Lí luận về Công ty Cổ phần & thị trường chứng khoán. Ý nghĩa và sự vận dụng lí luận này ở nước ta

Tài liệu Lí luận về Công ty Cổ phần & thị trường chứng khoán. Ý nghĩa và sự vận dụng lí luận này ở nước ta: Lí luận về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Ý nghĩa và sự vận dụng lí luận này ở nước ta. MỤC LỤC Phần 1. Lời nói đầu . Phần 2. Nội dung : I. Lí luận về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán : 1. Giới thiệu về công ty cổ phần. 2. Giới thiệu thị trường chứng khoán. 2.1. Phân loại thị trường chứng khoán. 2.2. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 2.3. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán. 3. Vai trò của công ty cổ phầ... Ebook Lí luận về Công ty Cổ phần & thị trường chứng khoán. Ý nghĩa và sự vận dụng lí luận này ở nước ta

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lí luận về Công ty Cổ phần & thị trường chứng khoán. Ý nghĩa và sự vận dụng lí luận này ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n và thị trường chứng khoán. 4. Điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động tốt. II. Ý nghĩa và sự vận dụng lí luận này ở nước ta : III. Những điều cần lưu ý khi xem xét diễn biến của thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay. Phần 3. Kết luận. Phần 1. LỜI NÓI ĐẦU Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là lĩnh vực còn mới mẻ so với đại đa số người dân Việt Nam. Thành lập công ty cổ phần, mua bán cổ phiếu là công cụ hữu hiệu thực hiện xã hội hóa đầu tư. Quá trình cổ phần hóa và phát triển thị trường chứng khoán là hai quá trình có tác động qua lại lẫn nhau. Cổ phần hóa và niêm yết tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán sôi động. Thị trường chứng khoán phát triển nhanh chóng, đến lượt nó tác động trở lại, kích thích tiến trình cổ phần hóa. Từ đó đến nay, việc đưa các doanh nghiệp cổ phần hoá ra niêm yết luôn là chủ đề được bàn thảo khi nhắc đến thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là hai thành tố không thể tách rời, với đặc trưng riêng của nền kinh tế Việt Nam việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa đưa các công ty niêm yết để tạo ra một thị trường vốn phát triển là điều cần thiết. Chứng khoán là lĩnh vực đầu tư hấp dẫn, trong ít năm nữa sẽ vô cùng sôi động. Cùng với các nhà đầu tư nước ngoài đã và đang đầu tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhà đầu tư trong nước sẽ tham gia rất mạnh mẽ trong những năm tới. Nhưng vấn đề quan trọng nhất để thành công và kiếm được tiền từ đầu tư chứng khoán không phải là điều dễ dàng. Nói một cách ngắn gọn, tỷ lệ nhà đầu tư thành công trên thị trường chứng khoán tương đối ít, mà thất bại thì nhiều hơn là thành công. Nói chung là, đứng trước những cơ hội bao giờ cũng có những thách thức, và khi đã dấn thân tham gia vào đầu tư chứng khoán thì đó là một thách thức thật sự. Điều đó đòi hỏi người chơi phải tư duy, thận trọng xem xét mọi vấn đề trước khi đưa ra đầu tư. Ngày nay, kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh, thị trường đa dạng hóa và ngày càng phức tạp. Cho nên, việc tìm hiểu các thành phần kinh tế, để nắm bắt tốt cơ hội trong kinh doanh hay đầu tư là rất quan trọng và cần thiết đối với các nhà kinh tế. Thị trường chứng khoán là một trong những thị trường nóng nhất hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà còn ở trên thế giới. Lợi nhuận mà thị trường chứng khoán mang lại là rất lớn, nhưng rủi do mà nó đem lại cho người đầu tư cũng không hề ít. Vì vậy, trước khi muốn đầu tư vào công ty cổ phần hay thị trường chứng khoán chúng ta phải tìm hiểu kĩ, đưa ra sự lựa chọn phù hợp. Em chọn đề tài này với mong muốn là có thể bổ sung thêm những kiến thức về công ty cổ phần và thị trường chứng khoán cho mọi người và cho bản thân mình. Phần 2. NỘI DUNG I/ LÍ LUẬN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN : 1. Giới thiệu về công ty cổ phần: Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp góp vốn, trong đó số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Công ty cổ phần là một tổ chức được thành lập theo pháp luật. Nó đã tồn tại dưới các hình thức khác nhau từ hàng trăm năm nay và những đặc trưng cơ bản của nó hầu như vẫn không thay đổi. Một trong trong những đặc trưng quan trọng nhất của một công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, cho phép người ta đầu tư tiền hay tài sản vào công ty mà không phải chịu rủi ro đối với các tài sản cá nhân trong trường hợp công ty phá sản. Số tiền đầu tư này thuộc về công ty cổ phần và những nhà đầu tư không được phép tiếp cận. Ví dụ, họ không thể yêu cầu công ty trả cổ tức hoặc trả lại vốn đầu tư. Vốn đầu tư của họ phải chịu rủi ro vì nhà đầu tư được hưởng lợi nếu công ty phát đạt, nhưng có thể mất hết nếu công ty phá sản. Sau khi đã góp tiền hay tài sản vào một công ty, những nhà đầu tư được nhận cổ phiếu thể hiện quyền được hưởng những khoản lợi từ việc chấp nhận rủi ro này. Trong hầu hết các trường hợp, các cổ phiếu được phép chuyển nhượng tự do, do đó các cổ đông có thể bán các cổ phiếu của mình cho những nhà đầu tư khác. Hoặc có thể rời bỏ công ty hoàn toàn nếu họ muốn. Một đặc điểm nữa của công ty cổ phần là có thời gian tồn tại vô hạn. Khả năng của công ty có thể hoạt động vô thời hạn mang lại tính ổn định cho doanh nghiệp, đảm bảo rằng công ty có thể tồn tại lâu hơn những người sáng lập ra nó. Công ty cổ phần đã trở thành hình thức tổ chức doanh nghiệp mang tính thống trị nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho tăng trưởng. Đây là hình thức huy động vốn trên quy mô lớn một cách hiệu quả nhất. Các cổ đông có thể đầu tư vào công ty mà không phải chịu rủi ro về trách nhiệm cá nhân và không phải lệ thuộc vào uy tín hay độ tin cậy của những người cùng đầu tư như trong hình thức hợp danh. Họ có thể phân tán rủi ro thông qua đầu tư vào nhiều công ty khác nhau, với mục đích tối đa hóa lợi nhuận thu được. 2. Giới thiệu về thị trường chứng khoán : Chứng khoán là một giá trị tài chính đại diện bằng lãi suất có thể thỏa thuận và có thể thay thế. Nói chung, chứng khoán gồm hai loại là chứng khoán cổ phần (equity securities) và chứng khoán nợ (debt securities). Ngoài ra còn có loại chứng khoán lai giữa hai loại trên. Ở các nền kinh tế phát triển, loại chứng khoán nợ là thứ có tỷ trọng giao dịch áp đảo trên các thị trường chứng khoán. Còn ở những nền kinh tế kém phát triển, nơi mà thị trường chứng khoán mới được thành lập, thì loại chứng khoán cổ phần lại chiếm tỷ trọng giao dịch lớn hơn. Điều này giải thích tại sao ở Việt Nam cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, thị trường chứng khoán được nhiều người hiểu là nơi trao đổi các cổ phiếu.Công ty hay tổ chức phát hành chứng khoán được gọi là đối tượng phát hành. Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. 2.1. Phân loại thị trường chứng khoán : Phương diện pháp lý Thị trường tập trung : Giao dịch thông qua các sở giao dịch chứng khoán (Stock exchange). Hoạt động theo quy định của pháp luật. Tất cả các bên tham gia các quy chế nhà nước đã ban hành. Có sự kiểm soát của Hội đông chứng khoán (ở Việt Nam là Ủy ban chứng khoán nhà nước). Khi thị trường tăng trưởng nóng có thể dùng các biện pháp để hạ nhiệt đồng thời tham gia thúc đẩy thị trường khi nó tuột dốc. Thị trường phi tập trung hay thị trường OTC (over the counter): Nằm ngoài sở giao dịch… Không có sự kiểm soát từ Hội đồng Chứng khoán. Bởi vậy mà có khi tăng trưởng nóng gấp vài lần nhưng ngay tháng sau giá trị giảm chóng mặt. Không có địa điểm giao dịch tập trung. Vì thế các web rao vặt cho OTC nhiều, ở Việt Nam web lớn nhất là sanotc.com Giao dịch dựa vào sự thoả thuận. Không có một mức hạn định cho giá trong 1ngày. Nhà đầu tư thông qua công ty chứng khoán hoặc tìm đến nhau để giao dịch. Quá trình luân chuyển chứng khoán : Thị trường sơ cấp: Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu. Tạo vốn cho đơn vị phát hành. Dựa trên nhu cầu vốn để phát triển doanh nghiệp. Định giá ban đầu của doanh nghiệp là 10 tỷ mỗi cổ phiếu giá 10k nhưng khi xem xét trên các khía cạnh: kinh nghiệm, uy tín, tốc độ tăng trưởng… doanh nghiệp có quyền bán ra đến 100k. Chênh lệch 100k và 10k là thặng dư sau IPO, nó có thể để giữ lại để đầu tư, nếu là doanh nghiệp nhà nước có thể được nhà nước dùng để đầu tư cho các dự án khác. Thị trường thứ cấp : Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông. Giao dịch chứng khoán đã phát hành qua thị trường sơ cấp. Đảm bảo tính thanh khoản cho chứng khoán. Tính thanh khoản là khả năng thanh toán dễ dàng giá trị của cổ phiếu ra tiền mặt, khả năng trao đổi cổ phiếu giữa các nhà đầu tư. Các hàng hóa trên thị trường : Thị trường chứng khoán cổ phần (cổ phiếu) là những giấy tờ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, lưu hành trên thị trường và chứng nhận quyền sở hữu tài sản của đối tượng nắm giữ giấy tờ đó đối với đối tượng phát hành cổ phần. Hiểu đơn giản là: khi công ty cổ phần hóa, giá trị công ty được định giá chia làm các phần nhỏ, người chiếm giữ những cổ phần gọi là cổ đông và cổ phiếu là giá trị xác thực họ cũng là người chủ công ty. Thị trường chứng khoán nợ là những giấy tờ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, lưu hành trên thị trường chứng nhận mối quan hệ chủ nợ của người nắm giữ giấy tờ, chứng chỉ đó đối với người phát hành. Trái phiếu là dạng nợ do nhà nước (trung ương lẫn địa phương), công ty, thể chế tài chính phát hành mà trên tờ phiếu có xác nhận việc người phát hành nợ người nắm giữ trái phiếu và nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi vào một thời điểm sau khi phát hành và kỳ hạn tới thời điểm đó. Và trái phiếu có 2 loại là trái phiếu Chính Phủ và trái phiếu tư nhân ( có thể của tổ chức, công ty...) Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. 2.2. Các nguyên tắc hoạt động : Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên thị trường chứng khoán phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán : Nhà phát hành: Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán dưới hình thức phát hành các chứng khoán. Nhà đầu tư: Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại : Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích kiếm lời. Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán (mảng Tự doanh). Các tập đoàn hàng đầu thế giới như AIG, Prudential… công ty chứng khoán Sài Gòn, tập đoành Dầu Khí… Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán : Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở Việt nam. Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và ủy ban chứng khoán. Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán. Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. 3. Vai trò của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán : Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 4. Điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động tốt : Thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt và hiệu quả nếu như việc mua bán chứng khoán trên thị trường diễn ra thuận lợi, cung cấp cho nhà đầu tư một cơ chế giao dịch thuận tiện, an toàn, công khai, công bằng và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Hay nói khác, thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt nếu như nó tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán giao dịch, cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư và các đối tượng tham gia thị trường, qua đó hình thành nên giá chứng khoán hợp lý, tạo được niềm tin của công chúng vào thị trường chứng khoán. Vì vậy, để có thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì phải có một số điều kiện căn bản sau:Về yếu tỗ vĩ mô: Sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích đầu tư và tiết kiệm của công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển; mức thâm hụt ngân sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm được thực hiện có hiệu quả. Về yếu tố vi mô : Khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng, điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường chứng khoán giúp cho thị trường hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường. Mạng lưới các trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán như các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư … , đóng vai trò cầu nối giữa các nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác cho các nhà đầu tư như cho vay, cung cấp thông tin và các dịch vụ liên quan đến  giao dịch chứng khoán cho nhà đầu tư như tư vấn đầu tư chứng khoán, tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết.Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán gồm hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ ... Sự vận hành của các hệ thống này có những ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thị trường thông qua năng lực xử lý nhanh, chính xác các giao dịch trên thị trường, giúp tăng tốc độ luân chuyển vốn trên thị trường. Các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường, như các định chế trung gian khác là tổ chức định mức tín nhiệm, tổ chức kiểm toán, tư vấn, tổ chức lưu ký, ngân hàng thanh toán... Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng vai trò dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thời điểm mất cân đối quan hệ cung cầu. II. Ý NGHĨA VÀ SỰ VẬN DỤNG LÍ LUẬN NÀY Ở NƯỚC TA : Thị trường chứng khoán sôi động là cơ hội phát triển kinh tế, là một trong những yếu tố quan trọng góp phần đưa nền kinh tế nước ta ngang tầm với kinh tế thế giới, nếu như nước ta biết nắm bắt và phát huy vai trò của nó. Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế mỗi nước. Tình hình sôi động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam, thời gian qua đã phản ánh hiện tượng kinh tế tốt lành. Sự phát triển của thị trường chứng khoán một cách ổn định là tác nhân quan trọng không chỉ cho sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng mà đối với cả nền kinh tế nói chung. Song song quá trình cổ phần hóa, các thảo luận về thị trường chứng khoán bắt đầu từ năm 1996. Nhưng do khủng hoảng tài chính khu vực tác động đến nền kinh tế, đến năm 2000, thị trường chứng khoán Việt Nam mới chính thức ra đời. Các nhà đầu tư đều đánh giá, qua năm 2004 thị trường chứng khoán Việt Nam đã phần nào mang dáng dấp của một thị trường tài chính phát triển. Có thể nói là nhờ chúng ta đưa ra các biện pháp đúng đắn như : Chuyển Ủy ban chứng khoán nhà nước về Bộ Tài chính: Đây là quyết định hết sức đúng đắn của Chính phủ, thể hiện sự mong muốn phát triển thị trường chứng khoán. Nhiều giải pháp quan trọng về phát triển thị trường chứng khoán đã được ban hành: Nghị định 187 mở rộng diện doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá trong đó có cả tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp lớn và khối ngân hàng thương mại, đề cao vai trò của nhà đầu tư chiến lược, mở rộng tỷ lệ cổ phần bán ra bên ngoài doanh nghiệp, tạo cơ chế cung cấp thông tin công khai minh bạch cho nhà đầu tư… Đây là tiền đề rất quan trọng để tạo nhiều hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Quyết định 155 của Thủ tướng Chính phủ  thu hẹp diện doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, giảm danh mục nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối tại nhiều ngành nghề để tạo cơ hội thu hút vốn công nghệ, trình độ quản lý… từ các nhà đầu tư bên ngoài, nâng cao hiệu quả của tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước. Thông tư 100 của Bộ Tài chính đưa ra được chính sách thuế  rõ ràng, đơn giản và nhất quán đối với các tổ chức đầu tư, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây cũng là một tiền đề quan trọng để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Nhiều quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài được thành lập và phát triển trong năm: 4 công ty quản lý quỹ trong nước được thành lập bao gồm: Công ty quản lý quỹ đầu tư Việt Nam, Công ty quản lý quỹ Thành Việt, Công ty quản lý quỹ Manulife và Công ty quản lý quỹ Frudential. Bên cạnh đó, 4 công ty quản lý quỹ nước ngoài huy động thêm vốn qua các quỹ hiện hành hoặc lập thêm quỹ mới là các công ty: Finansa, Dragoncapital, Vinacapital, FXF Vietnam, đưa số vốn đầu tư cho năm 2005 thêm 100 triệu USD. Đa số các công ty niêm yết đều phát triển ổn định và phát triển nhanh hơn so với năm 2003: Các công ty niêm yết đã chú trọng nhiều tới việc quan hệ với các nhà đầu tư và đã trở thành các công ty đại chúng. Một số công ty niêm yết tiếp tục duy trì ở vị thế doanh nghiệp đầu ngành như Công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển là doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực vận tải biển, Công ty cổ phần Bê tông 620 đứng đầu trong lĩnh vực sản xuất bê tông công nghệ cao; Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE) đứng đầu trong lĩnh vực thầu lắp đặt cơ điện lạnh, Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thuỷ sản An Giang đứng đầu trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa. Tiến trình cải cách khối ngân hàng thương mại được đẩy mạnh: Chính phủ đã có chủ trương cổ phần hoá hầu hết các ngân hàng thương mại nhà nước như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Một số ngân hàng cổ phần kinh doanh hiệu quả như ACB, Sacombank có chiến lược kinh doanh rõ ràng và có lộ trình tăng tốc huy động vốn. Điều đáng chú ý là các ngân hàng thương mại nhà nước cũng như cổ phần đều có xu hướng lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược là các ngân hàng nước ngoài tham gia đầu tư vào ngân hàng của mình. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành quy chế niêm yết cổ phiếu ngân hàng, quy chế công khai minh bạch tài chính trong các ngân hàng thương mại. Điều này  nâng cao tính quản trị doanh nghiệp trong các ngân hàng thương mại, mở ra xu hướng hội nhập cho các ngân hàng nội địa. Sẽ ra đời nhiều giải pháp quan trọng cho thị trường chứng khoán: Các cơ quan của Chính phủ đã thống nhất chủ trương về việc tăng cường thu hút đầu tư gián tiếp đầu tư nước ngoài qua việc nâng hoặc bỏ giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng ngành nghề cho nhà đầu tư nước ngoài, chỉ quản lý những danh mục ngành nghề cấm và danh mục hạn chế đầu tư nước ngoài. Các ngành nghề còn lại sẽ do doanh nghiệp tự quyết định, dự kiến giải pháp này sẽ được đưa vào Luật doanh nghiệp và được Quốc hội ban hành vào tháng 6/2006. Đây là giải pháp đòn bẩy không chỉ cho sự phát triển thị trường vốn mà còn cho sự phát triển của nhiều doanh nghiệp Việt Nam, mở ra cơ hội lớn cho sự hợp tác giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài thay vì xu hướng thành lập doanh nghiệp FDI mới để lại trở thành đối thủ của nhau. Đây cũng là một tiền đề để xây dựng các tập đoàn doanh nghiệp Việt Nam, thu hút nhiều nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, sẽ báo hiệu trào lưu mua bán, sáp nhập doanh nghiệp trong tương lai gần. Dự kiến, năm 2005 sẽ có chính sách ưu đãi thuế có điều kiện cho công ty niêm yết. Đây cũng là giải pháp đòn bẩy để kích thích nhiều doanh nghiệp tự nguyện niêm yết, thúc đẩy vấn đề công khai minh bạch tài chính cho các công ty cổ phần, xây dựng văn hoá kinh doanh mới. Chính phủ đã có chủ trương thí điểm đưa doanh nghiệp Việt Nam ra niêm yết tại thị trường chứng khoán Singapore: Chủ trương này được thể hiện qua văn bản hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và Singapore. Chủ trương này là sáng kiến của lãnh đạo Bộ Tài chính, rất mong muốn thị trường chứng khoán Việt Nam nhanh chóng được hội nhập, các bên liên quan đến thị trường chứng khoán như nhà đầu tư, công ty niêm yết, cơ quan quản lý thị trường, các định chế tài chính trung gian... sẽ có điều kiện được tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Đây cũng là một giải pháp đòn bẩy, tuy nhiên để giải pháp này sớm được thực hiện thì cơ quan quản lý thị trường cần nhanh chóng tham mưu cho lãnh đạo Bộ Tài chính trong việc hoạch định chính sách. Vai trò, vị thế của các nhà đầu tư được đánh giá cao hơn trước: Trước đây, Uỷ Ban chứng khoán Nhà Nước đã không có chủ trương khuyến khích các Hiệp hội đầu tư chứng khoán ra đời với lý do chưa thực sự cần thiết hoặc sẽ rất khó khăn cho sự ra đời của Hiệp hội này. Các nhà đầu tư đã chủ động đưa ra nhiều giải pháp phát triển thị trường, nhưng vai trò của họ vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Chẳng hạn như trong công tác hoạch định chính sách thì Uỷ Ban chứng khoánNhà Nước chưa bao giờ chủ động lấy ý kiến của VAFI. Điều này ảnh hưởng tới công tác hoạch định chính sách, xa rời thực tiễn và mang tính chủ quan của nhà hành chính. DN đầu tiên chủ động xin huỷ niêm yết: Đó là trường hợp của công ty cổ phần Cáp treo Núi Bà Tây Ninh, doanh nghiệp không tiến hành niêm yết và kết quả là Uỷ Ban chứng khoán Nhà Nước phải hủy giấy phép niêm yết vào ngày 21/12/2004. Sự kiện này cho thấy việc niêm yết trên thị trường chứng khoán là một vinh dự đối với các doanh nghiệp; và chỉ có những ban quản lý doanh nghiệp giỏi, đủ bản lĩnh mới ra niêm yết và việc niêm yết thực sự mang lại nhiều quyền lợi cho doanh nghiệp. Xu hướng trả cổ tức phi vật chất (trả cổ tức bằng cổ phiếu) ết hợp với hình thức trả cổ tức bằng tiền mặt đựơc hình thành và báo hiệu sự phát triển: Xu hướng này không chỉ được áp dụng cho một số công ty niêm yết mà cho cả một số công ty chưa niêm yết. Dự kiến xu hướng này sẽ phát triển trong 2 năm tới khi nhiều giải pháp cơ bản để phát triển thị trường chứng khoán đã ra đời và trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau gần 7 năm hoạt động đã có những bước chuyển mình đáng kể, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007. Trong đó, nhà đầu tư cá nhân, đầu tư nghiệp dư chiếm số lượng lớn.Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển không ngừng về quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam, là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các công ty chứng khoán. Sự trưởng thành của các công ty chứng khoán Việt Nam không chỉ thể hiện về sự tăng trưởng số lượng và quy mô vốn mà còn thể hiện rõ nét qua phương thức và chất lượng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Tính đến 30/8/2007, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty, với tổng số vốn điều lệ đạt 5.735 tỷ đồng. Trong đó, có 43 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.Mặc dù số lượng cô ty chứng khoán đi vào hoạt động từ năm 2007 tăng gấp 3-4 lần so với năm 2006, nhưng kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2007 của nhiều công ty chứng khoán vẫn khá tốt, điển hình là cáccông ty chứng khoán đã có thời gian hoạt động lâu như công ty chứng khoán Sài Gòn - lợi nhuận sau thuế đạt 668,5 tỷ đồng, công ty chứng khoán ACB - lợi nhuận sau thuế đạt 141 tỷ đồng, công ty chứng khoán Bảo Việt - lợi nhuận sau thuế đạt 156,8 tỷ đồng... và một số công ty chứng khoán tuy mới triển khai hoạt động nhưng không chịu lép vế trước các công ty chứng khoán đàn anh như: công ty chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương tín - lợi nhuận sau thuế đạt 125,2 tỷ đồng, công ty chứng khoán Đại Việt - lợi nhuận sau thuế đạt 39,4 tỷ đồng, công ty chứng khoán Quốc Tế Việt Nam - lợi nhuận sau thuế đạt 23,7 tỷ đồng.Trong quá trình hoạt động, các công ty chứng khoán luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến hết ngày 30/6/2007, ngoài 56 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 25 chi nhánh, 14 phòng giao dịch, 24 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006). Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều công ty chứng khoán đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định vốn pháp định theo yêu cầu của Nghị định 14 hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trong 6 tháng đầu năm 2007, 4 công ty chứng khoán gồm Sao Việt (tăng từ 20 tỷ đồng lên 36 tỷ đồng), công ty chứng khoán An Bình – ABS (tăng từ 50 tỷ đồng lên 330 tỷ đồng), công ty chứng khoán Hà Thành (tăng từ 18 tỷ đồng lên 60 tỷ đồng), công ty chứng khoán Kim Long (tăng từ 18 tỷ đồng lên 315 tỷ đồng). Kinh tế Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 8,5% vào năm 2007, tăng trưởng 3 năm liên tiếp trên mốc 8%/năm. Mức tăng trưởng này tăng liên tục nhờ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với 59 nghìn doanh nghiệp mới được đăng ký trong năm qua, tăng 26% so với năm 2006. Cam kết đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) cũng tăng gấp đôi, lên 20,3 tỷ đô-la, tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt tới 43% GDP tính đến cuối năm 2007 (tăng mạnh so với mức 1,5% của năm 2005). Việt Nam đang và ngày càng thu hút lượng lớn các nhà đầu tư lớn trên thế giới tới đầu tư, và trở thành một trong những quốc gia đang bứt phá mạnh mẽ về kinh tế. Để kiểm soát được thị trường chứng khoán trong thời gian tới, tại cuộc hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng: Việt Nam phải sớm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện thể chế thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Tổ chức điều hành thị trường chứng khoán theo đúng chuẩn mực quốc tế và các cam kết với WTO để đảm bảo tính minh bạch, công khai trong các hoạt động của thị trường, có biện pháp kiểm soát sự luân chuyển các luồng vốn quốc tế vào Việt Nam nhằm tránh sự bất ổn và suy thoái kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm tăng nguồn cung cho thị trường. Để có sự cạnh tranh với các công ty chứng khoán nước ngo._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10803.doc
Tài liệu liên quan