điều chỉnh ngay, trong khi đó, văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực hoạt động BHTG ở Việt Nam mới ở mức nghị định (Nghị định 89 và Nghị định 109 của Chính phủ). Vì thiếu một khung pháp lý vững chắc điều chỉnh lĩnh vực hoạt động BHTG nên phần nào đã làm hạn chế BHTG Việt Nam thực hiện các chức năng, nhiệm vụ vốn có của một tổ chức BHTG theo thông lệ quốc tế. Như chúng ta đã biết, mục tiêu chính của BHTG là bảo vệ người gửi tiền và góp phần duy trì an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nhằm thực hiện mục tiêu này BHTG Việt Nam cần có các cơ sở pháp lý được thể hiện ở ba vấn đề được qui định tại Nghị định của Chính phủ như sau: - Tư cách là chủ nợ khi chi trả tiền gửi được bảo hiểm; - Quy định phải tham gia thanh lý tài sản tại đơn vị được BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi được bảo hiểm; - Quy định được nhận lại tiền chi trả từ nguồn thanh lý tài sản của đơn vị được BHTG Việt Nam chi trả theo trật tự ưu tiên được qui định; Trong thực tế ba vấn đề nói trên chưa được các văn bản pháp qui thể hiện một cách rõ ràng và thống nhất. Vấn đề qui định tư cách chủ nợ khi BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi: tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP qui định “khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó mất khả năng thanh toán, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm của người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi...”. Tại điều 20 của Nghị định này qui định “trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản, thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó với số tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã chi trả cho người gửi tiền”. Thực tế trong lĩnh vực ngân hàng có nhiều đơn vị bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định chấm dứt hoạt động, do mất khả năng thanh toán, thì không có nghĩa là tổ chức đó bị phá sản. Tính đến 30/01/2008, BHTG Việt Nam đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 35 đơn vị bị mất khả năng chi trả và bị chấm dứt hoạt động nhưng việc xác định tư cách chủ nợ của BHTG Việt Nam thật sự không rõ ràng, mặt khác các đơn vị này vẫn không phải là tổ chức tuyên bố bị phá sản. Vấn đề qui định vị trí của BHTG Việt Nam trong hội đồng thanh lý: Trong thời gian mới đi vào hoạt động, đến ngày 31/03/2003, BHTG Việt Nam đã chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 30 tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên ở giai đoạn này thì BHTG Việt Nam không hề tham gia vào quá trình thanh lý của những tổ chức này. Trong khi đó theo qui định tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP và Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5, khi BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi cho tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng chi trả thì BHTG Việt Nam sẽ trở thành chủ nợ và được quyền tham gia quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo qui định của Luật phá sản, điều này trái với cách thức và thông lệ BHTG trên thế giới. Đến ngày 21/10/2003, Ngân hàng nhà nước Việt Nam ra chỉ thị số 06/2003/CT-NHNN, theo tinh thần chỉ thị này thì BHTG Việt Nam được tham gia vào Hội đồng thanh lý của các tổ chức tham gia BHTG, tuy nhiên trên thực tế vai trò là thành viên Hội đồng thanh lý của BHTG Việt Nam chỉ mang tính hình thức, bởi vì mọi hoạt động của hội đồng này do tổ giám sát của Ngân hàng nhà nước trên địa bàn có tổ chức tín dụng bị phá sản trực tiế._.Đối với khách hàng là tổ chức tham gia BHTG được phân chia làm 2 nhóm: khách hàng lớn là các NHTM (gồm NHTM nhà nước, NHTM cổ phần) và khách hàng nhỏ là các Cty tài chính phi ngân hàng, QTDND. Việc phân chia khách hàng như trên sẽ giúp cho BHTGVN có nhiều lợi thế trong việc triển khai sản phẩm cho từng nhóm khách hàng (Bảng 3.1). Người gửi tiền Cá nhân Hộ gia đình Tổ hợp tác Doanh nghiệp tư nhân Công ty hợp danh Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi NHTMNN, NHTMCP, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương). Công ty tài chính. Bảng 3.1. Khách hàng hiện tại của BHTGVN Áp lực từ khách hàng đối với BHTGVN khu vực ĐBSCL hiện nay là rất lớn, thể hiện ở 2 mặt. Thứ nhất, áp lực về việc tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; về phạm vi, mức bảo hiểm tiền gửi. Thứ hai, phải nâng cao chất lượng sản phẩm để góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Trước mắt cần thiết triển khai các sản phẩm dịch vụ sau: - Hỗ trợ tài chính đối với các TCTD gặp khó khăn trong vấn đề tiền gửi, tập trung đặc biệt vào nhóm khách hàng là các QTDND cơ sở - Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, mua lại nợ. 3.3.4. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tiền gửi Cần thiết thực hiện 2 biện pháp căn bản nhằm phòng ngưà rủi ro như sau: - Biện pháp 1: nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm nhằm phù hợp với tình hình lạm phát gia tăng, tránh trường hợp khách hàng rút tiền gửi tiết kiệm đầu tư cho kênh khác. - Biện pháp 2: triển khai đồng bộ các nghiệp vụ BHTG nhằm đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nhất là nghiệp vụ hỗ trợ tài chính cho các TCTD nhất là hệ thống QTDND đối tượng nhiều rủi ro nhất trong hoạt động ngân hàng. 3.3.5. Tái cơ cấu bộ máy quản lý của hệ thống BHTG ở ĐBSCL Chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực ĐBSCL, có 40 người, quản lý cả 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung ương quản lý 122 QTDND cơ sở và 7 Ngân hàng TMCP, có 2 phòng nghiệp vụ và 01 Phòng giám sát từ xa. Việc nắm bắt tình hình hoạt động của các TCTD còn nhiều bất cập. Trong xu hướng hiện nay cần thiết phải đặt văn phòng đại diện của BHTG tại các Chi nhánh của NHNN các tỉnh thành là một việc làm cần thiết. Qua đó, chi nhánh mới nắm bắt được những diễn biến trong từng tỉnh thành, thông qua việc kết hợp chia sẻ thông tin từ Phòng thanh tra và Phòng quản lý các TCTD sẽ đi sâu sát tình hình, nhằm đưa ra những biện pháp kịp thời cùng với Ngân hàng NN các tỉnh góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng trong khu vực. Tuy nhiên cần thiết thực hiện được mô các giải pháp cho Chi nhánh khu vực ĐBSCL cần thiết phải có các giải pháp ở tầm vĩ mô dưới đây: 3.3.6. Xây dựng mô hình BHTG Việt Nam trong điều kiện hội nhập 3.3.6.1. Mô hình giảm thiểu rủi ro tiền gửi BHTG Việt Nam đang thực hiện theo mô hình chi trả tiền gửi với quyền hạn mở rộng, sau 8 năm hoạt động mô hình này bộc lộ những hạn chế như sau: - Không kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng, làm mâu thuẫn với tiêu chí của BHTG là bảo vệ người gửi tiền và góp phần ổn định trong hoạt động ngân hàng. - Tổ chức BHTG chỉ thực hiện chức năng của người “tẩn liệm” một khi tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. - Áp dụng mức phí đồng hạn không tạo ra sự cạnh tranh giữa các TCTD, thiếu công bằng đối với những đơn vị hoạt động lành mạnh từ đó làm giảm lòng tin của khách hàng đối với tổ chức BHTG (xem sơ đồ 3.1) Trong xu thế hội nhập sự cần thiết phải tuân thủ những thông lệ quốc tế về lĩnh vực tài chính – ngân hàng vì vậy phải cần thiết áp dụng mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro bởi những ưu điểm vượt trội của nó. Nếu như mô hình chi trả hoặc chi trả với quyền hạn mở rộng, vai trò của tổ chức BHTG hoàn toàn thụ động, thì mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro mang tính chủ động và phòng ngừa được thể hiện rất rõ, đồng thời mô hình này cũng phản ánh một cách đầy đủ nhất bản chất của bảo hiểm là luôn gắn liền với rủi ro. Vì thế một tổ chức BHTG được coi là hiệu quả phải có các quyền hạn và chức năng tương ứng cho phép tổ chức này hạn chế đến mức tối đa rủi ro của quốc gia, của từng ngành dịch vụ tài chính và người gửi tiền, tức là phải giảm đến mức thấp nhất những tổn thất xã hội trong quản trị rủi ro. Cụ thể, tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro có thể can thiệp vào mọi thời điểm, mọi giai đoạn trong “vòng đời” của tổ chức tham gia BHTG kể từ lúc được hình thành, cấp phép và đi vào hoạt động đến từng giai đoạn phát triển của tổ chức này đều có vai trò đo lường, kiểm soát và ngăn chặn rủi ro của tổ chức BHTG. Thậm chí, nếu tổ chức tham gia BHTG suy yếu đến mức buộc phải giải thể hoặc phá sản thì vai trò của BHTG lúc này không chỉ là thay mặt Chính phủ đứng ra chi trả mà còn bằng các biện pháp xử lý khác giúp tổ chức tín dụng rút khỏi thị trường một cách có trật tự, tránh lây lan, ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của thị trường tài chính và nền kinh tế. Có thể thấy, mô hình giảm thiểu rủi ro cho phép tổ chức BHTG quản lý rủi ro một cách toàn diện nhất, đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh của tổ chức tham gia BHTG. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) với tiêu đề “Tổ chức BHTG xử lý ngân hàng đổ vỡ” năm 2006 nghiên cứu kinh nghiệm và số liệu của 1.700 ngân hàng tại 57 quốc gia cho thấy, ở những nước mà tổ chức BHTG có quyền can thiệp và chấm dứt BHTG thì các ngân hàng hoạt động ổn định hơn và nguy cơ mất khả năng thanh toán thấp hơn. Mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro hoạt động trên nguyên tắc tối ưu: chi phí thấp nhất, chia sẻ thiệt hại công bằng, thực hiện các mục tiêu chính sách công của BHTG (bao gồm: bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền; giám sát rủi ro, đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của các tổ chức tín dụng; chủ động tham gia tái cấu trúc hệ thống ngân hàng). Thực tế đã chứng minh, mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro là mô hình thực sự mang lại lợi ích cho người gửi tiền cũng như doanh nghiệp và nền kinh tế. (xem sơ đồ 3.2) Mô hình giảm thiểu rủi ro với các thẩm quyền cơ bản theo thông lệ quốc tế bao gồm:   - Quyền chấp thuận hoặc chấm dứt BHTG theo nguyên tắc nhất định;   - Độc lập về tài chính: Quyết định cơ chế tính phí hoặc xây dựng và đệ trình lên cơ quan giám sát hợp nhất quyết định; quyền tiếp cận nguồn tài chính bổ sung từ các cơ quan Chính phủ và trên thị trường tài chính.    - Quản lý quỹ: Tổ chức BHTG đầu tư quỹ tích lũy được vào thị trường tài chính thông qua các loại chứng khoán Chính phủ có thu nhập cố định.    - Quyền truy cập thông tin: Được thu thập thông tin định kỳ và đột xuất từ tổ chức tham gia BHTG hoặc từ các cơ quan giám sát khác kiểm tra lại tính chính xác của thông tin; - Chức năng giám sát rủi ro nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính: Xác định tổ chức BHTG là bộ phận cấu thành của hệ thống giám sát hợp nhất quốc gia, trách nhiệm và phạm vi giám sát được luật định rõ ràng giữa các cơ quan giám sát; - Xây dựng và thực hiện hệ thống cảnh báo sớm; thực hiện can thiệp sớm theo nguyên tắc chi phí tối thiểu - Quyền quyết định phương pháp xử lý: Được giao thẩm quyền linh hoạt trong việc lựa chọn giải pháp và triển khai hỗ trợ tài chính hoặc tiếp nhận xử lý; (xem Phụ lục 3.2) 3.3.6.2. Bảo vệ quyền lợi của người có tiền gửi nhỏ Ở Việt Nam, lượng khách hàng nhỏ thường chiếm 75% - 80% và số tiền họ gửi chỉ bằng 10% - 15% tổng lượng tiền gửi vào ngân hàng. Vì vậy, tập trung cho khách hàng nhỏ vừa đảm bảo mục đích bảo vệ quyền lợi của số đông khách hàng, nhưng số tiền được bảo hiểm không quá lớn khiến ngân hàng chủ quan. Khi nghiên cứu mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm, phải bảo đảm hai yếu tố: số tiền chi trả tối đa cũng phải đủ cao để ngăn chặn nguy cơ rút tiền hàng loạt khi ngân hàng có sự cố; thứ hai phải đủ thấp để khuyến khích sự thận trọng của người gửi tiền, từ đó tăng cường giám sát và tạo áp lực để tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả. Từ những năm mới thành lập, mức chi trả tối đa là 30 triệu đồng cho một khách hàng có thể đáp ứng tiêu chí này. Khi nghị định 109 ra đời nên nâng mức chi trả lên 50 triệu đồng, mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm hiện nay không còn phù hợp, việc cần thiết phải nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm lên từ 100 triệu đồng cho một khách hàng trong giai đoạn hiện nay là phù hợp. 3.3.6.3. Giảm gánh nặng cho Chính phủ bằng sự đóng góp của các NHTM. Hoạt động của tổ chức BHTG thông qua quỹ nghiệp vụ từ việc đóng góp của các tổ chức tham gia BHTG, BHTG Việt Nam thay mặt Chính phủ thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền mà không cần phải sử dụng đến ngân sách Nhà nước. Tính đến 31/12/2007, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của BHTG Việt Nam là 2.903 tỷ đồng được đầu tư dưới nhiều hình thức phù hợp, đồng thời nâng cao hiệu quả tích lũy quỹ nghiệp vụ. Đến nay, BHTG Việt Nam đã thu phí BHTG của 1.063 đơn vị với tổng số tiền hơn 480 tỷ đồng, tăng 36% so với cuối năm 2006 và bổ sung 100% vào quỹ nghiệp vụ BHTG. Việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm hiện nay trên cả nước cho 35 QTDND cơ sở ở 12 tỉnh, thành phố với số tiền là gần 18 tỷ đồng, việc chi trả tiền gửi này chưa sử dụng đến ngân sách của Nhà nước, đây là thế mạnh của tổ chức BHTG trong việc góp phần giảm bớt gánh nặng cho Chính phủ trong việc sử dụng bù đắp rủi ro cho các TCTD bị phá sản. 3.3.6.4. Tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh BHTG Trên thế giới, BHTG được xem là một ngành chuyên biệt và đặc thù của loại hình bảo hiểm tiền gửi là ở mỗi quốc gia chỉ có duy nhất một tổ chức được thực hiện hoạt động BHTG. Tương tự như thế, BHTGVN hoạt động trong môi trường không có đối thủ cạnh tranh và cũng không có bất cứ áp lực nào từ sự gia nhập ngành. Sản phẩm bảo hiểm tiền gửi là một sản phẩm đặc biệt, xét theo nghĩa hẹp thì không có sản phẩm thay thế. Tuy nhiên, nếu xét rộng hơn là bất cứ sản phẩm đầu tư nào ngoài sản phẩm tiền gửi đều là sản phẩm thay thế của BHTG. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực chất là một công cụ của Chính phủ bảo vệ sự an toàn tiền gửi, trong trường hợp có sự đổ vỡ thì Ngân hàng Trung ương có thể bơm tiền để cứu các ngân hàng thương mại. Là tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận trong xu thế mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho hệ thống NHTM Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nó tạo ra mức lãi suất thực âm là một thách thức đối với tổ chức BHTG đặc biệt là khu vực ĐBSCL nơi có tỷ lệ huy động gửi tiền thấp, dư nợ tín dụng cao, việc bảo vệ người gửi tiền chính là tạo ra một thế cạnh tranh, từ đó chúng ta đề xuất các giải pháp cho việc cạnh tranh của tổ chức BHTG theo hướng: - Nâng mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm lên 200 triệu đồng/khách hàng (thay vì 50 triệu như hiện nay). - Tăng cường quan hệ công chúng, thông qua việc quảng bá hình ảnh BHTG Việt Nam mà hiện nay công chúng còn chưa biết . 3.3.6.5. Xử lý trong trường hợp đổ vỡ ngân hàng Từ khi ra đời đến nay BHTG Việt Nam xử lý một TCTD bị đổ vỡ bằng hình thức chi trả tiền gửi được bảo hiểm và sau đó tiến hành thanh lý. Đây là một biện pháp trong giai đoạn đầu mới thành lập thì BHTG Việt Nam áp dụng có hiệu quả, nhưng trong giai đoạn sắp tới, trong tiến trình hội nhập BHTG Việt Nam nên nghiên cứu cơ chế sáp nhập ngân hàng và thành lập ngân hàng bắt cầu (Bridge Bank), qua đó BHTG Việt Nam sẽ đứng ra quản lý TCTD bị đổ vỡ, cơ cấu lại và thành lập Bridge Bank, sau đó tìm kiếm đối tác có tiềm lực tài chính mạnh để bán lại. Qua đó quyền lợi của người gửi tiền sẽ được bảo vệ một cách tuyệt đối và những cuộc mua bán ngân hàng không làm tổn hại đến các TCTD đang hoạt động lành mạnh và nhất là tâm lý ổn định của người gửi tiền, từ đó tránh được nguy cơ rút tiền gửi hàng loạt. Trong lịch sử các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra như ở Mỹ vào những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ trước, ở Châu Á năm 1997 và mới đây ở Mỹ vào tháng 09/2008, hầu hết đều bắt nguồn từ sự đổ vỡ của một ngân hàng. Với vai trò là một cơ quan giám sát trong mạng an toàn tài chính quốc gia, cùng với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, tổ chức BHTG phải có vai trò can thiệp khi xảy ra khủng hoảng tài chính. Để thực hiện được vai trò này, ngoài việc phải có địa vị pháp lý rõ ràng, tổ chức BHTG phải có một nguồn tài chính đủ mạnh thì mới có thể xử lý được. Nguồn tài chính này có thể hình thành do phát hành trái phiếu, vay từ Ngân hàng Nhà nước (hạn mức tín dụng đặc biệt) hoặc vay từ nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ, vì trong thực tế, ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới không thể có một tổ chức BHTG nào có đủ tiềm lực tài chính để có thể xử lý khi xảy ra đổ vỡ một số ngân hàng thương mại lớn chứ chưa nói gì đến khủng hoảng tài chính Hiện nay, nguồn vốn hoạt động của BHTGVN ngoài 1.000 tỷ đồng do ngân sách Nhà nước cấp ban đầu còn có khoảng 1.700 tỷ đồng từ thu phí BHTG của các tổ chức tham gia BHTG và từ hoạt động đầu tư. Mức vốn này hoàn toàn chưa tương xứng với vai trò của BHTGVN cũng như mức độ rủi ro của hệ thống tài chính - ngân hàng nước ta. Theo thông lệ quốc tế và của những nước có trình độ phát triển như Việt Nam thì tỷ lệ giữa mức vốn của tổ chức BHTG/Tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm (còn gọi là tỷ lệ vốn mục tiêu) ở vào mức 1,5 - 5%, trong khi đó, ở Việt Nam, tỷ lệ này mới ở mức 0,97 - 1%, thấp hơn nhiều so với thông lệ quốc tế. Vì vậy, để BHTGVN thực hiện được vai trò của mình và hạn chế việc phải điều chỉnh luật, thay vì quy định mức vốn điều lệ cố định do ngân sách cấp như hiện nay Đối với BHTG Việt Nam từ khi thành lập đến nay đã thực hiện tốt vai trò tiếp nhận, xử lý những tổ chức tài chính đổ vỡ cụ thể là những QTDND cơ sở, đặc biệt là tại tỉnh Kiên Giang thuộc khu vực ĐBSCL ngay từ khi ra đời tổ chức BHTG đã tiến hành xử lý 7 QTDND tại tỉnh Kiên Giang, tổng số tiền chi trả là 8.703.989.000 đồng cho người gửi tiền. 3.4. Các giải pháp hỗ trợ 3.4.1. Của Chính phủ Tổ chức BHTG mặc dù là một cơ chế độc lập với hệ thống Ngân hàng Nhà nước, đây là một định chế tài chính của Chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận góp phần bảo đảm và duy trì an toàn trong hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy rất cần thiết việc ban hành những văn bản pháp luật qui định rõ ràng tổ chức BHTG là một kênh giám sát trong mạng an toàn tài chính quốc gia giúp Chính phủ kiểm soát rủi ro đối với hoạt động của hệ thống tài chính- ngân hàng. Được biết BHTG Việt Nam đang xúc tiến dự thảo Luật BHTG nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của BHTG Việt Nam đúng với tầm vóc của mình. Chính vì vậy, hiện nay theo sự chỉ đạo của Chính phủ BHTG Việt Nam đang cùng với các Bộ, ngành xúc tiến đẩy mạnh việc xây dựng Luật BHTG  để trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp cuối năm 2008 và dự kiến thông qua vào năm 2009. Luật BHTG ra đời sẽ là một hành lang pháp lý tốt giúp cho tổ chức BHTG thực hiện tốt vai trò của mình, khi đó quyền lợi của người gửi tiền  sẽ được bảo vệ tốt hơn, hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG sẽ an toàn, hiệu quả hơn. Vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết can thiệp vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô là hết sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng của nước Mỹ của năm 2008 này lan sang các nước Châu Âu và nguy cơ lan rộng toàn cầu là điều khó tránh khỏi, nhưng qua đó chúng ta nhận thấy rằng lý thuyết kinh tế học đã chỉ ra rằng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước là cần thiết và hiệu quả. Hãy nhìn lại thị trường tài chính tín dụng hiện nay trên thế giới mà đại diện là thị trường Mỹ và Châu Âu, chúng ta sẽ cho thấy rằng hiện nay Chính phủ Mỹ và các nước lớn ở Châu Âu đưa ra những quy tắc quản lý thị trường chặt chẽ hơn, nhằm khôi phục lòng tin của công chúng, nhằm tránh sự sụp đổ của ngành tài chính ngân hàng. Ngày 20-21/9/2008, Chỉ sau một đêm, Chính phủ Hoa Kỳ đã công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD cho thị trường tài chính ngân hàng. 3.4.2. Của ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đa số các ngân hàng trung ương trên thế giới có hai chức năng chính: điều hành chính sách tiền tệ và đảm bảo sự ổn định và an toàn cho hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng và một phần nào đó là hệ thống tài chính quốc gia nói chung. Chức năng thứ hai được thực thi qua hệ thống giám sát tính cẩn trọng (prudential supervision) của các NHTM song song với việc thực thi nghĩa vụ “người cho vay cuối cùng” (lender of last resort – LOLR) cho các NHTM có khó khăn về thanh khoản. LOLR có vai trò rất quan trọng trong việc giúp ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc thay đổi lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn. Nếu ngân hàng trung ương không cam kết thực hiện nghĩa vụ LOLR hoặc các NHTM không tin tưởng vào lời cam kết này thì lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có khả năng lệch khỏi lãi suất mục tiêu mà chính sách tiền tệ muốn hướng tới. Tuy nhiên, mục đích chính của LOLR là công cụ của ngân hàng trung ương nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại quốc gia. Hệ thống các ngân hàng của Việt Nam hiện nay tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm các NHTM nhà nước, NHTMCP, ngân hàng liên doanh, các tổ chức phi ngân hàng, hệ thống QTDND, đặc điểm của hệ thống này là có sự chênh lệch rất lớn về qui mô hoạt động, trình độ và công nghệ quản lý, sự khác biệt về thị phần là một trong những yếu tố quan trọng là một trong nguyên nhân làm cho các ngân hàng nhỏ gặp nhiều nguy cơ trong hoạt động ngân hàng là rất cao dẫn đến sự đổ vỡ, do vốn điều lệ thấp trình độ quản trị yếu, nợ xấu cao, đặc biệt là đối với các QTDND cơ sở sẽ dễ dàng bị phá sản khi có những biến động xảy ra. Kinh nghiệm về xử lý khủng hoảng tài chính ngân hàng tại Mỹ vừa qua, vai trò của NHTW là hết sức quan trọng. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ (Federal Reserve System – FED), ngoài việc thể hiện mình là người cho vay cuối cùng ” (lender of last resort – LOLR) cho các NHTM có khó khăn về thanh khoản như đã phân tích ở phần trên, chính FED đã trao quyền lực cho Cty BHTG liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation – FDIC), trong việc xử lý các ngân hàng tại Mỹ hồi những tháng đầu năm 2008, qua đó vai trò của BHTG Hoa Kỳ đã tăng lên một cách rõ nét và hết sức cần thiết trong hệ thống tài chính của Hoa Kỳ. Chính Cty BHTG liên bang đã quản lý các ngân hàng và sau đó tìm cách bán lại cho một định chế tài chính khác nhằm khắc phục tình trạng hỗn loạn trong dân chúng một khi ngân hàng đổ vỡ. Đối với BHTG Việt Nam, trong thời gian tới việc cần thiết là phải được trao cho quyền được tham gia trong việc cơ cấu lại ngân hàng nhằm thể hiện được chức năng nhiệm vụ của một định chế tài chính của chính phủ và là một bộ phận cấu thành mạng an toàn tài chính quốc gia. Điều này cần thiết phải được thể thế bằng Luật BHTG sẽ ra đời trong thời gian tới. Sơ đồ mạng lưới an toàn tài chính quốc gia Nguồn: BHTG Việt Nam 3.4.3. Môi trường pháp lý Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động đến nay đã được 9 năm, trong 9 năm qua BHTG Việt Nam đã làm tốt việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn và bền vững của hệ thống tài chính - ngân hàng. Tuy nhiên, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế nhất là từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế đòi hỏi hệ thống tài chính - ngân hàng nói chung, BHTG Việt Nam nói riêng phải có những đổi mới để đối phó với nguy cơ rủi ro cao của hệ thống tài chính, đồng thời cũng để phù hợp với thông lệ quốc tế, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đó là tạo khung pháp lý mới cho hoạt động của BHTG Việt Nam. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới khi tổ chức BHTG được thành lập và đi vào hoạt động thì đã có Luật điều chỉnh ngay, trong khi đó văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này ở Việt Nam mới ở mức Nghị định. Vì thiếu một khung pháp lý vững chắc điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này nên đã phần nào làm hạn chế  BHTG Việt Nam thực hiện các chức năng, nhiệm vụ vốn có của một tổ chức BHTG theo thông lệ quốc tế.  Trước tình hình đó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước làm đầu mối phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan và BHTGVN khẩn trương xúc tiến việc xây dựng Luật BHTG. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản pháp luật cho hoạt động BHTG. Tuy nhiên hiện nay, cơ sở hạ tầng pháp lý vẫn còn thiếu và yếu, chưa tương xứng với nhiệm vụ của BHTGVN. Pháp luật về BHTG đang ở mức nghị định của Chính phủ, chưa có luật về BHTG tương xứng với các bộ luật khác điều chỉnh về các lĩnh vực liên quan, do đó đã hạn chế việc thực hiện chức năng nhiệm vụ vốn có của BHTGVN; Quyền hạn và nghĩa vụ luật định của BHTGVN còn bị hạn chế so với mục tiêu, kỳ vọng của tổ chức BHTG theo thông lệ quốc tế. chính vì vậy việc xây dựng Luật BHTG là một yêu cầu bức thiết nhằm tạo môi trường pháp lý để BHTG hoạt động tốt hơn trong thời kỳ hội nhập. Mặt khác, một vấn đề hết sức quan trọng mà hiện nay BHTG Việt Nam thuộc Chính phủ nhưng không phải là cơ quan ngang bộ cũng không trực thuộc bộ nào. Nhằm bảo đảm tính độc lập với NHNN nên giao cho Bộ tài chính quản lý BHTG Việt Nam là hợp lý nhất, bên cạnh đó cần có sự phối hợp với NHNNN Việt Nam nhằm đưa tổ chức BHTG Việt Nam hoạt động hiệu quả là một kênh gám sát rủi ro giúp NHNN Việt Nam kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng. 3.4.4. Đào tạo nguồn nhân lực Thành lập Trung tâm đào tạo nguồn nhân lực cho BHTG Việt Nam, từng bước trở thành một trung tâm đào tạo mang tính chuyên nghiệp. Hiện nay các NHTM Nhà nước và nhiều ngân hàng TMCP lớn ở Việt Nam như ACB, Sacombank, Eximbank, DongAbank, đã có những trung tâm đào tạo chuyên nghiệp, chức năng của các trung tâm này đào tạo và đào tạo lại nguồn lực cho ngành ngân hàng. Ngày nay đối với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào muốn thành công thì phải hội đủ 3 yếu tố: tiềm lực tài chính, công nghệ và con người. Trong đó yếu tố con người mang tính quyết định. BHTG Việt Nam là một định chế tài chính Nhà nước, giám sát hệ thống ngân hàng trong cả nước, việc thành lập một trung tâm đào tạo tương xứng với vai trò vị trí của mình là một yêu cầu cấp thiết, vì đây là một yếu tố quan trọng, suy cho cùng yếu tố con người trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng quyết định sự thành bại. Qua 9 năm thành lập, xây dựng và phát triển đến nay tiềm lực của BHTG Việt Nam còn nhỏ bé (bao gồm 1 Hội sở chính và 6 chi nhánh khu vực), trình độ công nghệ chưa được hiện đại hóa, chất lượng đội ngũ cán bộ chưa được chuyên môn hóa cao nhất là đối với các chi nhánh khu vực. Hiện nay BHTG Việt Nam đào tạo nhân viên tập trung tất cả về Hội sở chính tại Hà Nội, việc đưa cán bộ đi tham dự các lớp tại Hội sở từ các chi nhánh là rất tốn kém, nên chăng BHTG Việt Nam đào tạo cán bộ phân cấp theo khu vực, có thể lấy chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đặt một trung tâm đào tạo cho cán bộ phía Nam, làm như vậy sẽ giảm đi rất nhiều chi phí. Liên kết với các Trường, các tổ chức quốc tế đào tạo nguồn nhân lực cho BHTG Việt Nam. Ngoài ra cần thiết khuyến khích, động viên cán bộ có kế hoạch tự đào tạo mình nhằm hoàn thiện kiến thức để phù hợp với xu thế phát triển của ngành ngân hàng. KẾT LUẬN Với những thành tựu qua 8 năm hoạt động, BHTG Việt Nam đã đạt những kết quả đáng kể, tuy còn nhiều vấn đề mà BHTG Việt Nam cần phải làm để xứng đáng với vai trò chức năng và nhiệm vụ mà Chính phủ giao phó. Trong những năm qua, điều mà BHTG Việt Nam làm được đó chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần ổn định chính trị, tạo ra sự an tâm của công chúng khi gửi tiền vào các TCTD, góp phần duy trì sự ổn định trong hoạt động ngân hàng. Với thành tích chi trả tiền gửi được bảo hiểm tại các QTNDN cơ sở trên cả nước và đặc biệt là tại tỉnh Kiên Giang thuộc khu vực ĐBSCL, BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL đã làm cho công chúng vững tâm hơn vào hệ thống ngân hàng Việt Nam, cũng chính nơi đây, công chúng đã nhận thức rằng BHTG Việt Nam thực sự là người bảo vệ họ, còn đối với nền kinh tế BHTG Việt Nam thực sự là một “tấm lá chắn” góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc gia. Danh mục tài liệu tham khảo Bộ Tài chính (2001), Thông tư 27/2001/TT-BTC ngày 27/4/2001 hướng dẫn chế độ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2004), Báo cáo kết quả dự Hội nghị lần thứ 2 của Tiểu Ban Châu Á Hiệp Hội BHTG quốc tế tại Nhật Bản. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2006), Báo cáo sơ kết thí điểm hỗ trợ tài chính giai đoạn một (8/2005 - 8/2006). Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (2005), Chiến lược phát triển giai đoạn 2006 - 2015. BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL (2008), Báo cáo số 130/BC-BHTG703, ngày 24/06/2008 Báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm 2008 và kế hoạch công tác 6 tháng cuối năm 2008. Bích Liên (2008) Luật Bảo hiểm tiền gửi ra đời sẽ giúp DIV thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền Báo Người đại biểu Nhân dân Chính phủ (1999), Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi. Chính phủ (1999), Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều lệ tổ chức, hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Chính phủ (2005), Nghị định số 109/NĐ-CP ngày 23/8/2005 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, ngày 24/06/2008. Vượt qua khủng hoảng và tiếp tục đẩy mạnh cải cách, Bài thảo luận chính sách số 2 Chính phủ (2006), Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Dương Thu Phượng Theo TC Thị trường TC Tiền tệ số 10 ngày 15/5/2007. Đánh giá, dự báo và các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng tiền tệ và hệ thống ngân hàng, Nguyễn Thị Kim Thanh, Nguyễn Thị Thu Hà, Chu Thị Hồng Minh, Bùi Thế Vũ, Nguyễn Duy Phương, Nguyễn Thu Trang – Ngân hàng NNVN, ngày 27/12/2008. Nguyễn Quốc Nam (2007), Nghiên cứu sản phẩm mới và chiêu thị của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Luận án thạc sỹ kinh tế. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Bảo hiểm tiền gửi - Nguyên lý, thực tiễn và định hướng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. Giám sát là chốt chặn an toàn Báo Lao Động số 191, ngày 20/08/2008  PGSTS. Trần Huy Hoàng (2003) Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam nhân sự kiện rút tiền hàng lọat ở Ngân hàng ACB. Quyết định số199/QĐ-BHTG11, ngày 20/07/2005, “Ban hành qui định tạm thời cho vay hỗ trợ đối với QTDND cơ sở”. Quyết định số 106/2002/QĐ-HĐQT ngày 24 tháng 06 năm 2002 của Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam, “Ban hành qui chế bảo lãnh đối với các tổ chức tham gia BHTG. ThS. Phạm Hữu Phương (2008) Vai trò của BHTG đối với sự phát triển của hệ thống TC Ngân hàng trên địa bàn các tỉnh phía Nam Trần Minh Tuấn (2007), “Đẩy mạnh hơn nữa vai trò của BHTGVN đối với nền kinh tế”. TS. Bùi Khắc Sơn (2006), “Mạng an toàn tài chính quốc gia và hoạt động của BHTG Việt Nam”. Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn Website Tổng cục thống kê: www.gso.org.vn Sơ đồ 3.1: MÔ HÌNH CHI TRẢ VỚI QUYỀN HẠN MỞ RỘNG Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, TP Ủy Ban Nhân dân Tỉnh, Thành phố TCTD mất khả năng chi trả BHTG Việt Nam CN Khu vực BHTG Việt Nam BHTG Việt Nam phê duyệt phương án chi trả Các bước thực hiện: TCTD bị mất khả năng chi trả gửi đề nghị Chi nhánh BHTGVN chi trả. Chi nhánh khu vực trình phương án chi trả đến BHTG Việt Nam. BHTGVN phê duyệt phương án chi trả thông báo cho Chi nhánh. Chi nhánh khu vực kiểm tra TCTD, xác nhận số dư tiền gửi được bảo hiểm, kết hợp với NHNN trên địa bàn, báo cáo với UBND tỉnh, TP nơi đặt trụ sở TCTD, tiến hành chi trả. Báo cáo cho BHTG Việt Nam về kết quả chi trả Sơ đồ 3.2: MÔ HÌNH GIẢM THIỂU RŨI RO CN Khu vực BHTG Việt Nam  TCTD mất khả năng chi trả tạm thời Œ   BHTG Việt Nam Quyết định các PA Ž Ž Ž CHI TRẢ TIỀN GỬI BH HỔ TỢ TÀI CHÍNH MUA LẠI TCTD Các bước thực hiện: Các Chi nhánh khu vực chủ động trong việc nhận biết tình trạng của TCTD (do thực hiện tốt vai trò giám sát rũi ro). Các Chi nhánh khu vực đề nghị BHTG Việt Nam xem xét BHTG Việt Nam sau khi xem xét tuỳ theo mức độ của TCTD đưa ra nhiều phương án. Chỉ đạo các Chi nhánh khu vực thực hiện một trong những phương án đã được duyệt. Chi nhánh thực hiện phương án được phê duyệt Phụ lục 2.1: ĐỊA BÀN QUẢN LÝ CỦA CHI NHÁNH ĐBSCL (Tính đến 31/12/2008) STT ĐƠN VỊ Số lượng QTDND cơ sở Số lượng NHTMCP 1 TP. Cần Thơ 3 1 2 Cà Mau 2 3 Bạc Liêu 5 4 Sóc Trăng 14 1 5 Hậu Giang 1 1 6 Kiên Giang 24 1 7 An Giang 22 1 8 Đồng Tháp 17 1 9 Vĩnh Long 2 10 Trà Vinh 15 11 Tiền Giang 14 12 Bến Tre 3 Tổng cộng 122 6 Nguồn: BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL Phụ lục 3.1 : SỐ LƯỢNG CÁC ĐƠN VỊ ĐƯỢC KIỂM TRA TẠI CHI NHÁNH KHU VỰC ĐBSCL (Từ 01/01/2008 đến 31/12/2008) STT ĐƠN VỊ Số lượng QTDND cơ sở Số lượng NHTMCP Số lượng đơn vị được kiểm tra Tỷ lệ đạt 1 TP. Cần Thơ 3 1 4 2 Cà Mau 2 2 3 Bạc Liêu 5 5 4 Sóc Trăng 14 1 5 5 Hậu Giang 1 1 1 6 Kiên Giang 24 1 6 7 An Giang 22 1 5 8 Đồng Tháp 17 1 4 9 Vĩnh Long 2 2 10 Trà Vinh 15 5 11 Tiền Giang 14 5 12 Bến Tre 3 3 Tổng cộng 122 6 47 36,7% Nguồn: BHTG Việt Nam Chi nhánh khu vực ĐBSCL Phụ lục 3.2: Mục tiêu chính sách công của các mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi TT Mục tiêu chính sách công Mô hình giảm thiểu rủi ro Mô hình chi trả quyền mở rộng Mô hình chi trả 1 Bảo vệ người gửi tiền nhỏ thông qua việc cung cấp cơ chế bồi thường x x x 2 Khuyến khích người gửi tiền ít hiểu biết về tài chính giám sát ngân hàng và thực hiện các nguyên tắc thị trường x x x 3 Giảm gánh nặng cho Chính phủ và yêu cầu các ngân hàng tốt đóng góp chi phí trong quá trình xử lý ngân hàng x x x 4 Thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực tài chính x x x 5 Tạo ra một cơ chế chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân hàng x x 6 Tránh khủng hoảng tài chính x x 7 Thúc đẩy ổn định tài chính x 8 Khuyến khích tiết kiệm và thúc đẩy tăng trưởng tài chính kinh tế x 9 Góp phần vào hệ thống thanh toán có trật tự x 10 Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế x 11 Giảm thiểu tác động của suy thoái kinh tế x Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 22 tháng 11/2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0600.doc
Tài liệu liên quan