Một số bất cập của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và giải pháp hoàn thiện

Lời cảm ơn Nhân dịp hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trường Đại Học Ngoại Thương, Hà Nội đã tận tình dạy dỗ và trau dồi cho tôi nhiều kiến thức nghiệp vụ và những hiểu biết về cuộc sống trong suốt 4 năm qua. Tôi cũng xin được cảm ơn các cán bộ của TAND thành phố Hà Nội, các chuyên viên của Bộ Tư pháp và TANDTC, gia đình và bạn bè đã trợ giúp, động viên tôi trong quá trình viết khoá luận. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâ

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số bất cập của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u sắc tới thầy giáo, thạc sỹ Bùi Ngọc Sơn- chủ nhiệm khoa Quản trị kinh doanh đã tận tình hướng dẫn và góp ý kiến quý báu cho tôi hoàn thành khoá luận này. Danh mục các cụm từ viết tắt trong khoá luận Từ viết tắt viết đầy đủ tiếng việt PLTTGQCVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế TAND Toà án nhân dân TANDTC Toà án nhân dân tối cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao HĐKT Hợp đồng kinh tế HĐTM Hợp đồng thương mại HĐDS Hợp đồng dân sự HĐTD Hợp đồng tín dụng HĐBH Hợp đồng bảo hiểm BLDS Bộ luật dân sự XHCN Xã hội chủ nghĩa TBCN Tư bản chủ nghĩa DNNN Doanh nghiệp Nhà nước TNHH Trách nhiệm hữu hạn HTXTD Hợp tác xã tín dụng TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh UBND Uỷ ban nhân dân NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần Mục lục Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Các nhà kinh tế học thường nói: nếu như nội thương là ống dẫn thì ngoại thương là máy bơm, thu hút ngoại lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước. Nhằm thúc đẩy cho nội thương và ngoại thương cùng phát triển, bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong thời kì mở cửa kinh tế, hội nhập với kinh tế thế giới, cần phải có những tiền đề, những nền tảng vững chắc và thiết yếu mà một trong những nền tảng đó là một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và một cơ chế đảm bảo cho việc thực thi nghiêm chỉnh pháp luật. Trong những năm vừa qua, hệ thống các văn bản pháp luật kinh tế đã góp phần đáng kể vào việc hình thành cơ chế quản lý kinh tế mới, tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng, tạo điều kiện cho sự phát triển năng động của các doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật này cũng góp phần vào việc hình thành nhiều thành phần kinh tế mới, thúc đẩy việc giao lưu và phát triển kinh tế, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, ổn định và làm lành mạnh hoá nền tài chính của đất nước. Tuy vậy, hiện nay vẫn đang tồn tại thực trạng là các văn bản pháp luật kinh tế hiện hành vẫn chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chung chung, làm hạn chế quyền chủ động và chưa phát huy hết tiềm năng của các chủ thể kinh doanh, chưa đáp ứng được yêu cầu to lớn của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, trình độ hiểu biết pháp luật của các chủ thể kinh doanh còn yếu kém, thiếu cập nhật. Không ít các chủ thể không có trong tay, không biết và cũng không hiểu các quy định của pháp luật, các chủ trương chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, dẫn đến thiếu định hướng trong kinh doanh, không nhận thức một cách đầy đủ tính hợp pháp hay bất hợp pháp trong hành vi của mình, hoặc cố ý vận dụng sai, hiểu sai quy định của pháp luật theo hướng có lợi cho mình; nên vi phạm pháp luật làm phát sinh tranh chấp. Ngoài ra, tranh chấp kinh tế còn phát sinh do sự khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán giữa các vùng miền, các quốc gia, khu vực trên thế giới. Trong hoạt động thương mại quốc tế, điều này là tất yếu vì mỗi quốc gia, khu vực đều có tập quán thương mại, thông lệ khác nhau, nếu không có sự thống nhất hoặc tìm hiểu xem xét các tập quán thông lệ đó thì việc hợp tác kinh doanh chắc chắn sẽ gặp nhiều vướng mắc, bất cập. Tất cả những điều đó đặt ra một vấn đề cấp thiết là phải có sự điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế, mà cụ thể là điều chỉnh và hoàn thiện Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ban hành ngày 16/03/1994. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (dưới đây viết tắt là PLTTGQCVAKT) chính là văn bản trực tiếp hướng dẫn thủ tục tố tụng kinh tế, giải quyết các loại hình tranh chấp kinh tế, bởi vậy cần phải có sự sửa đổi bổ sung một cách chặt chẽ và phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật kinh tế để làm cho PLTTGQCVAKT thực sự là cơ sở pháp lý cần thiết cho các quan hệ kinh tế của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế nói riêng và cho sự phát triển năng động, sáng tạo của nền kinh tế nói chung. Đề tài “ Một số bất cập của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và giải pháp hoàn thiện” được lựa chọn làm khoá luận tốt nghiệp cũng bởi tính cấp thiết và vai trò quan trọng này của nó. 2. Mục đích của khoá luận: Nghiên cứu những quy định chung của PLTTGQCVAKT Tìm hiểu thực trạng giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường Toà án trong những năm gần đây Đề cập đến những vướng mắc tồn tại và phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án Đưa ra định hướng và một số giải pháp nhằm bổ sung và hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng án kinh tế 3. Kết cấu của Khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về PLTTGQCVAKT Chương 2: Một số bất cập của PLTTGQCVAKT Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết các vụ án kinh tế Có thể thấy, vấn đề về pháp luật giải quyết các tranh chấp kinh tế hiện nay rất phức tạp, đa dạng và có nhiều chiều cạnh. Trong điều kiện thời gian hạn hẹp, kiến thức chưa sâu, hiểu biết thực tế chưa nhiều, người viết chỉ mong muốn sẽ đưa được tới độc giả một cái nhìn tổng thể bao quát về vấn đề này. Sự góp ý, bổ sung của quý độc giả sẽ là nguồn động viên lớn cho tôi và sẽ giúp ích nhiều cho tôi trong quá trình tiếp tục đi sâu nghiên cứu đề tài. Hà Nội ngày 05/12/2002 Triệu Thu Huyền Chương I Khái quát chung về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế I.Khái niệm thủ tục tố tụng kinh tế 1. Khái niệm tranh chấp kinh tế 1.1. Khái niệm tranh chấp kinh tế “ Tranh chấp kinh tế” là một khái niệm cơ bản và quan trọng bởi việc xác định khái niệm này sẽ giúp cho chúng ta thấy được bản chất đích thực của nó cũng như tìm ra các biện pháp hữu hiệu để giải quyết các tranh chấp này một cách có hiệu quả. ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp kinh tế còn gây nhiều tranh cãi, do vậy việc xác định rõ khái niệm này trong mối tương quan giữa nó với các tranh chấp thương mại, tranh chấp dân sự khác trong điều kiện pháp luật thực định Việt Nam là chưa đủ cơ sở thuyết phục. Tuy vậy, thông qua định nghĩa về tranh chấp thương mại theo Điều 238 Luật thương mại 1997: “ tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại” và qua khái niệm kinh doanh theo khoản 2 Điều 3 Luật doanh nghiệp 1999: “ kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” có thể thấy hành vi thương mại cũng là một hành vi kinh doanh và cũng được coi là hoạt động kinh tế theo nghĩa rộng. Cho nên, về bản chất, tranh chấp thương mại cũng là một dạng của tranh chấp kinh tế và có thể tạm định nghĩa: tranh chấp kinh tế là sự biểu hiện những xung đột hay mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế trong quá trình kinh doanh, bao hàm cả khái niệm tranh chấp thương mại. 1.2. Phân biệt tranh chấp kinh tế với tranh chấp dân sự Tranh chấp kinh tế khác với tranh chấp dân sự ở một số điểm sau: * Tranh chấp kinh tế thường chỉ gắn liền với những yếu tố tài sản, những lợi ích của các bên có tranh chấp và chỉ phát sinh từ các quan hệ vì mục đích kinh doanh. Các tranh chấp dân sự, trong khi đó, có thể vừa mang tính chất tài sản vừa mang tính chất nhân thân phi tài sản. * Giá trị tranh chấp kinh tế thường rất lớn. Các tranh chấp kinh tế thường làm ảnh hưởng kinh tế không những cho bên cùng tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của cả cộng đồng kinh doanh. Do đó, tranh chấp kinh tế thường có tính nguy hiểm hơn tranh chấp dân sự. * Bên bị vi phạm trong quan hệ kinh tế không những được bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại xảy ra và có lỗi của bên kia) giống như bên bị vi phạm trong quan hệ luật dân sự mà còn có quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng kinh tế (HĐKT). * Chủ thể trong quan hệ có tranh chấp kinh tế chủ yếu là các chủ thể kinh doanh, hoặc nếu không trực tiếp kinh doanh thì ít nhất họ là những người tiến hành hành vi đầu tư vốn nhằm mục đích kinh doanh sinh lời. Tranh chấp dân sự lại chủ yếu phát sinh từ các chủ thể không bắt buộc phải kinh doanh. 1.3. Các loại tranh chấp kinh tế Theo quy định tại Điều 12 PLTTGQCVAKT, có thể thấy tranh chấp kinh tế gồm các loại sau: * Các tranh chấp về HĐKT giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh. * Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty. * Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. * Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật, nghĩa là pháp luật tố tụng chưa dự kiến, liệt kê được loại tranh chấp đó. Những tranh chấp kinh tế nói trên khi xảy ra và được cơ quan Toà án có thẩm quyền giải quyết theo một trình tự thủ tục, nguyên tắc nhất định thì được gọi là vụ án kinh tế. 2. Khái niệm tố tụng kinh tế 2.1. Khái niệm tố tụng kinh tế Khi phát sinh tranh chấp kinh tế mà các bên không thể tự thoả thuận, thương lượng được và không thoả thuận trước về việc giải quyết tại cơ quan trọng tài thì tranh chấp kinh tế sẽ được giải quyết theo thủ tục luật định ở cơ quan Toà án có thẩm quyền. Quá trình giải quyết một vụ tranh chấp kinh tế theo một thủ tục nhất định trước cơ quan toà án kinh tế gọi là tố tụng kinh tế. Với tư cách là một chế định pháp luật quan trọng của pháp luật kinh tế, tố tụng kinh tế được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh giữa cơ quan Toà án với người tham gia tố tụng trong quá trình Toà án giải quyết các vụ án kinh tế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. 2.2. Đặc điểm của tố tụng kinh tế So với các hình thức tố tụng khác, tố tụng kinh tế có một số đặc điểm sau: * Tố tụng kinh tế phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế ở Toà án kinh tế. * Căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ tố tụng kinh tế là sự vi phạm pháp luật kinh tế hoặc sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh doanh. * Chủ thể bắt buộc tham gia quan hệ pháp luật tố tụng kinh tế là Toà án kinh tế và nhà kinh doanh. * Mục đích của giải quyết tố tụng kinh tế là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm của các bên tham gia quan hệ kinh tế nói riêng và của nền kinh tế nói chung. 3. Vai trò của tố tụng kinh tế Pháp luật tố tụng kinh tế của nước ta quy định vai trò chủ động và tích cực của Toà án trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ lúc thụ lý cho đến khi ra quyết định thi hành án, trừ nghĩa vụ điều tra vụ án. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trước hết là quyền và nghĩa vụ của đương sự. Trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được chính xác và hiệu quả. Tố tụng kinh tế nước ta cũng bảo đảm cho các đương sự trong vụ án có đầy đủ các quyền tố tụng, để họ có thể bảo vệ được quyền lợi của mình tại Toà án. Đương sự có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, yêu cầu thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, kiểm sát viên; kháng cáo, kháng nghị ..., có quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và có quyền tranh luận tại phiên toà. Cũng như tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế thể hiện sự tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trên cơ sở đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng theo pháp luật. Khi phát sinh tranh chấp, Toà án chỉ giải quyết khi các đương sự yêu cầu. Quyền tự định đoạt này còn thể hiện ở quyền của các đương sự được tự hoà giải trước Toà, quyền rút đơn, thay đổi, bổ sung đơn kiện. Nếu các bên không thể hoà giải, thương lượng được và không lựa chọn trọng tài làm cơ quan giải quyết tranh chấp thì khi đó Toà án mới thực hiện giải quyết tranh chấp bằng việc xét xử. Vai trò của tố tụng kinh tế cũng thể hiện ở việc đảm bảo sự bình đẳng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế. Một khi các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh đã tham gia tố tụng kinh tế thì không phân biệt doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn (THNH), hợp tác xã... Các bên đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau theo quy định của pháp luật tố tụng. Tố tụng kinh tế góp phần đảm bảo thực hiện giải quyết tranh chấp kinh tế nhanh chóng, đúng pháp luật. Việc giải quyết nhanh chóng thể hiện trong nhiều quy định như rút ngắn các thời hiệu, thời hạn, hạn chế việc giao vụ án bị kháng cáo, kháng nghị để xem xét lại... Đây là một vai trò quan trọng của tố tụng kinh tế vì nó tiết kiệm được thời gian, tiền bạc và công sức, từ đó mang lại lợi ích cho các chủ thể kinh tế, đẩy nhanh quá trình giải quyết tố tụng kinh tế cho Toà án. Trong thời đại hội nhập, mở cửa và hợp tác ngày nay, đây chính là một thuận lợi, một cơ hội lớn khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh hợp tác kinh doanh trong nước. II. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các vụ án kinh tế Nguyên tắc giải quyết các vụ án kinh tế là những tư tưởng chỉ đạo đối với việc giải quyết các vụ án kinh tế, được các quy phạm pháp luật về tố tụng kinh tế ghi nhận qua những nội dung cơ bản và đặc trưng của tố tụng kinh tế. Việc tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng kinh tế là tiền đề cho việc đảm bảo giải quyết vụ án kinh tế khách quan, đúng pháp luật. 1. Nguyên tắc tự định đoạt Đây là nguyên tắc xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, tự do giao kết hợp đồng của các chủ thể kinh doanh. Theo nguyên tắc này, PLTTGQCVAKT đã quy định cho đương sự quyền được khởi kiện, quyền yêu cầu Toà án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, quyền lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp trong những trường hợp nhất định. Nguyên đơn được quyền thay đổi nội dung đơn kiện, rút đơn khởi kiện, cũng như đương sự có quyền hoà giải, thương lượng trong quá trình giải quyết vụ án. 2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật Khi các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh tham gia tố tụng thì không có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và cá nhân đăng ký kinh doanh. Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. 3. Nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh Khác với tố tụng dân sự, trong tố tụng kinh tế, Toà án không có nghĩa vụ phải điều tra xác minh các chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án, mà đương sự có nghĩa vụ cung cấp, thu thập tài liệu chứng cứ nhằm bảo vệ quyền lợi của họ. Như vậy, có thể thấy kết quả của một vụ tranh tụng tại Toà án phụ thuộc nhiều vào việc đương sự có cung cấp đầy đủ các chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình hay không. 4. Nguyên tắc hoà giải Hoà giải là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng kinh tế. Khi có tranh chấp phát sinh, trước hết, các bên đương sự phải tự tiến hành hoà giải, thương lượng. Khi không hoà giải được thì bên bị vi phạm quyền lợi mới có quyền khởi kiện vụ án tại Toà án nhân dân (TAND) có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, Toà án có trách nhiệm phải hoà giải giữa các bên đương sự, nếu không sẽ bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Xét về nguyên tắc, hoà giải không chỉ giải quyết vấn đề ai đúng ai sai mà thực chất là khuyến khích các bên thừa nhận lĩnh vực quyền lợi chung. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các vụ án kinh tế thành công ở giai đoạn hoà giải. 5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời Có thể xem đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng kinh tế bởi nó chi phối tất cả các thời hạn tố tụng trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Việc giải quyết nhanh chóng vụ án kinh tế thể hiện trong nhiều quy định như: rút ngắn các thời hiệu, thời hạn, hạn chế việc giao vụ án cho Toà án cấp dưới để xét xử lại (tham khảo bảng 1-trang 19 dưới đây). 6. Nguyên tắc xét xử công khai Xét xử công khai cũng là một nguyên tắc hiến định đối với hoạt động của Toà án (Điều 131- Hiến pháp Việt Nam 1992). Việc xét xử của Toà án ngoài mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo pháp luật. Theo đó, các vụ án kinh tế đều được xét xử công khai trừ trường hợp cần giữ bí mật Nhà nước hoặc bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. III. Thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án 1. Thẩm quyền theo vụ việc Khi xảy ra tranh chấp kinh tế, đương sự phải khởi kiện đúng Toà án có thẩm quyền, các Toà án cũng phải xem xét và thụ lý vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Toà án Kinh tế có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế quy định tại Điều 12 PLTTGQCVAKT như sau: 1. Các tranh chấp về HĐKT giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. 2. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty. 3. Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. 4. Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Toà án kinh tế còn có thẩm quyền giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Đối với những tranh chấp kinh tế thuộc các loại trên, nhưng lại có yếu tố nước ngoài thì chỉ áp dụng luật tố tụng của Việt Nam để giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế khi không có quy định trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. 2. Thẩm quyền theo cấp xét xử Sau khi đã xác định được thẩm quyền về vụ việc, cần xem xét vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền của Toà án kinh tế cấp nào. Theo quy định của PLTTGQCVAKT: * TAND cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp HĐKT có giá trị tranh chấp dưới 50 triệu VND, trừ tranh chấp có yếu tố nước ngoài. * Toà kinh tế TAND cấp tỉnh xét xử theo thủ tục sơ thẩm những vụ án kinh tế trừ những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện. Trong trường hợp cần thiết, khi vụ án có nhiều tình tiết phức tạp hay có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện để xem xét. Toà kinh tế TAND cấp tỉnh xét xử phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án quyết định, sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Toà án cấp tỉnh cũng có thẩm quyền giải quyết việc phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền xét xử của Uỷ ban thẩm phán TAND cấp tỉnh đối với các vụ án kinh tế là: giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị. * Toà kinh tế TANDTC giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị. Uỷ ban thẩm phán TANDTC có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà thuộc TANDTC bị kháng nghị. Đồng thời, Toà cũng kiêm giải quyết khiếu nại đối với các quyết định của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Hội đồng thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà quyết định của Uỷ ban thẩm phán TANDTC bị kháng nghị. 3. Thẩm quyền theo lãnh thổ Trong trường hợp vụ án kinh tế diễn ra giữa các bên đóng ở các địa phương khác nhau, thì Toà án nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Trong trường hợp vụ án chỉ liên quan đến bất động sản thì Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. 4. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn Việc lựa chọn này thường xảy ra khi nguyên đơn thấy có thể mang lại những thuận lợi nhất định. Theo quy định của PLTTGQCVAKT thì nguyên đơn có quyền lựa chọn một trong số các Toà án kinh tế có thẩm quyền theo những trường hợp dưới đây để khởi kiện vụ án kinh tế: * Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết vụ án. * Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án. * Nếu vụ án phát sinh do vi phạm HĐKT thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án. * Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết vụ án. * Nếu vụ án không chỉ liên quan đến bất động sản thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có bất động sản, nơi có trụ sở hoặc cư trú của bị đơn giải quyết vụ án. * Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án ở một trong các nơi đó giải quyết vụ án. IV. Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1. Khởi kiện và thụ lý vụ án Khởi kiện vụ án kinh tế là việc cá nhân, pháp nhân có đủ tư cách của một chủ thể kinh doanh có quyền khởi kiện vụ án kinh tế theo thủ tục pháp luật quy định để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị tranh chấp hoặc bị xâm phạm. Các cơ quan Nhà nước (như Viện kiểm sát) không có quyền này. Để khởi kiện vụ án kinh tế, người khởi kiện- cá nhân hoặc pháp nhân-phải làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết trong thời hạn 6 tháng từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho các yêu cầu của nguyên đơn. Thụ lý vụ án kinh tế là việc Thẩm phán chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý của Toà án. Toà án sẽ thụ lý vụ án với điều kiện sau: * Người khởi kiện có quyền khởi kiện * Sự việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án * Đơn kiện được gửi đúng thời hiệu khởi kiện * Nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí * Sự việc chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác. * Sự việc không được các bên thoả thuận trước là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài. Khi nhận đơn kiện, Toà án sẽ xem xét các điều kiện, nếu thấy thoả mãn sẽ thông báo cho nguyên đơn biết và yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. 2. Chuẩn bị xét xử Đây là giai đoạn rất quan trọng để làm cơ sở cho việc xét xử sơ thẩm đúng pháp luật, khách quan, công bằng. Thời hạn chuẩn bị xét xử là 40 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Thời hạn này có thể được kéo dài đến 60 ngày đối với những vụ án phức tạp. Trong công tác chuẩn bị xét xử, Toà án kinh tế phải tiến hành những công việc sau: Thứ nhất, Toà án phải thông báo cho bị đơn và những người có liên quan biết nội dung đơn kiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Những người này có nghĩa vụ gửi ý kiến của mình bằng văn bản về đơn kiện và cung cấp cho Toà án những tài liệu có liên quan trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Thứ hai, Toà án tiến hành xác minh và thu thập chứng cứ, tài liệu để chuẩn bị cho việc xét xử. Trong tố tụng kinh tế, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu thấy cần thiết, Toà án có thể tự mình tiến hành hoặc uỷ thác cho Tòa án khác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng không có nghĩa vụ phải điều tra. Thứ ba, trước khi mở phiên toà, Toà án tiến hành hoà giải giữa các đương sự. Đây là công việc bắt buộc Toà án phải tiến hành. Nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Toà án lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự trong thời hạn 10 ngày. Quyết định này có hiệu lực ngay sau khi tuyên bố và việc giải quyết vụ án kinh tế được kết thúc. Trong trường hợp các đương sự không thể thoả thuận với nhau được thì Tòa án lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, hoà giải không thành sẽ đưa tiến trình giải quyết vụ án sang giai đoạn tiếp theo- giai đoạn xét xử sơ thẩm. 3. Phiên toà sơ thẩm Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong thời hạn 10 ngày, Toà án phải mở phiên toà, trong trường hợp có lý do chính đáng thời hạn đó cũng không được kéo dài quá 20 ngày. Yêu cầu của việc xét xử là kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ chứng cứ đã thu thập được, trên cơ sở đó vận dụng đúng đắn pháp luật để giải quyết chính xác quyền và nghĩa vụ của các đương sự để ra bản án phù hợp với sự thật khách quan. Giai đoạn tố tụng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu Toà án ra bản án phù hợp với sự thực, đúng pháp luật thì bản án sẽ có hiệu lực pháp luật ngay, vụ án sẽ được giải quyết dứt điểm. Song, nếu xét xử sơ thẩm sai thì bản án sẽ bị kháng cáo, kháng cáo, kháng nghị, việc giải quyết vụ án kéo dài làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc kinh doanh của các bên. Phiên toà sơ thẩm vụ án kinh tế được tiến hành dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm. Đây là điều khác biệt căn bản so với Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự vì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, tức là số lượng Thẩm phán ít hơn. Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của các đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định và kiểm sát viên (nếu Viện kiểm sát yêu cầu tham gia phiên toà). Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm được quy định trong các Điều 46, 47, 48, 51, 53 PLTTGQCVAKT. 4. Thủ tục phúc thẩm 4.1. Thủ tục phúc thẩm Thủ tục phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành phúc thẩm các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới không những nhằm mục đích sửa chữa và khắc phục những sai sót của Toà án trong các bản án, quyết định đó, mà còn là thủ tục quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Mặt khác, thủ tục phúc thẩm còn tạo thuận lợi cho Toà án cấp trên kiểm tra chất lượng và chỉ đạo hoạt động xét xử Toà án cấp dưới, bảo đảm việc giữ vững cũng như tăng cường pháp chế nói chung. Quyền kháng cáo thuộc về đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Quyền kháng nghị thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp. Thời hạn kháng cáo là 10 ngày kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là 20 ngày kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Kháng cáo, kháng nghị hợp lệ có hậu quả pháp lý là tạm thời đình chỉ việc chấp hành bản án, quyết định sơ thẩm. Nếu toàn bộ bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị, thì toàn bộ bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định chỉ bị kháng cáo, kháng nghị một phần thì chỉ có phần bị kháng cáo, kháng nghị là chưa có hiệu lực pháp luật; phần còn lại vẫn có hiệu lực. Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo việc kháng cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp, cho các đương sự và những người có quyền lợi liên quan đến kháng cáo trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày người kháng cáo xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có trách nhiệm gửi cho Toà án cấp phúc thẩm ý kiến của mình về kháng cáo, kháng nghị trong vòng 7 ngày kể từ ngày khi nhận được thông báo. Trước khi mở phiên toà, Toà án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của các đương sự hoặc chủ động ra quyết định nếu xét thấy cần thiết. Toà án cũng có thể áp dụng nhiều biện pháp nhằm xác minh, thu thập chứng cứ... bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng sự thật. 4.2. Phiên toà phúc thẩm Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi đến, Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà xét xử. Thời hạn này có thể kéo dài nếu vụ án này có nhiều tình tiết phức tạp, song không quá 2 tháng. Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán. Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị. Trong các trường hợp khác, Viện kiểm sát có thể tham gia nếu thấy cần thiết. Nếu Viện kiểm sát phải tham gia hoặc yêu cầu tham gia phiên toà mà không thể tham gia được thì Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Về mặt thủ tục, phiên toà phúc thẩm được tiến hành giống như phiên toà sơ thẩm, nhưng trước khi xem xét kháng cáo, kháng nghị, một thành viên Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Kết thúc phiên toà phúc thẩm, Toà án có thể ra một trong các quyết định sau: Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm Sửa đổi một phần hay toàn bộ bản án sơ thẩm, quyết định sơ thẩm. Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại. Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ theo quy định của pháp luật. Bản án, quyết định của Toà án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên bố. 5. Thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật 5.1. Thủ tục giám đốc thẩm Giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng kinh tế, trong đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về: * Chánh án TANDTC, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp. * Phó Chánh án TANDTC, phó Viện trưởng VKSNDTC đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND địa phương. * Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bao gồm: Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như: Toà án đã xét xử vụ án sai thẩm quyền, thành phần Hội đồng xét xử không hợp pháp. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật như: Toà án giải quyết vụ án đã áp dụng những điều luật đã bị huỷ bỏ hay quy trách nhiệm bồi thường không đúng. Thời hạn kháng nghị là 9 tháng kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Sau khi nhận được kháng nghị, Toà án xét xử giám đốc thẩm phải gửi kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu trong thời hạn 10 ngày. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Toà án phải mở phiên toà giám đốc thẩm. Hội đồng xét xử giám đố._.c thẩm có quyền: Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay việc xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án cấp dưới không đầy đủ mà Toà án cấp giám đốc thẩm không thể bổ sung được. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy dịnh pháp luật. 5.2. Thủ tục tái thẩm Tái thẩm cũng là một giai đoạn tố tụng kinh tế đặc biệt, theo đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới nếu phát hiện được những tình tiết mới quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án, trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thuộc về: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp. Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bao gồm: * Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án. * Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng. * Thẩm phán, Hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký Toà án cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án. * Bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ . Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Khi xét xử theo thủ tục tái thẩm, Hội đồng xét xử có quyền: Giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại sơ thẩm theo thủ tục chung. Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án nếu có căn cứ đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Bảng 1. So sánh thời hiệu và thời hạn giải quyết vụ án dân sự và vụ án kinh tế STT Việc giải quyết Tố tụng dân sự Tố tụng kinh tế 1 Khởi kiện Nhiều thời hiệu khác nhau, tối đa là 10 năm do luật về nội dung quy định 06 tháng ( trừ trường hợp pháp luật có quy định khác) 2 Chuyển vụ án khi không có thẩm quyền Không quy định 03 ngày 3 Nộp tạm ứng án phí 01 tháng gia hạn thêm 01 tháng 07 ngày kể từ ngày có thông báo 4 Thông báo cho bị đơn về đơn kiện Không quy định 10 ngày 5 Y kiến trả lời của bị đơn về đơn kiện Không quy định 10 ngày 6 Quyết định đưa ra xét xử, đình chỉ, tạm đình chỉ 01 tháng nếu kéo dài không quá 06 tháng 40 ngày nếu kéo dài không quá 60 ngày 7 Thời hạn mở phiên toà 01 tháng 10 ngày 8 Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Quyết định ngay 03 ngày 9 Trả lời khiếu nại về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 03 ngày 03 ngày 10 Cấp bản sao bản án, quyết định 15 ngày 07 ngày 11 Thời hạn kháng cáo 15 ngày (Viện kiểm sát cấp trên là 20 ngày) 10 ngày (Viện kiểm sát cấp trên là 20 ngày) 12 Thời hạn toà sơ thẩm phải chuyển hồ sơ 15 ngày 10 ngày 13 Thời hạn xét xử phúc thẩm bản án -TAND tỉnh : 03 tháng - TANDTC : 04 tháng -01 tháng nếu vụ án phức tạp khôngquá 02 tháng 14 Thời hạn xét xử phúc thẩm 01 tháng 01 tháng 15 Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm 03 năm nếu không gây thiệt hại thì vô thời hạn 09 tháng 16 Thời hạn mở phiên toà giám đốc thẩm 06 tháng 01 tháng 17 Thời hạn kháng nghị tái thẩm 01 năm nếu không gây thiệt hại cho đương sự thì vô thời hạn 01 năm 18 Thời hạn mở phiên toà tái thẩm 06 tháng 01 tháng Nguồn: Hợp đồng kinh tế và các chế định tài phán trong kinh doanh trang 289,290 Bảng 2. Cơ cấu tổ chức và phân cấp thẩm quyền hệ thống Toà án Hội đồng thẩm phán TANDTC (giám đốc thẩm, tái thẩm) Uỷ ban thẩm phán TANDTC (giám đốc thẩm, tái thẩm) Toà kinh tế TANDTC (giám đốc thẩm, tái thẩm) Toà phúc thẩm TANDTC (phúc thẩm) Uỷ ban thẩm phán TAND cấp tỉnh (giám đốc thẩm, tái thẩm) Toà kinh tế TAND (phúc thẩm) Toà kinh tế TAND cấp tỉnh (sơ thẩm) TAND cấp huyện (sơ thẩm) Chương II Nguồn: Giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, trang 146 Chương II Một số bất cập của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế I. Tình hình giải quyết các vụ án kinh tế trong thời gian qua 1. Tình hình thụ lý và giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án nhân dân Từ ngày 01/07/1994 trọng tài kinh tế Nhà nước giải thể, công tác giải quyết tranh chấp kinh tế thuộc quyền của Toà kinh tế trong TAND. Hoạt động của Toà án đã giải quyết nhiều tranh chấp kinh tế phát sinh, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các bên và trở thành công cụ quan trọng trong việc bảo đảm bảo sự tuân thủ các HĐKT. Theo các báo cáo tổng kết hàng năm của TANDTC, tình hình giải quyết các tranh chấp kinh tế của TAND trong 8 năm qua như sau: Bảng 3. Tình hình giải quyết /thụ lý án kinh tế 07-1994 đến 12/ 2001 Số vụ án 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Sơ thẩm 42/78 372/453 496/532 518/630 1078/1266 1010/1280 859/960 575/690 Phúc thẩm 38/49 62/75 54/71 125/174 112/204 124/188 122/162 Giám đốc thẩm 10/10 19/23 22/27 21/29 17/28 Tỷ lệ giải quyết sơ thẩm 53,84% 82,12% 93,23% 82,22% 85,15% 78,91% 89,48% 83,33% Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1994- 2001 Năm 1994 (từ 01/07/1994), có 78 vụ án kinh tế được thụ lý ở 14 TAND cấp tỉnh. Phần lớn là các tranh chấp về hợp đồng với giá trị tranh chấp nhỏ, dưới 100 triệu VND. Có 12 vụ có yếu tố nước ngoài, có giá trị tranh chấp lớn. Năm 1995, có 453 vụ án được thụ lý, đã giải quyết 372 vụ. Các Toà phúc thẩm TANDTC thụ lý 49 vụ, đã giải quyết 38 vụ. Uỷ ban thẩm phán TANDTC phải xét xử 10 vụ và đã huỷ án 8 vụ, giao cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại. Trong số các vụ án có hơn 10 vụ liên quan đến nước ngoài, có giá trị tranh chấp lớn. Năm 1996, Toà án cấp sơ thẩm đã thụ lý 532 vụ tranh chấp kinh tế với tổng giá trị tài sản tranh chấp lên tới 300 tỷ VND, giải quyết được 496 vụ. Tranh chấp về hợp đồng là 505 vụ, chiếm 95%. Toà phúc thẩm TANDTC thụ lý 75 vụ, đã giải quyết 62 vụ. Số vụ án xét xử theo trình tự giám đốc thẩm lên tới 23 vụ, trong đó đã giải quyết được 19 vụ: huỷ án 12 vụ, giao cho TAND xét xử sơ thẩm 2 vụ và huỷ, đình chỉ giải quyết 5 vụ. Năm 1997, số vụ án được thụ lý là 630 vụ với giá trị tranh chấp trên 314 tỷ VND, đã giải quyết được 518 vụ. Toà phúc thẩm TANDTC đã xét xử được 54 vụ trên tổng số 71 vụ án thụ lý. Năm 1998, các TAND địa phương đã thụ lý 1266 vụ án kinh tế gấp 2 lần năm 1997. Số vụ đã giải quyết là 1078 vụ. Phần lớn các tranh chấp xoay quanh vấn đề HĐKT. Có 5% số vụ có đương sự là các công ty nước ngoài. Năm 1999, các Toà án địa phương đã giải quyết được 1010 vụ án trên 1280 vụ đã thụ lý. Riêng TAND thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) thụ lý 735 vụ, bằng 57,4% tổng số vụ án kinh tế của cả nước. Các Toà phúc thẩm TANDTC đã thụ lý 204 vụ, giải quyết được 112 vụ. Năm 2000, có 960 vụ án kinh tế được thụ lý, đã giải quyết được 859 vụ. TAND TPHCM thụ lý 257 vụ, chiếm 29,9% tổng số vụ án thụ lý mới của cả nước. Các TAND thành phố Hà Nội thụ lý 73 vụ, Hải Phòng 36 vụ, Đà Nẵng 22 vụ. Một số TAND không thụ lý vụ nào như Toà án tỉnh Quảng Trị, Sơn La, Lai Châu, Lao Cai, Yên Bái, Bắc Cạn, Hà Tĩnh... Các Toà phúc thẩm TANDTC thụ lý 188 vụ, giải quyết 124 vụ. Số vụ giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm là 29 vụ, trong đó đã giải quyết 21 vụ. Năm 2001, các TAND đã thụ lý 575 vụ mới, còn lại 115 vụ cũ. So với năm 2000, số vụ án kinh tế mới giảm 284 vụ. Các vụ án kinh tế chủ yếu được thụ lý ở TPHCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng. Số vụ án xử lý theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm không nhiều. Hầu hết các tranh chấp là tranh chấp về hợp đồng, nhất là hợp đồng mua bán hàng hoá. Có 21 vụ tranh chấp giữa nội bộ công ty, 13 vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Bảng 4. Hoạt động xét xử án kinh tế tại Toà phúc thẩm TANDTC Chỉ tiêu/năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Số án thụ lý 49 75 71 174 204 188 162 Số án giải quyết 38 62 54 125 112 124 122 Tỷ lệ xét xử phúc thẩm 10,82% 14,1% 11,27% 13,74% 15,94% 19,58% 23,48% Tỷ lệ giải quyết 77,55% 82,64% 76,06% 71,84% 54,9% 65,96% 75,31% Y án sơ thẩm 42,7% 51,2% 34,8% 52,4% 43,4% Sửa án sơ thẩm 24,1% 27,8% 32,1% 17,7% 28,69% Huỷ án sơ thẩm 17,2% 15,4% 24,1% 19,3% 19,7% Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án các năm 1994 đến 2001 2. Một số nhận xét 2.1. Số vụ tranh chấp kinh tế đưa ra khởi kiện tại Toà án tăng khá nhanh ở những năm đầu song lại có xu hướng giảm rõ rệt trong một vài năm trở lại đây Sở dĩ có tình trạng này là do những năm đầu khi Toà án được trả lại chức năng tài phán kinh tế, các chủ thể kinh doanh đã rất tin tưởng và hy vọng vào hình thức giải quyết tranh chấp này. Những năm 1998-1999, số vụ án thụ lý tăng rất nhanh: 200,95% và 101,11% so với năm trước đó. Tuy nhiên càng về sau họ càng thấy rõ hạn chế của hình thức này như: tốn kém thời gian, công sức và tiền bạc, không giữ được uy tín trong kinh doanh khi xét xử công khai, chất lượng xét xử còn nhiều bất cập, tỷ lệ án bị sửa, bị huỷ tương đối lớn... Mặt khác, trình độ hiểu biết và áp dụng pháp luật của doanh nghiệp cũng ngày càng được nâng cao, việc đầu tư nghiên cứu, soạn thảo hợp đồng được đẩy mạnh nên cũng góp phần hạn chế được tranh chấp phát sinh. Tuy vậy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do, các quan hệ kinh tế phát sinh không ngừng, hợp tác quốc tế được thúc đẩy mạnh mẽ như hiện nay thì tình trạng số vụ tranh chấp kinh tế được khởi kiện bị giảm mạnh vẫn là một vấn đề cần xem xét. 2.2. Các tranh chấp được khởi kiện tại Toà án khá đa dạng Các tranh chấp phát sinh chủ yếu liên quan đến hợp đồng như hợp đồng mua bán, hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hợp đồng xây dựng, hợp đồng uỷ thác đại lý, hợp đồng tín dụng, hợp đồng thuê tài sản, thuê trụ sở, hợp đồng gia công, dịch vụ v.v. Ngoài ra còn có tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau, giữa công ty với thành viên, tranh chấp liên quan đến L/C, tranh chấp liên quan đến phát sinh và chuyển nhượng chứng khoán...Đã xuất hiện nhiều vụ tranh chấp có giá trị kinh tế lớn, có nội dung phức tạp, nhiều tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Điều này cho thấy tính đa dạng, đa chiều và gay gắt của các quan hệ kinh tế trong giai đoạn quốc tế hoá, toàn cầu hoá hiện nay, và do đó đặt ra nhu cầu hoàn thiện và điều chỉnh pháp luật tài phán kinh tế nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh doanh, thúc đẩy và mở rộng hợp tác đầu tư cũng như tạo sự tương thích giữa luật pháp Việt Nam với khung luật pháp quốc tế. 2.3. Số vụ tranh chấp kinh tế phân bố không đồng đều Hầu hết các tranh chấp kinh tế chủ yếu tập trung ở những trung tâm kinh tế lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa –Vũng Tàu và đặc biệt là TPHCM. Đây là khu vực kinh tế phát triển mạnh mẽ, đầu tư hợp tác nước ngoài được đẩy mạnh cho nên cũng phát sinh nhiều tranh chấp, bất đồng trong quan hệ kinh tế. Kể từ khi PLTGQCVKT chính thức có hiệu lực, Toà kinh tế TAND TPHCM luôn là nơi thụ lý vụ án kinh tế nhiều nhất trong cả nước. Bảng 5. Tình hình thụ lý vụ án kinh tế của TAND TP HCM TAND 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Cả nước 78 453 532 630 1266 1280 960 690 HCM 43 276 365 313 529 735 257 341 Tỷ lệ % 55 61 68 49,7 41,8 57,4 26 49 Nguồn: Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2002 Trong khi đó, các TAND cấp tỉnh khác chỉ thụ lý một số vụ tranh chấp vừa phải trong năm: 15- 20 vụ. Rất nhiều Toà án ở vùng sâu, vùng xa, miền Trung không thụ lý một vụ tranh chấp kinh tế nào như: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Bắc Cạn, Quảng Trị, Hà Tĩnh... Thậm chí còn có Toà án chưa thụ lý một tranh chấp kinh tế nào từ khi thành lập đến nay. Xét đến cùng, đây cũng là điều dễ hiểu vì chỉ ở những khu vực kinh tế phát triển mạnh thì tranh chấp kinh tế mới có thể phát sinh. Đó cũng là lý do tại sao ở các nước phát triển, Toà thương mại (tương đương với Toà kinh tế của Việt Nam) chỉ được thành lập với tư cách là toà chuyên biệt hoặc phân toà thương mại nằm trong Toà Dân sự ở các trung tâm kinh tế lớn. Nên chăng các nhà chức trách Việt Nam xem xét lại vấn đề này để tránh tình trạng nơi thừa, nơi thiếu, lãng phí và hình thức như hiện nay. 2.4. Các tranh chấp kinh tế chủ yếu được giải quyết ở TAND cấp tỉnh Thông thường, có rất ít các tranh chấp kinh tế được khởi kiện tại TAND cấp huyện mà hầu hết đều tại TAND cấp tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu là ở phạm vi thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện. Các tranh chấp có giá trị tranh chấp dưới 50 triệu VND thường ít khi xảy ra, và nếu có cũng thường được giải quyết bằng hình thức khác chứ không khởi kiện ra Toà án. Bởi vậy, các TAND cấp huyện thường nhàn rỗi, trong khi án phúc thẩm lại dồn lên TANDTC dẫn đến tình trạng nợ án, đọng án tại các Toà phúc thẩm TANDTC, án năm trước dồn tới năm sau. Vấn đề này cũng cần được nghiên cứu xem xét để sớm có biện pháp khắc phục, giúp cho bộ máy hoạt động của Toà án được lưu thông nhằm đảm bảo tính công bằng, kịp thời và hiệu quả của pháp luật. 2.5. Tỷ lệ giải quyết tranh chấp bằng hoà giải cao, chất lượng xét xử tương đối tốt Theo luật định, hoà giải là khâu bắt buộc phải tiến hành trước khi xét xử và trên thực tế, các Toà án đã thực hiện khâu này khá hiệu quả. Khi tổng kết kết quả hoạt động của Toà án, số vụ tranh chấp kinh tế được giải quyết bằng hoà giải thường chiếm xấp xỉ 50%: năm 1995: 41,7%, năm 1998: 43%, năm 1999: 54,6%. Có địa phương đạt tỷ lệ này đạt đến con số gần như tuyệt đối, như ở Toà án Bà Rịa - Vũng Tàu năm 1995-1996: 95%. Kết quả trên cho thấy tính ưu việt, đơn giản, mềm dẻo, dễ thi hành của hòa giải, đồng thời cũng phản ánh được sự phù hợp của nó với thực tế pháp luật hiện hành, phát huy quyền tự do kinh doanh, quyền tự định đoạt của chủ thể kinh doanh. Nó cũng phản ánh kinh nghiệm, năng lực và kỹ năng của đội ngũ Thẩm phán, những người trực tiếp chịu trách nhiệm tiến hành hoà giải. Mặc dù số án thụ lý trong thời gian gần đây có giảm, song hoạt động xét xử các vụ án kinh tế đã thụ lý cũng đạt chất lượng khá tốt (xem bảng 3 và bảng 4). Mỗi năm Toà án cấp sơ thẩm giải quyết được khoảng 80% số vụ án đã thụ lý (kể cả án tồn động và án thụ lý mới). Toà án cấp phúc thẩm thường có tỷ lệ xét xử ít hơn, khoảng 65-70% số vụ án đã thụ lý. Nguyên nhân chủ yếu là do các TAND cấp tỉnh thường xét xử sơ thẩm, án phúc thẩm dồn lên Toà phúc thẩm TANDTC gây nên tình trạng quá tải. Số lượng bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị chỉ khoảng 15%, khá thấp so với án dân sự. Số lượng các bản án, quyết định được giữ nguyên như án sơ thẩm cao, từ 40- 45 % (xem bảng 4). Tuy nhiên, việc xét xử ở Toà phúc thẩm TANDTC cũng chưa thực sự hiệu quả. Trong năm 2001, Uỷ ban thẩm phán TANDTC phải xét xử 12/20 vụ, trong đó huỷ bản án phúc thẩm 3 vụ; sửa bản án phúc thẩm 3 vụ; huỷ bản án, quyết định bị kháng nghị để xét xử lại 4 vụ; chỉ có 2 vụ là bác kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm. 2.6. Tình hình giải quyết vụ án kinh tế không phản ánh đúng thực trạng tranh chấp kinh tế ở nước ta hiện nay Thậy vậy, trước khi PLTTGQCVAKT được ban hành, trọng tài kinh tế Nhà nước các cấp đã thụ lý giải quyết được tổng số vụ án kinh tế như sau: Năm 1990: thụ lý 6243 vụ Năm 1991: thụ lý 4058 vụ Năm 1992: giải quyết 1648 vụ Năm 1993: giải quyết 1654 vụ (tính đến ngày 20/11/1993). Trong khi đó, tính đến nay số vụ tranh chấp lớn nhất được thụ lý tại TAND các cấp cũng chỉ là 1280 vụ (năm 1999), thấp hơn nhiều so với số tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài kinh tế Nhà nước từ rất nhiều năm trước đó. Không những thế, so với số án hình sự, dân sự, con số án kinh tế thực là nhỏ bé: Bảng 6. Tình hình thụ lý vụ án của TAND các cấp Số vụ án / Năm 1999 2000 2001 Tổng số vụ án 215193 191783 197584 án hình sự 54159 49195 48815 án dân sự 192215 11721 115632 án lao động 442 547 690 án hành chính 539 án kinh tế 1280 960 690 Nguồn: Tổng hợp các báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1999 - 2001 3. Một số tồn tại của ngành Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế Một là, xác định sai tư cách của đương sự trong vụ kiện. Sai sót này thường xảy ra khi giải quyết tranh chấp hợp đồng do chi nhánh ký hợp đồng theo uỷ quyền, do thành viên của pháp nhân (không có tư cách pháp nhân) ký hợp đồng, do cá nhân có đăng ký kinh doanh ký hợp đồng bị chết. Hai là, ra quyết định không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Một số Toà án đã không lưu ý xem xét đầy đủ các dấu hiệu đặc thù của HĐKT nên đã thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế các tranh chấp không phải là tranh chấp HĐKT như: giải quyết dựa vào hoá đơn, giải quyết dựa vào hợp đồng giữa pháp nhân với cá nhân không đăng ký kinh doanh, giải quyết dựa vào quan hệ giao dịch trái quy định tại Điều 11 Pháp lệnh HĐKT... Ba là, không xử lý hợp đồng vô hiệu hoặc xử lý không đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một số Toà án đã chưa nghiên cứu sâu, phân tích đánh giá không đúng dẫn đến công nhận những hợp đồng không hợp pháp. Bốn là, xác định thời hiệu khởi kiện không đúng do chỉ căn cứ vào PLTTGQCVAKT mà không đối chiếu với thời hiệu quy định trong các văn bản pháp luật về nội dung như: Luật thương mại, Bộ luật hàng hải... Đây là thiếu sót phổ biến ở cả Toà sơ thẩm và phúc thẩm. Năm là, chưa nắm vững và nhận thức đầy đủ pháp luật kinh tế và các văn bản hướng dẫn thực hiện của TANDTC cũng như hướng dẫn tại thông tư liên ngành, thiếu sự so sánh đối chiếu, tổng hợp giữa các tài liệu, chứng cứ nên không phát hiện được những mâu thuẫn, do đó không đưa ra được những quyết định đúng. 4. Nguyên nhân của các tồn tại trong ngành Toà án 4.1. Nguyên nhân chủ quan Một là, một số Thẩm phán chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, thiếu thận trọng, tỷ mỉ, thậm chí còn cẩu thả, làm ẩu dẫn đến tình trạng có nhiều sai sót trong việc điều khiển phiên toà, viết bản án và thực hiện các thủ tục tố tụng. Hai là, trình độ năng lực của một số Thẩm phán còn nhiều hạn chế, kiến thức pháp luật của đội ngũ Hội thẩm nhân dân chưa cao nên còn phạm sai lầm khi giải quyết các vụ án kinh tế. Ba là, công tác quản lý cán bộ, quản lý nghiệp vụ ở một số đơn vị chưa tốt nên không kịp thời kiểm tra, uốn nắn những sai phạm trong nghiệp vụ hoặc những biểu hiện không khách quan, vô tư trong công tác của Thẩm phán và cán bộ Toà án. Bốn là, trong công tác xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án còn chưa kỹ lưỡng nên việc xét xử tập thể cũng có những hạn chế nhất định. 4.2. Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của Toà án còn thiếu thốn, không đáp ứng được nhu cầu. Thứ hai, sợi dây liên kết, phối hợp giữa Toà án và các cơ quan liên quan có thẩm quyền còn yếu, làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra, xác minh chứng cứ phục vụ cho vụ án. Thứ ba, hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mẫu thuẫn với nhau hoặc không cụ thể, không rõ ràng. Các văn bản hướng dẫn dưới luật có vai trò quan trọng đối với các hoạt động kinh tế, song thường được ban hành chậm, có khi lại chồng chéo, chung chung, rất khó vận dụng hoặc không còn phù hợp với thực tiễn. Các Toà án địa phương thiếu thốn tài liệu pháp luật về kinh tế để phục vụ cho các Thẩm phán. Lực lượng Thẩm phán và cán bộ nghiệp vụ ở một số nơi còn mỏng, chưa đủ so với yêu cầu dẫn đến tình trạng Thẩm phán phải xét xử quá nhiều vụ án, không đủ thời gian để nghiên cứu học tập hoặc giải quyết chu đáo mọi vụ án được giao. Và cuối cùng, ngay bản thân PLTTGQCVAKT cũng còn có nhiều bất cập. II. Một số bất cập của PLTTGQCVAKT 1. Về thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án 1.1.Thẩm quyền của Toà Dân sự hay Toà Kinh tế Việc phân biệt HĐKT hay hợp đồng dân sự (HĐDS) để xác định thẩm quyền xét xử vụ án theo quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử trong nhiều trường hợp có sự khác nhau. HĐDS được quy định trong Bộ luật Dân sự- BLDS- (Điều 394-420), còn HĐKT được quy định tại Pháp lệnh HĐKT. Theo công văn số 11/KHXX ngày 23/01/1996 của TANDTC thì căn cứ vào chủ thể của hợp đồng để phân biệt HĐKT hay HĐDS. Sự phân biệt theo pháp định như vậy là khá rõ ràng, thế nhưng thực tế lại cho thấy sự vướng mắc, không thống nhất quan điểm xét xử. VD1: Tranh chấp về việc mở L/C giữa công ty TNHH sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Long An (LADFECO) và Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP Bank). Ngày 19/05/1997, LADFECO có đơn số 345/CV97 gửi VP Bank, quận 1 TPHCM để xin mở tín dụng thư. VP Bank chấp nhận yêu cầu này và ngày 19/09/1997 đã mở L/C số 229 trả ngay cho LADFECO để LADFECO nhập 6.300 tấn phân S.A trị giá 548.000 USD. Sau khi VP Bank thanh toán tiền cho Ngân hàng nước ngoài thì giữa VP Bank và LADFECO phát sinh tranh chấp về tỷ giá ngoại tệ bán ra tại thời điểm chuyển trả tiền theo L/C. VP Bank đã khởi kiện đến TAND thành phố HCM yêu cầu LADFECO thanh toán tiền chênh lệch tỷ giá là 74.737.200 VND và tiền lãi quá hạn của số tiền này. Ngày 11/03/1998, Toà kinh tế TAND thành phố HCM đã thụ lý và xét xử, đưa ra bản án số 11 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do bị đơn kháng cáo nên ngày 04/08/1999, Toà phúc thẩm TANDTC tại thành phố HCM xử phúc thẩm: y bản án sơ thẩm đã tuyên. Xét về khía cạnh tố tụng kinh tế, vụ án trên không thuộc thẩm quyền TAND giải quyết. Rõ ràng, theo Điều 12 Pháp lệnh HĐKT thì việc mở L/C, bên mở có công văn đề nghị được ngân hàng chấp nhận, song hai bên lại không thiết lập HĐKT là không thoả mãn các nội dung của HĐKT. Tuy nhiên, nếu xét về quan hệ pháp luật kinh tế thì chúng thoả mãn cả 3 yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật kinh tế. Cụ thể, các bên tham gia hợp đồng đều là pháp nhân, quyền và nghĩa vụ hai bên đều bình đẳng như nhau và đều nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy, mặc dù thực tế Toà án đã đương nhiên coi đây là vụ án kinh tế, thuộc thẩm quyền giải quyết của mình nhưng theo đúng quy định của luật điều chỉnh HĐKT là Pháp lệnh HĐKT thì bản thân hợp đồng mở L/C lại không thoả mãn. VD2: Tranh chấp về hợp đồng tín dụng (HĐTD) giữa hợp tác xã tín dụng (HTXTD) Phong Phú và HTXTD Trà Vinh. Tháng 04/1990 2 đơn vị có ký kết với nhau HĐTD, theo đó, HTXTD Phong Phú vay tiền của HTXTD Trà Vinh theo 2 khế ước: + Khế ước số 190112 ngày 10/4/1990 vay 25 triệu VND, thời hạn 1 tháng kể từ ngày 16/04 đến 15/05/ 1990, lãi suất 7%/tháng. + Khế ước số 190113 ngày 28/04/1990 vay 520 triệu VND, thời hạn 1 tháng kể từ 28/04 đến 28/05/1990, lãi suất 7,5%/ tháng. Đến hết hạn bên vay không thanh toán và các bên cũng chưa thanh lý hợp đồng. Ngày 26/06/1992, UBND TPHCM cấp giấy phép số 308/GP-VP chuyển HTXTD Phong Phú lên thành ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Quế Đô. Tại biên bản chuyển thể, Hội đồng quản trị và Ban chủ nhiệm HTXTD Phong Phú nhận trách nhiệm giải quyết công nợ. Tại biên bản giải quyết công nợ ngày 06/03/1993, HTXTD Trà Vinh đã bàn bạc giải quyết công nợ với ông Từ Quỳnh Lâm, nguyên chủ nhiệm và ông Lý Nguyệt Kiều, nguyên phó chủ nhiệm HTXTD Phong Phú. Ngày 15/06/1994, UBND thị xã Trà Vinh có quyết định số 27/QĐ-VP-TX giải thể HTXTD Trà Vinh. Ngày 01/07/1995, các cổ đông còn lại của HTXTD Trà Vinh cử đại diện khởi kiện lên Toà kinh tế TAND TPHCM đòi NHTMCP Quế Đô thanh toán nợ và lãi suất phát sinh từ hai HĐTD nêu trên. Ngày 29/09/1995, TAND TPHCM có giấy báo xác nhận vụ án thuộc thẩm quyền của Toà dân sự và hướng dẫn nguyên đơn khởi kiện tại Toà dân sự. Ngày 23/05/1996, Toà dân sự TAND TPHCM đình chỉ giải quyết vụ án do tranh chấp HĐTD là tranh chấp HĐKT thuộc thẩm quyền của Toà kinh tế. Ngày 24/07/1997 và ngày 01/11/1997, Toà kinh tế và Toà phúc thẩm TANDTC TP HCM đã xét xử vụ án theo trình tự tố tụng kinh tế. Ngày 26/03/1998, Chánh án TANDTC kháng nghị bản án, cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết, phải đình chỉ. Tại quyết định giám đốc thẩm số 12/UBTPKT ngày11/05/1998, Uỷ ban thẩm phán TANDTC đã sửa đổi toàn bộ bản án kinh tế của Toà phúc thẩm, xác định rõ NHTMCP Quế Đô không phải trả khoản tiền vay nợ cho HTXTD Trà Vinh. Quyết định này cũng ghi nhận đại diện cổ đông HTXTD Trà Vinh được quyền khởi kiện tại Toà dân sự, đòi ông Từ Quỳnh Lâm, ông Lý Nguyệt Kiều giải quyết số nợ trên. Như vậy, giữa TAND các cấp đã không có sự thống nhất về chủ thể của quan hệ pháp luật kinh tế. Cấp sơ thẩm và phúc thẩm cho rằng tại thời điểm phát sinh HĐTD, các chủ thể là pháp nhân. Tại thời điểm tranh chấp, một bên chủ thể đã giải thể còn bên kia đã chuyển thể trở thành NHTMCP, song việc tranh chấp là do hai bên trước đó đã xác lập quan hệ kinh tế nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà kinh tế. Uỷ ban thẩm phán TANDTC lại cho rằng quan hệ pháp luật trên đã chuyển từ quan hệ pháp luật kinh tế sang pháp luật dân sự. Bởi thế, bên chủ nợ đã hai lần khởi kiện lên hai toà chuyên trách, các cơ quan tố tụng đã ban hành 8 bản án quyết định khác nhau mà cuối cùng chủ nợ vẫn không đòi được nợ, thêm vào đó còn là các khoản phí, lệ phí và các chi phí đủ loại mà đương sự bỏ ra nhằm tham dự phiên toà. Có thể thấy, việc phân định quan hệ dân sự hay kinh tế như trên là không rõ ràng và logic. Khi xác định bản chất quan hệ pháp luật, phải xem xét cả 3 yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung của hợp đồng. Liên ngành TANDTC-VKSNDTC còn hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTGQCVAKT: “khi thụ lý giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện quyền và nghĩa vụ do các bên đã thoả thuận, các Toà án cần lưu ý và phân biệt là tuỳ tính chất, nội dung thoả thuận và yêu cầu cụ thể của đương sự mà xác định đó là vụ án kinh tế hay vụ án dân sự để thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế hoặc theo thủ tục tố tụng dân sự”(Điểm 3a Mục I Thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 07/01/1995). Như vậy, với những tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện HĐKT, khi thụ lý giải quyết lại phải xem xét khi nào là tranh chấp kinh tế, khi nào là tranh chấp dân sự để giải quyết. Vấn đề đặt ra là tại sao lại có sự hiểu vấn đề phức tạp đến vậy? Hơn nữa, các tranh chấp về hợp đồng thương mại (HĐTM) thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại cũng không được phân định rõ là giải quyết theo thủ tục tố tụng nào. Xét về chủ thể, chủ thể HĐTM có thể trùng với chủ thể HĐKT nếu có một bên là pháp nhân; và cũng có thể trùng với chủ thể của HĐDS. Điều 239 Luật thương mại chỉ quy định chung chung:“ trong trường hợp thương lượng hoặc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chấp thương mại được giải quyết tại trọng tài hoặc Toà án. Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài hoặc Toà án được tiến hành theo thủ tục của trọng tài, Toà án mà các bên lựa chọn”(Khoản 3, Điều 239, Luật thương mại 1997). Do đó, thực tiễn giải quyết vẫn phải dựa vào các tiêu chí về chủ thể, nội dung để xác định tranh chấp thương mại là tranh chấp HĐDS hay HĐKT, từ đó xác định giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự hay kinh tế. Tuy nhiên, theo Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 thì trọng tài kinh tế chỉ giải quyết các tranh chấp về HĐKT chứ không giải quyết tranh chấp về HĐDS. Cho nên, để tránh chồng chéo, thủ tục, rườm rà nên quy định: các tranh chấp phát sinh từ việc thực hiện HĐKT, các tranh chấp HĐTM là tranh chấp kinh tế, thuộc thẩm quyền thụ lý và giải quyết của Toà án kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần xem xét lại quan điểm bắt buộc một chủ thể hợp đồng kinh tế phải là pháp nhân, coi đây là yếu tố quyết định tính chất của một hợp đồng: kinh tế hay dân sự. Việc giới hạn về chủ thể rõ ràng đã hạn chế vai trò của doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh - các chủ thể kinh doanh có khả năng cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trên thương trường, từ đó làm cho PLTTGQCVAKT (Điều12, khoản 1) trở nên không phù hợp với yêu cầu sống động của quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Khi phát sinh tranh chấp, các bên doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh sẽ không có quyền lựa chọn trọng tài để giải quyết, thời hạn giải quyết tranh chấp lại chậm hơn, không được đảm bảo bí mật kinh doanh, thời gian xét xử kéo dài gây đọng vốn doanh nghiệp v.v. Nên chăng Điều 12 PLTTGQCVAKT và Điều 2 Pháp lệnh HĐDS sớm sửa đổi theo hướng các hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh ký kết giữa các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân cũng là HĐKT và tranh chấp được giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế để đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp. 1.2. Thẩm quyền của trọng tài hay Tòa án Thực tiễn xét xử các vụ án kinh tế có yếu tố nước ngoài hiện nay cho thấy tranh chấp về thẩm quyền giải quyết và luật áp dụng để giải quyết tranh chấp là một vấn đề phức tạp vì nó liên quan đến pháp luật quốc gia, luật lệ và tập quán thương mại quốc tế. Theo PLTTGQCVAKT, Toà án trả lại đơn kiện khi “sự việc đã được các bên thoả thuận trước là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài” (khoản 5 Điều 32). Song, nếu xem xét những vụ án kinh tế phức tạp như hai ví dụ dưới đây, thì liệu quy định như vậy đã là đầy đủ và chặt chẽ. VD1: Tranh chấp kinh tế giữa công ty TNHH xây dựng sân golf Bangplee Thái Lan (Bangplee) và tổng công ty nghỉ mát Đà Lạt (DRI). Ngày 18 và 23/03/1992, Bangplee và DRI đã kí hợp đồng về việc xây dựng và phát triển sân golf Đà Lạt. Trong hợp đồng hai bên có thoả thuận: “Tất cả những bất đồng nảy sinh có liên quan hoặc liên hệ tới thoả thuận này, bao gồm việc một trong các bên không hoàn thành trách nhiệm của mình mà không thể giải quyết bằng thương lượng trong vòng 45 ngày kể từ khi bất đồng được lưu ý cho bên kia, thì theo sự lựa chọn của một trong hai bên, có thể đưa ra trọng tài áp dụng các nguyên tắc trọng tài của Hội đồng thương mại quốc tế Liên hiệp quốc (UNCITRAL)” Sau khi việc xây dựng sân golf hoàn tất, phía DRI vẫn còn nợ nên Banglee quyết định đòi thành toán số tiền 652.690 USD, song DRI còn chưa chấp thuận. Do vậy, Bangplee đề nghị chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) giải quyết. VIAC chấp nhận nhưng cho biết về mặt tố tụng không thể áp dụng theo nguyên tắc của UNCITRAL mà chỉ có thể áp dụng quy tắc tố tụng của mình mà thôi. Phía DRI nhâ._. Xét về bản chất, có thể thấy gốc rễ, căn nguyên sâu xa của những bất cập trong thủ tục tố tụng kinh tế chính là ở sự hiện diện bất hợp pháp của hai hệ thống pháp luật về hợp đồng ở nước ta là pháp luật về HĐKT và pháp luật về HĐDS. Hầu hết các nước đều có quan niệm đúng đắn rằng HĐTM là một loại HĐDS đặc biệt, phái sinh từ HĐDS. Bởi vậy, khi giải quyết các tranh chấp về một hợp đồng nào đó, các nước đều vận dụng các quy định pháp luật chuyên ngành, tức là pháp luật trực tiếp điều chỉnh quan hệ hợp đồng đó, khi cần thiết mới áp dụng các quy định chung của pháp luật về HĐDS để xử lý các vấn đề phái sinh. Các luật dân sự, do đó, có vai trò quan trọng và bao trùm trong các lĩnh vực khác. Trong khi đó, ở Việt Nam do có sự phân biệt một cách cứng nhắc, máy móc, không khoa học giữa HĐKT và HĐDS, coi chúng như hai loại hợp đồng độc lập, hoàn toàn khác nhau về tính chất nên nguyên tắc được quốc tế thừa nhận nêu trên đã không được áp dụng. Đó là chưa kể đến sự tồn tại của khái niệm HĐTM, dễ làm cho các chủ thể kinh tế hiểu là một loại hợp đồng điều chỉnh quan hệ hàng hoá- tiền tệ riêng biệt, độc lập với hai loại hợp đồng trên. Thực chất, theo định nghĩa hoạt động thương mại tại khoản 2 Điều 5 và theo phạm vi điều chỉnh thương mại tại Điều 1 Luật thương mại Việt Nam thì Luật thương mại chỉ là luật về hoạt động thương nghiệp với tư cách là một lĩnh vực hoạt động, một ngành kinh tế; và hành vi thương mại chỉ là một hành vi kinh doanh; khái niệm thương mại hẹp hơn khái niệm kinh tế. Đây chính là một điểm khác biệt cơ bản, tương phản với Bộ luật thương mại của các nước TBCN. Trong các bộ luật đó, thương mại được hiểu theo nghĩa rất rộng, bao gồm tất cả các hành vi được các thương nhân thực hiện nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, bất kể chúng thực hiện ở đâu, trong lĩnh vực nào. Cho nên, xét đến cùng, Luật thương mại Việt Nam chỉ là luật về một lĩnh vực hoạt động cụ thể, lĩnh vực thương mại theo nghĩa hẹp, có vị trí khiêm tốn như các luật chuyên ngành mà thôi. Sự tồn tại quan niệm về HĐKT như một loại hợp đồng song song và độc lập với HĐDS mới làm phức tạp hoá vấn đề áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử tranh chấp. Trong tương lai, cần xoá bỏ sự phân biệt giữa HĐKT và HĐDS như những khái niệm khoa học. Nội dung của quan hệ HĐKT trong điều kiện nền kinh tế thị trường đã thay đổi cơ bản. Thành phần các chủ thể tham gia kinh doanh đã được mở rộng đáng kể, do đó, HĐKT không còn là một loại hợp đồng dành riêng cho các chủ thể kinh doanh XHCN, cũng không còn là loại hợp đồng mang tính kế hoạch Nhà nước đơn thuần. HĐKT không thể tồn tại như một khái niệm độc lập và ngang hàng với HĐDS khi nó đã mất đi những giá trị nội dung to lớn của nó. Hệ thống pháp luật về HĐKT hiện nay cũng cần được xoá bỏ. Có như vậy mới đảm bảo được tính khoa học của pháp luật Việt Nam, mới làm cho hệ thống pháp luật về hợp đồng của Việt Nam trở lại với quỹ đạo chung của thế giới là: trong mối quan hệ với BLDS thì các quy định về hợp đồng trong mọi lĩnh vực hoạt động cụ thể đều chỉ là các quy định có tính chất chuyên ngành. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay. Pháp luật Việt Nam không chỉ thể hiện những đặc thù của nền kinh tế-xã hội Việt Nam mà còn phải thể hiện được những thông lệ, quy định có tính chất chung đã được nhièu nước thừa nhận. Nếu không tuân thủ nguyên tắc này thì về mặt lập pháp, chúng ta đã tự gây trở ngại cho chính mình trong việc hội nhập khu vực và quốc tế như một tiền đề để phát triển đất nước. Muốn vậy, các quy định về hợp đồng trong BLDS hiện hành cần sớm được hoàn thiện nhằm đảm bảo có sở pháp luật cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh. Các quy định phải trở thành nguồn pháp luật có tính chất nền tảng của pháp luật về hợp đồng ở nước ta. Bên cạnh đó, cũng cần làm cho các văn bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể như: đấu thầu, xây dựng, vận tải, bảo hiểm, tín dụng... quy định được các vấn đề có tính chất đặc thù. Một khi những nét chung về hợp đồng đã có BLDS giải quyết còn các vấn đề đặc thù đã được các văn bản chuyên ngành ghi nhận thì việc thực hiện hợp đồng và giải quyết ta phát sinh sẽ thuận tiện và chặt chẽ hơn rất nhiều so với hiện nay. Tóm lại, khái niệm HĐKT sau này vẫn tồn tại nhưng không phải với tư cách là một khái niệm khoa học, cũng không phải là một chế định pháp luật mà chỉ đóng vai trò là một công cụ giúp phân định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Cần đưa ra một khái niệm HĐKT, chẳng hạn như khái niệm của tiến sỹ luật học Dương Đăng Huệ: “HĐKT là hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể kinh doanh nhằm thực hiện các công việc thuộc nghề nghiệp của họ” làm căn cứ để giao việc giải quyết tranh chấp hợp đồng cho Toà án kinh tế. Đây cũng là phương thức của luật pháp các nước TBCN. Lấy ví dụ ở Trung Quốc, Trung Quốc không có pháp luật về HĐKT, cũng không có Toà kinh tế song những tranh chấp phát sinh giữa các nhà kinh doanh lại được giao cho một số Thẩm phán giỏi về lĩnh vực kinh tế giải quyết. ở các nước TBCN, các tranh chấp HĐTM được xét xử sơ thẩm ở Toà án thương mại. Để làm được như vậy đòi hỏi thời gian và công sức, bởi HĐKT và Pháp lệnh HĐKT đã gắn bó mật thiết với các chủ thể tham gia kinh doanh trong suốt thời gian dài vừa qua, song chắc chắn nó sẽ mang lại cho pháp luật tố tụng Việt Nam một gương mặt mới, một hướng đi mới khoa học hơn và thống nhất hơn với hướng đi chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. 1.3. Nâng cao kiến thức về pháp luật kinh tế cho các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế Thực tiễn xét xử cho thấy, mặc dù trong những năm gần đây, trình độ hiểu biết pháp luật của các chủ thể kinh tế có tăng, song chủ yếu họ vẫn chưa thực sự nắm vững pháp luật có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình. Thông thường, các đương sự chưa thu thập đầy đủ các thông tin về đối tác đã ký kết hợp đồng kinh doanh với mình như: thông tin về tài sản, đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề, người đại diện hợp pháp, uy tín trong kinh doanh... Trong quá trình thực hiện HĐKT, nhiều trường hợp đương sự khi thấy bị vi phạm đã không yêu cầu đối tác xác nhận bằng văn bản, chưa giải quyết kịp thời, có khi thường trao đổi bằng miệng hoặc qua điện thoại nên không có bằng chứng để chứng minh. Các bên đương sự cũng thường để tranh chấp kéo dài, đến khi khởi kiện thì đã hết thời hiệu khởi kiện. Có khi đơn khởi kiện lại được gửi đến các cơ quan không có thẩm quyền, mà không gửi ngay đến Toà án yêu cầu giải quyết, đến khi Toà án nhận được thì thời hiệu khởi kiện đã hết. Đơn kháng cáo, khiếu nại có khi gửi đi rất nhiều nơi mà không đến Toà án có thẩm quyền. Chính vì vậy mà vấn đề nâng cao kiến thức về pháp luật kinh tế cho các chủ thể được đặt ra. Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Các cơ quan tư pháp cũng phải chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học về tư pháp để giải đáp những vấn đề bức xúc hiện nay trong công tác tư pháp. Cần tổ chức những cuộc hội thảo, tiếp xúc với các doanh nghiệp, các cá nhân tham gia kinh doanh nhằm trao đổi, hướng dẫn và giải đáp những vướng mắc về pháp luật kinh tế của các chủ thể. Đối với những Bộ luật, Pháp lệnh mới có hiệu lực, cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn, tổ chức hội thảo hướng dẫn thi hành. Về phía doanh nghiệp, cũng cần có ý thức tích cực, chủ động tham gia tìm hiểu luật pháp kinh tế bên cạnh việc đầu tư cho hoạt động tư vấn pháp luật. Có những hành động song trùng từ hai phía như vậy mới mong việc nâng cao kiến thức pháp luật kinh tế cho các chủ thể đạt kết quả. 2. Các giải pháp tạm thời 2.1. Mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án kinh tế 2.1.1.Mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TAND cấp huyện Theo mô hình tổ chức hiện nay, Toà kinh tế TAND cấp tỉnh được pháp luật tố tụng kinh tế giao đủ các thẩm quyền từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm tất cả các vụ án kinh tế. Tình trạng trên dẫn đến công tác xét xử của Toà án cấp tỉnh rất nặng, tập trung quá nhiều vụ việc. Bởi vậy, cần thiết phải có “sự sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án các cấp”(Văn kiện đại hội Đảng IX, trang 134, NXB chính trị quốc gia, Hà Nọi 2001) nhằm “tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện, quận theo hướng: việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, TANDTC chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn TAND địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật.”(Văn kiện đại hội Trung ương lần thứ 8 Ban chấp hành khoá VII, Hà Nội 1995). Trong lĩnh vực giải quyết án kinh tế, cần mở rộng thẩm quyền của Toà án cấp huyện, không phụ thuộc vào giá trị tranh chấp kinh tế dưới 50 triệu VND. Việc tổng kết công tác giải quyết tranh chấp trong những năm qua cho thấy, con số 50 triệu là quá nhỏ bé vì hầu hết giá trị tranh chấp là trên 50 triệu. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc thua lỗ, mất mát 50-100 triệu VND được các doanh nghiệp coi là “con số cho phép”, “chi phí cơ hội”. Hơn nữa, quy định tại khoản 1, Điều 13 PLTTGQCVAKT lấy giá trị tranh chấp làm căn cứ phân định thẩm quyền cũng chưa thực sự phù hợp. Trên thực tế, việc các doanh nghiệp quyết định có đưa vụ kiện ra Toà án hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố quan trọng như: uy tín, giữ mối quan hệ kinh doanh... trong đó giá trị tranh chấp cũng là một yếu tố. Tuy nhiên, việc giải quyết trước mắt vấn đề thẩm quyền của Toà án cấp huyện cũng có tác dụng mạnh đối với sự chồng chéo trong xét xử, với việc ứ đọng, lưu cữu vụ án kinh tế ở Toà án cấp tỉnh và việc dư thừa, lãng phí nguồn lực ở Toà án cấp huyện. 2.1.2. Hoàn thiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án kinh tế Bên cạnh thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế (tranh chấp hợp đồng), Toà án kinh tế cũng phải “được” có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTM, các tranh chấp có hậu quả gắn liền với việc thực hiện HĐKT. Các tranh chấp kinh tế giữa các cá nhân đăng ký kinh doanh, mà cụ thể là giữa các doanh nghiệp tư nhân, các công ty hợp danh với nhau cần được coi là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế trong thời kỳ kinh tế phát triển, đa dạng hoá các thành phần kinh tế như hiện nay. Xét về bản chất, các loại hình tranh chấp trên đều là tranh chấp về HĐKT, phát sinh giữa các chủ thể kinh tế vì mục đích lợi nhuận nên sẽ không phù hợp nếu được coi là HDDS và giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Ngoài thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, cần bổ sung thêm chức năng đăng ký kinh doanh cho Toà kinh tế. Đăng ký kinh doanh là một hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, cần phải giao cho một cơ quan tư pháp thực hiện. Tham khảo kinh nghiệm ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì việc đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân đều do Toà án thương mại thực hiện. Chức năng đăng ký kinh doanh được giao cho Toà kinh tế sẽ tạo nên sự thuận lợi, thống nhất thành một mối trong việc quản lý hồ sơ, theo dõi hoạt động của các doanh nghiệp. Tòa kinh tế vừa làm nhiệm vụ “ khai sinh”- đăng ký kinh doanh vừa làm nhiệm vụ “khai tử”- tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Mặt khác, chức năng này sẽ tạo thuận lợi cho việc tra cứu, cung cấp số liệu thông tin về các doanh nghiệp khi Toà kinh tế tiến hành xét xử các vụ án và tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 2.2. Nâng cao năng lực hoạt động cho bộ máy TAND các cấp Trong quá trình Đổi mới tư pháp ở nước ta hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng và năng lực hoạt động của bộ máy TAND các cấp đang được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học, các cán bộ làm công tác tư pháp quan tâm. Vấn đề này đòi hỏi trước hết là nỗ lực và tinh thần trách nhiệm của các Toà án. Khi xét xử, các Toà án phải đảm bảo cho mọi công dân đều binh đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm dộc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy định. Các Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ, tranh luận dân chủ tại phiên toà...Trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ Thẩm phán xét xử cũng cần được nâng cao bởi nó phản ánh năng lực xét xử của Toà án, đảm bảo chất lượng và hiệu quả thực tế của việc xét xử, tạo niềm tin cho các chủ thể kinh doanh khi lựa chọn hình thức giải quyết hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh sự phối kết hợp giữa Toà án các cấp, các cơ quan tư pháp khác trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan điều tra, kiểm sát cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định. Các Toà án phải hỗ trợ nhau trong quá trình tố tụng: lập hồ sơ vụ án, thu thập thêm chứng cứ, lấy ý kiến chỉ đạo từ cấp trên, phát hiện các tình tiết mới của vụ án v.v. TANDTC phải thực hiện vai trò đầu tàu, hướng dẫn các TAND cấp tỉnh, cấp huyện trong quá trình giải quyết các vụ án kinh tế phức tạp hay khó phân định thẩm quyền; đưa ra các quyết định, các văn bản hướng dẫn kịp thời, hợp lý. TANDTC cần tích cực tham gia nghiên cứu để thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, trong đó có việc nghiên cứu, soạn thảo dự án Luật tổ chức TAND trình Quốc hội xem xét. Trước mắt, TANDTC phải đảm bảo biên chế tổ chức, đặc biệt là việc bổ sung tương đối đủ số lượng Thẩm phán để tăng cường hơn nữa công tác xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, phấn đấu giải quyết tốt hơn nữa tình trạng án tồn đọng. Bên cạnh đó, TANDTC tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng,tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ Toà án và coi đây là công tác thường xuyên của ngành Toà án. TANDTC cần phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan trong việc quản lý Toà án địa phương và xây dựng các Toà án địa phương trong sạch, vững mạnh. 2.3. Đơn giản hoá thủ tục xét xử Đây cũng là một vấn đề cấp bách cần thực hiện nhằm đảm bảo và phát huy tính ưu việt của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế là nhanh gọn, kịp thời. Trong công tác giải quyết tranh chấp, cần phải quan tâm đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án đúng hạn định, hạn chế đến mức thấp nhất việc giải quyết chậm trễ, kéo dài vụ án. Toà án cần nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, sự việc đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận bằng văn bản, hậu quả ít nghiêm trọng. Thủ tục này cũng nên được áp dụng trong việc “xử lý vi phạm pháp luật HĐKT”, tức là xử lý hợp đồng vô hiệu, nằm trong thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trên thực tế, những vướng mắc trong quá trình xét xử án kinh tế, từ khâu thụ lý vụ án, tống đạt đến đương sự, thu thập chứng cứ cho đến đưa ra kết luận, bản án và thi hành án; đã xoá nhoà đi chủ trương áp dụng thủ tục rút gọn trong pháp luật tài phán kinh tế. Sự yếu kém này càng hạ thấp vai trò của Toà án như là một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế so với trọng tài kinh tế. Bên cạnh những nhược điểm đặc thù như: công khai, làm giảm uy tín kinh doanh doanh nghiệp, nó còn làm mất thời gian và tiền bạc của các chủ thể kinh tế. Trong khi đó, đã từ lâu Điều 22 Pháp lệnh trọng tài kinh tế quy định: “ trọng tài viên quyết định giải quyết tranh chấp HĐKT, xử lý vi phạm pháp luật HĐKT mà không cần triệu tập phiên họp khi sự việc đã rõ ràng, có đủ chứng cứ được các bên thừa nhận bằng văn bản.” Tuy nhiên, vấn đề đơn giản hoá thủ tục không nên chỉ xem xét phiến diện, một chiều. Đã là đơn giản hoá thì cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng xem việc đơn giản hoá như vậy có thực hiện được hay không. Các nhà soạn thảo PLTTGQCVAKT đôi khi có hơi quá nhấn mạnh về tính ưu việt, rút gọn của chế định tài phán mà bỏ qua khả năng thực hiện của nó. Cho nên, những quy định về thời hiệu tố tụng quá ngắn, quá rút gọn như: thời hiệu khởi kiện (6 tháng), thời hạn chuẩn bị xét xử (40 - 60 ngày)... cần phải được điều chỉnh cho phù hợp hơn với quy trình xét xử. Bên cạnh đó, cũng nên có các văn bản như “quyết định thụ lý vụ án”, văn bản trả lại đơn kiện... nhằm bảo vệ quyền lợi của các đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Làm được như vậy chính là việc góp phần hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án, bởi chỉ khi các khâu trong quá trình tố tụng được tiến hành trơn tru, thuận lợi thì thủ tục xét xử mới thực sự được rút gọn. 2.4. Hướng dẫn các cấp Toà án thống nhất thi hành một số điều trong Pháp lệnh Công tác chỉ đạo, hướng dẫn áp dụng pháp luật là một công tác trọng tâm của TANDTC nên phải luôn được quan tâm, coi trọng. Việc thống nhất nhận thức, thống nhất áp dụng pháp luật để giải quyết các loại vụ án và công tác thi hành án luôn là một đòi hỏi cấp thiết. TANDTC phải tự mình ban hành và phối hợp tốt hơn nữa với các ngành bảo vệ pháp luật ở Trung ương, các ngành hữu quan khác để nhanh chóng ban hành các Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng pháp luật trong công tác giải quyết tranh chấp. Thông qua thực tiễn xét xử, TANDTC phải tổng kết kinh nghiệm để tham gia xây dựng các văn bản pháp luật quan trọng về tài phán kinh tế. Các văn bản này nên đảm bảo được tính nhất quán, khách quan, cụ thể, gắn với những vấn đề bất cập của pháp luật giải quyết tranh chấp như: thẩm quyền của Toà án cấp huyện; mở rộng thẩm quyền của Toà kinh tế (về đăng ký kinh doanh, về xử lý các tranh chấp HĐTM, tranh chấp có hậu quả gắn liền với HĐKT); kéo dài thời hiệu khởi kiện, quy định lại thời điểm tính “ngày phát sinh tranh chấp”; cách tuyên bố và xử lý hợp đồng vô hiệu; quy định chặt chẽ về án phí; hợp nhất thủ tục tái thẩm với giám đốc thẩm; xác định rõ hơn vai trò của tập quán thương mại quốc tế, thông lệ quốc tế với giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài v.v... Bên cạnh đó, các văn bản này cũng nên hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh hơn nữa, chẳng hạn như về vấn đề xét xử công khai. Đây là một tiến bộ của pháp luật tố tụng kinh tế, song nên chăng nguyên tắc này được “mềm hoá” nhiều hơn bởi việc xét xử công khai đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín kinh doanh của doanh nghiệp, do đó bộc lộ rõ hạn chế của việc giải quyết tranh chấp bằng Toà án so với trọng tài. Tóm lại, trước khi PLTTGQCVAKT được sửa đổi hoặc được xoá bỏ để hợp nhất vào Bộ luật tố tụng dân sự, những bất cập của nó, như đã đề cập ở Chương II và trên thực tế, cần phải được giải quyết tạm thời, được hướng dẫn thống nhất cách xử lý cho hệ thống Toà án các cấp. Có như vậy thì khi Bộ luật tố tụng dân sự ra đời, các chủ thể tham gia kinh doanh mới giữ vững được niềm tin vào cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, để tiếp tục khởi kiện các tranh chấp ra Toà kinh tế vì còn coi đó là công cụ đắc lực của công lý và công bằng xã hội. Về phía Toà án các cấp, cũng cần phải tuyệt đối chấp hành thực thi các hướng dẫn của TANDTC về một số bất cập trong PLTTGQCVAKT. Đồng thời, các Toà án nên có tinh thần trách nhiệm thực hiện đầy đủ, áp dụng chính xác vào công tác giải quyết tranh chấp. Các văn bản hướng dẫn một khi được ban hành đã thể hiện rõ ý chí và mục đích của các nhà hoạch định; song thực hiện nó như thế nào cho thiết thực và hiệu quả lại hoàn toàn phụ thuộc vào Toà án các cấp, vào đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án. Vậy nên, Toà án các cấp phải tiến hành thực thi nghiêm chỉnh, chính xác, kịp thời và tổ chức rút kinh nghiệm công tác xét xử thường xuyên, liên tục. 2.5. Nâng cao trình độ và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán xét xử. Trong hoạt động của Toà án, Thẩm phán giữ một vị trí trung tâm, quyết định hiệu quả của hoạt động xét xử. Để nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tài phán kinh tế, Nhà nước đã có chủ trương chuyên môn hoá nghiệp vụ xét xử bằng cách bồi dưỡng và đào tạo Thẩm phán theo chuyên ngành. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán kinh tế, ngoài việc phải có đủ điều kiện theo quy định tại điều 37 Luật tổ chức TAND năm 1992 và Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội Thẩm TAND, họ cần phải trải qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng về pháp luật kinh tế. Trong quá trình lựa chọn cán bộ để trình lên Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán kinh tế, các hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã ưu tiên và chú trọng đến những cán bộ có thêm bằng đại học kinh tế, tài chính. Tuy nhiên, tình hình thực trạng đội ngũ Thẩm phán kinh tế hiện nay cho thấy cần phải có giải pháp tổng thể về công tác đào tạo mới có thể sớm khắc phục tình trạng trên. Xét xử các tranh chấp kinh tế là một vấn đề mới và phức tạp. Ngoài việc nắmvững luật nội dung (pháp luật HĐKT) và luật hình thức (luật tố tụng kinh tế), người Thẩm phán phải có kiến thức, hiểu biết nhất định về các lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm...thì mới có thể đưa ra những phán quyết chính xác. Kinh nghiệm giải quyết những tranh chấp kinh tế ở một số nước cho thấy: Thẩm phán kinh tế (Thẩm phán thương mại) phải là những thương gia (như ở Pháp) hoặc là những doanh nghiệp, nhà kinh tế (như ở Anh, Đức). Do đó, để nâng cao chất lượng xét xử các tranh chấp kinh tế, phù hợp với thông lệ chung, ngoài các quy định chung về tiêu chuẩn Thẩm phán, cần bổ sung thêm tiêu chuẩn có bằng đại học về kinh tế và khoa học tự nhiên hoặc chứng chỉ về các lớp bồi dưỡng, tập huấn pháp luật kinh tế đối với Thẩm phán kinh tế. Giải pháp trước mắt là cần tổ chức tốt các lớp bồi dưỡng cán bộ Toà án dự kiến bổ nhiệm làm Thẩm phán kinh tế tại trung tâm đào tạo Thẩm phán thuộc trường Đại học Luật Hà Nội. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND đưa ra các quy định về tiêu chuẩn, yêu cầu để được bổ nhiệm làm thẩm phán TAND các cấp (trình độ, thời gian công tác, tư cách đạo đức)... về bản chất chưa hàm chứa được yêu cầu đáp ứng sự kế thừa và luân chuyển của đội ngũ Thẩm phán ở nước ta. Các tiêu chuẩn dòi hỏi để được bổ nhiệm làm thẩm phán TAND cấp huyện, cấp tỉnh và TANDTC chỉ khác biệt cơ bản về thời gian công tác 4 năm trở lên đối với Thẩm phán cấp huyện, từ 6 năm trở lên đối với Thẩm phán cấp tỉnh, 8 năm đối với Thẩm phán TANDTC. Theo các nhà nghiên cứu luật học, nên sửa đổi theo trình tự bổ nhiệm từ dưới lên trên, từ thấp lên cao. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán cấp tỉnh, đòi hỏi cán bộ đó là Thẩm phán cấp huyện hoặc bắt buộc phải công tác tại Toà án cấp huyện từ 3 đến 5 năm. Đối với Thẩm phán TANDTC phải là người đã làm Thẩm phán TAND cấp tỉnh hoặc công tác tại Toà án cấp tỉnh từ 4 đến 6 năm. Quy trình này sẽ tạo ra được một sự luân chuyển độị ngũ Thẩm phán một cách khoa học, hợp lý, tạo điều kiện tăng cường kiến thức thực tiễn và nghiệp vụ xét xử của người Thẩm phán. Sự trưởng thành từ cơ sở và trải qua các cấp của Toà án từ thấp lên cao, bản thân nó đã là cả một quá trình chọn lọc, đào thải khắt khe đối với người Thẩm phán. Cũng cần chú ý tới việc nâng cao tiêu chuẩn về chính trị và đạo đức nghề nghiệp cho các thẩm phán kinh tế, khi đề bạt các chức vụ lãnh đạo trong các Toà án các cấp, cần chú ý đến quan điểm chính trị, nhân cách, văn hoá nghề nghiệp, lối sống... của các Thẩm phán bên cạnh yếu tố trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong thực tiễn công tác. Vấn đề trình độ và năng lực của đội ngũ Hội thẩm nhân dân cũng cần được quan tâm. Hội thẩm là một chế định quan trong thể hiện tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Toà án. Chế định Hội thẩm đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngày 26/05/1993 đã đặt những cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới công tác Hội thẩm. Theo Điều 17 PLTTGQCVAKT, thành phần Hội đồng xét xử án kinh tế gồm 2 Thẩm phán và 1 Hội thẩm, tức là số lượng Hội thẩm ít hơn 1 người so với Hội đồng xét xử án dân sự, hình sự. Quy định như vậy là hợp lý, bởi mục đích cơ bản của việc giải quyết tranh chấp kinh tế là đảm bảo quyền lợi về kinh tế cho các bên tham gia tố tụng, nên không đòi hỏi cao sự tham gia của xã hội (do Hội thẩm đại diện). Thành phần Hội đồng xét xử, do đó có thể nâng cao tính chuyên nghiệp của việc giải quyết các vụ án kinh tế khi trên thực tế, trình độ kiến thức pháp lý, nghiệp vụ xét xử của đội ngũ Hội thẩm hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của việc tham gia xét xử các tranh chấp kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp cùng với đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp. Đối với Hội thẩm, ngoài các quy định hiện hành, cần đáp ứng một số yêu cầu cho phù hợp với nội dung cải cách tư pháp và thực tiễn hoạt động sôi nổi của kinh tế thị trường hiện nay. Các Hội thẩm nên chăng đã là các nhà doanh nghiệp, hoặc thành viên ban điều hành công ty là cán bộ quản lý kinh tế hoặc các thương gia. Họ cũng phải có kinh nghiệm làm công tác quản lý kinh tế, hoặc tham gia điều hành sản xuất kinh doanh từ 3-5 năm. Có như vậy thì đội ngũ Hội thẩm mới có thể có những hiểu biết tương đối sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, quản trị kinh doanh và nắm vững đựoc một số quy định cơ bản của pháp luật kinh tế, nhằm đảm bảo cho tư cách tham gia xét xử và góp phần làm cho bản án của Toà án kinh tế đúng đắn và có sức thuyết phục. Kết luận Cũng như các chế định tài phán khác, chế định tài phán trong kinh doanh có vai trò quan trọng bởi nó góp phần điều chỉnh và hoàn thiện các hoạt động kinh tế trong một nền kinh tế thị trường mở cửa ngày càng sôi động và đa dạng. Trong thời đại toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò ấy càng được nhấn mạnh bởi một trong những xu thế phát triển cơ bản của pháp luật các nước là quốc tế hoá, là sự tăng cường ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài đến sự phát triển của hệ thống pháp luật quốc gia. Pháp luật tài phán kinh tế trực tiếp chịu ảnh hưởng của xu thế này, vì chỉ có nó mới tạo ra được một môi trường pháp lý về giải quyết tranh chấp hoàn thiện, tạo nhiều thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều chỉnh và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế nói riêng và đẩy mạnh công cuộc Đổi mới tư pháp nói chung không chỉ là yêu cầu của tương lai mà còn là vấn đề bức xúc trong hiện tại. Thực tiễn xét xử đă chỉ rõ những bất cập của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; những lúng túng, sai sót, nhầm lẫn trong việc áp dụng pháp luật ở các Toà án kinh tế; sự mơ hồ, thiếu hiểu biết về pháp luật của các chủ thể kinh doanh và sự giảm sút niềm tin vào quy trình xét xử bằng con đường Toà án của các doanh nghiệp trong và ngòai nước. Việc xây dựng một khung pháp luật tài phán kinh tế hoàn chỉnh và đồng bộ, do đó, chính là một thách thức và cũng là một cơ hội lớn cho các nhà hoạch định chính sách và làm luật Việt Nam. ý thức được vai trò to lớn đó của pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế, Đảng và Nhà nước đã không ngừng nhấn mạnh, khẳng định và chỉ đạo công cuộc Đổi mới tư pháp, trong đó có sửa đổi và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế. Các cơ quan tư pháp, hành pháp cũng đưa ra các công trình nghiên cứu, tổ chức nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế về vấn đề này. Và sự ra đời của khoá luận này cũng chính là để thể hiện mong muốn của người viết, được đóng góp vào nỗ lực chung nhằm điều chỉnh những bất cập của chế định về tài phán trong kinh doanh. Khóa luận mới chỉ là những kết quả nghiên cứu bước đầu về thực trạng hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Toà án ở nước ta cùng những khó khăn của nó. Tác giả cũng đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với mong muốn những giải pháp này sẽ được áp dụng phần nào hoặc có giá trị gợi mở cho quá trình sửa đổi pháp luật tài phán kinh tế. Với đường lối chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, với nỗ lực không ngừng của các cơ quan và cán bộ tư pháp, có thể thấy mặc dù thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy con đường giải quyết tranh chấp bằng Toà án còn nhiều khúc mắc, nhiều bất lợi, song chắc chắn cơ chế tài phán kinh tế đang và sẽ ngày càng hoàn thiện nhằm tạo ra một sự tương thích nhất định với pháp luật quốc tế và tập quán thương mại quốc tế, hỗ trợ đắc lực cho một nền kinh tế nhỏ bé song năng động và phức tạp, cho xu thế hội nhập kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo Tính đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, TANDTC, 2001 Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Nguyễn Thị Mơ-Hoàng Ngọc Thiết, Trường đại học Ngoại thương Hà Nội, 1997. HĐKT và các chế định tài phán trong kinh doanh tại Việt Nam, Bùi Thị Khuyên- Phạm Văn Phấn- Phạm Thị Thuỳ Dương-NXB Thống kê, 2000 Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường đại học Luật Hà Nội Giải quyết tranh chấp bằng Toà án, Đào Văn Hội, NXB giáo dục, 1999 HĐKT và giải quyết tranh chấp kinh tế, Toà kinh tế TAND TPHCM, NXB TPHCM, 1999 Tìm hiểu thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế và thi hành án, Lê Kim Quế, NXB chính trị quốc gia, 2002 Thông tin khoa học pháp lý, Bộ tư pháp, 2000- 2001 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, 2001. Các báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án từ năm 1994-2001 Một số vụ án từ trích lục của TAND thành phố Hà Nội Pháp lệnh HĐKT 25/09/1989 PLTTGQCVAKT 16/03/1994 Luật thương mại Việt Nam 1997 Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 Luật doanh nghiệp Việt Nam 1999 Thông tư liên ngành số 04/ TTLN ngày 07/01/1995 của TANDTC –VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTGQCVAKT. Thông tư liên ngành số 04/ TTLN ngày 26/08/1996 hướng dẫn áp dụng Điều 12 PLTTGQCVAKT. Công văn số 11/ KHXX ngày 23/01/1996 của TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, các số từ 1995-2002 Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, các số từ 1996-2002 Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, các số năm 1997-2002 Tạp chí TAND, TANDTC, các số từ 1996-2002 Tạp chí Thương mại, Bộ thương mại, các số từ 1999-2002 Tạp chí Pháp lý, Trung ương Hội luật gia Việt Nam, các số năm 2002 Tạp chí Kiểm sát, VKSNDTC, các số năm 2001, 2002 Báo Công lý, TANDTC, các số năm 2002 Báo Pháp luật, Bộ tư pháp, các số năm 2002 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKLTN- Trieu Thu Huyen.DOC
  • docBia khoa luan.doc
Tài liệu liên quan