Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam

Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tiến trình phát triển công nghiệp gắn với đô thị trong lịch sử nước ta nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn diễn biến phức tạp, đô thị Việt Nam mang một đặc điểm chung là sự đan xen giữa nông thôn, thành thị trên nhiều phương diện không gian địa lý, cơ sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hoá cũng như các hoạt động kinh tế,... Nước ta là một nước nông nghiệp, các thành phố, thị tứ được hình thành trước hết từ nhu cầu chính trị, xã hội hơn là nhu cầu

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế. Trong lịch sử có Phố Hiến và Hội An là hai đô thị được hình thành hầu như trước hết từ yêu cầu kinh tế, nhưng rồi lại không phát triển được do thiếu các điều kiện liên tục thúc đẩy từ kinh tế cho chúng hoạt động. Do sự phát triển chậm và yếu kém về công nghiệp, thương nghiệp nên cư dân đô thị chủ yếu là các công chức, hưởng lương Nhà nước, hoạt động quản lý, hoạt động văn hoá, giáo dục. Những năm gần đây các khu công nghiệp theo mô hình các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu kinh tế mở ra đời trong công cuộc đổi mới. Tác động tích cực, hiển nhiên của việc phát triển các khu công nghiệp đã góp phần làm tăng nguồn vốn đầu tư xã hội. Mặt khác quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang thúc đẩy làn sóng đô thị hoá ngày càng lan rộng. Việc nghiên cứu giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới là hết sức cần thiết, từ đó có phương hướng, giải pháp tốt hơn cho nền kinh tế. Đối với tỉnh Quảng Nam, sau gần 10 năm kể từ ngày tái lập tỉnh (tháng 1/1997) đến nay, đặc biệt kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 30/4/2003 của Tỉnh uỷ về phát triển Quảng Nam về cơ bản thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020, ngành công nghiệp của tỉnh đã đạt được những kết quả ban đầu quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá. Trên địa bàn của tỉnh đã xuất hiện một số khu, cụm công nghiệp, tuy nhiên việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới thì chưa được đầu tư nghiên cứu một cách có hệ thống, khoa học đầy đủ. Vì thế đề tài “Mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam” được chọn làm đối tượng nghiên cứu của luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua học tập và nghiên cứu bản thân học viên nhận thấy đã có một số luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu về phát triển công nghiệp và đô thị, như: - TS. Phạm Kim Giao (1996), Quy hoạch đô thị theo hướng môi trường sinh thái, Đại học Kiến trúc Hà Nội. - GS.TS Trần Ngọc Hiên và PGS.TS Trần Văn Chử (đồng chủ biên) (1996), Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Nguyễn Cao Đức (2003), "Quá trình đô thị hóa các đô thị lớn ở Việt nam, giai đoạn 1990-2000; Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (299)... Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những vấn đề có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới công nghiệp và đô thị mới. Nhưng chưa có công trinh nào nghiên cứu vấn đề mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình và bài viết đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Hệ thống cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới, đánh giá thực trạng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới, từ đó đề ra giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới một cách bền vững. 3.2. Nhiệm vụ: - Làm rõ mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở nước ta. - Nghiên cứu thực trạng việc giải quyết mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam. - Bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp để góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, kể từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) đến nay. 5. Đóng góp mới của luận văn Luận văn tập trung giải quyết mối quan hệ giữa quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó góp phần hoạch định các cơ chế chính sách để gắn kết giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững. 6. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đặc biệt phương pháp trừu tượng hoá khoa học gắn với sử dụng phương pháp logic kết hợp phương pháp lịch sử; đồng thời kết hợp với các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong đề tài. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới 1.1. Lý luận chung về phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá Lịch sử của mọi quốc gia đều khẳng định rằng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn cần phải công nghiệp hóa nền kinh tế như một bước đi tất yếu mà mỗi dân tộc sớm muộn đều phải trải qua. Đây là quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội. Xét từ quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thì lực lượng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, giữ vị trí quyết định nhất đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội. Nhìn lại các quá trình tiến hành công nghiệp của các nước, chúng ta thấy rõ tính đúng đắn luận điểm sau đây của Các Mác: Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Các tư liệu lao động không những là thước đo sự phát triển sức lao động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành. Xuất phát từ luận điểm trên đây, chúng ta có thể quan niệm về công nghiệp trong điều kiện hiện nay như sau: Công nghiệp hoá là con đường tất yếu nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở những nước đi lên xây dựng CNXH từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay với những đặc trưng của cuộc cách mạng KH-CN hiện đại, với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá. Mặt khác, không nên chỉ hiểu công nghiệp hoá theo nghĩa hẹp chỉ là quá trình hình thành cách thức sản xuất dựa trên kỹ thuật và công nghệ hiện đại riêng trong lĩnh vực tiểu công nghiệp và công nghiệp - mà nên hiểu theo nghĩa rộng, theo nghĩa quá trình đó diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế quốc dân. Trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là yếu tố quyết định nội dung của quá trình CNH, HĐH. Quả vậy, nếu nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là thay thế hệ thống kỹ thuật vốn chủ yếu dựa vào lao động thủ công và sức kéo của động vật bằng hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi nước, thì trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai hệ thống kỹ thuật dựa vào động cơ hơi nước đã được thay thế bằng các hệ thống động lực mới dựa trên cơ sở động cơ đốt trong, điện năng, với nguồn năng lượng chính là dầu mỏ. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba được đánh dấu bằng việc áp dụng hệ thống tự động hoá. Sức mạnh của khoa học, công nghệ khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đã thực sự góp phần tăng cường sức mạnh vật chất của con người bằng trí tuệ tác động vào tự nhiên đem lại lợi ích cho chính mình. Trong thập niên 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng KH - CN hiện đại với nội dung áp dụng kỹ thuật vi điện tử đã làm cho nền sản xuất chủ yếu dựa trên cơ sở điện khí hoá chuyển sang sản xuất dựa trên cơ sở cơ-điện tử. Trong giai đoạn này, nhiều ngành công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá dựa vào kỹ thuật vi điện tử đã lần lượt ra đời. Trong đó đặc biệt là công nghệ thông tin, như một nguồn năng lượng mới được áp dụng rộng rãi trong sản xuất, lưu thông, quản lý sản xuất kinh doanh và xã hội, làm cho hàm lượng trí tuệ của giá trị sản phẩm ngày càng cao. Sự phát triển của cách mạng KH - CN hiện đại đang chuyển dần nền kinh tế sang nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, những nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá bên cạnh việc tiến hành cơ khí hoá sản xuất cần đồng thời phát triển có trọng điểm một số những công nghệ hiện đại phù hợp với truyền thống và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và kinh tế xã hội của mỗi nước. Có như vậy mới rút ngắn được khoảng cách về sự phát triển so với các nước công nghiệp hoá nhằm tránh khả năng tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Kinh nhiệm công nghiệp hoá ở nhiều nước cho thấy cái cốt lõi của công nghiệp hoá trong thời đại ngày nay là sự đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật (còn gọi là phần cứng: máy móc, thiết bị,...) và công nghệ (còn gọi là phần mềm: phương pháp, quy tắc, quy trình, phương thức,...), chuyển từ kỹ thuật công nghệ lạc hậu, năng suất và kỹ thuật thấp lên trình độ công nghệ và kỹ thuật tiên tiến có năng suất và hiệu quả KT - XH cao trong tất cả lĩnh vực và các ngành của nền kinh tế quốc dân. Theo tư duy nói trên về công nghiệp hoá có thể rút ra nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá trong thời đại ngày nay ở các nước nói chung và nước ta nói riêng là trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại và theo đó xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân. Đây là cơ sở để đưa ra khái niệm CNH, HĐH một cách đầy đủ. Tuy nhiên về khái niệm CNH, HĐH trong điều kiện ngày nay vẫn còn nhiều điểm khác biệt giữa các nhà khoa học. Chúng tôi nhất trí với quan điểm: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ KH - CN tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 1.1.2. Khái niệm về đô thị hóa Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", Các Mác và F.Ăngghen cho rằng: Đô thị là sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc gây ra trước hết là sự tách rời giữa lao động công nghiệp với lao động nông nghiệp và do đó là sự tách rời giữa thành thị và nông thôn và bị đối lập giữa lợi ích của thành thị và nông thôn. Năm 1858, Các Mác nêu lên: Lịch sử cận đại là quá trình các quan hệ thành thị thâm nhập vào nông thôn, trong khi đó trong thế giới cổ đại lại có tình hình ngược lại, đó là những quan hệ nông thôn xâm nhập vào thành phố. Mác nêu đô thị cổ đại nông thôn hóa chủ yếu nói về tình hình tan rã của chế độ nô lệ, mâu thuẫn chế độ nô lệ ngày càng sâu sắc, tinh thần tích cực và năng suất lao động nô lệ không ngừng giảm thấp, đồng thời chiến tranh xảy ra liên miên giữa các thành, bang và dị tộc xâm nhập. Trong mấy thế kỷ đầu công nguyên, cả thế giới cổ đại ven bờ Địa Trung Hải bắt đầu sự chuyển biến lớn lần thứ nhất trong lịch sử loài người - sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ. Trên đống gạch của chế độ tư hữu, chủ nô lệ cổ đại xây dựng chế độ kinh tế và xã hội mới về cơ bản đã không còn dựa vào đô thị hoá nữa mà dựa vào nông thôn, dựa vào kinh tế tiểu nông tự do. Đây là sự xác lập chế độ phong kiến. Sự phát triển của đô thị xã hội phong kiến rất chậm, và “nông thôn có thể thống trị thành thị” (về kinh tế). “Công nghiệp đem áp dụng những nguyên tắc tổ chức nông nghiệp vào thành thị và vào các mối quan hệ của thành thị”. Như vậy có thể khẳng định quá trình lịch sử của CNTB nảy mầm và sau cuộc cách mạng công nghiệp, đô thị các nước tư bản thế giới phát triển nhanh. Cũng có thể nói, đô thị là người bạn đồng hành của công nghiệp hoá, đây là sự xác định khoa học đối với quan niệm đô thị hoá. Theo V.I. Lênin: Thành thị là nơi tập trung của đời sống kinh tế, chính trị và tinh thần của nhân dân và là một động lực chủ yếu của sự tiến bộ. Theo quan điểm của các nhà xã hội học khi nghiên cứu về đô thị, một đô thị đều được cấu thành từ hai nhóm thành phần chủ yếu là: - Các thành tố không gian, vật chất, đó chính là môi trường không gian hình thể do con người tạo ra bao gồm không gian kiến trúc, quy hoạch, cảnh quan đô thị, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và điều kiện khí hậu, sinh thái tự nhiên. - Các thành tố tổ chức xã hội, đó chính là cộng đồng dân cư sinh sống trên lãnh thổ đô thị với tất cả những thể chế, luật lệ hiện hành tại đó. Và trên thực tế thì hai thành tố này không thể tách rời nhau và được hiểu trong mối quan hệ một bên là môi trường sinh sống, điều kiện sống đô thị với một bên là những người hoạt động trong đó. Các bộ môn nghiên cứu về đô thị đều xoay quanh mục tiêu nghiên cứu và đảm bảo cho sự vận hành, phát triển của các đô thị, đảm bảo sự liên kết tối ưu giữa hai thành tố cấu thành đô thị nói trên. Từ những quan niệm nói trên, chúng tôi cho rằng: Đô thị là điểm dân cư tập trung, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của một vùng lãnh thổ, có cơ sở hạ tầng đô thị thích hợp (ở đây cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm thứ nhất là cơ sở hạ tầng kỹ thuật gồm: Hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc, chất đốt, nhiệt sưởi ấm, hệ thống chiếu sáng công cộng, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước, hệ thống thu gom, quản lý, xử lý chất thải, đảm bảo vệ sinh môi trường; thứ hai cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm: Nhà ở, các công trình phục vụ như y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục thể thao, thương nghiệp, dịch vụ công cộng, cây xanh, công viên, mặt nước) và dân cư nội thị không dưới 4.000 người với tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trên 60%. "Đô thị bao gồm: thành phố, thị xã, thị trấn. Yếu tố cơ bản thúc đẩy sự hình thành và phát triển đô thị, là nơi tập trung giao lưu các bộ phận của sản xuất, đầu mối giao thông, đầu mối buôn bán, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các loại dịch vụ đô thị, dịch vụ sản xuất... Trong quá trình phát triển, nếu đô thị mất dần vai trò trung tâm vùng, lãnh thổ thì quá trình đô thị hóa sẽ ngừng trệ. Đô thị không chỉ là nơi tiêu biểu cho sự phát triển, thịnh vượng và văn minh của mỗi quốc gia mà còn là những nơi truyền bá văn minh, là đầu tàu thúc đẩy các vùng xung quanh, phụ cận phát triển. Đô thị có tính tập trung rất cao; đô thị thường là nơi tập trung các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền, là nơi tập trung dân cư sinh sống, làm việc với mật độ cao, là nơi tập trung các đầu mối giao thông, tập trung hàng hóa, tập trung thông tin, đầu mối giao lưu. Đô thị là nơi thể hiện tập trung nhất những công việc, sự kiện, hiện tượng điển hình của xã hội, tập trung các mặt tích cực, tiên tiến và có những tiêu cực của xã hội. Đô thị có tính đồng bộ và thống nhất; mọi chức năng của thành phố, thị xã là một khối thống nhất. Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển mà đô thị có thể có các chức năng khác nhau, nhìn chung có 4 chức năng cơ bản sau đây: - Thứ nhất là chức năng kinh tế: Đó là chức năng chủ yếu của đô thị trong phát triển kinh tế, chức năng kinh tế được thể hiện trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu của kinh tế thị trường đã tập trung các loại hình doanh nghiệp vào các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khu chế xuất và các khu công nghiệp cao, cùng với cơ sở hạ tầng tương ứng thích hợp, tạo ra thị trường ngày càng mở rộng và đa dạng hóa. Việc tập trung sản xuất trong các khu này đã kéo theo sự tập trung dân cư mà trước hết là lực lượng lao động sản xuất và gia đình họ, đồng thời kèm theo các loại hình dịch vụ cho lao động, sản xuất, vận tải và cung ứng hàng hóa cho nhu cầu của người lao động và gia đình của họ, tạo ra bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị. Do việc tập trung sản xuất và tập trung dân cư lại đặt ra cho vấn đề phát triển đô thị với đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội như là một yêu cầu, đòi hỏi lớn về kinh tế, xã hội. - Thứ hai là chức năng xã hội, cùng với sự gia tăng quy mô về dân cư đô thị thì chức năng xã hội của đô thị ngày càng có phạm vi lớn dần, tăng dần. Những nhu cầu thiết yếu của cư dân đô thị về nhà ở, y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, thông tin liên lạc, giao thông đô thị,... là những vấn đề gắn liền với yêu cầu về kinh tế, với kinh tế thị trường. Nói chung ở các đô thị chức năng xã hội ngày càng nặng nề, đặt ra nhiều vấn đề của xã hội không chỉ là tăng dân số đô thị mà còn là vì chính những nhu cầu của họ về cơ sở hạ tầng đô thị: Nhà ở, câu lạc bộ, y tế, các cơ sở dịch vụ đô thị, giao thông đô thị, đi lại cũng có sự thay đổi. - Thứ ba là chức năng văn hóa: Chức năng văn hóa ngày càng phát triển cao vào thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh, mức sống dân cư được nâng cao, nhu cầu về văn hóa, giáo dục, vui chơi giải trí ngày một đòi hỏi cao hơn; thời gian dành cho việc hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe,... của từng người dân được tăng lên, rất cần thiết để tái tạo sản xuất sức lao động. Vì vậy, ở đô thị cần có hệ thống trường học, các công trình, cơ sở văn hóa, thể dục thể thao, du lịch, các viện bảo tàng, cửa hàng sách, báo, các trung tâm nghiên cứu khoa học với vai trò ngày càng lớn hơn, phong phú, đa dạng hơn, cấp bách hơn. Đặc biệt trong giai đoạn chuyển tiếp từ nền văn minh công nghiệp lên nền văn minh hậu công nghiệp hiện nay, chức năng văn hóa càng có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển bền vững mà trong đó nó cần đến nguồn nhân lực có chất lượng cao hơn để đáp ứng, kể cả trong lĩnh vực xã hội và chính trị cũng đòi hỏi trình độ chính trị cao hơn. Chính vì lẽ đó, vai trò của văn hóa, khoa học, giáo dục sẽ được phát huy từ điểm bắt đầu đến điểm kết thúc của bất kỳ quá trình vận động nào trong một thế giới phát triển bền vững. - Thứ tư là chức năng quản lý: Sự phát triển của đô thị một mặt được điều chỉnh bởi các nhu cầu, trong đó nhu cầu kinh tế là chủ yếu tác động qua cơ chế thị trường; mặt khác chịu sự điều chỉnh do hoạt động quản lý của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể quần chúng xã hội. Tác động của hoạt động quản lý là nhằm huy động, hướng nguồn lực vào các mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái, quy hoạch xây dựng và cảnh quan kiến trúc, cảnh quan đô thị, giữ gìn bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc, vừa tăng cường nâng cao khả năng đáp ứng các nhu cầu công cộng, cộng đồng, nhóm người, vừa quan tâm đến nhu cầu chính đáng của bản thân cá nhân mỗi một con người trong xã hội. Quản lý đô thị là một khoa học tổng hợp được xây dựng trên cơ sở của nhiều khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống chính sách, cơ chế, biện pháp và phương tiện được chính quyền nhà nước các cấp sử dụng để tạo điều kiện quản lý và kiểm soát quá trình tăng cường đô thị. Theo một định nghĩa rộng thì chức năng quản lý đô thị là quản lý con người và không gian sống, làm việc, sản xuất ở đô thị. Để có hiệu quả trong quản lý đô thị hiện nay, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì hệ thống quy phạm pháp luật phải đầy đủ, đồng bộ để chính quyền các cấp thực hiện đúng chức năng của mình. 1.1.3. Các nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp hình thành đô thị mới Quá trình phát triển công nghiệp, với sự ra đời các khu công nghiệp sẽ tất yếu kéo theo nhu cầu phục vụ lao động cho sản xuất công nghiệp và lao động làm dịch vụ công nghiệp, tạo nên hình thức di cư cơ học tự nguyện kết hợp với dân cư địa phương đã chuyển đổi nghề nghiệp từ lao động nông nghiệp sang làm công nghiệp và dịch vụ, tất yếu sẽ hình thành một khu dân cư đô thị mới. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá là sự xuất hiện các trung tâm giao lưu hàng hoá. Đô thị hình thành từ quá trình này, tất yếu của sự phát triển. Đô thị ngày càng phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ công nghiệp hoá. Thời kỳ công nghiệp hoá là thời kỳ có 4 tiến trình song song: - Trước hết là quá trình nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động công nghiệp cao hơn rất nhiều so với lao động thủ công. - Thứ hai là tiến trình tái định cư trên quy mô quốc gia. Đó là quá trình chuyển từ 80% dân cư sinh sống ở đô thị, chưa kể một số lượng lớn dân cư di chuyển cùng với sự phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. - Thứ ba là tiến trình tái bố trí sử dụng đất đai, không những chỉ là tiến trình phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn, các khu dân cư mới, mà còn tiến trình hiện đại hoá nền sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. - Thứ tư là tiến trình cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Như vậy, cả bốn tiến trình công nghiệp hoá đều gắn với sự hình thành các khu đô thị mới trong quá trình đô thị hoá. Đô thị hóa là quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, những vùng không phải là đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ,...thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỷ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm gia tăng sự phát triển của giao thông với các vùng nông nghiệp, lâm nghiệp, xung quanh các đô thị khác (ngày nay xung quanh các đô thị lớn là các đô thị vệ tinh hoặc gọi là chùm đô thị), thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và sự phân công lao động theo lãnh thổ, tăng cường đội ngũ công nhân, tiểu thủ công, thương nhân, kỹ thuật, viên chức,... Việc đô thị hóa có ý nghĩa trực tiếp nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nông dân và các tầng lớp nhân dân ở khu vực được đô thị hóa và khu vực lân cận, thúc đẩy sản xuất theo chuyên môn hóa, chuyên canh với khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến và tiến đến hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, ngăn chặn việc di dân tự do, tự phát, không có kế hoạch của nông dân vào các đô thị lớn. Cùng với đô thị hóa, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, cấp điện, cấp nước, truyền hình, thông tin liên lạc phát triển, cơ cấu xã hội theo đó cùng phát triển. Đô thị hóa làm tăng nhanh số lượng các đô thị, chùm đô thị; sự phát triển đô thị tạo ra những điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng, phát triển kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa như: tập trung dân cư, tập trung nguồn lực con người, khoa học, văn hóa, thông tin, xây dựng kết cấu hạ tầng, nhu cầu tiêu thụ và nâng cao ý thức chính trị của dân cư; tạo lập và phát triển các thị trường tài chính, kinh doanh bất động sản, thị trường khoa học-công nghệ,...theo hướng đồng bộ, công khai, minh bạch. Theo số liệu của Liên hiệp quốc, quá trình phát triển đô thị đã đạt được như: nâng mức tuổi thọ trung bình, giảm tỷ lệ tỷ vong của trẻ em, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, tăng tỷ lệ dân cư dùng nước sạch, phát triển giáo dục, văn hóa, tăng số người có mức sống cao với tỷ lệ trên 60% dân cư. Tuy nhiên, do sự chênh lệch về đời sống thúc đẩy việc di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị một cách ồ ạt, không kiểm soát được, làm mất cân đối trong sự phát triển dân cư với các điều kiện phục vụ sự phát triển không tương xứng giữa đô thị và quy mô giáo dục..., và xuất hiện nhiều vấn đề xã hội, trật tự an toàn xã hội, an ninh chính trị, văn minh đô thị,... Đô thị hóa còn kèm theo sự cách biệt giữa con người với thiên nhiên (con người san, lấp hồ ao, sông mương, chặt cây cối, phá rừng, bê tông hóa sông mương,...), sự tàn phá môi trường sinh thái và ô nhiễm môi trường, khủng hoảng xã hội, tan rã gia đình ở đô thị, trẻ em bụi đời, lang thang tăng lên; vấn đề nhà ở, chất thải, rác thải, giao thông đô thị đang trở thành vấn đề nóng bỏng, bức xúc hàng ngày ở các đô thị. Môi trường sinh thái bị ô nhiễm, bị tàn phá, thiên tai, dịch bệnh đang là những vấn đề lớn của quốc gia và toàn cầu. Đô thị hóa luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa vì sự phát triển kinh tế, xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác động mạnh đến phát triển đô thị, phát triển đô thị lại tác động để phát triển nhanh các ngành công nghiệp, có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Các khu đô thị phát triển sẽ phát huy vai trò của các trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa trên từng vùng và địa phương, đi nhanh trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển công nghiệp và dịch vụ, đi đầu trong phát triển kinh tế tri thức. Đô thị hóa tác động đến sự gia tăng quy mô hội tụ nguồn nhân lực cho CNH, HĐH. Song đồng hành với sự gia tăng mức độ tập trung dân số đô thị là sự gia tăng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lao động trẻ (số lượng nhiều, chất lượng cao). Chính lực lượng lao động trẻ có tay nghề và kỹ thuật đã và đang là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đô thị. Ngoài ra, trong quá trình đô thị hóa còn phải kể đến sự đóng góp của lực lượng các cử nhân, kỹ sư, các nhà khoa học, các chuyên gia vào công cuộc CNH, HĐH đất nước. Đô thị hóa cũng tác động mạnh đến thu hút đầu tư phát triển kinh tế và cải tạo kết cấu hạ tầng đô thị. Chính sự gia tăng lớn về quy mô hội tụ dân số trong quá trình đô thị hóa đã làm gia tăng mạnh nhu cầu về những khoản đầu tư mới cho kết cấu hạ tầng đô thị và cải tạo kết cấu hạ tầng đô thị. Nhờ có sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng đô thị và cải thiện môi trường đầu tư, cũng như việc phát huy lợi thế so sánh về vị trí địa lý, giao thông,... Việt Nam nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng đã trở thành một trong số những địa bàn thu hút vốn đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư và cải tạo kết cấu hạ tầng đô thị sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Đô thị hóa còn tác động đến việc nâng cao trình độ KHKT và công nghệ thông qua việc tiếp nhận sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ và kỹ năng quản lý, tổ chức sản xuất hiện đại vào các đô thị lớn. Ngoài việc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước, các đô thị lớn đã chủ động tích cực tham gia vào quá trình cải tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và quản lý của mình dưới nhiều hình thức nhằm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và hạ giá thành,...từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới. 1.1.4. Những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới Về khái niệm đô thị mới, theo quy định tại Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006 của Chính phủ về việc ban hành quy chế khu đô thị mới thì dự án khu đô thị mới là dự án đầu tư xây dựng một khu đô thị đồng bộ, có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu dân cư và các công trình dịch vụ khác, được phát triển nối tiếp đô thị hiện có hoặc hình thành khu đô thị tách biệt, có ranh giới và chức năng được xác định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Khu đô thị mới có quy mô diện tích từ 50 ha trở lên. Trường hợp đất để dành cho dự án nằm trong quy hoạch đất đô thị nhưng bị hạn chế bởi các dự án khác hoặc bởi khu đô thị đang tồn tại thì cho phép lập dự án khu đô thị mới có quy mô dưới 50 ha nhưng không được nhỏ hơn 20ha. Khu vực quy hoạch đô thị mới thường được chọn ở những nơi có điều kiện thuận lợi về nguồn nhân công, về giao thông như gần cảng, sân bay và các trục giao thông quan trọng. Địa điểm mới cũng là nơi có quỹ đất và có khả năng cung cấp điện, nước đầy đủ. - Khu đô thị mới là khu xây dựng mới tập trung theo dự án đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, đồng bộ và phát triển của toàn khu được gắn với một đô thị hiện có hoặc với một đô thị mới đang hình thành, có ranh giới và chức năng được xác định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Sự hình thành và phát triển khu công nghiệp trong đó bao gồm tư vấn lựa chọn vị trí xây dựng khu công nghiệp, quy mô khu công nghiệp, đặc điểm cơ cấu loại hình ngành nghề sản xuất đến nhu cầu thu hút lao động phục vụ cho sản xuất công nghiệp,...đều là những nhân tố tác động làm nảy sinh những mâu thuẫn trong quá trình hình thành đô thị mới. Khu công nghiệp nằm xen kẽ với khu dân cư, tuỳ theo tình hình cụ thể có thể sử dụng phần lớn quỹ nhà ở các khu dân cư đô thị này cho nhu cầu nhà ở của công nhân, tất cả các dịch vụ phục vụ cho đời sống hàng ngày đều dùng chung với khu dân cư. Trường hợp khu công nghiệp nằm cạnh các khu dân cư, lúc này khu công nghiệp có thể sử dụng một phần quỹ nhà ở và công trình dịch vụ công cộng của khu dân cư đô thị. Thế nhưng, sẽ nảy sinh mâu thuẫn về ô nhiễm môi trường của các nhà máy đối với khu dân cư. Trường hợp khu công nghiệp nằm ở ven thành phố, thị xã, khu công nghiệp chỉ sử dụng một phần nhỏ khu ở dân cư đô thị và các công trình phục vụ công cộng. Cho nên nhu cầu đòi hỏi phải xây dựng khu ở cho công nhân và một số loại hình phục vụ công cộng gắn liền với khu công nghiệp, tạo điều kiện cho người lao động có nhà ở và đi lại tới nơi làm việc được thuận lợi. Khi khu công nghiệp nằm tách bạch với thành phố, thị xã do yêu cầu thúc đẩy phát triển công nghiệp theo vùng, yêu cầu tổ chức hoạt động hoặc do yêu cầu vận chuyển hàng hoá,...lúc này khu công nghiệp phát triển đòi hỏi hệ thống hạ tầng xã hội phát triển theo, hình thành nên các khu ở cho công nhân; khu ở phát triển kéo theo dịch vụ phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của con người cũng như các dịch khác, từ đó làm tiền đề phát triển thành một đô thị mới hoàn chỉnh. Quy mô khu công nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô dân số khu dân cư thông qua nhu cầu thu hút lực lượng lao động do khả năng tạo việc làm nhờ vào quy mô diện tích đất đai, số lượng xí nghiệp công nghiệp, vốn đầu tư vào khu công nghiệp. Lực lượng lao động tập trung đông và làm việc ổn định tại khu công nghiệp sẽ làm tăng quỹ nhà ở công nhân. Đặc điểm của loại hình sản xuất công nghiệp cũng ảnh hưởng tới khu ở công nhân do tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất mà quy mô lao động khác nhau, ngành sản xuất cần nhiều lao động hơn sẽ dẫn đến nhu cầu về nhà ở sẽ lớn hơn. Các nghiên cứu, thống kê gần đây cho thấy, thực tế phát triển các công trình văn hoá, xã hội, một số thiết chế văn hoá cũng như các công trình xã hội khác ở các KCN, KCX chưa tương xứng với quy mô, tốc độ phát triển các cơ sở sản xuất, các công trình hạ tầng kinh tế-kỹ thuật. ở nhiều KCN tập trung, lượng lượng công nhân tại địa bàn và các tỉnh lân cận tập trung về rất lớn do yêu cầu tuyển dụng ngành nghề. Từ đó hình thành một cách tự phát những “hộ công nhân mới” trong và ngoài các KCN, KCX. Cuộc sống của những cư dân công nghiệp._. này diễn ra với tất cả những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: đi lại, ăn, ở, sinh hoạt vật chất, văn hoá, hôn nhân gia đình. Những nhu cầu thiết yếu đó trên thực tế đã không được đáp ứng một cách đồng bộ, thậm chí ở mức tối thiểu, ngay từ khâu quy hoạch xây dựng và phát triển KCN ở mỗi địa phương. 1.2. Sự cần thiết giải quyết hài hoà giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới 1.2.1. Phát triển công nghiệp gắn với sự hình thành đô thị mới và những mâu thuẫn nảy sinh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam Sau khi chia tách tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương (tháng 1/ 1997), tỉnh Quảng Nam có xuất phát điểm về kinh tế rất thấp, hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp tập trung ở thành phố Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng có giá trị sản xuất công nghiệp - GCĐ 1994 là 16.500 tỷ đồng; tỉnh Quảng Nam chỉ có 516 tỷ đồng). Trước thực trạng này, Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh xác định phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh giai đoạn 1997 - 2005, tập trung mọi nguồn lực để phát triển công nghiệp. Với các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư thoáng mở của tỉnh đã thúc đẩy nhanh sự ra đời 5 khu công nghiệp tập trung và 18 cụm công nghiệp. Khu kinh tế mở Chu Lai (Khu kinh tế mở đầu tiên của cả nước-Bộ Chính trị cho phép làm thí điểm về cơ chế mở, vượt trội) đã có 44 dự án hoạt động và nhiều dự án đăng ký đầu tư; Khu công nghiệp Điện Nam-Điện Ngọc đã có 27 dự án hoạt động trong tổng số 53 dự án được cấp phép. Toàn tỉnh có trên 12.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các huyện, thị xã. Đã khởi công xây dựng thuỷ điện A Vương (công suất 210 MW), Sông Kôn (60 MW), Khe Diên (15 MW), An Điềm II (9 MW), Sông Tranh II (197 MW). Sự phát triển nhanh các khu, cụm công nghiệp góp phần tích cực vào việc tăng trưởng GDP bình quân đạt 10,4%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 26,5% (đến năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.256 tỷ đồng). Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng lên 34%, dịch vụ tăng lên 35% [20]. Sự phát triển nhanh của các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã hình thành các khu đô thị tại Khu đô thị mới Điện Nam-Điện Ngọc (đã quy hoạch và đang triển khai xây dựng, quy mô 2.700 ha), các khu đô thị trong Khu kinh tế mở Chu Lai (Khu đô thị mới Tam Hoà, Tam Phú, quy mô 1.800 ha). Nâng cấp thị xã tỉnh lỵ Tam Kỳ lên thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã Hội An lên đô thị loại 3, các thị trấn Vĩnh Điện, Núi Thành, Khâm Đức, Trà My. Hình thành các khu tái định cư tập trung Tam Hiệp, Tam Quang (huyện Núi Thành), khu tái định cư An Mỹ, An Sơn (thị xã Tam Kỳ) và các khu tái định cư hình thành bên cạnh các cụm công nghiệp. ở miền núi hình thành khu tái định cư của dự án nhà máy thuỷ điện A Vương, Sông Kôn, Sông Tranh II. Những mâu thuẫn nảy sinh, đó là việc giải quyết tái định cư cho các hộ giải toả trắng của các dự án công nghiệp rất thấp, toàn tỉnh đạt tỷ lệ 50,16% (số liệu cuối năm 2005), quỹ đất ở dành cho bố trí tái định cư thiếu và chậm được bổ sung. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của các khu tái định cư tập trung thiếu, không đồng bộ. Quy trình giải quyết, bố trí tái định cư cho các hộ thuộc diện giải toả trắng không được thực hiện một cách nhất quán, công khai, minh bạch. Chưa có kế hoạch cụ thể để đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp mất đất sản xuất; các biện pháp hỗ trợ chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm nhằm ổn định cuộc sống của bộ phận dân cư sau giải toả còn nhiều bất cập. Do việc phát triển nóng của các ngành công nghiệp (tốc độ tăng trưởng bình quân 26,5%/năm, cả nước 15,5%/năm), cho nên dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu, cụm, điểm công nghiệp, làng nghề. Thực tế cho thấy do ý chí chủ quan mong muốn phát triển nhanh về công nghiệp, với việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách thông thoáng, vượt trội để thu hút đầu tư nên trong quá trình phê duyệt các báo cáo đầu tư, công tác thẩm định, đánh giá tác động môi trường được xem nhẹ, hầu hết các dự án đều có đề cập đến đánh giá tác động môi trường (thể hiện trong báo cáo đầu tư và cấp phép đầu tư), nhưng đến giai đoạn triển khai thực hiện dự án đều không triển khai thực hiện, chỉ có một số ít dự án có xử lý chất thải môi trường một cách cục bộ (như nhà máy bia Larger, gạch Đồng Tâm, nhà máy tinh bột sắn,...); đã làm cho nhân dân sống gần các nhà máy khiếu kiện đông người, kéo dài. Trong công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp và làng nghề chưa chú ý đến bố trí không gian cho khu dân cư đô thị để giải quyết các nhu cầu về nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, các khối dịch vụ phục vụ cho các ngành công nghiệp. Trên địa bàn của tỉnh đã hình thành nhiều khu tái định cư, do quá trình phát triển công nghiệp cần phải giải toả trắng mặt bằng. Thế nhưng hầu hết các khu tái định cư của tỉnh đều bộc lộ một số vấn đề bất cập như: Nhà ở bố trí theo kiểu nhà ống, liền kề nhau, không có các công trình vệ sinh, văn hoá, và nhất là không bố trí đất để cho người lao động canh tác; đặc biệt là chưa chú trọng đến phong tục, tập quán, tôn giáo của đồng bào trong diện phải thu hồi đất. Thực tế đã làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về xã hội, an ninh do không đặt vấn đề giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với việc hình thành các khu nhà ở trong quá trình hình thành các khu đô thị mới. 1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của phát triển công nghiệp gắn với hình thành đô thị mới * Thuận lợi: Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, quá trình công nghiệp hoá cũng là quá trình đô thị hoá. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X đã khẳng định quyết sách chính trị của toàn Đảng, toàn dân tập trung phát triển công nghiệp để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đặc biệt, ngày nay do thành qủa của cuộc cách mạng KHCN, công nghệ mới đem lại đã tạo ra khả năng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Theo quy định tại Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 05/01/2006 của Chính phủ về việc ban hành quy chế khu đô thị mới thì khu đô thị mới phải được đầu tư xây dựng một khu đô thị đồng bộ, có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu dân cư và các công trình dịch vụ khác, được phát triển nối tiếp đô thị hiện có hoặc hình thành khu đô thị tách biệt, có ranh giới và chức năng được xác định phù hợp với quy hoạch xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Nhịp độ đô thị hóa phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, nhưng kinh tế hàng hóa chỉ có thể phát triển khi có cơ sở hạ tầng đô thị phát triển. Có thể nói, nếu không có phát triển kinh tế, giao lưu, trao đổi hàng hóa thì không hình thành các khu đô thị mới. Nhịp độ phát triển, tăng trưởng kinh tế có xu hướng tập trung về các đô thị lớn có điều kiện hoạt động kinh tế, dịch vụ và giao lưu văn hóa ngày càng phát triển. Sự phát triển của các khu, cụm công nghiệp sẽ tạo ra nhiều khu dân cư đô thị, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở đó cao hơn mức trung bình trên cùng một địa bàn. Tốc độ phát triển nhanh của các khu, cụm công nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu rất lớn về lao động, như vậy người lao động nhập cư ngày càng nhiều và có tốc độ gia tăng dân số sẽ tạo tiền đề để hình thành khu dân cư đô thị mới. * Khó khăn: Kết cấu cơ sở hạ tầng ở các khu tái định cư, khu nhà ở cho công nhân đầu tư không đồng bộ, chất lượng thấp cũng là những yếu tố tác động đến đầu tư xây dựng các khu đô thị mới. Một trong những yếu tố quan trọng nữa vừa tác động đến đầu tư xây dựng các khu đô thị mới đó là các chính sách của Nhà nước như chính sách về quy hoạch xây dựng, chính sách về đất đai, chính sách về tài chính, về nguồn lực cho đầu tư phát triển. Những năm 90 của thế kỷ XX chúng ta cũng đã tạo điều kiện về cơ chế, chính sách trong khuyến khích đầu tư, kêu gọi đầu tư xây dựng các khu đô thị mới bằng việc giao đất cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp tự huy động vốn, vay vốn, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để đầu tư xây dựng các khu đô thị mới đồng bộ theo quy hoạch. Tuy nhiên, qua từng thời kỳ cũng có những vấn đề được đánh giá, xem xét về mục tiêu, hiệu quả của sự phát triển các khu đô thị mới. ở đây chúng tôi chỉ muốn nói rằng một trong những yếu tố quan trọng tác động đến đầu tư xây dựng các khu đô thị mới đó là cơ chế, chính sách của Nhà nước. Nhà nước hoạch định chính sách cho sự phát triển đô thị tốt thì chúng ta sẽ có những khu đô thị mới văn minh, hiện đại; đồng thời giải quyết hài hoà mối quan hệ với cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp. Hiện nay, có hàng trăm KCN đã đi vào hoạt động ở hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước. Bên cạnh những mặt tích cực mà các KCN mang lại thì vấn đề bức xúc, phức tạp mà nhiều năm qua chưa được quan tâm giải quyết là nhà ở cho CNLĐ. Các KCN tập trung đều thiếu nhà ở cho công nhân vì số lượng tăng nhanh, nhưng trong quy hoạch phát triển các KCN chưa tính đến yêu cầu về chỗ ở cho người lao động. Theo kế hoạch đến năm 2010, các KCN tập trung sẽ thu hút 70 - 80 vạn lao động, nhưng chỉ mới có khoảng 20% tổng số CNLĐ có chỗ ở ổn định, số còn lại vẫn chưa có nơi ở, hoặc phải thuê các nhà trọ tư nhân với giá bình quân từ 50.000 - 150.000 đồng/tháng, diện tích sử dụng chật hẹp từ 2 - 3 m2/người. Chỉ có khoảng 2% số công nhân được ở trong các nhà trọ do các doanh nghiệp sử dụng lao động và tổ chức đoàn thể đầu tư xây dựng. Người lao động ở các KCN phần lớn là lao động ngoại tỉnh, đời sống khó khăn, thu nhập thấp, chỗ ở không có phải đi thuê mướn. Trong khi đó, nhà trọ phần lớn là do người dân tự xây dựng, không đảm bảo các điều kiện sống tối thiểu về vệ sinh, điện, nước, nhếch nhác,... Từ vấn đề về dân số đến các vấn đề xã hội khác như công ăn việc làm, cơ hội tạo lập việc làm, giải quyết việc làm ở các đô thị nhỏ và nông thôn có nhiều khó khăn hơn do sức sản xuất hàng hóa và dịch vụ kém hấp dẫn hơn. Mặt khác dân số đô thị tăng nhanh và đời sống của người dân được cải thiện dẫn đến nhu cầu về nhà ở là rất lớn, nhà ở trong đô thị cũ đang thiếu hụt về số lượng, kém về chất lượng kiến trúc và xây dựng. Tình trạng cơi nới, chắp vá, manh mún làm ảnh hưởng đến cảnh quan kiến trúc, gây ô nhiễm môi trường, thậm chí xây dựng cơi nới, đè lấp lên cả các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật. 1.2.3. Thực chất của mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới trong quá trình phát triển Xã hội trước công nghiệp hoá là xã hội nông nghiệp. Đặc điểm của xã hội nông nghiệp là sản xuất tiểu nông, tái sản xuất giản đơn, tích luỹ ít. Trình độ sản xuất thường duy trì sự lao động ở mức thấp nhất của đời sống con người, không có khả năng tích luỹ để mở rộng tái sản xuất. Lúc ấy cũng có đô thị, nhưng đô thị rất hẹp không phát triển, hoặc lúc phát triển lúc ngừng trệ, rất dao động và luôn lặp lại. Nguyên nhân là lực lượng sản xuất xã hội thấp kém và trong thời gian dài không được nâng cao. Nhưng từ khi bắt đầu đô thị hoá, tình hình khác hẳn. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp đòi hỏi nguồn lao động tập trung, đặc điểm của tái sản xuất mở rộng đòi hỏi sự tập trung này không ngừng mở rộng, hình thức của đô thị phát triển theo, kinh tế đô thị lấy công nghiệp là chủ thể được hình thành sớm nhất. Tỷ lệ đô thị hoá các khu vực và các nước trên thế giới có quan hệ tỷ lệ thuận khá ổn định với tỷ trọng dân số lao động công nghiệp trong tổng dân số lao động. Có thể thấy rằng, mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và đô thị hoá là tỷ trọng dân số lao động công nghiệp tăng lên 1% có thể làm cho dân số đô thị tăng lên 1,8%. Tỷ lệ đô thị hoá tăng nhanh hơn tỷ trọng dân số công nghiệp, chủ yếu do sự phát triển công nghiệp đã kéo theo một số ngành nghề phi nông nghiệp, chủ yếu là sự phát triển tương ứng của ngành sản xuất thứ ba. Cho nên, quan hệ tỷ lệ này tương đối ổn định trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá và đô thị hoá, nhưng bước vào thời kỳ giữa và sau này thì tương đối rời rạc [13, tr.105]. Quan hệ công nghiệp hoá và đô thị hoá còn có thể thấy rõ mối quan hệ giữa sản lượng công nghiệp và đô thị hoá. Tức chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trưởng, chỉ số dân số đô thị tất yếu tăng lên tương ứng. Điều khác nhau là tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng dân số đô thị, nguyên nhân chủ yếu là năng suất lao động công nghiệp bình quân đầu người được nâng cao nhanh hơn nhiều. Hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình nông nghiệp thoát khỏi kinh tế tiểu nông được trang bị kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy năng suất nông nghiệp không ngừng nâng cao, dân số nông nghiệp không ngừng dư thừa, và thúc đẩy quá trình lịch sử dân số nông nghiệp không ngừng chuyển biến thành dân số công nghiệp và dân số đô thị. Nếu nói công nghiệp hoá là căn cứ bên trong của đô thị hoá thì hiện đại hoá nông nghiệp là điều kiện bên ngoài chủ yếu của đô thị hoá. Năng suất lao động nông nghiệp ngày càng nâng cao, dân số quá thừa của nông nghiệp tất nhiên dần dần di chuyển vào đô thị. Cũng có thể nói, dân số đô thị tăng lên và dân số nông nghiệp giảm đi là hai mặt của một vấn đề. Sự phát triển kinh tế đô thị không chỉ tuỳ thuộc sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, mà còn tuỳ thuộc vào sự phát triển của các ngành dịch vụ. Sự phát triển chung của ba ngành sản xuất hình thành thực thể kinh tế tổng hợp thúc đẩy đô thị phát triển. Sự thực hiện kinh tế tổng hợp này vừa tồn tại trong nội bộ đô thị, vừa tồn tại ở bên ngoài đô thị, mức độ phát triển của nó nói chung, có thể biểu thị bằng tổng giá trị sản phẩm quốc dân bình quân đầu người. Đô thị là điểm của khu vực nhất định, sự phát triển của nó có quan hệ trực tiếp với thực lực tổng hợp kinh tế của khu vực nhất định. Đương nhiên, hai bên cũng là quá trình tác động lẫn nhau: Kinh tế khu vực phát triển có thể thúc đẩy kinh tế đô thị phát triển và ngược lại. Đối với nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá thì vấn đề phát triển đô thị là một trong những vấn đề trung tâm, quyết định sự phát triển của đất nước. Nếu hôm nay không nhận thức rõ để giải quyết đúng vấn đề này thì ngày mai sẽ phải trả giá, và khó nói đến thành công thật sự của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Trước hết, xem xét mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới là vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà có sự tập trung sản xuất công nghiệp và thương mại. Nhu cầu sản xuất công nghiệp và thương mại đòi hỏi tập trung dân cư, khoa học, văn hoá, thông tin ngày càng tăng. Những điều kiện đáp ứng đó là sự phát triển kết cấu hạ tầng, nhà ở, các dịch vụ cho sản xuất và đời sống dân cư đô thị. Trong điều kiện tập trung phát triển sản xuất công nghiệp và dân cư tạo ra lợi thế về kinh tế cho đô thị. Có thể khẳng định mức độ tăng trưởng của một quốc gia thường phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế ở các đô thị. Trong khi đó GDP đầu người đô thị thường cao hơn 3 đến 5 lần GDP bình quân đầu người của cả nước và cao hơn nhiều lần so với nông thôn. Mức tăng trưởng kinh tế không thể diễn ra đồng đều ở mọi nơi, thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ có ở các trung tâm đô thị của một vùng, với sự phát triển của các ngành công nghiệp có sức lan toả, những trung tâm đô thị ấy là những cực tăng trưởng kinh tế. Như vậy, mối quan hệ giữa phát triển đô thị lấy tăng trưởng kinh tế bền vững làm trọng tâm, một mặt coi các tổ hợp công nghiệp đóng vai trò động lực của sự phát triển đô thị; mặt khác coi đáp ứng nhu cầu bên ngoài là cơ sở kinh tế chủ yếu của sự phát triển đô thị. Tuy nhiên lấy tăng trưởng làm trọng tâm và chỉ chú ý đến yêu cầu xã hội phục vụ cho tăng trưởng sẽ làm cho đô thị phát triển phiến diện. Quá trình phát triển đô thị lấy tăng trưởng kinh tế làm trọng tâm cũng đem lại một số tiến bộ về mặt xã hội. Thứ hai là mối quan hệ này thể hiện ở chiến lược phát triển đô thị trong các quốc gia công nghiệp hay quốc gia đang tiến hành công nghiệp hoá đất nước đều đứng trước vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và con người, phát triển đô thị lấy con người làm trung tâm. Trước đây, phát triển lấy tăng trưởng làm trọng tâm, nghĩa là đặt mục tiêu tăng trưởng ở con người, coi con người là phương tiện của tăng trưởng. Ngày nay, muốn thoát ra khỏi cuộc “khủng hoảng xã hội đô thị” thì phải lấy chất lượng cuộc sống của dân chúng làm mục tiêu của sự phát triển. Thứ ba là giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với sự hình thành đô thị mới, tập trung làm tốt công tác quy hoạch phát triển các khu công nghiệp đặt trong quy hoạch chung phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, vùng và cả nước, trong đó chú trọng đến quy hoạch hình thành các khu đô thị mới. Xây dựng các khu đô thị mới là xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng đô thị bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật gồm: Hệ thống giao thông gồm đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không; đường bộ bao gồm các loại đường phố: đường chính (bề rộng từ 70 đến 80 mét), đường liên khu vực (rộng từ 50 đến 60 mét), đường khu vực (rộng từ 35 đến 50 mét), đường phân khu vực (rộng từ 25 đến 35 mét), đường nhánh (rộng từ 15 đến 20 mét) và đường vào nhà. Hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính viễn thông, truyền hình cáp. Hệ thống cung cấp năng lượng; điện chất đốt, nhiệt sưởi ấm. Hệ thống chiếu sáng công cộng. Hệ thống cấp nước và hệ thống thoát nước. Hệ thống quản lý các chất thải, đảm bảo vệ sinh môi trường. Kết cấu hạ tầng xã hội gồm: Nhà ở, các công trình phục vụ, công sở, công trình y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao, thương mại, dịch vụ công cộng, cây xanh, công viên, mặt nước, sông hồ. 1.3. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở một số tỉnh, thành phố và ở một số nước trên thế giới 1.3.1. Kinh nghiệm ở một số tỉnh, thành phố * Tỉnh Bình Dương: Tỉnh Bình Dương bước vào xây dựng và phát triển khu công nghiệp ở những điểm xuất phát thấp và cũng là một tỉnh thuần nông, gần như chưa có cơ sở hạ tầng về công nghiệp. Thực tiễn đó bắt buộc tỉnh Bình Dương phải có bước đột phá trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố khách quan và chủ quan trong các chiến lược phát triển. Khi khởi lập sự nghiệp công nghiệp hoá, tỉnh Bình Dương quy hoạch dải đất Thuận An, Dĩ An nằm ở phía Bắc quốc lộ 1A được coi như ngoại vi thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Biên Hoà là điểm thu hút các nhà đầu tư. Vạn sự khởi đầu nan, bài học thành công của Khu công nghiệp Sóng Thần có tác dụng như một dấu ấn tạo lòng tin, mở màn để Đảng bộ và nhân dân Bình Dương bước vào thời kỳ công nghiệp hoá. Từ những điểm khởi mốc đầu tiên tại Khu công nghiệp Sóng Thần, từ tháng 9 năm 1995 đến thời điểm năm 2005, Bình Dương đã có 12 khu công nghiệp tập trung, với tổng diện tích 2.431 ha và 23 cụm công nghiệp, diện tích 3.573 ha; đã có 2.754 dự án đầu tư trong nước, tổng số vốn hơn 11 nghìn tỷ đồng và 871 dự án đầu tư nước ngoài 4,1 tỷ USD đã lấp đầy diện tích hơn 80%, nhiều khu công nghiệp lấp đầy 95% diện tích. Có 30 quốc gia vùng lãnh thổ đầu tư vào Bình Dương với các ngành nghề dệt may, da giày, chế biến thuỷ hải sản, gỗ, xe đạp, phụ liệu may, vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử điện lạnh,... Đã có 434 doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đi vào hoạt động có doanh thu và hàng năm đều tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt 45 nghìn tỷ đồng, tỷ trọng công nghiệp trong GDP chiếm 82%. Số dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép ở Bình Dương đứng thứ 2 sau thành phố Hồ Chí Minh. Dân số thành thị từ 19,9% năm 1996 tăng lên 29,8% năm 2001 và đến năm 2005 gần 42%, trong đó có các huyện trọng điểm về phát triển công nghiệp, dân số thành thị chiếm gần 60% như Thuận An, Dĩ An. So sánh với tỷ lệ chung của cả nước, tốc độ đô thị hoá của Bình Dương thuộc loại cao nhất nước, chủ yếu do quá trình di dân nông thôn-đô thị, đô thị-đô thị đem lại. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương cho thấy: Việc hình thành và phát triển khu công nghiệp là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của Bình Dương. Sự hình thành và phát triển lớn mạnh các mô hình khu công nghiệp trong tỉnh cũng đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả kinh tế do khu công nghiệp mang lại, vấn đề văn hoá xã hội cũng cần được tỉnh và các ngành hữu quan và các cấp chính quyền quan tâm để phát triển đồng bộ. Chính vì lý do thiết thực ấy mà những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phải đi liền với văn hoá, yêu cầu phát triển bền vững là thực sự cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. * Tỉnh Đồng Nai: Nằm ở trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp các tỉnh Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai có hệ thống giao thông thuỷ bộ, đường sắt nối liền với các địa phương khác trong cả nước, có vị trí quan trọng trong sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gắn kết với vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên. Với vị trí này, tỉnh đã tận dụng được những lợi thế so sánh của vùng và của tỉnh trong công cuộc đổi mới và đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhất là trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay. Theo kết quả thống kê của tỉnh có 607.128 người sống ở thành thị hay là 30,5% cư dân sống tại các đô thị, cao hơn mức bình quân chung của cả nước (23,5%); cụ thể: năm 2000 dân số 2,044 triệu người, năm 2005 dân số 2,215 triệu người. Dân số đô thị của tỉnh tăng nhanh, tốc độ bình quân 2,78% trong 7 năm gần đây. Đồng Nai có hơn 350 dự án đầu tư trực tiếp từ 24 quốc gia, vùng lãnh thổ với vốn đầu tư hơn 5 tỷ USD, đứng thứ 3 sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hầu hết các dự án đầu tư tại Đồng Nai là 100% vốn nước ngoài (281 dự án), liên doanh (68 dự án), hợp đồng hợp tác kinh doanh (2 dự án). Các dự án đầu tư nước ngoài tại Đồng Nai chủ yếu là công nghiệp và xây dựng (96,4%), dịch vụ thương mại (2,6%), nông nghiệp và lâm nghiệp (1%). Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ 26% cơ cấu kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 92%, giá trị sản lượng công nghiệp 63%, ngân sách 21% và tiếp nhận 113.000 lao động. Trong quy hoạch của tỉnh, sẽ hình thành 18 khu công nghiệp với 7.826 ha. Đời sống vật chất của nhân dân trong tỉnh đã được cải thiện rõ rệt. Mức GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đã tăng từ 755 nghìn đồng năm 1990 lên gần 3,7 triệu đồng năm 1995, 6,7 triệu đồng năm 2000 và gần 10 triệu đồng năm 2005. Nhờ tăng mức sống, điều kiện về nhà ở đã được cải thiện rõ rệt, 80% là nhà kiên cố, bán kiên cố hoặc nhà khung gỗ lâu bền, tương đương với mức bình quân của Đông Nam Bộ và cải thiện mức bình quân chung cả nước (có tới 25% hộ dân sống trong các khu nhà ở thô sơ). Hiện có gần 50% số hộ có diện tích nhà ở bình quân đầu người trên 10m2 (ngang Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh), 80% số hộ đã có điện sử dụng, đạt mục tiêu đề ra. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai: Công tác quy hoạch được tỉnh quan tâm đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu, tập trung giải quyết được mối quan hệ giữa việc quy hoạch các khu công nghiệp gắn với bố trí không gian xây dựng các khu đô thị mới, cho nên tốc độ đô thị hoá tương đối nhanh. * Tỉnh Quảng Ngãi: Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, tỉnh Quảng Ngãi đã có chiến lược phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật của Khu kinh tế Dung Quất, Khu công nghiệp Tịnh Phong, 19 cụm công nghiệp và một số làng nghề truyền thống. Tỉnh xác định Khu kinh tế Dung Quất là điểm kích nổ về phát triển công nghiệp của cả tỉnh. Khu kinh tế Dung Quất được Chính phủ quyết định ngày 21 tháng 3 năm 2005, trên cơ sở đổi tên và tăng thêm nhiệm vụ của Khu công nghiệp Dung Quất. Khu kinh tế này có quy mô 10.300 ha, đã hoàn thành các quy hoạch chi tiết khu công nghiệp ở phía Đông, khu công nghiệp phía Tây; hệ thống cảng Dung Quất: bao gồm cảng chuyên dùng cho dầu khí, đóng tàu, luyện thép; cảng tổng hợp container; cảng thương mại gắn với khu bảo thuế và các dịch vụ hậu cần cảng,... Hoàn thành quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết khu dân cư và chuyên gia nhà máy lọc dầu, khu trung tâm phía Bắc Vạn Tường, khu du lịch sinh thái biển và khu trung tâm phía Nam Vạn Tường. Quy hoạch tổng thể môi trường và quy hoạch tổ chức bố trí dân cư trong Khu kinh tế Dung Quất. Hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Khu kinh tế Dung Quất. Đã cơ bản hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật - xã hội (giai đoạn 1) gồm: Giao thông trục chính, điện, thông tin liên lạc, cấp nước, cảng chuyên dùng, hạ tầng phân khu công nghiệp, các khu dân cư, trường đào tạo nghề, trung tâm quan trắc giám sát môi trường. Đang triển khai xây dựng một số công trình và hoàn thiện khu chuyên gia, trung tâm văn hoá thể thao, bệnh viện Dung Quất, trạm thu phát sóng truyền hình và khu du lịch dịch vụ,...Cảng nước sâu Dung Quất với bến chuyên dùng số 1 dầu khí đã đầu tư và đưa vào khai thác từ năm 2003, đáp ứng cho tàu 20.000 DWT cập cảng. Tính từ năm 1997 đến cuối năm 2005, đã thực hiện được 164 phương án đền bù thiệt hại tái định cư để giải phóng mặt bằng, với tổng kinh phí đền bù, hỗ trợ là 194,4 tỷ đồng. Tổ chức di chuyển 1.611 hộ dân/6.483 nhân khẩu ra khỏi mặt bằng cần giải toả đến các khu tái định cư. Từ năm 1996 - 2000, đã xây dựng 4 khu tái định cư có quy mô 821 hộ dân với tổng kinh phí đầu tư 39,516 tỷ đồng; từ năm 2001 - 2005, xây dựng 8 khu tái định cư có quy mô tái định cư cho 1.762 hộ, với tổng số vốn đầu tư 67,677 tỷ đồng. Đến nay, Khu kinh tế Dung Quất đã có 94 dự án đầu tư được cấp phép, với tổng số vốn là 3,4 tỷ USD (tính cả dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất); trong đó có 30 dự án đã đi vào hoạt động. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ngãi: Tỉnh tập trung cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư tạo ra mặt bằng thuận lợi cho các nhà đầu tư. ưu tiên các nguồn vốn đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ cho các khu công nghiệp và khu dân cư đô thị. Triển khai đồng bộ công tác quy hoạch giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với việc xây dựng các khu tái định cư góp phần hình thành các đô thị mới. Tốc độ đô thị hoá trong Khu kinh tế Dung Quất rất nhanh và bền vững. * Thành phố Hà Nội: Mục tiêu của xây dựng phát triển đô thị là tạo lập môi trường sống an toàn, vệ sinh và tiện nghi cho con người trong việc tổ chức không gian, phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng đô thị hiện tại; sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn lực (vốn, đất đai, tài nguyên khác); đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Mục tiêu của xây dựng phát triển đô thị là nhằm từng bước xây dựng, hoàn chỉnh đô thị của Thành phố Hà Nội, góp phần xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị cả nước, có cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật hiện đại, môi trường đô thị trong sạch, được phân bố và phát triển hợp lý, đảm bảo mỗi đô thị, theo vị trí chức năng của mình, phát huy được đầy đủ các lợi thế, thế mạnh, góp phần thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Đặc điểm của xây dựng các khu đô thị mới phải đồng bộ, hiện đại, phát triển bền vững và trường tồn, tập trung vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người và bảo vệ môi trường sinh thái, vừa đảm bảo tăng trưởng, phát triển bền vững, vừa phát huy được các giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc. Kinh nghiệm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với việc xây dựng các khu đô thị mới ở Thủ đô Hà Nội cho thấy: - Hình thành và phát triển các khu đô thị mới phải phù hợp với sự phân bố và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tập trung xây dựng cơ sở kinh tế kỹ thuật vững chắc làm động lực phát triển cho từng đô thị. - Bố trí hợp lý các đô thị lớn, trung bình và nhỏ, tạo ra sự phát triển cân đối giữa các vùng và lãnh thổ, kết hợp với việc đẩy mạnh đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới. - Xây dựng các khu đô thị mới phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. - Phát triển đô thị phải có cơ sở hạ tầng đồng bộ với trình độ thích hợp hoặc hiện đại, tùy thuộc vào yêu cầu khai thác và sử dụng các khu vực trong đô thị. - Hình thành và phát triển đô thị phải trên cơ sở tổ chức hợp lý môi sinh và bảo vệ môi trường. - Kết hợp cải tạo với xây dựng mới, coi trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc với việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới để tiến đến hiện đại. - Phát huy đô thị đồng thời phải củng cố an ninh, quốc phòng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo ổn định. - Huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn để cải tạo, xây dựng và phát triển đô thị mới, tăng cường giữ gìn trật tự kỷ cương, tăng cường kiểm soát, giám sát sự phát triển đô thị theo đúng quy hoạch và pháp luật. - Di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp ô nhiễm môi trường ra khỏi nội thành. - ưu tiên cho các ngành công nghiệp có công nghệ cao, công nghiệp sạch đầu tư ở những vị trí thuận lợi trong thành phố. 1.3.2. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới Một trong những điểm nổi bật hiện nay trên thế giới là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Việc phát triển kinh tế gắn liền với phát triển đô thị và đô thị hóa kèm theo là sự tăng nhanh dân số trong đô thị. Nếu như năm 1950 dân số đô thị mới chỉ có 29,3%, đến năm 1994 dân số đô thị là 44,8%, năm 1984 tăng lên 1,5% lần và dự báo đến năm 2025 dân số sống trong đô thị sẽ là 61,65%, tương đương 5 tỷ người trên trái đất [13]. Đối với các nước đang phát triển, có khoảng 3/4 dân số hiện đang sống ở các vùng đô thị và dự tính đến năm 2025 sẽ lên tới 4/5 dân số sống trong đô thị. Các nước phát triển ở khu vực châu á, châu Phi, dân số sống tại đô thị hiện nay khoảng 33,9%, dự báo đến năm 2025 sẽ tăng lên 43,5%. Đồng thời với việc phát triển đô thị thì quy mô của các đô thị cũng được mở rộng, xu hướng tập trung về các đô thị lớn có điều kiện hoạt động kinh tế, dịch vụ và giao lưu văn hóa ngày càng nhanh. Năm 1950, cả thế giới chỉ có 2 thành phố New York và London có dân số ở hơn mức 8 triệu người; đến năm 1980 đã có 17 thành phố, dự tính đến năm 2006 có 26 thành phố trên 8 triệu dân, trong đó có 16 thành phố thuộc các nước đang phát triển. Điều đó cũng cho thấy rằng để tăng trưởng, phát triển k._. động giữa đô thị và nông thôn. Để hạn chế sự phát triển mất cân đối của thành phố Tam Kỳ, đô thị trung tâm vùng (khống chế ở ngưỡng 550.000 dân), giải toả sự tập trung quá tải vào đô thị trung tâm, có các biện pháp sau: - Thiết lập các đô thị vệ tinh như: Trung tâm Tam Đàn, Tam Anh, Tam Xuân 1, Phú Ninh bao quanh thành phố Tam Kỳ-đô thị trung tâm, tạo thành các cực phát triển đối trọng. - Phát triển chuỗi đô thị phía Đông trung tâm Tam Kỳ để thu hút sản xuất và dân cư, giải toả cho đô thị trung tâm. - Các trung tâm dịch vụ công cộng có thể bố trí trong các đô thị vệ tinh nằm trên các trục giao thông dẫn vào đô thị trung tâm vùng, đất đai giữa các trục giao thông dẫn vào các tổ hợp dân cư sẽ dành cho sản xuất nông nghiệp, thể thao và nghỉ ngơi. Chuỗi đô thị hành lang quốc lộ 1A và dải ven biển: Với địa bàn lãnh thổ trải dài theo hướng Bắc-Nam và Đông Tây, dân cư sinh sống tập trung theo dải đất liền ven biển, dọc theo trục giao thông quốc lộ 1A, do vậy các đô thị cũ và mới dự kiến phát triển, được phân bố trên cơ sở các tuyến giao thông trọng yếu quốc lộ 1A, tỉnh lộ ĐT 607, đường ven biển. - Dọc theo quốc lộ 1A là các điểm đô thị: Vĩnh Điện, Nam Phước, Hà Lam. - Dọc theo tỉnh lộ ĐT 607A là đô thị: Điện Nam-Điện Ngọc nối liền đô thị Hội An. - Dọc theo đường du lịch ven biển là các đô thị, khu du lịch. Đô thị trung tâm vùng huyện: Hình thành đô thị trung tâm của một số huyện để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo hạt nhân vùng huyện thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của một số huyện xa trung tâm kinh tế lớn của tỉnh. - Về phía Tây, xây dựng và phát triển đô thị Khâm Đức với vai trò là trung tâm vùng phía Tây của tỉnh. - Về phía Bắc, xây dựng và phát triển đô thị Điện Nam-Điện Ngọc gắn kết với Vĩnh Điện là trung tâm vùng huyện phía Bắc của tỉnh. Thành phố Tam Kỳ phát triển, mở rộng về phía biển với sự hình thành Khu KTM Chu Lai, bên cạnh đó thành phố Tam Kỳ cũng được tiếp tục mở rộng về phía khu vực phường An Phú, hướng phát triển mở rộng chính là giáo dục-y tế-tài chính và các khu dân cư. Hình thành 2 khu vực đô thị chính là: Khu đô thị trung tâm, Khu du lịch sinh thái ven biển. Phú Ninh hình thành và phát triển, mở rộng tại phía Tây quốc lộ 1A, hình thành các khu công nghiệp, dịch vụ, đào tạo và cung cấp nông sản cho Tam Kỳ. Phải đảm bảo hành lang thoát lũ sông Tam Kỳ, Hồ Phú Ninh khi xây dựng các khu đô thị. Cơ cấu quy hoạch xây dựng đô thị phải dựa trên quy mô phát triển công nghiệp-dịch vụ để xác định quy mô các khu chức năng, đặc biệt là các khu ở và hệ thống cây xanh để đảm bảo cân bằng môi trường của vùng công nghiệp. Đối với vùng hành lang quốc lộ 1A và dải ven biển: Dựa trên khả năng phát triển các cụm công nghiệp, tập trung và công nghiệp chế biến nông sản địa phương, các dịch vụ trên trục quốc lộ 1A, cơ cấu quy hoạch đô thị chú trọng hình thành các trung tâm dịch vụ giao thông, chế biến và mua bán sản phẩm nông nghiệp và các điểm dịch vụ du lịch trong vùng. Đối với vùng trung du và miền núi: Cơ cấu quy hoạch đô thị chú trọng hình thành các trung tâm cụm xã, dịch vụ chế biến và mua bán nông lâm sản. Mô hình cơ cấu quy hoạch các khu dân cư nông thôn: Đối với vùng thành phố Tam Kỳ-khu vực phụ cận và hành lang cao tốc Liên Chiểu-Dung Quất: Cơ cấu quy hoạch dựa trên đặc thù của vùng kinh tế công nghiệp, khả năng đô thị hoá cao, phát triển các điểm dân cư tập trung quy mô lớn và các trung tâm dịch vụ tập trung. Đối với hai vùng còn lại: Khả năng đô thị hoá thấp, cơ cấu hình thành dựa vào các đường giao thông, phát triển thành dạng tuyến. Xác định tính chất, quy mô và vị trí các điểm dân cư mới cần bảo đảm phù hợp với địa bàn sản xuất. Những điểm dân cư này được quy hoạch xây dựng ngay từ đầu, hợp thành mạng lưới điểm dân cư tồn tại tương đối lâu dài trên lãnh thổ huyện, tỉnh. Tổ chức hệ thống trung tâm phục vụ công cộng: + Trung tâm phục vụ cơ sở. + Trung tâm phục vụ liên xã. + Trung tâm phục vụ toàn huyện. Phát triển kiến trúc và cảnh quan: - Vùng di sản văn hoá lịch sử, kiến trúc và các vùng cảnh quan có giá trị trên địa bàn toàn tỉnh để có chính sách bảo vệ và khai thác. + Vùng di sản văn hoá lịch sử, kiến trúc có giá trị tập trung tại khu vực trung tâm Hội An. + Vùng di sản Mỹ Sơn. Khi tiến hành quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị cần lưu ý đến các di tích để có các giải pháp bảo vệ, tránh xâm phạm, phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử, vai trò đóng góp phát triển du lịch. Một số di tích, phế tích rải rác tại Điện Bàn, Tam Kỳ, Núi Thành khác đề nghị xếp hạng cấp quốc gia và trùng tu phục dựng, vì thế khi lập quy hoạch xây dựng đô thị cũng nên dự trù khả năng phát triển của chúng, phục vụ du lịch và quản lý văn hoá trong tương lai. - Kiến trúc đô thị và nông thôn phát triển đồng nhất trong hệ thống chung, đồng thời gắn bó phù hợp với thiên nhiên và khung cảnh văn hoá và kiến trúc truyền thống đặc thù của từng vùng trong tỉnh. - Đối với các đô thị lớn, cải tạo và xây mới theo hướng tập trung và hiện đại, chú trọng phát triển các vùng cảnh quan trong đô thị và kiến trúc các khu công nghiệp tập trung. - Đối với đô thị nhỏ, phát triển kiến trúc thấp tầng và mật độ xây dựng thấp, song tránh phân tán để nhanh chóng hành thành rõ nét bộ mặt không gian đô thị. - Phát triển các mô hình khu ở cho công nhân bên cạnh các khu công nghiệp, gắn kết với không gian đô thị và không gian sản xuất công nghiệp. - Phát triển mô hình các điểm dân cư dịch vụ du lịch. - Kiến trúc nông thôn phù hợp với đặc thù về địa lý, dân tộc và mô hình sản xuất của từng vùng, khuyến khích xây dựng nhà ở kiên cố. 3.2.2. Khéo vận dụng, kết hợp cơ chế chính sách của Trung ương và của tỉnh để phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới - Quan điểm phát triển: Công nghiệp có vai trò động lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Việc dự báo sự hình thành và phát triển các cơ sở công nghiệp trên phạm vi toàn tỉnh được dựa trên các quan điểm: Phát triển công nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu. Đặc biệt phát triển công nghiệp tiểu thủ, công nghiệp chế biến thực phẩm, nông lâm sản để đáp ứng những yêu cầu cần thiết tạo khả năng tự chủ của nền kinh tế. Phát triển và phân bố những ngành công nghiệp nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên, đồng thời cả trước mắt và lâu dài phải ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều, tiến tới sử dụng hết lao động. Coi trọng phát triển và phân bố công nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, tránh tập trung quá mức dân cư vào đô thị, hình thành các đô thị vừa và nhỏ, các đô thị vệ tinh cho đô thị Tam Kỳ, Hội An và các đô thị huyện lỵ khác của tỉnh. - Phát triển công nghiệp phải góp phần quyết định vào phát triển dần dần đồng đều giữa các vùng. Kết hợp hợp lý phát triển nhanh những vùng trọng điểm để tạo động lực với việc tạo điều kiện và hỗ trợ cần thiết cho các vùng khác cùng phát triển. - Phát triển công nghiệp phải gắn liền với phát triển nông nghiệp, nông thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao giá trị sản phẩm nguyên liệu, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, gắn với phát triển kết cấu hạ tầng và an ninh quốc phòng. Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến ở các khu vực còn ít công nghiệp, đặc biệt tạo các điểm công nghiệp nhỏ ở nông thôn sơ chế nguyên liệu để cung cấp cho công nghiệp tinh chế. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng có thể phân bố rộng khắp ở các khu và điểm công nghiệp, các đô thị và cả ở các khu vực nông thôn, tuỳ theo từng mặt hàng sử dụng nguồn nguyên liệu, lao động và gắn với thị trường tiêu thụ, đảm bảo hiệu quả kinh tế-xã hội cao. - Phát triển ngành công nghiệp của tỉnh phù hợp với phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế-xã hội Vùng KTTĐMT đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/08/2004, nhằm phát huy tiềm năng, vị trí địa lý và lợi thế so sánh của vùng. Điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp phù hợp với Quy hoạch mạng lưới đô thị của tỉnh. Tiến hành quản lý tốt công tác quy hoạch và triển khai thực hiện quy hoạch với lộ trình khoa học, hợp lý. Trong công tác quy hoạch cần lưu ý, quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp cách xa trục đường lớn ít nhất 1 km trở lên và nhất thiết phải cách biệt các khu dân cư, trường học, bệnh viện, khu văn hoá, di tích lịch sử...Làm được như vậy, xét về lâu dài sẽ không gây hậu quả xấu; không phải di dời, vừa tốn kém vừa ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất-kinh doanh của các nhà đầu tư nói chung. - Về cơ cấu kinh tế ngành nghề và phân bố các cơ sở sản xuất công nghiệp: Cần nhanh chóng xây dựng mô hình công nghiệp 3 tầng trong mối tác động đẩy kéo. Đẩy mạnh phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp sử dụng nhiều lao động ở khu vực nông thôn với công nghệ phù hợp làm vệ tinh cung cấp nguyên liệu, bán thành phẩm cho ngành công nghiệp cấp tỉnh. Phát triển các làng nghề để giải quyết lao động tại chỗ theo phương châm “ly nông bất ly hương”, “Nhập xưởng bất nhập thành”, cần nhanh chóng thu hút đầu tư các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm tại các khu, cụm, điểm công nghiệp và làng nghề; gắn việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ với du lịch để xuất khẩu trực tiếp, xem du lịch là thế mạnh, tiềm năng lớn, là cơ hội gắn với việc khôi phục và phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, mỗi làng nghề truyền thống là sản phẩm du lịch của địa phương. - Phát triển các đô thị theo quy hoạch mạng lưới đô thị của tỉnh. Có cơ chế chính sách thu hút các nhà đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong các khu công nghiệp, khu đô thị mới. 3.2.3. Giải quyết đồng bộ về hạ tầng kinh tế - kỹ thuật để phát triển công nghiệp sự hình thành đô thị mới * Công tác quy hoạch đồng bộ: - Quy hoạch mạng lưới đô thị, đảm bảo mục tiêu phát triển hệ thống đô thị bền vững, gắn khu vực đô thị với khu vực nông thôn tạo mối quan hệ thúc đẩy, biến đô thị thành hạt nhân, động lực mạnh thực hiện công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn. Qui hoạch xây dựng thị trấn, thị tứ tạo ra các trung tâm kinh tế, thương mại cho huyện, thị xã, liên xã, xã, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông-lâm-thủy sản ở khu vực nông thôn. - Trên cơ sở quy hoạch mạng lưới cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ nhằm tạo mặt bằng, giải quyết những vấn đề bức xúc trong việc đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh. Phát triển có hệ thống, trật tự và bền vững sản xuất công nghiệp, tạo điều kiện cho địa phương lập quy hoạch chi tiết và tổ chức không gian bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ và các ngành nghề ở nông thôn đang nằm rải rác trong đô thị, thị trấn, thị tứ, làng, xóm như hiện nay vào các cụm công nghiệp, đồng thời vận động thu hút đầu tư để phát triển công nghiệp. - Bố trí lại không gian về kinh tế, nhất là khu vực nông thôn, quy hoạch và phân bổ lực lượng sản xuất theo hướng cơ cấu lại các tiểu vùng hợp lý để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo mục tiêu đề ra. Đặc biệt tập trung hoàn thiện quy hoạch và triển khai thực hiện các trọng điểm kinh tế: Khu KTMCL, các KCN, trung tâm thương mại, đô thị trung tâm để tạo sự lan tỏa. - Quy hoạch vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông-lâm-thủy sản là một trong những nội dung ưu tiên trong quá trình phát triển công nghiệp, tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đất đai, lao động và giải quyết việc làm. Do vậy, công tác quy hoạch cần chú trọng thế mạnh tiềm năng của từng vùng, tăng khả năng liên kết giữa các vùng và tăng cường liên kết giữa các ngành nhất là giữa nông nghiệp và công nghiệp. - Quy hoạch trung tâm thương mại-dịch vụ-quảng bá các sản phẩm CN-TTCN, làng nghề truyền thống tại các đô thị lớn, khu du lịch. Từng bước hình thành khu chợ hàng hoá vật thể và phi vật thể vừa quảng bá vừa đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước: chợ rằm (tiến đến chợ đêm Hội An), chợ phiên Mỹ Sơn, trung tâm thương mại-dịch vụ-quảng bá Tam Kỳ, Khu đô thị Điện Nam-Điện Ngọc... * Vốn đầu tư kết cấu hạ tầng và sản xuất. Nguồn vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật với tổng vốn đầu tư dự kiến là 5.167 tỷ đồng. Trong đó, sử dụng từ 80% nguồn vốn huy động từ nguồn khai thác quỹ đất các đô thị; từ nguồn ứng trước đầu tư của các doanh nghiệp đầu tư kết cấu hạ tầng; nguồn từ cơ chế để lại qua KCN; nguồn vốn hỗ trợ ban đầu của Trung ương để đầu tư tạo nguồn cân đối ngân sách; nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung và chương trình mục tiêu hằng năm,... Khu vực nông thôn, miền núi ưu tiên vốn đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu cụm công nghiệp nhỏ, vùng nguyên liệu tạo lợi thế khai thác tiềm năng phù hợp từng vùng. Mặt khác, sử dụng ngân sách của tỉnh hỗ trợ để thu hút đầu tư, khuyến khích các nhà doanh nghiệp đầu tư sản xuất trên địa bàn với chính sách ưu đãi của tỉnh, đồng thời đề nghị Chính phủ cho phép giữ lại các nguồn thu từ các doanh nghiệp để xây dựng hạ tầng. Tỉnh có cơ chế huy động đầu tư với nhiều hình thức như BOT, BT...khuyến khích các thành phần kinh tế; doanh nghiệp ngoài tỉnh đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm thúc đẩy nhanh kinh tế vùng động lực. Cơ sở hạ tầng kinh tế chủ yếu: Giao thông là kết cấu hạ tầng chính, tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp, hình thành các khu dân cư đô thị mới. Cần tập trung đầu tư các tuyến đường ngang để khai thác các tuyến quốc lộ đi qua tỉnh. Nâng cấp, mở rộng các tuyến đường ĐT, ĐH. Đầu tư khôi phục, nâng cấp sân bay Chu Lai. Phát triển giao thông hàng không, đường biển, nạo vét luồng cảng Kỳ Hà và các tuyến đường sông. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn OPEC, ADB, WB đầu tư nâng cấp và mở rộng lưới điện trung hạ áp. Phấn đấu cấp điện cho 100% số xã và 95% số hộ được sử dụng điện từ nguồn điện lưới quốc gia và năng lượng mới. Tiếp tục hiện đại hoá bưu chính viễn thông và mở rộng mạng lưới đến 100% số xã trong tỉnh có điện thoại và các dịch vụ bưu chính vào năm 2010; tỷ lệ sử dụng điện thoại 20 máy/100 dân vào năm 2010 và 50 máy/100 dân vào năm 2015. * Nguồn nhân lực. Phát triển mạnh các hình thức đào tạo nghề đi đôi với việc xã hội hóa phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, củng cố mở rộng các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao. Nhà nước đóng vai trò tổ chức, hỗ trợ để tác động, có cơ chế ưu đãi khuyến khích phát triển nhiều ngành, nhiều nghề, thu hút nhân tài, các nhà khoa học đầu đàn, thu hút nghệ nhân, nhà doanh nghiệp giỏi. Hàng năm, ngân sách tỉnh bố trí một phần kinh phí hỗ trợ cho các trường dạy nghề theo địa chỉ. Phấn đấu đạt mục tiêu 60-65% lao động qua đào tạo vào năm 2015. * Về khoa học công nghệ và môi trường: - Tập trung nghiên cứu, ứng dụng các đề tài theo hướng phục vụ có hiệu quả cho những ngành có lợi thế phát triển như công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp dệt may, công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học. Đẩy mạnh công tác thông tin, đặc biệt là thông tin công nghệ. Tạo môi trường thông thoáng về thị trường và khoa học công nghệ giúp các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong việc lựa chọn và áp dụng công nghệ. Có cơ chế khuyến khích đưa trang thiết bị hiện đại vào quá trình sản xuất thu hoạch, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản, đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của các thành phần kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Xây dựng chiến lược đổi mới công nghệ ở các ngành công nghiệp. Tăng cường sự phối hợp giữa doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu-triển khai xây dựng và thực hiện các đề án đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động. - Tăng cường quản lý và kiểm soát ô nhiễm tại các khu dân cư đô thị và khu công nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý triệt để ô nhiễm trong việc chuyển đổi công nghệ. - Chỉ đạo doanh nghiệp tăng cường đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị, công nghệ, tăng cường quan trắc chất thải tại nguồn nhằm giảm ô nhiễm và tăng hiệu quả sản xuất. Tăng cường năng lực công nghệ, thiết bị, sử dụng nguyên liệu phụ gia thân thiện hơn với môi trường. * Vai trò quản lý của Nhà nước và công tác cán bộ: - Nâng cao vai trò, hiệu lực của các cơ quan quản lý Nhà nước nhất là Sở Công nghiệp, Sở Xây dựng trong việc nghiên cứu đề xuất UBND tỉnh các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp, quy chế quản lý đô thị. - Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, kiểm soát chặt chẽ môi trường, kịp thời điều chỉnh, bổ sung các cơ chế năng động, thoáng mở để thu hút đầu tư. Phân cấp quản lý theo quy hoạch đảm bảo năng động sáng tạo và tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương. - Cần tiếp tục có những biện pháp thật tích cực và đồng bộ để cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tạo mọi điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư. Lưu ý tập trung giải quyết các vấn đề làm chậm tiến độ đầu tư như: giải phóng mặt bằng, đấu thầu, giải ngân, thoả thuận địa điểm, cấp phép đầu tư...; làm tăng giá thành tài sản cố định, tăng lãi suất vay, tăng mức khấu hao, mất cơ hội thị trường... - Tập trung cho công tác tuyên truyền vận động làm chuyển biến nhận thức đến từng người dân trong tỉnh, về tạo việc làm là trách nhiệm của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay. - UBND các huyện, thị đẩy mạnh các chương trình công tác chỉ đạo phát triển công nghiệp-TTCN ở địa phương, củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ở địa phương đủ năng lực để thực hiện các nhiệm vụ và chương trình phát triển CN - TTCN và đô thị trong thời gian đến. 3.2.4. Công tác tuyên truyền giáo dục chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với sự hình thành đô thị mới - Tổ chức học tập sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc về xây dựng nền kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về xây dựng và quản lý đô thị nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tự giác tham gia quản lý và đấu tranh chống các vi phạm trong xây dựng và quản lý đô thị, công khai hóa các quy hoạch và dự án xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị. Tham khảo ý kiến nhân dân về các quy hoạch và dự án đó, là biện pháp quan trọng thu hút sự tham gia của người dân vào việc quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, quản lý quy hoạch. Đồng thời, phải kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong xây dựng và quản lý đô thị, nhất là trật tự xây dựng, trật tự giao thông đô thị và các quy chuẩn xây dựng đô thị văn minh, hiện đại. Ngăn chặn tình trạng quy hoạch treo đang trở thành vấn đề nhức nhối hiện nay. - Cụ thể hoá chính sách sử dụng đất đai trên cơ sở luật đất đai đã được Quốc hội thông qua vào mục đích phát triển các KCN, Khu KTMCL, các điểm công nghiệp, làng nghề; phát triển đô thị mới và các khu dân cư nông thôn. Thông qua và cụ thể hoá việc thực hiện các Nghị định của Chính phủ về việc xử lý các tồn tại và lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý đầu tư xây dựng cũng như quản lý các dự án phát triển công nghiệp. - Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, trang bị kiến thức kinh tế học đô thị, ý thức thị dân, tác phong công nghiệp, tính văn minh đô thị cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh. Đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân, phát huy truyền thống văn hoá mở của người Quảng Nam để phát triển công nghiệp hài hoà với việc hình thành đô thị mới trong quá trình phát triển của tỉnh theo hướng bền vững. - Các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên đưa tin, bài, các chuyên mục về xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư theo tinh thần Nghị quyết Trung ương Đảng. Biểu dương người tốt việc tốt, đồng thời phê phán các biểu hiện không tốt nhằm xây dựng một xã hội công nghiệp phát triển. 3.2.5. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới, nhằm thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững Một là, xây dựng, phát triển đô thị phải hướng vào phục vụ tốt cuộc sống của con người. Xây dựng, phát triển đô thị hướng vào phục vụ tốt cuộc sống của con người, đòi hỏi: Xây dựng và không ngừng hoàn thiện mối quan hệ xã hội giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên (môi trường sinh thái) trên cơ sở phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại. Đảm bảo an ninh xã hội, trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng đồng bộ, đầy đủ kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội để nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cuộc sống con người trong các khu đô thị và vùng phụ cận. Hai là, xây dựng, phát triển các KCN, các khu đô thị mới phải đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao, ở đây muốn nói xây dựng, phát triển các khu đô thị phải đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội trong nội bộ mỗi khu, đồng thời đảm bảo nâng cao hiệu quả, phát huy tác động kinh tế-xã hội của nó tới vùng phụ cận. Hiệu quả này phải được xem xét một cách toàn diện, đảm bảo được lợi ích của các chủ thể liên quan: Nhà nước, chủ đầu tư tạo kết cấu hạ tầng cho các khu đô thị, các nhà đầu tư và dân cư trong khu đô thị. Hiệu quả này là một trong những tiêu thức quan trọng trong việc lựa chọn các khu đô thị cần đầu tư, xác định thứ tự ưu tiên cho việc đầu tư vào từng khu đô thị. Ba là, cơ cấu, quy mô của mỗi khu đô thị cần được tính đến ngay từ khi thiết kế và quy hoạch trong mối quan hệ với quy hoạch phát triển công nghiệp. Cơ cấu, quy mô của mỗi khu đô thị cần được thiết kế và cải biên cho thích hợp với nhu cầu và biến đổi nhu cầu trên thị trường. Việc xây dựng, phát triển các khu đô thị vừa nhằm mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, vừa phải góp phần duy trì cải thiện điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội. Các chất thải độc hại không chỉ được tập trung vào một nơi mà phải xử lý, đảm bảo cho chúng ít hại hay vô hại đối với môi trường ... Việc xây dựng, phát triển các khu đô thị mới cần xuất phát từ nhu cầu, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội và cần phải được triển khai từng bước có cân nhắc, không vội vàng, không dập khuôn và không được nôn nóng, chủ quan duy ý chí. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X có ghi: Rà soát và bổ sung và nâng cao chất lượng quy hoạch phát triển đô thị, từng bước hình thành hệ thống đô thị phù hợp trên địa bàn cả nước; đặc biệt chú trọng phát triển các đô thị vừa và nhỏ, hạn chế tập trung dân cư vào một số ít thành phố lớn. Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, chú trọng hoàn thiện mạng lưới giao thông, hệ thống cấp nước sinh hoạt, cung cấp đủ nước sạch và giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lý chất thải ở các đô thị, các khu công nghiệp. Quản lý chất lượng việc thực hiện quy hoạch về các quy chế đô thị [9, tr.200]. Bốn là, tập trung phát triển công nghiệp hoá và đô thị hoá khu vực ngoại vi. Đây là một tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ của khu vực ngoại vi trong mối quan hệ với khu vực trung tâm. Tỉnh cần có chính sách và cơ chế để thực hiện tiến trình công nghiệp hoá lan toả, bắt đầu từ trung tâm sau đó ra ngoại vi, và đồng thời diễn ra sự chuyển đổi về chất trong tiến trình công nghiệp hoá, khu vực ngoại vi tiếp nhận những hoạt động công nghiệp từ trung tâm, trong khi đó trung tâm phát triển lên tầm cao hơn. Như vậy sẽ hình thành các đô thị ven trung tâm các khu công nghiệp để thực hiện chức năng thúc đẩy công nghiệp phát triển. Kết luận chương 3 Một số giải pháp chủ yếu để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, cần quán triệt các quan điểm: - Hướng vào phục vụ tốt cuộc sống của con người. - Bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội cao. - Cơ cấu, quy mô mỗi khu đô thị mới cần được tính đến ngay từ khi thiết kế và quy hoạch. Trong quá trình giải quyết vấn đề quy hoạch phải giải quyết hài hoà giữa phát triển công nghiệp với quy hoạch các khu đô thị mới, đảm bảo phát triển theo hướng bền vững. Để phát triển công nghiệp gắn với việc xây dựng các khu đô thị mới có hiệu quả cao cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó các giải pháp có tầm quan trọng quyết định là: Đổi mới và hoàn thiện công tác quy hoạch phát triển; đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư và khéo sử dụng kết hợp các nguồn vốn đầu tư; tăng cường quản lý tài chính, đất đai, công tác xây dựng cơ bản và kế cấu hạ tầng kỹ thuật xã hội đô thị. Kết luận Nền kinh tế phát triển bền vững trên nền tảng của quá trình giải quyết một cách khoa học, hợp lý, khách quan của mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với việc xây dựng các khu đô thị mới. Việc xây dựng các đô thị mới phải có sự đồng lòng ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình và trách nhiệm cao của các Sở, Ban, ngành, chính quyền các cấp và người dân sở tại. Người dân phải được thông tin đầy đủ, hiểu rõ mục tiêu, yêu cầu của dự án; tỉnh phải chỉ đạo, thành lập một tổ chức bộ máy hợp lý, trao đổi thực quyền và có đủ năng lực để điều hành và quản lý đồng bộ việc phát triển công nghiệp với đầu tư xây dựng các khu đô thị mới theo tinh thần cải cách hành chính, thực hiện cơ chế "một cửa" với đúng nghĩa của nó. Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng chính sách về đất đai, thích hợp và công bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư một giá đất hợp lý tạo điều kiện cho chủ đầu tư thực hiện chương trình đầu tư ngắn hạn và dài hạn phát triển các khu, cụm công nghiệp, cũng như xây dựng các khu đô thị mới. Nhà nước cũng cần có một cơ chế tài chính thích hợp nhằm huy động các nguồn vốn từ mọi thành phần kinh tế tham gia vào các chương trình quy hoạch, đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới. Đầu tư xây dựng các khu đô thị mới phải tạo lập được nhiều công ăn việc làm mới thông qua các chương trình phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong đô thị. Xây dựng môi trường sống có chất lượng cao, trong đó có giá nhà hợp lý cho mọi tầng lớp dân cư,...và để đô thị mới thực sự làm được chức năng giảm tải áp lực giao thông, thì nó phải làm được chức năng kiến tạo việc làm tại chỗ (trên thực tế thì đại đa số dịch vụ ở các đô thị mới ở nước ta hiện nay nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng mới chỉ đáp ứng nhu cầu của người dân sống tại đó, và đô thị mới hầu như chưa có hoặc rất ít, làm được chức năng kiến tạo việc làm). Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, phát triển rút ngắn là một cuộc cách mạng, bởi đây là sự biến đổi về chất, đưa tỉnh Quảng Nam từ một tỉnh thuần nông, cơ cấu công nghiệp-xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng thấp trong GDP thành một tỉnh công nghiệp, có cơ cấu kinh tế tiên tiến. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá phát triển rút ngắn, chỉ có thể diễn ra khi có giải pháp mạnh mẽ, hợp lý về nguồn nhân lực, về vốn, về khoa học, công nghệ; xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, khuyến khích đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm và tiếp tục sắp xếp đổi mới doanh nghiệp theo hướng tăng hiệu quả. Là một tỉnh nghèo, nguồn vốn đầu tư cho cho phát triển còn hạn chế, cần phải chú trọng đến việc dành nguồn vốn từ ngân sách đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng văn hoá-xã hội, còn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh thu hút từ trong nhân dân, từ các thành phần kinh tế, từ các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Nước ta đã gia nhập là thành viên thứ 150 của WTO, đây vừa là những cơ hội mới, đồng thời cũng là những thách thức, khó khăn quyết liệt, đòi hỏi tỉnh cần tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp với quá trình hình thành đô thị mới, nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, đưa Quảng Nam cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp hoàn thành trước năm 2020. Danh mục tài liệu tham khảo GS.TS. Nguyễn Thế Bá (1997), Quy hoạch phát triển đô thị, Hà Nội. PGS.TS. Nguyễn Cúc (chủ biên) (1997), Tác động của Nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cục Thống kê Quảng Nam (2005), Niên giám thống kê năm 2005. Dự án quốc gia VIE/95/050-Quy hoạch và quản lý đô thị có sự tham gia của cộng đồng. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIX , Quảng Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Cao Đức (2003), "Quá trình đô thị hóa các đô thị lớn ở Việt nam, giai đoạn 1990-2000; Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (299). TS. Phạm Kim Giao (1996), Quy hoạch đô thị theo hướng môi trường sinh thái, Đại học Kiến trúc Hà Nội. GS.TS Trần Ngọc Hiên và PGS.TS Trần Văn Chử (đồng chủ biên) (1996), Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Kinh tế học đô thị (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vương Mộng Khuê (2003), "Vấn đề quy hoạch sự phát triển thành thị và nông thôn", Thông tin Những vấn đề lý luận phục vụ lãnh đạo, (3). TS. Phạm Trọng Mạnh (1998), Quản lý xây dựng đô thị, Đại học Kiến trúc Hà Nội. Quy chuẩn xây dựng Việt Nam (1997), Nxb Xây dựng, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 92/QĐ-CP ngày 7/9/2006 về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2015. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23/10/1998 về việc phê duyệt định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020. Tỉnh uỷ Quảng Nam (2006), Kết luận số 02/KL-TU ngày 27/4/2006 về giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ giai đoạn 2006 - 2010. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2005), Quyết định số 535/QĐ-UB ngày 1/3/2005 về việc điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đến năm 2015. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2625.doc
Tài liệu liên quan