Giải pháp về vốn kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Thực tế trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp nhà nước đã có những đóng góp quan trọng cho việc phát triển kinh tế – xã hội, nhưng mặt khác doanh nghiệp nhà nước cũng bộc lộ nhiều nhược điểm, nổi bật là hoạt động kém hiệu quả so với các lợi hình doanh nghiệp khác. Việc xác định đầy đủ phạm vi hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước và tìm giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nói chung và vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước nói riêng đang trở thành

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp về vốn kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề bức xúc. Cần sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, xoá bỏ những bao cấp không thoả đáng của nhà nước đối với khu vực kinh tế quốc doanh qua vốn, qua tín dụng. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn trong mọi tình huống của nền kinh tế thị trường. Hiện nay đã có nhiều bài viết, bài báo của nhiều tác giả khác nhau đã đề cập đến vấn đề này và đưa ra những biện pháp để giải quyết nhưng theo tôi những biện pháp đó vẫn mang tính riêng lẻ, giải quyết từng phần trong khi đó muốn giải quyết vấn đề vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước một cách triệt để thì phải cần tổng hợp nhiều giải pháp mới có thể thực hiện được. Vì những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài : “Giải pháp về vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu, đây là một đề tài được nhiều tác giả đề cập nhưng nó vẫn là một đề tài mới bởi tính hoàn thiện của nó chưa cao. Thông qua việc nghiên cứu đề tài này tôi mong rằng những ý kiến và giải pháp tôi đưa ra có thể đóng góp một phần vào công việc khó khăn là xây dựng hoàn chỉnh mang tính chất lý luận về vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước để có thể giúp cho nnn định hướng hoạt động cho doanh nghiệp nhà nước co hiệu quả giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân . Giúp cho các doanh nghiệp nhà nước có thể tìm ra những khó khăn trong hoạt động của mình xuất phát từ khâu nào để có hướng giải quyết hậu quả. Trong bài viết này đối tượng nghiên cứu là những doanh nghiệp nhà nước nói chung, nhưng tôi đặc biệt trọng tâm vào nghiên cứu các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh bởi trong nền kinh tế thị trường có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế thì doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn hơn cả, họ vừa phải vừa theo định hướng từ trên xuống vừa phải cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng số dữ liệu trong khoảng 10 năm nhưng tập trung nghiên cứu số liệu trong 5 năm trở lại đây. Đây là một đề tài mang tính tính tổng hợp cao nên trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp: phương pháp so sánh, phương pháp lôgíc, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp. Kết cấu của đề tài gồm 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận. Phần II: Thực trạng vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Phần III: Giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Và cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của GS.TS Nguyễn Hữu Tài và cô giáo Cao Thi Yến Nhi. Hà Nội ngày 20/2/2001. Người viết Trịnh Xuân Hiếu Phần i: cơ sở lý luận . I. Doanh nghiệp – doanh nghiệp nhà nước. I.1 Khái niệm đặc điểm và phân loại doanh nghiệp nhà nước “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ kinh doanh trong phạm vi số vốn do mình quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Từ định nghĩa trên cho thấy doanh nghiệp nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau đây. Một là, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao. Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu nhà nước, doanh nghiệp quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước. Ba là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật. Bốn là, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản của doanh nghiệp quản lý. Từ theo từng tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước ra các loại khác nhau. Dựa vào quy mô và hình thức tổ chức của doanh nghiệp, có thể chia doanh nghiệp nhà nước thành Tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước độc lập và doanh nghiệp nhà nước thành viên. Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp có quy mô lớn, được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, ứng dụng, tiêu thụ… Tổng công ty nhà nước có thể có các loại đơn vị thành viên như: Đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp. Tổng công ty nhà nước được phân biệt thành Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91. Doanh nghiệp nhà nước độc lập là doanh nghiệp nhà nước không nằm trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhà nước độc lập còn được phân biệt thành doanh nghiệp nhà nước độc lập có quy mô lớn và doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ. Doanh nghiệp nhà nước thành viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu của Tổng công ty nhà nước. Nếu dựa vào mực đích hoạt động của doanh nghiệp thì có thể phân biệt doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. I.2. Tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước Trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhà nước do nhiều nguyên nhân khác nhau, một số doanh nghiệp đã tỏ ra hoạt động kém hiệu quả, thậm chí kinh doanh thua lỗ kéo dài, không còn thể hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trước tình hình đó, cùng với quy chế về thành lập doanh nghiệp nhà nước, pháp luật đã quy định các biện pháp thực hiện lại doanh nghiệp nhà nước nhằm đảm bảo vai trò của hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. theo tinh thần của pháp luật hiện hành, việc tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước bao gồm các biện pháp sau đây: sát nhập doanh nghiệp nhà nước; chia, tách doanh nghiệp nhà nước; cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Sát nhập doanh nghiệp nhà nước vào một doanh nghiệp nhà nước khác áp dụng trong trường hợp trên cùng một địa bàn có nhiều doanh nghiệp cùng loại mà thực tế nhu cầu của thị trường không cần đến nhiều doanh nghiệp đến nưh vậy. Trong trường hợp đó thì sát nhập doanh nghiệp yếu kém vào những doanh nghiệp cùng loại. Chia tách doanh nghiệp nhà nước áp dụng đối với các doanh nghiệp và tổng công ty nhà nước mà sự hình thành không phải xuất phát từ nhu cầu khách quan mà chỉ là sự liên kết một cách rời rạc do mệnh lệnh hành chính bắt buộc dẫn đến hoạt động của toàn tổng công ty cũng như các đơn vị thành viên đều kém hiệu quả. Có thể tách một số hoặc toàn bộ các đơn vị thànhviên ra khỏi Tổng công ty để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả hơn. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, nhằm huy động vốn của xã hội vào việc đầu tư đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế. Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước là những biện pháp thiết thực sắp xếp lại và đổi mới những doanh nghiệp nhà nước quy nhỏ, kinh doanh thua lỗ kéo dài hoặc không cần duy trì sở hữu nhà nước nhằm tạo điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo lợi ích của nhà nước cũng như của người lao động. I.3. Quản lý nhà nước và thực hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Cũng như mọi doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhà nước chịu sự quản lý nhà nước đối với sự thành lập, tổ chức hoạt động và các vấn đề khác. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp của nhà nước, thuộc sở hữu nhà nước, do đó, với tư cách là chủ sở hữu, nhà nước thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp. Việc quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước do Chính Phủ thống nhất thực hiện với những nội dung sau đây:Ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng doanh nghiệp; quyết định các biện pháp bảo hộ và hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước quan trong nền kinh tế quốc dân; tổ chức xây dựng quy hoạch và đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ điều hành PNNN; tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ nhà nước tại các doanh nghiệp. Quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ - Người đại diện chủ sở hữu nhà nước thống nhất thực hiện với những nội dung chủ yếu sau đây. Quyết định thành lập, sát nhập, chia tách, … đối với doanh nghiệp nhà nước. Quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển và định hướng kế hoạch phát triển kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Ban hành điều lệ mẫu của doanh nghiệp nhà nước, phê chuẩn điều lệ tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước quan trọng. Quyết định cấp vốn đầu tư ban đầu và đầu tư bổ sung, giao vốn cho doanh nghiệp, kiểm tra, giám sát việc khấu hao, chế độ sử dụng lợi nhuận. Phê chuẩn phương án chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố những thiết bị nhà xưởng quan trọng. Phê chuẩn phương án huy động vốn, phương án góp vốn vào các doanh nghiệp khác. Tổ chức thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với phần vốn đầu tư của nhà nước vào các doanh nghiệp. Quy định các tiêu chuẩn, định mức… quyết định tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp của các thành viên trong hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp. I.4. Giải thể và phá sản doanh nghiệp nhà nước Giải thể doanh nghiệp nhà nước là thủ tục pháp lý nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước bị xem xét để giải thể trong những trường hợp sau đây: Thứ nhất, hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập mà doanh nghiệp không xin ra hạn. Thứ 2, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài nhưng chưa lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Thứ 3, doanh nghiệp không thể thực hiện được các nhiệm vụ do nhà nước quy định sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết. Thứ tư, việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết. Việc giải thể doanh nghiệp nhà nước do người đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước. Đó là Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng quản lý ngành, Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền đối với các Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước độc lập có quy mô lớn; Bộ trưởng quản lý ngành hoặc Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với các doanh nghiệp nhà nước khác. Người quyết định giải thể doanh nghiệp nhà nước phải lập hội đồng giải thể. Hội đồng giải thể là cơ quan tham mưu cho người quyết định giải thể doanh nghiệp nhà nước và tổ chức thực hiện quyết định giải thể. Phá sản doanh nghiệp là thủ tục pháp lý áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Theo thủ tục này thì doanh nghiệp nhà nước lâm vào tính trạng phá sản có thể tồn tại hoặc không tồn tại phụ thuộc vào đại hội chủ nợ và phụ thuộc nỗ lực chính của doanh nghiệp. Trên đây là toàn bộ những vấn đề cơ bản nhất quy định đối với doanh nghiệp nhà nước, thông qua việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản này không ngoài mục đích để tìm ra những vấn đề còn vướng mắc có liên quan đến huy động, sử dụng và bảo tồn vôn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước sao cho có hiệu quả hơn bằng cách dò tìm từ yếu kém của hoạt động sử dụng vốn kinh doanh, quay lại tìm những nguyên nhân của sự yếu kém đó nó bắt nguồn từ bộ phận nào và chỉ có như vậy mới có thể giải quyết một cách có hiệu quả về vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước đang còn hoạt động kém hiệu quả hiện nay. ii. vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước Trong nội dung hoạt động của tài chính doanh nghiệp, quản lý sử dụng vốn là khâu trọng tâm nhất, có tính chất quyết định tới mức độ tăng trưởng hoặc suy thoái của một doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn kinh doanh bao gồm nhiều khâu như: xác định nhu cầu vốn kinh doanh, khai thác tạo lập vốn kinh doanh, đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh. Trước đi vào những nội dung cụ thể, cần thiết phải trở lại một vấn đề có tính nguyên lý: vốn kinh doanh là gì, những đặc trưng của nó trong quá trình hoạt động. Nhận thức rõ vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa trong việc định ra những luận cứ các phương pháp quản lý ấy. II.1. Vốn kinh doanh và những đặc trưng của nó Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quy định tới các bước tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền đặc biệt. Mục tiêu của quỹ là để phục vụ cho sản xuất kinh doanh – tức là mục đích tích luỹ, không phải mục đích tiêu dùng như một vài quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh phải có trước khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta đã nói vốn là số tiền phải được ứng trước cho kinh doanh. Song khác với một số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp, vốn kinh doanh sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh, và sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn kinh doanh không thể bị tiêu mất như một số “quỹ” khác trong doanh nghiệp. Mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy vơ phá sản. ở đây cần có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì thường phải có tiền. Song có tiền thậm chí có những khoản tiền rất lớn cũng không phải là vốn. Tiền được coi là vốn phải đồng thoả mãn những điều kiện sau: Một là, tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất địn. Hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực. Hai là, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền đến một hạn độ nào đó mới làm cho nó có đủ sức để đầu tư vào một dự án kinh doanh, cho dù là nghèo nhất. Vốn tiền nằm dải dác ở khắp nơi, không được thu gom lại thành “món lớn” thì chẳng đã làm được việc gì. Vì thế một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp thì nhất thiết phải tìm các biện pháp khai thác, thu hút các nguồn tiền tệ nhàn rỗi thành một món lớn để đầu tư kinh doanh. Ba là, khi dã có đủ số lượng tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách vận động và phương thức vận động của tiền lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể được mô phỏng theo sơ đồ sau: TLSX T – H …. SX ……H’ ……..T’ SLĐ Mô hình này được áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đồng thời đó cũng là mô hình của quá trình tái sản xuất xã hội nói chung. T - H – T’: trong trường hợp đầu tư trên lĩnh vực thương mại. Trong trường hợp này H là hàng hoá dịch vụ được lưu thông và thực hiện giá trị. T – T’: trong trường hợp đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty đầu tư góp vốn kinh doanh. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng có thể vận động đồng thời cả ba phương thức đầu tư vốn tiên tệ theo các mô hình trên, miễn sao đạt được mục tiêu có mức doanh lợi cao và nằm trong khuôn khổ luật. Những nhận thức trên đây về vốn điều kiện không chỉ giúp cho việc xác định được giá trị thực của một doanh nghiệp mà còn giúp cho công tác quản lý vốn có một tầm nhìn mở rộng để khai thác, sử dụng những tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp phục vụ cho việc đầu tư kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. II.2. Đầu tư vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước Theo quan niệm truyền thông “vốn đầu tư” được quan niệm là số vốn dùng và việc mua sắm tài sản cố định (TSCĐ) hoặc xây dựng, lắp đặt các công ty để tạo ra TSCĐ của doanh nghiệp. Từ đó “đầu tư vốn” cũng được quan niệm là việc bỏ vốn vào lĩnh vực xây dựng cơ bản. Đành rằng việc bỏ vốn vào xây dựng cơ bản là một khoản đầu tư lớn, nhưng với mục đích kinh doanh của doanh nghiệp thì đó không phải là tất cả. Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, khái niệm “Vốn đầu tư” và đầu tư vốn phải được quan niệm trên một bình diện rộng. Căn cứ vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, vốn đầu tư được đồng nghĩa với vốn kinh doanh. Đó là số vốn được dùng vào kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định nhằm mục đích sinh lời. Còn đầu tư vốn là hành động chủ quan có cân nhắc của người quản lý trong việc bỏ vốn vào mục tiêu kinh doanh nào đó với hy vọng là sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao trong tương lai. Như vậy, việc bỏ vốn cho bất kỳ hoạt động kinh doanh nào nhằm mục đích thu được lợi nhuận thì cũng đều được lợi nhuận thì cũng đều được gọi là đầu tư vốn. Động lực của đầu tư vốn là lợi nhuận cao với khả năng an toàn cao. Trong thực tế khả năng thu được lợi nhuận cao về đầu tư thường mâu thuẫn với khả năng an toàn về vốn. Chính vì vậy, người đầu tư phải luôn luôn cân nhắc để chọn hướng đầu tư và phương án đầu tư thích hợp. Đối với một doanh nghiệp nói trung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng,thông thường có hai hướng đầu tư chủ yếu là đầu tư vào bên trong và đầu tư ra bên ngoài. Đầu tư vào bên trong là những khoản đầu tư vốn để mua sắm các yếu tố của quả trình sản xuất khi khởi nghiệp như: xây dựng, mua sắm tài sản cố định, nguyên vật liệu, tiền thuê mướn công nhân, các chi phí về thủ tục kinh doanh như thúe trức bạ, chi phí khai trương doanh nghiệp , chi phí quảng cáo ….Với những doanh nghiệp đang hoạt động thì theo tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị, khả năng cạnh tranh trên thị trường,doanh nghiệp có thể đầu tư bên trong nhằm tăng khả năng sản xuất kinh doanh như:Đầu tư đổi mới sản phẩm, đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, đổi mới thiết bị hoặc đầu tư chuyển sản xuất kinh doanh sang một hướng mới… Bên cạnh hướng đầu tư bên trong, doanh nghiệp có thể đầu tư vốn ra bên ngoài hay còn gọi là đầu tư tài chính. Đầu tư bên ngoài thường được thực hiện dưới cáchình thức: Góp vốn cùng liên doanh với một doanh nghiệp khác, đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu. Trong nền kinh tế thị trường, việc các doanh nghiệp đầu tư vốn ra bên ngoài không chỉ nhằm mục đích lợi nhuận mà còn nha3ừm mục đích đảm bảo an toàn vốn. Bằng cách đầu tư ra bên ngoài, doanh nghiệp có thể san sẻ trách nhiệm và rủi ro cho các đơn vị cùng gáng chịu. Dẫu là đầu tư bên trong hay đầu tư bên ngoài, người quản lý doanh nghiệp luôn phải lưu tâm đến công việc “tiếp thị” tức là phải thăm dò, phân tích, lựa chọn các phương án để đi đến các quyết định tài chính.Công việc này thường được tiến hành trên cơ sở kết hợp giữa sở trường, thế mạnh của doanh nghiệp cới các yếu tố khách quan của thị trường. II.3.Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước Sẽ là sai lầm trong công tác quản lý đầu tư, sử dụng vốn kinh doanh, nếu người quản lý không bao quát được các nguồn vốn, nội dung và tính chất của các nguồn vốn có thể huy động được trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn sẽ là cơ sở cho việc lựa chọn, khai thác, huy động vốn phù hợp với nhu cầu vốn và khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp . Vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có thể hình thành từ các nguồn khác nhau, tuy nhiên mỗi một loại hình thành doanh nghiệp cũng chỉ khai thác, huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế người ta có thể căn cứ vào nguồn hình thànhvốn kinh doanh để nhận biết doanh nghiệp đó thuộc loại nào. Chẳng hạn, doanh nghiệp có vốn kinh doanh chủ yếu thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước thì đó là doanh nghiệp nhà nước; hoặc một doanh nghiệp khác lại có vốn kinh doanh từ nguồn tự có và cổ phần thì nó lại là một doanh nghiệp tư nhân, một công ty cổ phần. Tuy nhiên, một doanh nghiệp cho dù là thuộc loại hình nào đi chăng nữa thì vốn kinh doanh của chúng cũng được huy động, khai thác từ một số trong những nguồn vốn sau. Trong phần này tôi sẽ trình bày theo phương liệt kê các nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước. II.3.1. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước Nguồn vốn này được cấp phát cho các doanh nghiệp công – doanh nghiệp nhà nước. Đó là nguồn vốn được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách và được dùng vào mục đích chi phí phát triển kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, tuy thu không đủ chi nhưng ngân sách nhà nước đã phải tài trợ hầu như toàn bộ số vốn điều kiện cho hàng vạn xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế. Như đã phân tích ở trên, do nguyên nhân bao cấp về vốn của ngân sách nên đã gây tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước của các xí nghiệp quốc doanh. Từ đó đã làm suy giảm tính năng động của các xí nghiệp trong việc chủ động khai thác các nguồn vốn, cũng như tìm kiếm các giải pháp để bảo toàn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Trong cơ chế thị trường, đi đôi với việc mở rộng và khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, Chính phủ đang xúc tiến các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Thường đổi mới chủ yếu là thu hẹp phạm vi và quy mô của khu vực này bằng cách tư nhân hoá, cổ phần hoá phần lớn các xí nghiệp quốc doanh. Vì thế, nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp quốc doanh sẽ có xu hướng giảm đáng kể về tỷ trọng và số lượng. Các doanh nghiệp quốc doanh phải chủ động bổ sung phần thiếu hụt bằng các nguồn vốn tài trợ khác. II.3.2. Nguồn vốn tự có Là nguồn vốn do cá nhân chủ doanh nghiệp bỏ ra để drr kinh doanh. Nguồn gốc của loại vốn này là phần để dành, tiết kiệm trong ngân sách gia đình hoặc vốn cổ phần bằng cách phát hành cổ phiếu. Theo luật doanh nghiệp, để được kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định, số vốn tự có của doanh nghiệp phải đạt đến một mức độ tối thiểu. Một doanh nghiệp ít nợ, nhiều vốn tự có sẽ dễ làmcho cho các bạn hàng tin tưởng bỏ vốn ra đầu tư cho vay, hoặc góp cùng đầu tư. Tuy nhiên, cơ cấu của nguồn vốn tự có cũng không nên ở mức quá cao, vì như thế sẽ là mạo hiểm nếu công cuộc làm ăn bị thất bại. Do vậy, chủ doanh nghiệp nên có một phần dự trữ để đề phòng bất trắc, hoặc để phát triển, khuyếch trương kinh doanh khi có thời cơ. Mặt khác, việc xác định quy mô số vốn tự có ở mức vừa phải còn có tác dụng tranh thủ được các khoản nợ, làm tăng mức doanh lợi vốn và san sẻ rủi ro khi vấp phải trong kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì vốn tự có chính là từ các quỹ của doanh nghiệp do nó lập ra trong quá trình hoạt động nhưng thực tế hầu hết các doanh nghiệp nhà nước nguồn vốn kinh doanh từ phần này là rất nhỏ bởi nó gần như không có tích luỹ qua các quý. Vì vậy việc khai thác vốn kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước trong phần vốn tự có là hạn chế. II.33.Nguồn vốn liên doanh. Là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ của các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp: Có thể là liên doanh giữa nguồn vốn ngân sách với các nguồn vối tự có của tư nhân, liên doanh giữa vốn ngân sách Quốc gia này vớiQuốc Gia khác. Hình thức góp vốn liên doanh thích hợp với các doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, tổ chức quản lý vốn, chia lãi đơn giản. Tuy nhiên ,hạn chế của hình thức này là khả năng huy động vốn khó khăn vì số hội viên góp vốn là có hạn . II.34.Các nguồn vốn tín dụng . Là các khoản vốn mà doanh nghiệp nhà nước có thể vay dài hạn của các ngân hàng thương mại ,công ty tài chính ,công ty bảo hiểm hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác ,cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh . Trong nền kinh tế thị trường ,song song với việc hình thành và phát triển của thị trường tài chính là sự ra đời của hàng loạt các tổ chức trung gian tài chính .Sở dĩ gọi là trung gian tài chính vì các doanh nghiệp này có vị trí trung tâm trong việc thu hút vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường tài chính .Điển hình nhất của các tổ chức này hệ thống các ngân hàng thương mại với sự phong phú và đa dạng các loại hình tín dụng .Đây là điều kiện rất thuận lợi để các doanh nghiệp nhà nước có thể lựa chọn các hình thức tín dụng thích hợp để huy động vốn bổ sung ,hoặc vốn dài hạn cho kinh doanh .Những hình thức tín dụng điển hình là :Tín dụng ứng tiền qua tài khoản,tín dụng cầm cố hoặc thế chấp tài sản ,tín dụng có bảo lãnh ,tín dụng thông qua chiết khấu,tín dụng thương mại…. Nói tóm lại ,trong nền kinh tế thị trường ,hình thức huy động vốn là đa dạng và phong phú.Thị trường tài chính sẽ là nơi gặp gỡ ,thoả thuận giữa người mua vốn và người bán vốn . Việc mua ,bán vốn cũng phải tuân theo những quy luật cung cầu ,cạnh tranh của thị trường tài chính. II.4.Sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh Vốn kinh doanh của doanh nghiệp ,như đã phân tích ở trên ,là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp nhà nước mà quy mô của vốn kinh doanh ,cơ cấu thành phần của chúng cũng khác nhau.Tuy nhiên ,trong nền kinh tế thị trường ,nếu phân loại theo công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất nói chung và của một doanh nghiệp nhà nước nói riêng thông thường bao gồm ba thành phần là:Vốn cố định ,vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính . II.41.vốn cố định của doanh nghiệp . Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp .Để có thể quản lý vốn cố định ,điều cần thiết trước tiên là phải tìm hiểu những đặc điểm về mặt hiện vật của chúng. Có thể nói một cách khái quát ,tài sản cố định của doanh nghiệp là nhữngtài sản:Có giá trị lớn ,thời gian sử dụng lâu dài ,có chức năng là tư liệu lao động chứ không phải là để bán Nếu phân chia theo hình thái vật chất, tài sản cố định có hai loại là tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản hữu hình là tài sản có hình thái vật chất cụ thể như: Đất kinh doanh, nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và những phương tiện, công cụ khác trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụthể mà là những khoản chi phí để mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, thị quyền, nhãn hiệu thương mại, quyền đặc nhượng khai thác ….Ngoài ra, tài sản vô hình còn bao gồm cả những chi phí để sáng lập một doanh nghiệp mới như chi phí nghiên cứu thị trường, phí quảng cáo, tiền thù lao cho những người sáng lập, thù lao cho luật sư… Trong quá trình sản xuất kinh doanh nhìn chung tài sản cố định không bị thay đổi hình thái vật chất, nhưng năng lực sản xuất và kèm theo là giá trị của chúng giảm dần. Có hiện tượng đó là do trong quá trình tham gia vào sản xuất,tài sản cố định đã bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hoa mòn có liên quan đến việc giảm giá trị của tài sản cố định. Còn hao mòn vô hình lại liên quan đến việc mất giá của tài sản cố định . Từ những đặc điểm trên đây về sự vận động của tài sản cố định, cho thấy việc bảo toàn và phát triển vốn cố định được đặt ra như một nhu cầu tất yếucủa mỗi doanh nghiệp. Vậy thế nào để bảo toàn vốn cố định? Về mặt lý thuyết, bảo toàn vốn cố dịnh có nghĩa là phải thu hồi toàn bộ phần chi phí ban đầu đã ứng ra cho việc mua sắm tài sản cố định Định nghĩa này chỉ đúng trong điều kiện nền kinh tế không có lạm phát, đồng tiền được ổn định và không có hao mòn vô hình. Tuy nhiên điều kiện này khó có thể thực hiện được, nhất là trong nền kinh tế thị trường mở cửa. Khi giá cả biến động, hao mòn vô hình xuất hiện thì dù có thu đủ vốn của tài sản cố định thì cũng chỉ là điều vô nghĩa, vì với chừng ấy sẽ không đủ để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Do vậy, trong nền kinh tế thị trường, bảo toàn vốn cố định phải được hiểu một cách đầy đủ là: Phải thu hồi một lượng đủ giá trị thực của tài sản cố định, để sao cho ít nhất cũng có thể tái đầu tư năng lực sử dụng ban đầu của tài sản cố định. Có như vậy vốn mới được bảo toàn, quá trình kinh doanh mới được tiến hành một cách trôi chảy. II.42.vốn lưu động của doanh nghiệp Vốn lưu động của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư được ứng ra để mua sắm các tài sản lưu động sản xuất, và tài sản lưu động nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Để tiến hành sản xuất, ngoài tài sản cố định, doanh nghiệp phải có tài sản lưu động. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động cũng khác nhau. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì tài sản lưu động thường được cấu tạo bởi hai phần là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu….và tài sản ở khâu sản xuất như tài sản dở dang đang chế tạo,bán thành phẩm, chi phí đợi phân bổ. Tài sản lưu thông của doanh nghiệp gồm sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Trong quá trình sản xuất, khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm và vì vậy giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định tới sự vận động của vốn lưu động. Từ những đặc điểm về vốn lưu động, trong khâu quản lý sử dụng và bảo toàn vốn lưu động cần lưu ý những nội dung sau đây: Một là, cần xác định số vốn lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh. Hai là, tổ chức khai tháccác nguồn tài trợ vốn lưu động. Ba là, phải thường xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động. Bốn vấn đề trên chỉ có tính nguyên lý. Trên thực tế, vấn đề quản lý, sử dụng vốn lưu động là rất phức tạp. Điều này đòi hỏi ở người quản lý không chỉ có lý thuyết mà còn phải có đầu óc thực tế và có nghệ thuật sử dụng vốn. II.43.Vốn đầu tư tài chính Trong nền kinh tế thị trường, hướng đầu tư của một doanh nghiệp không chỉ khép kín, giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp mà còn có thể đầu tư một bộ phận vốn kinh doanh ra bên ngoài. Một bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư dài hại ra bên ngoài n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29560.doc
Tài liệu liên quan