Giải pháp chủ yếu phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

Tài liệu Giải pháp chủ yếu phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang: ... Ebook Giải pháp chủ yếu phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang

doc149 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp chủ yếu phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI --------------------------- LÊ BÁ XUYÊN GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN RAU, QUẢ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành : KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số : 5.02.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI BẰNG ĐOÀN HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2009 Tác giả Lê Bá Xuyên LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn: - Ban giám hiệu, Viện Sau đại học, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã giúp đỡ về mọi mặt để tôi hoàn thành luận văn. Các Thầy Cô Bộ môn Kinh tế, cùng các Thầy Cô trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, các Thầy, Cô Viện Sau đại học Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình học và làm luận văn. - UBND tỉnh Bắc Giang, Cục Thống kê Bắc Giang, các sở: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang đã tận tình giúp đỡ, tham gia ý kiến tư vấn, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn. - Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các phòng ban, UBND các xã thuộc các huyện: Lạng Giang, Tân Yên, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thu thập số liệu tại địa phương. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo Tiến sỹ Bùi Bằng Đoàn đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các đồng chí, đồng nghiệp, bè bạn và gia đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ, động viên khích lệ, đồng thời có những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2009 Tác giả Lê Bá Xuyên MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BQ Bình quân CNCB Công nghiệp chế biến CN-TTCN Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp GDP Tổng sản phẩm quốc nội GTGT Giá trị gia tăng GTSX Giá trị sản xuất NN Nông nghiệp NLTS Nông lâm thuỷ sản NSTP Nông sản thực phẩm TM-DV Thương mại dịch vụ TNHH Trách nhiệm hữu hạn UBND Uỷ ban nhân dân XTTM Xúc tiến thương mại USD Đô la Mỹ WTO Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 3.1 Tổng hợp các yếu tố khí hậu tỉnh Bắc Giang 41 3.2 Biến động đất đai giai đoạn 2006- 2008 (ĐVT: ha) 43 3.3 Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Bắc Giang thời kỳ 1997- 2008 45 3.4 Tình hình dân số và lao động tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2006 -2008 48 3.5 Đất đai, dân số và tình hình sản xuất ngành trồng trọt tại 3 huyện điều tra năm 2008 54 3.6 Số hộ điều tra được chọn từ các xã đại diện 55 4.1 Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giai đoạn 2006 – 2008 60 4.2 Công suất thiết kế của các nhà máy giai đoạn 2006 – 2008 64 4.3 Tình hình sản xuất của các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2008 68 4.4 Thị trường xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu rau, quả chế biến giai đoạn 2006 – 2008. 69 4.5 Tổng hợp diện tích, năng suất, sản lượng rau, quả chế biến trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006 - 2008 73 4.6 Diện tích, năng suất, sản lượng rau, quả phục vụ công nghiệp chế vụ Xuân giai đoạn 2006 – 2008 77 4.7 Diện tích, năng suất, sản lượng rau, quả phục vụ công nghiệp chế vụ Đông giai đoạn 2006 – 2008. 80 4.8 Tổng hợp các diện tích rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến trồng tập trung theo vùng năm 2008 82 4.9 Cân đối nhu cầu và khả năng đáp ứng các loại RCB năm 2008 84 4.10 Một số kết quả điều tra các hộ sản xuất rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến thời điểm tháng 3/2009. 89 4.11 Khái toán tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp phát triển vùng rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến giai đoạn 2010 – 2015. 112 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Những năm gần đây, vấn đề phát triển và mở rộng vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến được nhiều địa phương trong cả nước coi là giải pháp cơ bản và quan trọng nhằm thực hiện chủ trương phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, nâng cao thu nhập và đời sống nông dân; góp phần ổn định kinh tế xã hội khu vực nông thôn, đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Bắc Giang là tỉnh thuần nông, với hơn 91% dân số sống ở khu vực nông thôn; lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 74% tổng số lao động toàn tỉnh; tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chiếm 37% (năm 2008), nên nông nghiệp, nông thôn vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), ổn định an ninh nông thôn [25]. Những năm vừa qua, cùng với sự phát triển chung của đất nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; kết cấu hạ tầng KT-XH được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần của nông dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày một đổi mới. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh Bắc Giang đang gặp phải nhiều vấn đề thách thức cần giải quyết, đó là: Diện tích đất canh tác đang ngày càng thu hẹp do quá trình công nghiệp hoá, do nhu cầu đất ở và đất xây dựng khác; sản xuất nông nghiệp vẫn mang phương thức canh tác truyền thống với quy mô sản xuất nhỏ, năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm yếu; đa số sản phẩm nông nghiệp sản xuất vẫn là sản phẩm thô, công nghiệp chế biến đã hình thành nhưng chưa phát triển mạnh, tỷ lệ sản phẩm qua chế biến còn thấp... [27]. Là tỉnh có diện tích đất nông nghiệp lớn (chiếm 67% diện tích tự nhiên), có số doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu lớn, nhưng tới nay Bắc Giang chưa xây dựng được quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến; mối quan hệ giữa người sản xuất nguyên liệu và doanh nghiệp chế biến chưa được gắn kết chặt chẽ; nhiều vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ này chưa được chính quyền các cấp quan tâm giải quyết thoả đáng; hiệu quả kinh tế của sản xuất rau chế biến đã được khẳng định (gấp hơn nhiều lần so với các cây trồng truyền thống), nhưng việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến vẫn còn mang tính tự phát, nguyên liệu phục vụ cho 8 nhà máy chế biến nông sản (năm 2008) mới đáp ứng được khoảng 49% nhu cầu. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đáp ứng nhu cầu cuộc sống của đại đa số hộ nông dân, vì vậy một bộ phận không nhỏ người nông dân không còn thiết tha với đồng ruộng, cảnh tượng “ly nông”, “ly hương”, đổ xô ra thành thị tìm kiếm việc làm ngày càng tăng, gây nhiều áp lực về giải quyết việc làm cho khu vực thành thị và nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội [09]. Thực tiễn ở Bắc Giang đang đòi hỏi các nhà quản lý trả lời cho được các câu hỏi là: Tại sao trồng rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến đem lại hiệu quả kinh tế cao nhưng diện tích lại chưa được mở rộng? Mối quan hệ giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với người nông dân ở đây như thế nào? Giải pháp nào để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trên đơn vị canh tác, giúp nông dân gắn bó với đồng ruộng, đồng thời đáp ứng nhu cầu sản xuất của các nhà máy chế biến? Để góp phần trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp chủ yếu phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang”, trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và tình hình thực tiễn để tìm ra những nguyên nhân, tồn tại làm cản trở đến việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả để từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển nhanh và vững chắc vùng nguyên liệu; đưa sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông dân, góp phần thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn tỉnh Bắc Giang. 1.2 Mục đích nghiên cứu 1.2.1 Mục đích chung Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn để tìm ra những giải pháp phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao. 1.2.2 Mục đích cụ thể - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; - Đánh giá thực trạng phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; - Đánh giá mối quan hệ giữa các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu và nông dân sản xuất nguyên liệu; - Đề xuất một số chủ trương, giải pháp phát triển vùng nguyên liệu rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến đến năm 2010, năm 2015 và những năm tiếp theo, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành công nghiệp chế biến. 1.3 Phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Về không gian Đề tài nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. 1.3.2 Về thời gian - Đề tài được thực hiện từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009; - Số liệu thu thập: Số liệu đã được công bố trong giai đoạn 2006– 2008; số liệu sơ cấp được điều tra trực tiếp từ một số hộ nông dân và doanh nghiệp trong tháng 3 năm 2009; - Khảo sát tình hình cơ bản về kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang 6 tháng đầu năm 2009. 1.3.3 Đối tượng nghiên cứu - Là những hộ nông dân tham gia sản xuất nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; - Những doanh nghiệp tham gia chế biến nông sản xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. 1.3.4 Nội dung - Chỉ nghiên cứu những giải pháp phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả là những cây trồng ngắn ngày. Những vấn đề khác như: Đánh giá, so sánh hiệu quả kinh tế giữa việc trồng rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến với các cây trồng truyền thống; quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến; giải quyết việc làm cho lao động nông thôn; các loại quả là cây trồng lâu năm như vải, nhãn, na, ổi... không thuộc phạm vi nghiên cứu của Đề tài. - Mục đích đạt được của những giải pháp này là tạo sự nhận thức về sự cần thiết và cách làm thống nhất, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả, đáp ứng nhu cầu sản xuất của các nhà máy chế biến nông sản; góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trên đơn vị canh tác, giúp nông dân gắn bó với đồng ruộng; tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN RAU, QUẢ 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Một số khái niệm cơ bản 2.1.1.1 Phát triển Phát triển và tăng trưởng là hai khái niệm đều chỉ sự thay đổi về lượng của một quá trình. Tuy nhiên, phát triển có sự thay đổi cả về số lượng và chất lượng. Tiếp cận phát triển và tăng trưởng trong kinh tế thì: Tăng trưởng là sự thay đổi tăng lên về số lượng các mặt hàng và số lượng từng loại hàng hóa, trong đó phát triển là tăng lên cả về số lượng mặt hàng và phong phú hơn, đa dạng hơn về cơ cấu các mặt hàng cũng như sự phân bố của cải phù hợp. Trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển là sự tăng lên về số lượng, chất lượng sản phẩm, cân đối giữa các ngành, các vùng, đây được xem như là một trong những điều kiện phát triển và đi kèm với nó là yếu tố môi trường và yếu tố xã hội nông thôn. 2.1.1.2 Liên kết kinh tế Tất cả các mối quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với nhau dựa trên những hợp đồng đã ký kết với những thỏa thuận nhất định được gọi là liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Liên kết kinh tế được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước. Mục tiêu liên kết: Tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết; hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm nhằm bảo vệ lợi ích của nhau. Liên kết kinh tế có nhiều hình thức và quy mô tổ chức khác nhau, tương ứng với nhu cầu sản xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên tham gia liên kết. Những hình thức phổ biến là hiệp hội sản xuất và tiêu thụ, nhóm sản xuất, nhóm vệ tinh, hội đồng sản xuất và tiêu thụ theo ngành hoặc theo vùng, liên đoàn xuất nhập khẩu... Các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân đầy đủ, không phân biệt hình thức sở hữu, quan hệ trực thuộc về mặt quản lí nhà nước, ngành kinh tế-kỹ thuật hay lãnh thổ. Khi tham gia liên kết kinh tế, không đơn vị nào bị mất quyền tự chủ của mình, cũng như không được miễn giảm bất cứ nghĩa vụ nào đối với nhà nước theo pháp luật hay nghĩa vụ hợp đồng đã ký với các đơn vị khác. Như vậy, liên kết kinh tế là sự phối hợp của hai hay nhiều bên, không kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mục tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với đối tác nhằm đem lại lợi ích cho các bên. Cơ chế liên kết là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau. Các cách thức hoạt động này được đúc rút từ thực tiễn sản xuất và đời sống mang tính khách quan, được con người nhận thức, thừa nhận và thực hiện. Cơ chế vận hành đúng là cơ chế có sự thống nhất giữa nhân tố khách quan và chủ quan. Ở mỗi giai đoạn khác nhau có những cơ chế điều chỉnh khác nhau, phụ thuộc vào những điều kiện khách quan và khả năng nhận thức chủ quan của con người. 2.1.1.3 Liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau quả Là sự hợp tác giữa hai hay nhiều đối tác trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau quả thông qua sự thỏa thuận miệng hoặc ký kết hợp đồng kinh tế. - Mục đích của liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ rau quả Mục đích của sản xuất - tiêu thụ sản phẩm là bên bán mong muốn bán được hàng và thu được nhiều lợi nhuận, còn bên mua mong muốn mua được hàng tốt, giá cả phù hợp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng hoặc nhu cầu của các quá trình sản xuất - kinh doanh tiếp theo. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình gắn kết giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa vùng nguyên liệu với người sản xuất chế biến và tiêu thụ, giữa người mua và người bán. Như vậy, liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm là cách thức tổ chức phân công lao động xã hội, trong đó các hộ, doanh nghiệp phối hợp, gắn bó, phụ thuộc với nhau thông qua các cam kết, các thoả thuận điều kiện về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm đem lại lợi ích cho các bên. 2.1.1.4 Hợp đồng kinh tế Theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (HĐKT) năm 1989, HĐKT là loại hợp đồng được ký giữa pháp nhân với pháp nhân, hoặc giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Đó là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa thuận khác nhằm mục đích kinh doanh [22]. Như vậy, HĐKT là một khái niệm vừa rất rộng, thậm chí còn có thể bị coi là một khái niệm chưa rõ ràng (về đối tượng của hợp đồng), nhưng cũng lại rất hẹp về chủ thể ký kết (các bên ký kết). Mặt khác, với những thay đổi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường, những quy định của Pháp lệnh HĐKT tỏ ra không còn thích ứng với môi trường kinh doanh đa dạng về mọi mặt, phản ánh một cách cụ thể trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do đó, hiện nay các doanh nghiệp khi ký kết một hợp đồng nào đó với đối tác kinh doanh của mình, thường xác định cụ thể nội dung của hợp đồng ký kết mà đặt tên cho hợp đồng. Điều này vừa dễ cho công tác quản lý (do có cơ sở để phân loại hợp đồng theo tên gọi), vừa là cơ sở để các bên có thể tìm hiểu một cách có hiệu quả các quy định của pháp luật về loại hợp đồng với nội dung đó (do đã giới hạn được phạm vi của các văn bản pháp luật điều chỉnh loại quan hệ giao dịch sắp ký kết) như: Hợp đồng sản xuất và tiêu thụ nông sản, có thể gọi là hợp đồng bao tiêu sản phẩm; hợp đồng gia công thì các bên có thể đặt tên cho hợp đồng của mình là hợp đồng gia công, mua bán hàng hóa thì ghi rõ là hợp đồng mua bán hàng hóa... 2.1.1.5 Tổ hợp tác Theo định nghĩa của FAO (1993) thì tổ hợp tác (có nơi gọi là “nhóm sở thích) trong nông nghiệp nông thôn” là tập hợp những người dân, hộ gia đình, hoặc bộ tộc sống chung trong cộng đồng địa phương, có kiến thức, tâm huyết – say mê các hoạt động về kinh tế xã hội ở cơ sở; tình nguyện tham gia thực hiện vì mục tiêu lợi nhuận và phi lợi nhuận, sẵn sàng làm nòng cốt thúc đẩy các hoạt động đó vì sự tiến bộ an sinh xã hội, hoặc vì nâng cao hiệu quả sản xuất, hoặc vì hợp tác với nhau để tìm phương pháp mưu sinh bền vững bằng cách lồng ghép các hoạt động sản xuất nông nghiệp với các dịch vụ trong nông thôn để, trước mắt đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, sau đó nhằm tạo ra sự phát triển bền vững trên quê hương mình. 2.1.1.6 Vùng nguyên liệu Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 2000, thì Vùng nguyên liệu là phần đất đai hoặc không gian tương đối rộng, có những đặc điểm nhất định về tự nhiên hoặc xã hội, phân biệt với các vùng khác xung quanh. Vùng đồng bằng, Vùng mỏ, Vùng chuyên canh lúa. Đối tượng lao động đã được con người khai thác hoặc sản xuất. Cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chế biến và Công nghiệp. Ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân hiện đại, có nhiệm vụ khai thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến tài nguyên và các sản phẩm nông nghiệp thành tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Phát triển công nghiệp. Làm cho biến đổi thành chất có thể dùng được, hoặc dùng tốt hơn. Chế biến thức ăn. Chế biến nông sản. Theo đó, vùng nguyên liệu là một khái niệm tổng quát về vùng mà người ta có thể xác định được những phần diện tích thích hợp với mục đích kinh doanh phát triển các cây để làm nguyên liệu. Ranh giới vùng nguyên liệu được hoạch định theo địa giới hành chính huyện, xã. Ranh giới này chỉ mang tính định hướng sản xuất trong vùng mà không phải là ranh giới phân định việc sử dụng đất đai. Xác định phạm vi vùng nguyên liệu dựa trên yếu tố địa lý, cự ly, mức độ tập trung sản xuất, năng lực về giao thông vận tải và bố trí cơ cấu cây trồng đảm bảo cung ứng sản xuất nguyên liệu đều cho các tháng trong năm có đủ nguyên liệu hoạt động từ 10 – 12 tháng. Như vậy có thể hiểu, vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến là vùng sản xuất tương đối rộng chuyên sản xuất một hoặc một số loại cây trồng (rau, quả) phục vụ cho công nghiệp chế biến. Còn phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả là việc các cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua những giải pháp, cơ chế, chính sách chủ quan của mình tác động vào đối tượng những người trực tiếp sản xuất, các doanh nghiệp nhằm mở rộng và phát triển vùng nguyên liệu hiện có hoặc phát triển mới một số loại cây trồng phục vụ công nghiệp chế biến nông sản [23]. 2.1.1.7 Các đặc trưng chủ yếu của vùng nguyên liệu Vùng nguyên liệu có những đặc trưng chủ yếu sau [23]: - Là những vùng sản xuất tương đối rộng chuyên sản xuất một hoặc một số loại cây trồng, sản phẩm sản xuất ra đáp ứng nhu cầu cho các nhà máy chế biến nông sản. - Sản phẩm sản xuất ra chỉ để phục vụ cho công nghiệp chế biến, không phải cho tiêu dùng trực tiếp. - Yêu cầu trình độ thâm canh cao (chủ yếu vào việc đầu tư thêm tư liệu sản xuất, khoa học kỹ thuật và lao động trên đơn vị diện tích, để tăng năng xuất, chất lượng nông sản hàng hoá và có một khối lượng nông sản lớn). - Tính đồng đều của sản phẩm cao. 2.1.1.8 Quy hoạch vùng nguyên liệu Quy hoạch vùng nguyên liệu là việc bố trí sản xuất vùng nguyên liệu theo không gian, thời gian nhất định trên cơ sở phù hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội để sản xuất ra khối lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất. Vì vậy, việc bố trí vùng nguyên liệu phải căn cứ vào tính thích nghi của một số loại cây trồng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm này với các loại nông sản khác trên cùng một loại đất, để đem lại năng suất, chất lượng cao nhất. Đồng thời vùng nguyên liệu phải gần hoặc tương đối gần các nhà máy chế biến (do đặc thù của nông sản hàng hoá là khó bảo quản); phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo và coi đây là nền tảng cho sự phát triển bền vững của vùng nguyên liệu. 2.1.2 Mối quan hệ giữa phát triển vùng nguyên liệu đối với công nghiệp chế biến rau quả Có thể nói, mối quan hệ giữa phát triển vùng nguyên liệu với phát triển công nghiệp chế biến là mối quan hệ biện chứng, phát triển công nghiệp chế biến sẽ thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu đồng thời phát triển vùng nguyên liệu tốt sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến. Bất kỳ ngành công nghiệp chế biến nào cũng cần phải có nguyên liệu, không có nguyên liệu công nghiệp chế biến không thể hoạt động. Đặc điểm cơ bản của sản phẩm rau - quả là sản xuất có tính mùa vụ, khối lượng sản phẩm thu hoạch thường hay tập trung trong một thời gian ngắn, rất khó bảo quản và vận chuyển đi xa để tiêu thụ, trong khi đó thời tiết khí hậu nước ta là nóng và ẩm, chất lượng sản phẩm bị xuống cấp rất nhanh. Vì vậy chế biến không những góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ cho thêm các gia vị, kéo dài thời gian sử dụng và các sản phẩm chế biến thường được đóng lọ, đóng hộp có thể vận chuyển đi xa, kéo dài thời hạn sử dụng vì vậy sẽ tiêu thụ được khối lượng sản phẩm lớn với giá trị sử dụng cao hơn [23]. Từ hai yếu tố trên cho thấy, quan hệ giữa các nhà máy chế biến với vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến là mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ, phụ thuộc vào nhau; sự phát triển của ngành này là cơ sở cho sự phát triển của ngành kia và ngược lại. Phát triển công nghiệp chế biến phải thực hiện đồng thời với phát triển vùng nguyên liệu. Xuất phát từ mối quan hệ trên, để sản xuất nông nghiệp trên địa bàn phát triển theo hướng chuyên môn hoá và sản xuất hàng hoá thì việc quy hoạch vùng nguyên liệu là rất cần thiết để trên cơ sở đó phát triển công nghiệp chế biến nhằm tạo thành vùng sản xuất hàng hoá lớn, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của sản xuất trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Nguồn nguyên liệu phải xây dựng thành vùng tập trung, có diện tích đủ lớn để thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hoá, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Việc quy hoạch vùng nguyên liệu phải tính tới khả năng đáp ứng yêu cầu nguyên liệu cho nhà máy chế biến, làm sao đảm bảo cho nhà máy không bị thiếu nguyên liệu, cũng như thừa nguyên liệu khi vào vụ thu hoạch chính, điều đó đòi hỏi sản xuất phải có quy hoạch, kế hoạch sản xuất các cây trồng theo hướng đan xen mùa vụ, rải vụ để đảm bảo giữa khả năng cung ứng vùng nguyên liệu và khả năng chế biến của nhà máy một cách hiệu quả nhất. Phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến phải trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông dân với các doanh nghiệp chế biến nông sản. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá (bao gồm nông sản, lâm sản) và muối với người sản xuất (hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá để phát triển sản xuất ổn định và bền vững [12]. Như vậy để vùng sản xuất rau, quả phát triển bền vững đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa người sản xuất với nhà máy chế biến. Nhưng trên thực tế, mối quan hệ này không phải lúc nào cũng được giải quyết hài hoà, thường rất dễ xảy ra tranh chấp hợp đồng kinh tế khi xảy ra một trong những vấn đề sau: - Doanh nghiệp gặp khó khăn khi thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, hoặc không ký được đơn hàng xuất khẩu… dẫn tới một số doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết về giá thu mua đối với nông dân, hoặc o ép nông dân trong việc phân loại nông sản, chậm thanh toán... - Khi thị trường tiêu thụ thuận lợi, giá thu mua trên thị trường tự do tăng cao hơn thoả thuận mua bán ban đầu, một số nông dân không bán sản phẩm cho doanh nghiệp như đã ký kết, mà đem bán ra thị trường tự do nhằm hưởng chênh lệch… - Do không có quy hoạch, người dân sản xuất tự phát, nên gặp rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý dịch bệnh, chủ động nguồn nước cho cây trồng, tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật… nên hiệu quả sản xuất không cao… - Do không có quy hoạch vùng nguyên liệu, các cơ sở chế biến bị thiếu nguyên liệu dẫn đến thường tranh mua nguyên liệu của nhau làm cho kế hoạch sản xuất của từng nhà máy bị ảnh hưởng, dẫn đến sản xuất kinh doanh không bền vững. - Nguyên liệu phục vụ cho chế biến có nhiều loại đòi hỏi có độ đồng đều cao phục vụ cho việc chế biến bằng máy, nhưng phần lớn các nhà máy chế biến chưa liên kết chặt chẽ với người trồng nguyên liệu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dẫn đến tình trạng sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng yêu cầu thu mua của nhà máy, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều vùng sản xuất thời gian qua đã tổ chức nhưng không thể duy trì và phát triển được. Tất cả những vấn đề này trên thực tế đều gây thiệt hại cho cả nông dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Doanh nghiệp mất uy tín với nông dân khu vực sở tại, không mở rộng được vùng nguyên liệu cho mình, không đủ nguyên liệu cho nhà máy hoạt động, dễ “bị” vi phạm hợp đồng với đối tác xuất khẩu nước ngoài (do thiếu nguyên liệu), hoặc phải thu mua nguyên liệu tại các tỉnh khác, làm chi phí vận chuyển lớn, giá thành sản phẩm tăng. Đối với nông dân, khi doanh nghiệp không phát triển sẽ không còn cơ hội sản xuất loại cây trồng có thu nhập cao, tiêu thụ thuận lợi. Về phía nhà nhà nước địa phương, sản xuất nông nghiệp không phát triển, đời sống nông dân gặp khó khăn, mục tiêu xoá đói, giảm nghèo không thực hiện được, dẫn tới nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp [2]. Để giải quyết vấn đề này, không thể thiếu được vai trò trung gian của nhà nước địa phương trong việc xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, định hướng cho việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chế biến hoạt động, cũng như thể hiện vai trò trung gian, hoà giải, can thiệp khi cần thiết để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên (nông dân, người trung gian, doanh nghiệp) khi xảy ra các tranh chấp hợp đồng kinh tế. 2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển vùng nguyên liệu 2.1.3.1 Nhân tố khách quan - Nhân tố tự nhiên Sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất rau, quả nói riêng là ngành sản xuất vật chất đặc thù, được tiến hành ngoài trời, lệ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên và mang tính khu vực rõ rệt. Rau, quả là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Do đó chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên bao gồm: Đất đai, thời tiết, khí hậu, địa hình là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển vùng nguyên liệu rau, quả. * Đất đai Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thiếu được đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung. Số lượng, chất lượng của đất đai có ảnh hưởng đến phát triển của rau quả. Mặc dù hiện nay với sự phát triển của khoa học công nghệ, có một số loại rau quả sản xuất không dùng đất, song nhìn chung chúng chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể, không thể thay thế được đất đai. Đất đai là một yếu tố phản ánh quy mô của sản xuất, trong điều kiện sản xuất hàng hoá theo hướng chuyên môn hoá cần phải quy hoạch vùng để sản xuất. Mặt khác đất đai có đặc điểm là cố định về vị trí, giới hạn về diện tích, chất lượng không đồng đều. Do vậy, chất lượng sản phẩm và năng suất của các loại rau quả ở các địa điểm là khác nhau. Vì vậy, trong quá trình sử dụng đất cần phải liên tục bảo vệ bồi dưỡng đất, tích cực mở rộng diện tích đất bằng cách khai hoang tăng vụ, đẩy mạnh đầu tư chiều sâu thâm canh sản xuất, coi thâm canh là con đường phát triển chủ yếu. * Khí hậu Thời tiết khí hậu là môi trường sống của các loại cây trồng. Vì vậy nếu khí hậu thời tiết thuận lợi cây trồng sẽ phát triển tốt. Nếu thời tiết không thuận lợi thì cây trồng không phát triển hoặc kém phát triển. Việt Nam chúng ta nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa với, thuận lợi cho việc gieo, trồng nhiều loại rau quả nhiệt đới và á nhiệt đới, một số rau quả gốc ôn đới, mùa vụ thu hoạch kế tiếp nhau nhiều tháng trong năm. Đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa là nắng lắm, mưa nhiều, độ ẩm trung bình cao là điều kiện rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển các loại thực vật, là điều kiện tốt để xen canh, gối vụ tăng nhanh vòng quay của đất, thâm canh tăng năng suất. Với lượng mưa trung bình hàng năm trên cả nước đạt từ 1.500 đến 2.000 mm, độ ẩm trung bình cao trên 85%, không những có tác dụng cung cấp nước cho đất mà còn có tác dụng điều hoà khí hậu và cung cấp cho đất một lượng đạm vô cơ đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, rau quả nước ta cũng bị ảnh hưởng của một số hạn chế và bất lợi của khí hậu nhiệt đới gió mùa như: bão, lụt, thời tiết kém ổn định do gió mùa đông bắc dẫn tới rủi ro về chất lượng. - Nhân tố kinh tế xã hội * Lao động Là yếu tố sản xuất, là nhân tố quyết định tới sự phát triển của mọi ngành sản xuất trong đó có ngành sản xuất rau, quả. Nguồn lao động là tổng thể sức lao động tham gia vào hoạt động sản xuất. Nguồn lực lao động có vai trò hết sức quan trọng đối với sản xuất nói chung. Trong nông nghiệp, nguồn lực lao động bao gồm những người trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 60 tuổi đối với nam, từ 16 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ, những người ngoài độ tuổi trên cũng có thể tham gia vào sản xuất nông nghiệp [10]. Về chất lượng của nguồn lực lao động bao gồm thể lực và trí lực. Thể lực được biểu hiện thông qua sức khoẻ, sự dẻo dai của người lao động. Còn trí tuệ thể hiện thông qua trình độ chuyên môn của người lao động. Trong sản xuất rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến yêu cầu người lao động phải đủ số lượng, có sức khoẻ, cần cù, chịu khó, có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Thiếu một trong các yếu tố này, không thể đáp ứng yêu cầu sản xuất rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến. Việt Nam là một nước nông nghiệp, với gần 80% dân số cả nước sống ở nông thôn và khoảng 70% lực lượng lao động xã hội làm trong lĩnh vực này [2]. Do ._.vậy, có thể nói lực lượng lao động của nước ta rất dồi dào; nhân dân ta có truyền thống lao động cần cù, chịu khó, rất thuận lợi cho việc phát triển ngành công nghiệp chế biến rau, quả xuất khẩu. * Vốn Vốn được hiểu theo nghĩa rộng là tiềm năng phục vụ sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất, lao động, tri thức, khả năng tổ chức, điều kiện tự nhiên…vốn trong sản xuất kinh doanh được hiểu là giá trị của các đầu vào. Đó là điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành phát triển các vùng nguyên liệu rau, quả. * Phong tục tập quán trong sản xuất rau, quả Nông dân Việt Nam nói chung còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tập quán sản xuất nhỏ, lẻ, manh mún, tự cung tự cấp. Phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến đòi hỏi phải sản xuất trên địa bàn rộng lớn, tính đồng đều của sản phẩm cao, sản phẩm của người nông dân không phải cho tiêu dùng trực tiếp... Đây là một trở ngại khá lớn trong việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Vì vậy, công tác tuyên truyền, tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất phải được đi trước một bước, trong đó việc xây dựng các mô hình trình diễn, tham quan học tập, tổ chức các hội nghị “đầu bờ” là rất quan trọng, có tác động trực tiếp tới việc giúp nông dân thay đổi tập quán sản xuất. * Tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp - Khoa học công nghệ về giống: Việc nghiên cứu tuyển chọn, lai tạo các loại giống rau quả mới có năng suất cao, chất lượng tốt là điều kiện cơ bản để phát triển vùng nguyên liệu rau quả. - Khoa học công nghệ trong khâu sản xuất: Hiện nay với sự phát triển của khoa học công nghệ, các chủng loại phân bón vi sinh, thuốc trừ sâu bệnh và sinh vật…đã được chế tạo và ứng dụng một cách hiệu quả, tạo điều kiện nâng cao năng suất, chất lượng rau, quả, đáp ứng yêu cầu của CNCB. - Công nghệ bảo quản và chế biến nông sản: Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới hiện nay, các sản phẩm rau, quả được bảo quản lâu dài hơn, nhưng vẫn giữ được nguyên giá trị; CNCB phát triển, tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá khác nhau như: muối, dấm, sấy khô… góp phần nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá, thúc đẩy sản xuất phát triển. * Các cơ sở chế biến nông sản Các nhà máy chế biến nông sản là cơ sở tiêu thụ sản phẩm hàng hoá các vùng nguyên liệu rau, quả, do đó nếu địa phương nào có nhiều các nhà máy chế biến rau, quả (vùng nguyên liệu gần các nhà máy chế biến) sẽ thuận lợi cho việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ CNCB và ngược lại, nếu vùng nguyên liệu ở xa các nhà máy chế biến sẽ làm tăng chí, tăng giá thành sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, do đó hiệu quả kinh tế sẽ không cao. * Thị trường tiêu thụ sản phẩm sau chế biến Thị trường tiêu thụ sản phẩm sau chế biến là nhân tố quyết định đến hiệu quả sản xuất của các nhà máy chế biến cũng như vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Với cách tiếp cận mới trong sản xuất và kinh doanh hiện đại hay chiến lược marketing mix được sử dụng thì thị trường hay là khách hàng mục tiêu là yếu tố trung tâm cho mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh. Cuộc sống càng hiện đại thì người ta càng sử dụng nhiều sản phẩm chế biến, đó là một xu hướng tất yếu không chỉ diễn ra ở các nước phát triển. Vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến cũng sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự tồn tại và phát triển thị trường các sản phẩm chế biến hay là nhu cầu của nhóm đối tượng khách hàng của công nghiệp chế biến. 2.1.3.2. Nhân tố chủ quan - Cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH như: điện, đường, hệ thống thuỷ lợi, kênh mương…là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển vùng nguyên liệu rau, quả. Đó là những yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng nông sản, hiệu quả kinh tế của các vùng nguyên liệu. - Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô Gồm các chủ trương, cơ chế, chính sách của Nhà nước các cấp tác động trực tiếp vào sản xuất hoặc gắn trực tiếp thông qua thị trường. Sự can thiệp có chủ định của Nhà nước có thể thông qua các công cụ như: Thuế, lãi suất, trợ giá, điều hòa giá…các chính sách đó đều có tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự hình thành và phát triển của các vùng sản xuất rau quả. Chủ trương chính sách là vai trò có tính định hướng và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nông thôn. Hệ thống chính sách tác động lên các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội. Chính sách thúc đẩy sự phát triển của các yếu tố trên, điều hoà các mối quan hệ giữa chúng với nhau tạo nên hệ thống tổng hợp đồng bộ. Hệ thống chính sách cần mềm dẻo, uyển chuyển để không chỉ tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của nông nghiệp, mà còn thúc đẩy nông nghiệp tiến lên theo những định hướng đã lựa chọn. Nông nghiệp và nông thôn không thể tách rời nhau, vì vậy phát triển nông nghiệp luôn gắn với xây dựng nông thôn, nâng cao đời sống nông dân. Hệ thống chính sách nông nghiệp gồm những chính sách sau: - Chính sách ruộng đất: Cần khẳng định quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước, nhưng quyền sử dụng đất lâu dài được trao cho người dân. - Chính sách thuế sử dụng ruộng đất: Chính sách này còn thể hiện chủ trương khuyến khích hoặc hạn chế đối với sản xuất một loại nông sản nào đó, hoặc khai thác sử dụng một số loại đất. - Chính sách đầu tư và tín dụng: Trong nông nghiệp nông thôn nhằm đẩy mạnh sản xuất, đầu tư, thâm canh và đa dạng hoá sản xuất. Góp phần ổn định đời sống, tăng cường đoàn kết, đồng thời cũng góp phần điều tiết trong việc thực hiện các định hướng phát triển của nhà nước đối với các loại sản phẩm cũng như vùng cần khuyến khích phát triển. - Chính sách khuyến nông: Nhằm thúc đẩy đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, đổi mới trang thiết bị trong nông nghiệp. - Chính sách bảo hiểm trong nông nghiệp: Tạo nên trạng thái ổn định, tâm lý tin tưởng, yên tâm đầu tư sản xuất, phát triển nông nghiệp. - Chính sách xã hội ở nông thôn: Nhằm duy trì và ổn định lưc lượng sản xuất góp phần xây dựng đoàn kết, động viên mọi người tham gia làm tròn nghĩa vụ với đất nước trên các phương diện kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Chính phủ trong việc xác định rõ vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn mới. Những năm qua các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ngày một hoàn thiện làm thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nông nghiệp, nông thôn, làm an lòng người dân trong xây dựng nông thôn mới. * Nhân tố hiệp tác giữa các hộ, các tổ chức sản xuất với nhà máy. Thông thường vùng nguyên liệu được xây dựng xung quanh khu vực nhà máy, đảm bảo quy trình kỹ thuật và vận chuyển. Việc phát triển vùng nguyên liệu, sản xuất theo hướng hàng hoá thường tạo ra một khối lượng sản phẩm nông sản tương đối lớn. Vì vậy đầu ra thị trường tiêu thụ sản phẩm là một yếu tố vô cùng quan trọng và quyết định đến quá trình sản xuất. Bài toán tiêu thụ nông sản của vùng nguyên liệu chỉ được xem là có cách giải quyết khi có sự phối hợp giữa bốn nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp - Nhà nông. Vì vậy đầu ra của sản phẩm vùng nguyên liệu cần thực hiện theo tinh thần QĐ 80/2002/TTg tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng và quá trình sản xuất vùng nguyên liệu cần thực hiện sự tham gia liên kết giữa bốn nhà [29]. Theo QĐ 80/2002/TTg thì hợp đồng tiêu thụ nông sản phải được ký kết ngay từ đầu vụ sản xuất, đầu năm hay đầu chu kỳ theo các hình thức các doanh nghiệp: - Ứng trước vật tư, vốn, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông sản hàng hoá. - Bán vật tư, mua lại nông sản hàng hoá. - Trực tiếp tiêu thụ nông sản hàng hoá. - Liên kết sản xuất. Thực hiện phương châm các bên cùng có trách nhiệm và cùng có quyền lợi và nghĩa vụ với nhau. Làm tốt vấn đề này góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển tránh tình trạng thị trường trôi nổi dẫn đến việc ép giá nông sản. Người dân sản xuất ra sản phẩm không bán được, thua lỗ, nhà máy xây dựng lên vì không đủ nguyên liệu cho sản xuất cũng phải đình trệ dẫn đến phá sản [29]. * Nhân tố tổ chức thực hiện Nhân tố tổ chức thực hiện có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển và xây dựng vùng nguyên liệu. Kết quả các chương trình mục tiêu quốc gia của chính phủ đã thể hiện rất rõ vấn đề này. Quả thật đến nay Chính phủ đã đầu tư rất nhiều các chương trình, các dự án cho phát triển nông thôn. Xét một cách toàn diện thì các dự án đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, khi xem xét từng khía cạnh chúng ta cần phải nghiêm khắc để thấy rằng sự thành công của các chương trình, dự án cho phát triển nông thôn chưa tương xứng với nguồn lực của Chính phủ đã đầu tư. Nguyên nhân chính vẫn là quá trình tổ chức thực hiện, cách tổ chức tiếp cận nông thôn, nông dân. Việc tổ chức thiếu tính đồng bộ, thiếu tính phối hợp từ trên xuống là những trở ngại có tính hạn chế xuyên suốt của một chương trình. Từ cách đặt vấn đề đó ta thấy rằng, vùng nguyên liệu được xây dựng và phát triển phụ thuộc rất lớn vào nhân tố tổ chức. Thông qua một chương trình, công tác tổ chức của các cấp, các ngành tốt sẽ phát huy được các nguồn lực, nội lực của người dân. Ngược lại việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu tốt sẽ giúp cho người dân có khả năng tổ chức mọi hoạt động sản xuất của mình chủ động hơn, hiệu quả hơn. Một quá trình tổ chức tốt cộng với một phương pháp phù hợp trong phát triển nông thôn là động lực góp phần xây dựng tốt và đồng bộ hơn về phát triển vùng nguyên liệu. * Nhân tố các nguồn lực cho phát triển sản xuất Nói đến nguồn lực là nói đến vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ... quá trình phát triển vùng nguyên liệu cũng chịu nhiều sức ép bởi những nhân tố đó. Ngoài những nhân tố nguồn lực về lao động thì vùng nguyên liệu hiện nay đang đứng trước thách thức lớn về vốn, công nghệ mặc dù đã được trang trải nhiều, đầu tư cho nông nghiệp nói chung và phát triển vùng nguyên liệu nói riêng song các nhu cầu thiếu hụt là tương đối lớn. Những hỗ trợ của chính phủ chỉ đáp ứng được những mặt thiết yếu và có tính trọng điểm. Tuy nhiên khi mối quan hệ giữa công nghệ - vốn có tác động tương tác, hỗ trợ một cách đồng bộ và kịp thời thì mới có những biến đổi đáng kể. Đến nay việc phát triển vùng nguyên liệu đã có những đóng góp lớn trong phát triển nông thôn. Một khi phát triển vùng nguyên liệu mang lại hiệu quả thì người dân có cơ hội phát huy nội lực của mình và duy trì tốt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhân tố nguồn lực cần được huy động từ nội lực của người dân, sự đóng góp của người dân trong quá trình đầu tư và phát triển. Nguồn lực này được huy động từ nhiều kênh vừa mang tính tự nguyện vừa mang tính bắt buộc. Các nguồn lực này muốn duy trì một cách bền vững thì nhân tố tổ chức xã hội phải là cầu nối giữa các hoạt động. * Nhân tố khoa học kỹ thuật Xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu là một hoạt động tổng hợp của nhiều yếu tố: Tự nhiên - xã hội - kỷ thuật, vì vậy để có thể làm tốt và xây dựng, phát triển vùng nguyên liệu thì việc người dân cần được trang bị tương đối đầy đủ những hiểu biết có liên quan đến hoạt động tổng hợp này. Phát triển vùng nguyên liệu trước hết cần chú ý đến việc trang bị cho người dân các kiến thức cơ bản về trồng trọt, trồng cây gì? Trước khi bắt tay vào các hoạt, động sản xuất. Vì vậy cần có nhưng hiểu biết về đối tượng sản xuất, cần nắm được các công nghệ sản xuất dự định triển khai ở vùng nguyên liệu. Điều này cần được ý thức rõ ràng và trước khi bắt tay vào sản xuất cần hiểu biết các kỷ thuật cần thiết để đối tượng sản xuất mang lại hiệu quả. Những hiểu biết này có thể học tập ở trường, lớp trong sách vở, tài liệu tham khảo hay những buổi tham quan khảo sát... ví như với việc sản xuất và phát triển cây dứa thì người dân cần phải biết được các giống dứa, chọn giống, quá trình chăm sóc, phân bón, loại phân nào? phù hợp và hiệu quả, thời vụ và kỷ thuật trồng, các biện pháp xủ lý ra hoa, thu hoạch,... Ngày nay, nông dân Việt Nam ngày một tiếp cận với những thành tựu khoa học kỷ thuật tiên tiến, với những công nghệ hiện đại trong sản xuất thâm canh cũng như tiếp cận các thông tin trong nước và trên thế giới một cách nhanh chóng. Nông dân đã tự lực trong sản xuất nâng cao khả năng thu nhập, Đảng và Chính phủ đã khuyến khích nông dân làm giàu một cách chính đáng. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chương trình mục tiêu quốc gia, nhằm xoá đói giảm nghèo cho nông dân, những dự án xây dựng hạ tầng nông thôn để rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các vùng. 2.2 Vai trò của việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 2.2.1 Thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá, nâng cao giá trị sản xuất trên đơn vị canh tác Do ảnh hưởng của tập quán sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp; bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có 2,5 lao động (phần lớn là lao động nữ) và chỉ có khoảng 0,7ha canh tác, nên tỷ trọng giá trị nông sản hàng hoá vẫn chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, nhất là nông dân các tỉnh vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Cho đến nay nhiều tài liệu ước tính, tỷ lệ giá trị nông sản hàng hoá của nông dân các tỉnh khu vực Đồng bằng Bắc Bộ chỉ chiếm khoảng 25 – 35%, trong đó có tới 90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp… [02]. Trong khi đó, những năm gần đây, giá cả các loại vật tư đầu vào như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật liên tục tăng và giữ ở mức cao, giá nông sản hàng hoá tăng chậm và thường rơi vào tình trạng “được mừa, rớt giá”, người nông dân luôn bị thiệt thòi trong trao đổi hàng hoá. Do đó, nông dân không còn thiết tha với đồng ruộng, cảnh tượng ở nhiều vùng nông thôn chỉ còn lại đa số là người già và trẻ em, không còn xa lạ với bất kỳ vùng nông thôn nào; nông dân chỉ bám ruộng khi nông sản được giá, nông sản chỉ có giá khi được người mua tin dùng, cái vốn xã hội lớn lao dành cho nông sản Việt Nam chỉ có thể tạo ra với một thái độ rõ rệt của nhà nước.  Phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến là một trong những giải pháp căn cơ để giải quyết triệt để tình trạng trên, là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hoá. 2.2.2 Thay đổi tập quán canh tác, tăng thời gian sử dụng lao động tại nông thôn Vấn đề nổi cộm của nông nghiệp nước ta hiện nay là phải thay đổi tập quán sản xuất, phải làm cho tập quán sản xuất - kinh doanh của nông dân phù hợp với cơ chế thị trường và các điều khoản đã cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp. Sản xuất rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến đòi hỏi việc tuân thủ chặt chẽ về quy trình sản xuất, chăm sóc, thu hoạch… do đó, để phát triển vùng nguyên liệu phục vụ CNCB đòi hỏi công tác tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật phải được đi trước một bước. Vì vậy, việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ CNCB sẽ là giải pháp quan trọng góp phần giúp nông dân thay đổi cách nghĩ, cách làm, tức là thay đổi tâm lý tiểu nông, tư duy manh mún, tầm nhìn hạn hẹp, thụ động, ỷ lại, yên phận, không dám mạo hiểm, sợ rủi ro, tác phong làm ăn tùy tiện… Tất cả những đặc trưng đó không phù hợp với tư duy kinh tế, tác phong công nghiệp của kinh tế thị trường. Do đó, có thể nói, việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ CNCB sẽ góp phần thay đổi tập quán sản xuất, nâng cao thời gian sử dụng lao động ở nông thôn. 2.2.3 Giúp nông dân gắn bó với đồng ruộng, giảm áp lực giải quyết việc làm cho khu vực thành thị Thành ngữ "ly nông bất ly hương" đã không còn đúng trong tình hình hiện nay khi hàng vạn nông dân rời vườn ruộng tha hương kiếm sống. Có rất nhiều lý do đằng sau hiện tượng này, nhưng nguyên nhân cơ bản và sâu xa vẫn là thu nhập từ sản xuất nông nghiệp quá thấp, thị trường đầu ra không ổn định, tính rủi ro cao… trong khi chờ Đảng, nhà nước có những quyết sách lớn, đúng đắn, giúp nông dân có thế sinh sống trên mảnh ruộng của mình, thì việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ CNCB sẽ là giải pháp quan trọng giúp nông dân gắn bó hơn với đồng ruộng. 2.3 Cơ sở thực tiễn 2.3.1 Tình hình phát triển vùng nguyên liệu ở một số nước trên thế giới Hầu hết các nước như Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ… thì sản xuất theo hợp đồng là xu hướng chính để có thể tạo ra vùng nguyên liệu tốt cho các doanh nghiệp chế biến. Ở Thái Lan, Việc phát triển vùng nguyên liệu dựa trên sản xuất theo hợp đồng. Công ty đầu tiên tiến hành áp dung mô hình sản xuất theo hợp đồng là tập đoàn CP (Charoen Pokphand). CP bắt đầu ký hợp đồng với nông dân để chăn nuôi gà gia công vào đầu thập niên 70, gần 100% hộ chăn nuôi gà ở Thái Lan đều sản xuất gia công cho các doanh nghiệp chế biến. Trong khi đó các tổ chức phi chính phủ, các ngân hàng, các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước hỗ trợ tích cực việc sản xuất theo hợp đồng này và nó lan tỏa sang các sản phẩm nông nghiệp khác [29]. Phát triển vùng nguyên liệu dứa ở Thái Lan [29]: được tổ chức rất tốt, khi quy hoạch vùng chuyên canh dứa xong thì kỹ thuật trồng dứa lập tức chuyển giao cho bà con nông dân ngay và như vậy nông dân sẽ làm ra sản phẩm theo đúng như yêu cầu của nhà máy chế biến và doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm. Lúc nông dân bắt đầu chặt dứa thì nhà máy chế biến bắt đầu khởi động, phía doanh nghiệp cũng sẵn sàng thu nhận những trái dứa đạt yêu cầu của nông dân. Trung Quốc: Trung Quốc là một quốc gia sản xuất nông sản lớn nhất trên thế giới, đồng thời ngành công nghiệp chế biến nông sản của Trung Quốc cũng rất phát triển. Thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu thông qua việc thúc đẩy sản xuất theo hợp đồng là chính sách chủ yếu của Trung Quốc. Có tới 41% doanh nghiệp chế biến sản xuất theo hợp đồng được nhà nước hỗ trợ (Hongdong Guo, Robert W, Jolly, Jianhua Zhu (2005) trích trong Bảo Trung; 2008). Một trong những cách thức mà chính phủ Trung Quốc làm là lựa chọn và chỉ định các doanh nghiệp Trung ương và địa phương có tiềm lực kinh tế, quy mô lớn có kỹ thuật và công nghệ ký kết hợp đồng trực tiếp với nông dân. Ủy ban phối hợp phát triển Công nghiệp hóa Nông nghiệp Quốc gia đưa ra tiêu chuẩn và giám sát việc thực hiện của các doanh nghiệp này. Nhờ đó việc thực hiện sản xuất theo hợp đồng giữa nông dân và các doanh nghiệp chiếm tỉ lệ khá cao. Các hình thức khác là tổ chức hợp tác của nông dân và hợp tác xã [29]. 2.3.2 Phát triển vùng nguyên liệu ở Việt Nam 2.3.2.1 Chính sách của Nhà nước trong phát triển Vùng nguyên liệu ở Việt Nam: Trong Chương trình quốc gia về phát triển sản xuất và xuất khẩu rau, hoa quả tươi đến năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Chính phủ đã xác định, một số giải pháp cơ bản là: - Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung, đảm bảo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản Rà soát và hoàn thiện lại công tác quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung; xác định quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu đồng bộ với mạng lưới các nhà máy chế biến. Theo quy hoạch tổng thể đến năm 2010, quỹ đất có khả năng trồng rau của cả nước là 716.000 ha và trồng cây ăn quả là 1.093.000 ha. Dựa vào lợi thế của từng địa phương, các tỉnh cần rà soát lại để bố trí đủ diện tích trồng rau quả, nhất là đối với các vùng nguyên liệu tập trung. Thực hiện quy hoạch “động”, gắn quy hoạch với chuyển đổi cơ cấu cây trồng; kết hợp thâm canh, xen vụ, nhất là các vùng trồng rau, nhằm tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích và thu nhập của người dân. Trọng tâm quy hoạch vùng sản xuất hướng vào những những loại rau quả có lợi thế... Cần nghiên cứu ban hành các chính sách vĩ mô nhằm thúc đẩy hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung: chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách hỗ trợ chuyển giao khoa học và công nghệ, chính sách khuyến nông. Chỉ khi nào có các chính sách thích hợp thì quy hoạch vùng nguyên liệu mới được thực hiện và công nghiệp chế biến nông sản mới có cơ sở nguyên liệu vững chắc để phát triển. - Đa dạng hoá các nguồn vốn bảo đảm các điều kiện phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Công nghiệp chế biến nông sản có vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, song không thuộc loại ngành then chốt. Vì vậy, định hướng đầu tư phải thể hiện được tư tưởng “phân công” đầu tư rõ ràng và hợp lý, bảo đảm phát huy được sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện đầu tư phát triển doanh nghiệp chế biến khi nguồn lực tài chính hạn hẹp. Việc huy động các nguồn vốn cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu có thể thực hiện theo các bước sau đây: + Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác và phát triển các vùng sản xuất nguyên liệu tập trung (hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, mạng lưới điện, hệ thống trạm trại giống...). + Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ xây dựng và sản xuất của các cơ sở chế biến nông sản (hạ tầng các khu công nghiệp hoặc các cụm công nghiệp tập trung, giao thông, cấp thoát nước, mạng lưới điện...) + Dành nguồn vốn thoả đáng cho thực hiện công tác khuyến nông nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất nguyên liệu... + Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước cần có các nhà đầu tư, đồng thời tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc tạo lập và vận hành doanh nghiệp. Nhà nước có thể hỗ trợ việc đào tạo lao động, cung cấp thông tin thị trường và chuyển giao công nghệ. + Xúc tiến mạnh mẽ hơn quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện có trong các ngành chế biến nông sản. Về đối tượng mua cổ phần, ngoài người lao động trong doanh nghiệp, các thế nhân và pháp nhân trong nước, cần mở rộng ra cả việc bán cổ phần cho người nước ngoài. Sự tham gia của các nhà máy đầu tư nước ngoài là điều kiện quan trọng để hiện đại hoá công nghệ và mở rộng xuất khẩu nông sản chế biến. - Các giải pháp hỗ trợ xuất khẩu. + Khai thông thị trường tiêu thụ là điều kiện quan trọng hàng đầu cho việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam. Với trình độ công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh còn thấp kém, để thắng lợi trong cạnh tranh quốc tế, xác lập và củng cố vị thế trên thị trường thế giới, ngoài những biện pháp trong sản xuất nguyên liệu và chế biến, cần coi trọng các giải pháp về thị trường. Những vấn đề quan trọng cần quan tâm nghiên cứu giải quyết là: + Hình thành chính sách thị trường ở tầm quốc gia cho hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đánh giá lợi thế của hàng nông sản Việt Nam, đặc điểm và xu thế vận động của thị trường nông sản thế giới, cần định hình rõ những thị trường trung tâm cho mỗi loại nông sản và các chính sách thích ứng để thâm nhập và củng cố chỗ đứng của hàng nông sản chế biến trên thị trường. + Cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp, đặc biệt quan tâm đến các dự báo trung hạn và dài hạn để điều chỉnh sản xuất và điều chỉnh chính sách thích hợp. Phát huy vai trò tích cực và chủ động của các cơ quan đại diện thương mại Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung cấp thông tin thị trường và trong vai trò là cầu nối giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các chủ thể kinh tế nước ngoài. + Thiết lập và mở rộng các quan hệ liên kết trong xuất khẩu nông sản chế biến. Sự phối hợp giữa các chủ thể sản xuất nguyên liệu, các doanh nghiệp chế biến, các doanh nghiệp xuất khẩu với nhau là cách thức quan trọng nâng cao khả năng ứng phó với các áp lực cạnh tranh của các chủ thể kinh tế nước ngoài trong các quan hệ thương mại quốc tế. + Tăng cường các hoạt động xúc tiến xuất khẩu nông sản chế biến bằng những hình thức đa dạng: tham gia các hội chợ ... triển lãm quốc tế, quảng bá sản phẩm trên các thị trường truyền thống và thị trường mới, xây dựng thương hiệu nông sản chế biến, phối hợp hoạt động giới thiệu nông sản chế biến với hoạt động du lịch. 2.3.2.2 Thuận lợi và khó khăn trong phát triển vùng nguyên liệu ở Việt Nam - Thuận lợi: Việt Nam có điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng khá thuận lợi cho việc trồng trọt các loại rau, hoa, quả để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu (kể cả các loại thuộc vùng khí hậu ôn đới và nhiệt đới). Phát triển sản xuất và xuất khẩu các loại rau, hoa, quả để thay thế cho những cây trồng khác có hiệu quả kinh tế thấp, qua đó mà chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, tạo việc làm thu nhập cao cho nông dân, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá của cả nước là rất cần thiết. Hơn nữa, đây lại là một lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa xã hội và nhân văn rất to lớn, góp phần xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận xã hội quan trọng với 70% là nông dân, đời sống còn rất khó khăn, diện tích đất canh tác đang bị thu hẹp. Do vậy, việc tập trung sức để phát triển cho được ngành này đi lên lại càng có ý nghĩa kinh tế, chính trị xã hội cực kỳ quan trọng. Hiện cả nước có trên 680 nghìn ha trồng cây ăn quả, trên 765 nghìn ha trồng rau và hoa các loại cho tiêu dùng nội địa và một phần cho xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu rau, hoa, quả của Việt Nam (bao gồm cả rau quả tươi và rau quả đóng hộp, trong đó chủ yếu là rau quả đóng hộp) đã có chiều hướng tăng nhưng còn chậm và không ổn định. Năm 2000 đạt 213 triệu USD; năm 2001 đạt 344 triệu USD; năm 2002 đạt 201 triệu USD; năm 2003 đạt 151 triệu USD; năm 2004 đạt 179 triệu USD; năm 2005 đạt 230 triệu USD, ước năm 2006 là 280 triệu USD. Đã xuất hiện một số mô hình phát triển sản xuất và xuất khẩu rau, hoa, quả đạt hiệu quả kinh tế cao, giá trị sản xuất trên một ha từ 400 - 500 triệu VND/ha/năm, cũng đã có những doanh nghiệp xuất khẩu được hàng chục triệu USD/năm. Rõ ràng là sản xuất rau, hoa, quả xuất khẩu có thể có thu nhập cao hơn gấp trên 10 lần so với trồng lúa và các cây trồng khác [02]. - Khó khăn: Tuy đã đạt được một số kết quả bước đầu như trên, nhưng nhìn chung tình hình sản xuất và xuất khẩu rau, hoa, quả của nước ta còn nhiều khó khăn và bất cập. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức và tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập nên nhiều quy hoạch diện tích trồng rau, hoa, quả đã trở thành quy hoạch treo; một số nhà máy chế biến được xây dựng xong nhưng thiếu nguyên liệu hoặc có nguyên liệu nhưng không đảm bảo các yêu cầu và chất lượng cho chế biến xuất khẩu. Vấn đề áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến chưa được hỗ trợ giải quyết thoả đáng, diện tích canh tác theo quy mô hộ nhỏ bé gây trở ngại cho việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong sản xuất và kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại và khuyến khích, hỗ trợ hoạt động xuất khẩu chưa được quan tâm đúng mức. Sản xuất và kinh doanh rau, hoa, quả tươi luôn tiềm ẩn các rủi ro cao nên các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh còn chưa yên tâm tập trung đầu tư cho phát triển. Tóm lại những năm qua vấn đề phát triển sản xuất rau, hoa, quả cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đã được chú ý đặt ra, nhưng chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất và xuất khẩu. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này rất cần có sự phối hợp chặt chẽ từ Trung ương tới các địa phương, cơ sở trong việc giải quyết tổng thể những vấn đề liên quan ảnh hưởng tới việc phát huy lợi thế so sánh của nước tả trong việc phát triển ngành rau, quả chế biến phục vụ nhu cầu đang ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, cả trong nước và xuất khẩu nhằm phát triển nền nông nghiệp bền vững, góp phần giải quyết những vấn đề đang đặt ra ở nông thôn Việt Nam [02]. Phát triển sản xuất và xuất khẩu các loại rau, hoa, quả để thay thế cho những cây trồng khác có hiệu quả kinh tế thấp, qua đó mà chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, tạo việc làm thu nhập cao cho nông dân, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá của cả nước là rất cần thiết. Hơn nữa, đây lại là một lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa xã hội và nhân văn rất to lớn, góp phần xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận xã hội quan trọng với 70% là nông dân, đời sống còn rất khó khăn, diện tích đất canh tác đang bị thu hẹp. Do vậy, việc tập trung sức để phát triển cho được ngành này đi lên lại càng có ý nghĩa kinh tế, chính trị xã hội cực kỳ quan trọng. - Định hướng thời gian tới. Xu hướng tiêu dùng hiện nay của các quốc gia phát triển là mặt hàng rau, quả đã qua chế biến, bởi lẽ mặt hàng này đáp ứng được các yêu cầu như: Bảo quản được lâu, sạch, đáp ứng yêu cầu về hàm lượng các chất dinh dưỡng như tinh bột, đường, protein, lipid, vitamin... Xuất phát từ thực tế trên tại Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010, trong đó giao trách nhiệm cho các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm nghiên cứu, triển khai thực hiện các đề án xuất khẩu chuyên ngành. Mục tiêu trong Đề án phát triển xuất khẩu rau, hoa, quả giai đoạn 2006 - 2010 là tăng kim ngạch xuất khẩu rau, hoa, quả lên 600 - 700 triệu USD vào năm 2010, đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 23 - 25%/ năm và đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD vào năm 2015. Về thị trường xuất khẩu, ngoài thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, trong thời gian tới sẽ hướng tới các thị trường khác như Hoa Kỳ, các nước EU, Liên bang Nga... để đa dạng hoá, tránh lệ thuộc trong xuất khẩu. Hiện nay và những năm tới nhu cầu tiêu thụ về rau, hoa, quả của thị trường nước ngoài là rất lớn song thị trường đòi hỏi chúng ta phải: (1) Cung cấp ổn định, thường xuyên liên tục; (2) Số lượng đủ lớn để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ hàng ngày của thị trường; (3) Chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu của từng thị trường về độ tươi, độ chín, kích cỡ đồng đều, màu sắc đẹp, với bao bì tiêu dùng thích hợp; (4) Đảm bảo yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm mà quốc tế qui định, nghĩa là với mỗi chủng loại thì dư lượng chất bảo vệ thực vật không đuợc vượt quá mức qui định của người mua; (5) Giá cả và dịch vụ cung ứng cạnh tranh. 2.3.2.3. Một số bài học Phát triển vùng nguyên liệu ở Việt Nam [29] Chúng ta đều biết, phát triển vùng nguyên liệu thường gắn với công nghiệp chế biến. Ở Việt nam đã và vẫn đang tồn tại tình trạng như vùng có nhiều khu công nghiệp chế biến thì thiếu nguyên liệu, vùng sản xuất được nhiều sản phẩm nông sản thì lại thiếu công nghiệp chế biến. Nghịch lý này đã và đang xảy ra đối với nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam và đặc biệt là từ khi sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển. Đã có rất nhiều bài học được tổng kết từ các bên có liên quan như doanh nghiệp, nhà nước, chính quyền địa phương và nông dân. Những thành ._.giới thiệu nông sản chế biến với hoạt động du lịch. - Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp (như vé máy bay khứ hồi, tổ chức gian hàng, tổ chức các lớp tập huấn...) cho các doanh nghiệp khi tham gia các hội chợ triển lãm, giới thiệu sản phẩm quốc tế... 4.7.3.5 Xúc tiến thành lập Hiệp hội doanh nghiệp chế biến nông sản Bắc Giang Đề xuất giải pháp này xuất phát từ thực tế thời gian qua, giữa các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu còn thiếu một “tiếng nói chung”, đó là có hiện tượng tranh chấp vùng nguyên liệu lẫn nhau, làm tổn hại tới uy tín doanh nghiệp, gây chia rẽ mối liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau và doanh nghiệp với nông dân. Thành lập Hiệp hội doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu Bắc Giang để từ đó có một tổ chức cụ thể đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp và thực hiện các hoạt động hỗ trợ cụ thể cho hội viên của mình. Hiệp hội là tổ chức đại diện cho quyền lợi, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các hoạt động khác của các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu. Hiệp hội này cần xây dựng quy chế liên kết, phối hợp nhằm thực hiện mục tiêu phát triển sản xuất và tiêu thụ rau, quả, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chính như: - Xác định phương hướng phát triển sản xuất, kinh doanh, phổ biến và khuyến khích các thành viên áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; - Nhận định tình hình sản xuất, giá cả thị trường, đề ra phương thức liên kết và hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tự nguyện của các thành viên; - Cung cấp thông tin về thị trường giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh ATTP của các nước... cho các thành viên thông qua các tạp chí định kỳ, website của Hiệp hội; - Hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức cho các thành viên tham gia các lớp tập huấn, hội thảo, hội chợ triển lãm, tham quan, khảo sát thị trường trong và ngoài nước; Bảo vệ quyền lợi của hội viên; Phản ánh nguyện vọng của các thành viên đến các cơ quan Nhà nước, đề xuất với Chính quyền địa phương phương hướng phát triển, cơ chế quản lý ngành hàng, các chính sách, giải pháp nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá.... - Các vùng trồng các loại rau quả đặc sản cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải quan tâm đầu tư xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm của mình. Thương hiệu sẽ mang lại cho các doanh nghiệp sở hữu thêm nhiều lợi nhuận trên sản phẩm bán ra và hơn nữa tạo ra một thị trường tương đối ổn định. Để làm tốt công tác này, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tài chính thích hợp cho các doanh nghiệp thông qua Hiệp hội ngành hàng để đăng ký tại những thị trường chính. 4.7.4 Nhóm giải pháp về giải quyết tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nông dân thông qua hợp đồng kinh tế 4.7.4.1 Đẩy mạnh thực hiện hợp đồng kinh tế UBND tỉnh cần chỉ đạo đánh giá một cách hệ thống về kết quả thực hiện các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu và nông dân thời gian vừa qua; trên cơ sở đó rút kinh nghiệp và đề ra biện pháp tiếp tục triển khai tốt Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Để thực hiện được điều này cần có sự điều tra, khảo sát, đánh giá mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân thông qua hợp đồng kinh tế. Qua đó, thấy được nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại vè đề ra nhiệm vụ, biện pháp cụ thể trong thời gian tới nhằm tạo lập sự tin cậy giữa doanh nghiệp và nông dân thông qua hợp đồng kinh tế; tạo mối liên hệ giữa nông dân và công nhân, giữa sản xuất và chế biến trong các tổ chức hợp tác, nhằm điều hoà lợi ích hợp lý giữa các phía. Đây là biện pháp rất quan trọng để củng cố niềm tin giữa các bên tham gia ký kết hợp đồng, là điều kiện cơ bản để các doanh nghiệp có đủ nguyên liệu rau quả chế biến, góp phần nâng cao hệ số sử dụng công suất thực tế lên 90-100% so với trên dưới 50% như hiện nay. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nhà máy chế biến và của toàn ngành hàng rau quả. Thực hiện tốt Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ các nhà máy sẽ có đủ nguyên liệu chế biến, đồng thời người nông dân sẽ có thị trường tiêu thụ, yên tâm đầu tư sản xuất nguyên liệu rau quả, chứ không còn phải lo đầu ra theo kiểu “càng được mùa càng lo” như hiện nay. 4.7.4.2 Củng cố hoạt động các hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế do những người nông dân tự nguyện thành lập nhằm mục đích trợ giúp các hoạt động nông nghiệp của họ thông qua việc cung cấp các dịch vụ giá rẻ do lợi thế về quy mô và phân công chuyên môn hóa lao động, dựa trên nền tảng kinh tế của hộ nông dân, mà đa số họ là những người yếu thế về trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật – công nghệ và khả năng hạn hẹp về vốn, theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ưu tiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển hợp tác xã nông nghiệp vừa là nội dung quan trọng, vừa là tiền đề của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, cũng nằm trong tình trạng chung của cả nước, đa số các hợp tác xã nông nghiệp ở Bắc Giang đang gặp nhiều mâu thuẫn và khó khăn, trước hết là đang đứng trước một nghịch lý giữa lý luận và thực tiễn. Về lý luận, ai cũng thấy hợp tác nói chung và hợp tác xã nông nghiệp là cần thiết và có lợi cho chính người nông dân, được Đảng và Nhà nước quan tâm (có Nghị quyết số 13-NQ/TW của Hội Nghị Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Quốc hội đã có Luật Hợp tác xã năm 1996 và Luật Hợp tác xã sửa đổi bổ sung năm 2003), nhưng trên thực tế hoạt động các hợp tác xã không hiệu quả, hình thức, hành chính hoá, không thu hút được sự tham gia của hộ nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhờ việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; một số hợp tác xã đã phát huy tốt vai trò, chức năng của mình trong vấn đề này, mở ra triển vọng phát triển của các hợp tác xã nông nghiệp. Về hoạt động của các tổ hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ rau, quả chế biến trên địa bàn tỉnh thời gian qua có thể nhận xét trên 2 mặt sau: * Ưu điểm: - Là tổ chức kinh tế gọn nhẹ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế hộ ở vùng miền núi, nông thôn. - Là phương thức mưu sinh bền vững cho người nông dân, ai cũng có thể tham gia và cùng tựa vào nhau tìm kế sinh nhai. - Mang lại lợi ích trực tiếp cho tổ viên trong tổ, đặc biệt đối với các thành viên thiếu nguồn lực hoặc thiếu vốn. - Các thành viên trong tổ hầu hết là những người chung ngành nghề, chung sở thích nên khi sát nhập với nhau sẽ tăng thêm kinh nghiệm, tăng nguồn vốn, tăng mạnh sản phẩm có chất lượng, đồng thời cũng cùng chịu trách nhiệm. - Thuận tiện trao đổi thông tin về khoa học kỹ thuật, thị trường, giá cả. - Tổ hợp tác đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao mức sống của người nông dân, là phương thức mưu sinh rất bền vững mà hiện nay nông dân ở nhiều vùng đang thực hiện. * Mặt hạn chế: - Phát triển tự phát. Cơ chế quản lý lỏng lẻo. Rát khó khăn về giao dịch kinh tế, vay vốn ngân hàng hoặc đầu tư phát triển kinh tế ở quy mô lớn. - Nhà nước chưa có chế tài cho việc thành lập các tổ hợp tác. Cơ sở pháp lý chưa có nên ít nhận được sự hỗ trợ từ các nguồn tài trợ - Thành viên các tổ hợp tác chỉ hoạt động theo kinh nghiệm dân gian, hầu hết chưa được học qua các lớp đào tạo về quản lý, hoặc kỹ thuật. Bởi vậy, để hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác phát triển có hiệu quả, phát huy vai trò hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ và trang trại, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho nhân dân quan điểm về liên kết kinh tế, đồng thời thực hiện một số giải pháp sau đây: Một là: Tiếp tục đổi mới nhận thức về hợp tác xã nông nghiệp, nhất là nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và tác dụng của hợp tác xã nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và đưa nông nghiệp nước ta phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tổ chức và quản lý: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và có sự hỗ trợ của Nhà nước, phù hợp nguyên tắc của Liên minh các hợp tác xã quốc tế nhằm thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế. Từ thay đổi nhận thức về hợp tác xã nông nghiệp cần sớm khắc phục những mặc cảm, định kiến với mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ và đổi mới cơ chế chính sách, chỉ đạo thực tiễn phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong mối liên kết hợp tác với các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất khác nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội. Hai là: Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hóa, khắc phục tình trạng manh mún, khép kín, tự cấp tự túc của kinh tế hộ nhằm tạo nhu cầu và động lực tham gia hợp tác xã nông nghiệp của kinh tế hộ. Trên cơ sở tích tụ, tập trung ruộng đất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa mà phân công lao động xã hội, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ theo phương châm “Ai giỏi nghề gì làm nghề đó”. Nhà nước có chính sách tài chính – tín dụng, chính sách khoa học – công nghệ và khuyến nông, chính sách đầu tư, chính sách thị trường, chính sách lao động… để hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân dần chuyển sang sản xuất hàng hóa bền vững và có hiệu quả. Ba là: Coi trọng công tác cán bộ cho hợp tác xã nông nghiệp. Thực tế cho thấy rằng, cán bộ chủ chốt của hợp tác xã nông nghiệp, trước hết là chủ nhiệm hợp tác xã có vai trò quyết định đối với sự thành bại của hợp tác xã nông nghiệp. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cũng như cơ chế chính sách đối với chủ nhiệm hợp tác xã và ban quản trị phải được coi trọng và đổi mới cơ bản theo nguyên tắc lấy mục tiêu hiệu quả kinh doanh của hợp tác xã làm tiêu chí xem xét hàng đầu. Bốn là: Mở rộng liên kết hợp tác giữa hợp tác xã nông nghiệp, các tổ hợp tác với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đặc điểm của kinh tế thị trường là cạnh tranh và hợp tác, do đó từng hợp tác xã nông nghiệp, tổ hợp tác không thể khép kín mà phải mở rộng hợp tác với các hợp tác xã nông nghiệp khác, chủ động tìm kiếm sự hợp tác và hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn để nâng cao trình độ kinh doanh và sức cạnh tranh của mình. Bên cạnh việc củng cố hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp nêu trên, đối với Bắc Giang cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả. Mặc dù đây là hình thức tự phát nhưng trên thực tế đã phát huy hiệu quả thiết thực, có đóng góp tích cực vào việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả xuất khẩu thời gian qua. Vì vậy, để hình thức này hoạt động hiệu quả hơn nữa, thời gian tới Bắc Giang cần tổ chức các buổi tập huấn cho người đứng đầu các nhóm hợp tác này lý thuyết liên kết kinh tế, các khái niệm, nguyên tắc, tổ chức hoạt động của Tổ hợp tác. Đặc biệt những quyền lợi khi người dân tham gia vào Tổ hợp tác, như: Được vay vốn, hỗ trợ về mặt kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm; ổn định được sản lượng để cung cấp cho thị trường, có đầu ra cho sản phẩm… góp phần giảm thiểu rủi ro trong sản xuất; đồng thời, từng bước nghiên cứu để xây dựng cơ chế quản lý hoạt động các tổ hợp tác nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, tồn tại của các tổ hợp tác trong nông thôn nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội khu vực nông thôn phát triển. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền giúp nông dân tiếp cận thông tin một cách toàn diện về kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các thông tin về dự báo về thị trường. Năm là: Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp, trước hết là triển khai tổ chức Luật Hợp tác xã, đưa Luật Hợp tác xã đi vào cuộc sống. Nhà nước có chức năng quản lý và hỗ trợ hợp tác xã nông nghiệp chủ yếu bằng cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Cục hợp tác xã là một bước tiến quan trọng. Vấn đề đặt ra là thực hiện đúng chức năng và xây dựng hệ thống tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp từ trung ương đến cơ sở, nhất là củng cố Liên minh hợp tác xã sao cho thiết thực và có hiệu quả, tránh hành chính hóa để chuyển mạnh sang các hoạt động dịch vụ, hỗ trợ các hợp tác xã trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Vấn đề phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả hiện nay đang được các địa phương trong cả nước coi là hướng đi hiệu quả để phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Bắc Giang là một tỉnh thuần nông, với hơn 91% dân số sống ở khu vực nông thôn; lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 74% tổng số lao động toàn tỉnh, do đó việc chỉ đạo phát triển vùng nguyên liệu rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan tới việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; tham khảo các tài liệu khoa học, các công trình nghiên cứu đã được công bố; nghiên cứu điều kiện tự nhiên, xã hội tỉnh Bắc Giang; kết quả điều tra thực tế đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, các hộ nông dân thời điểm tháng 3/2009 và tư vấn của các đồng chí lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ngành liên quan, các huyện, thành phố; với phương pháp nghiên cứu phù hợp, chúng tôi đi sâu nghiên cứu và giải quyết được một số vấn đề như sau: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung có liên quan đến việc phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; qua lý luận và thực tiến dẫn tới khẳng định sự cần thiết phải gắn kết giữa vùng nguyên liệu với các doanh nghiệp chế biến. Từ đó thấy rằng giữa doanh nghiệp và nông dân phải quan tâm tới lợi ích của nhau và nhà nước địa phương phải đóng vai trò là người “trọng tài” để điều hoà các quan hệ về lợi ích. - Đánh giá được thực trạng phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; chỉ rõ sự thiếu hụt giữa nhu cầu và thực tế đáp ứng nguồn nguyên liệu của các nhà máy chế biến nông sản xuất khẩu, cũng như diện tích, sản lượng cần tăng thêm trong thời gian tới để đáp ứng nhu cầu chế biến; tổ chức điều tra xã hội học về mối quan hệ giữa nông dân với các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở 3 huyện điều tra, từ đó gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với các doanh nghiệp về những việc làm, bước đi cần thiết nếu muốn doanh nghiệp phát triển hơn nữa. - Tác giả đã đưa ra một hệ thống 4 nhóm giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; các giải pháp đưa ra được dựa trên những căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn của tỉnh Bắc Giang và tỉnh lân cận (Thái Nguyên) nhằm thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu rau, quả trong giai đoạn 2010 – 2015 và những năm tiếp theo. Báo cáo cũng đã dự báo một số thuận lợi, khó khăn khi phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả; một số thuận lợi, khó khăn của việc hội nhập kinh tế quốc tế... vì vậy không chỉ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, chính quyền các cấp (từ tỉnh tới cơ sở), các hộ nông dân tỉnh Bắc Giang, mà còn cung cấp những thông tin có giá trị đối với các doanh nghiệp ngoài tỉnh Bắc Giang, những người quan tâm tới lĩnh vực này. Với những nội dung nghiên cứu trong Luận văn, tác giả mong muốn sẽ làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực tiễn của việc phát triển nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau, quả nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển. Song, đây là vấn đề mới, phức tạp, có liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, lại chưa có nhiều công trình nghiên cứu tương tự để tham khảo; một số giải pháp được đưa ra mới chỉ mang tính định hướng, cần có một công trình nghiên cứu cụ thể hơn, sâu hơn. Vì vậy mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn Đề tài sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các nhà khoa học, các thầy giáo, cô giáo, các nhà quản lý, các bạn đồng nghiệp để tác giả tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. 5.2 Kiến nghị Để các giải pháp nêu trên phát huy hiệu quả một cách bền vững, góp phần thực hiện mục tiêu Nghị quyết số 26-NQ/TƯ của Bạn chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, trên bình diện vĩ mô đề nghị Nhà nước cần có các chính sách giúp đỡ nông dân các vấn đề sau: 1- Chính sách cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp: + Hiện nay nông dân đang phải trao đổi hàng hoá trong điều kiện rất bất lợi: Giá nông sản thấp và bấp bênh; giá hàng hoá phi nông nghiệp tăng cao và chứa đựng các yếu tố bất hợp lý. Bởi vậy, điều chỉnh giá vật tư nông nghiệp là một trong những điều kiện tiền đề đảm bảo lợi ích cho nông dân; khắc phục những bất hợp lý cho người nông dân trong trao đổi hàng hoá. + Tổ chức hợp lý hệ thống thương mại nông thôn, nhất là cung ứng những dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất nông nghiệp, không nên để cho các tư thương tự do ép giá nông dân như hiện nay, góp phần tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn. 2- Chính sách tiêu thụ nông sản phẩm cho người nông dân, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông sản như hiện nay. Những biến động lên xuống của thị trường này người nông dân luôn phải gánh chịu. 3- Chính sách bảo hộ nông dân trong các vấn đề sau: + Thiết lập, dự báo thị trường nông sản. + Bảo hộ hàng hoá nông sản trên thị trường nội địa, hạn chế nhập khẩu những loại nông sản tươi sống mà thị trường trong nước có thể cung cấp. 4- Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn như giao thông, thuỷ lợi, đê điều, chợ, điện, nước sạch, các công trình VHXH... để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội cho khu vực nông thôn, nhất là đối với các tỉnh còn nghèo như Bắc Giang. 5- Thực hiện các chính sách an sinh xã hội cho nông dân nhất là nông dân nghèo, vùng sâu, vùng xa về y tế, giáo dục. Có chính sách bảo hiểm cho cây trồng, vật nuôi để giúp nông dân có cơ hội ổn định phát triển sản xuất và đời sống trước tình hình thiên tai, dịch bệnh đe doạ, giúp nông dân chủ động hơn trong việc chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn 6- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách cán bộ trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, từ việc chọn lựa, đào tạo đến sử dụng, đãi ngộ. Có chính sách để thu hút doanh nghiệp về nông thôn, trong đó chú trọng đến các doanh nghiệp: sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông, lâm sản bằng các chính sách ưu đãi về: đất đai; bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ hạ tầng ngoài hàng rào cho các doanh nghiệp. Có chính sách cụ thể để khuyến khích “4 nhà” liên kết chặt chẽ trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X): Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03/7/2009 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007): Chương trình quốc gia về phát triển sản xuất và xuất khẩu rau, hoa quả tươi đến năm 2015 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Quyết định số 52/2007/QĐ- BNN ngày 05/6/2007 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển rau quả và hoa cây cảnh đến năm 2010, tầm nhìn 2020; Bộ Tài chính: Thông tư số 35/2001/TT-BTC ngày 25/5/2001 hướng dẫn nộp tiền thuê đất, góp đất liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước Chính Phủ: Nghị định số 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 của Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư; Chính phủ: Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ngành, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Đài Truyền hình Việt Nam: Chương trình thời sự Đài truyền hình Việt Nam tối ngày 16 tháng 8 năm 2009. Niên giám thống kê tỉnh Bắc Giang các năm: 2006, 2007, 2008. Hội Nông dân tỉnh Bắc Giang (năm 2008): Báo cáo kết quả điều tra, khảo sát về tình hình nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đặng Kim Sơn: Vấn đề và giải pháp phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số tháng 11 năm 2007. Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 24/2003/CT-TTg, về phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 về Phê duyệt Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 98/2008/QĐ-TTg, ngày 07/8/2008 về ban hành phê duyệt quy hoạch phát triển hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh đến năm 2020. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung và dài hạn ngân hàng thực hịên đầu tư mới phát triển sản xuất kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định 497/QĐ-TTg ngày 17/4/2009 về việc hỗ trợ lãi suất vay vốn mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn Tỉnh uỷ Bắc Giang: Chương trình phát triển nông nghiệp hàng hoá giai đoạn 2006 – 2010. Tỉnh uỷ Bắc Giang: Nghị quyết số 47-NQ/TƯ ngày 20/ …/2009 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. ThS. Bảo Trung; Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu cơ sở khoa học của việc hình thành và phát triển thể chế giao dịch nông sản ở Việt Nam; 2008 Từ điển Tiếng Việt: Nhà xuất bản… Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Đậu Quang Vinh (2004), Luận văn ThS, thực trạng và giải pháp phát triển vùng nguyên liệu dứa ở huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. UBND tỉnh Bắc Giang: Báo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006; nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2007. UBND tỉnh Bắc Giang: Báo tình hình kinh tế - xã hội năm 2007; nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2008. UBND tỉnh Bắc Giang: Báo tình hình kinh tế - xã hội năm 2008; nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2009; UBND tỉnh Bắc Giang (2008): Báo cáo tình hình phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến rau quả xuất khẩu tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2005-2008; nhiệm vụ, giải pháp phát triển vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến thời gian tới. UBND tỉnh Bắc Giang: Báo cáo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2007- 2020. PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA 1 (Đối với hộ sản xuấ rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến ) -------------- Người điều tra: Lê Bá Xuyên I. Thông tin chung về hộ 1/ Họ và tên chủ hộ……………………………….Giới tính……………........ - Tuổi……………………………………………...Trình độ văn hoá………... - Địa chỉ: Thôn…………………….Xã………………………..Huyện………………… 2/ Loại hình sản xuất của hộ: Thuần nông:…………………………………………………………… Chuyên ngành nghề dịch vụ:………………………………………….. Kiêm ngành nghề:…………………………………………………….. 3/ Điều kiện kinh tế của hộ:………………………………………………….. 4/ Số nhân khẩu của hộ:……………………………………………………… 5/ Số lao động: Trong tuổi………………………Ngoài tuổi………………… 6/ Đất đai: Tổng diện tích đất (ở + vườn + canh tác)……………………m2 7/ Tổng số vốn đầu tư cho sản xuất bình quân năm, trong đó: - Vốn vay ngân hàng…………………………………………………………. - Vốn vay tư nhân……………………………………………………………. - Vốn tự có của gia đình……………………………………………………… II/Tình hình sản xuất các loại rau quả phục vụ công nghiệp chế biến 2.1 Tình hình chung - Hộ trồng rau, quả từ năm nào?........................................................................ - Giống rau, quả đang trồng…………….... + Cà chua bi…… sào; + Hành lá….. sào; + Dưa bao tử….. sào; + Ngô ngọt……. sào; + Ớt………. sào; - Mối quan hệ giữa nông hộ với các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu: + Tốt… + Trung bình… + Kém… 2.3 Một số câu hỏi mở rộng 1. Theo ông bà trồng rau, quả phục vụ công nghiệp chế biến có những thuận lợi và khó khăn gì? * Thuận lợi - Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu) [ ] - Dễ trồng [ ] - Tốn ít công [ ] - Dễ bán [ ] - Ý kiến khác [ ] ………………………………………………………………………….. * Khó khăn - Khó bảo quản [ ] - Giá không ổn định [ ] - Giống [ ] - Kỹ thuật - Khác [ ] ………………………………………………………………………….. 2. Thời gian tới ông (bà) có muốn mở rộng thêm diện tích sản xuất không - Có [ ] - Không [ ] 3. Nếu không vì sao? - Thiếu vốn [ ] - Thiếu lao động [ ] - Thiếu thông tin [ ] - Thiếu kỹ thuật [ ] - Lãi suất không cao [ ] - Khác [ ] ……………………………………………………………………………. 4. Ông (bà) có tham gia lớp khuyến nông nào không? - Có [ ] - Không [ ] 5. Ông (bà) có đề nghị nhà nước, doanh nghiệp mở thêm lớp khuyến nông nữa không? - Có [ ] - Không [ ] III/Tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2008 1. Gia đình thường bán cho ai? Ở đâu? - Người thu gom [ ] tại nhà [ ] - Người trung gian [ ] tại ruộng [ ] - Người buôn [ ] tại nơi thu gom [ ] - Nhà máy (công ty) [ ] tại nhà máy (công ty) [ ] 2. Theo ông (bà) các yếu tố ảnh hưởng đến giá bán là gì? - Giống [ ] - Chất lượng sản phẩm [ ] - Mùa vụ [ ] - Khác [ ] ………………………………………………………………………… 3. Nguyên nhân nào theo ông (bà) có ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm của hộ cho nhà máy ? - Không có hợp đồng cụ thể [ ] - Hệ thống giao thông [ ] - Tình hình thanh toán của Công ty [ ] - Khác [ ] …………………………………………………………………………….. 5. Để cung ứng tốt cho Công ty theo ông bà thì công ty cần phải có biện pháp về vấn đề gì? - Đối với cán bộ thu mua [ ] - Phương thức thanh toán [ ] - Phương thức thu gom, vận chuyển [ ] - Tình hình ứng trước vốn, giống, vật tư [ ] - Khác [ ] PHIẾU ĐIỀU TRA 2 (Đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu) -------------- Người điều tra: Lê Bá Xuyên I. Thông tin chung về doanh nghiệp 1/ Họ và tên chủ doanh nghiệp………………….Giới tính……………........ Tuổi……………………………………………...Trình độ văn hoá………... - Địa chỉ: - Số điện thoại liên lạc:…….. 2/ Công suất thiết kế và hoạt động của dây truyền sản xuất giai đoạn 2006 - 2008. Trong đó: * Năm 2006: - Cà chua bi (CSTK). …...tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được…..…tấn/năm - Dưa bao tử (CSTK)…….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được…..…tấn/năm - Ngô bao tử (CSTK).. ….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được………tấn/năm - Ngô ngọt (CSTK) ….….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được……...tấn/năm - Ớt (CSTK)…………...tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được….….…tấn/năm - Cây khác (CSTK) ….....tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được………tấn/năm * Năm 2007: - Cà chua bi (CSTK). …...tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được…..…tấn/năm - Dưa bao tử (CSTK)…….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được…..…tấn/năm - Ngô bao tử (CSTK).. ….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được………tấn/năm - Ngô ngọt (CSTK) ….….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được……...tấn/năm - Ớt (CSTK)…………...tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được….….…tấn/năm - Cây khác (CSTK) ….....tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được………tấn/năm * Năm 2008: - Cà chua bi (CSTK). …...tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được…..…tấn/năm - Dưa bao tử (CSTK)…….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được…..…tấn/năm - Ngô bao tử (CSTK).. ….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được………tấn/năm - Ngô ngọt (CSTK) ….….tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được……...tấn/năm - Ớt (CSTK)…………...tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được….….…tấn/năm - Cây khác (CSTK) ….....tấn/năm; trong đó đã thu mua (SX) được………tấn/năm 3/ Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp giai đoạn 2006 – 2008. Năm 2006 xuất khẩu đạt…………….ngàn USD; Năm 2007 xuất khẩu đạt…………….ngàn USD; Năm 2008 xuất khẩu đạt…………….ngàn USD; 4/ Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp………………………………………. ……………………………………………………………………………… 5/ Sản phẩm của doanh nghiệp: - Sản xuất theo đơn dặt hàng [ ] - Sản phẩm mang nhãn hiệu riêng của doanh nghiệp [ ] 6/ Theo ông (bà) có nên thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu? - Có [ ] - Không [ ] - Ý kiến khác……………………. 7/ Doanh nghiệp có kiến nghị gì với nhà nước địa phương - ………………………………………………………………………….. - ………………………………………………………………………….. 8/ Kiến nghị với nông dân? -………………………………………………………………… -………………………………………………………………….. 9/ Câu hỏi mở Phụ biểu 01. So sánh hiêu quả kinh tế giữa sản xuất rau, quả chế biến với sản xuất lúa (thời điểm tháng 3/2009) TT Loại cây Năng suất trung bình (kg/sµo) Giá bán bình quân thời điểm thàng 3/2009 (®ång) Tæng thu (®ång) Tæng chi (®ång) L·i suÊt (®ång) Lãi so với lúa (lần) 1 D­a bao tö 800 4.200 3.360.000 2.048.500 1.311.500 6 2 Cà chua bi 1.100 2.800 3.080.000 2.061.500 1.018.500 4.6 3 Dưa chuột Nhật 2.500 1.400 3.500.000 2.667.500 832.500 3.8 4 ớt xuất khẩu 400 5.500 2.200.000 1.470.500 729.500 3.3 5 Hành lá 1.500 1.800 2.700.000 1.661.000 1.039.000 4.7 6 Ngô ngọt 600 2.600 1.560.000 1.087.250 472.750 2.1 7 Lúa 200 4.500 900.000 679.900 220.100 - Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang Phụ biểu số 02. Kinh phí hỗ trợ đào tạo tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật (thời điểm tháng 3/2009) TT Nội dung ĐVT Số lượng Đơn giá (1000đ) Thành tiền (1000đ) 1 Tiền ăn học viên ngày 60 20 1200 2 In ấn tài liệu bộ 60 3 180 3 Hội trường khánh tiết ngày 1 200 200 4 Sách vở + bút học viên bộ 60 5 300 5 Tiền giảng viên ngày 1 300 300 6 Nước uống học viên + GV chai 61 5 305 Tổng 2.485 Ghi chú: Định mức trên áp dụng theo Nghị quyết số 10/2007/NQ-HĐND ngày 19/7/2007 của HĐND tỉnh Bắc Giang về việc quy định chế độ công tác phí, chế dộ chi tổ chức các hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập tỉnh Bắc Giang; Thông tư số 23/2007/TT-BTC ngày 21/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc Quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 51/2008/TT-BTC ngày 16/6/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước. Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Giang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHKT09067.doc
Tài liệu liên quan