Phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng Công ty Nhà nước trong công nghiệp

Chương i sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp 1.Thực chất và đặc điểm của mô hình tổng công ty nhà nước trong công nghiệp. 1.1.thực chất của mô hình tổng công ty nhà nước. -Mô hình Tổng công ty ra đời là một tất yếu khách quan do tác động của các nhân tố cơ bản như: +Do tác động của quy luật tích tụ, tập trung hóa sản xuất và xã hội hóa sản xuất đó là sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng cao. +Do yêu cầu

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1170 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng Công ty Nhà nước trong công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đảm bảo tính thống nhất của quá trình tái sản xuất – xã hội, tái sản xuất mở rộng là một quá trình thống nhất. +Do tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật tối đa hóa lợi nhuận của các doanh nghiệp và tối đa hóa phúc lợi của Nhà nước. +Do tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thụât hiện đại. Mô hình Tổng công ty ra đời để thuận lợi trong việc sử dụng các yếu tố đầu vào như: nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị, máy móc, đào tạo, bòi dưỡng đội ngũ lao động, cán bộ kỹ thuật quản lý; ngoài ra Mô hình Tổng công ty ra đời còn giúp các doanh nghiệp kết hợp và hỗ trợ với nhau trong quá trình sản xuất và tiêu thụ tránh tình trạng sản xuất trùng lắp quá nhiều và các doanh nghiệp cùng ngành nghề cạnh tranh lẫn nhau. -Thực chất của mô hình Tổng công ty Nhà nước ở Việt nam là sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp thành viên thuộc những ngành then chốt, có liên quan với nhau về mặt công nghệ và về ngành nghề sản xuất, kinh doanh nhằm tăng cường sức mạnh của các doanh nghiệp cũng như của các ngành nghề then chốt để có thể tăng sức mạnh của cả nền kinh tế Việt nam. Cụ thể như tăng khả năng cạnh tranh, tăng tăng khả năng đổi mới và áp dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng tiềm lực về tài chính với mục đích cuối cùng là đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Do vậy, nên Tổng công ty nhà nước là một mô hình doanh nghiệp Nhà nước và thuộc sở hữu Nhà nước xứng đáng là công cụ của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trọng nền kinh tế quốc dân, giữ vững định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tổng công ty nhà nước phải có quy mô lớn và rất lớn dựa trên một số chỉ tiêu cơ bản như: Số lao động rất đông; quy mô vốn pháp định rất lớn; các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nuận và các khoản nộp ngân sách lớn; Số lượng đơn vị thành viên nhiều, khoảng 10 thành viên trở nên, có thể ở các ngành nghề khác nhau, phạm vi phân bố các doanh nghiệp thành viên là ở trên tất cả các tỉnh của đất nước, có thể đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở trên tất cả các nước nếu có khả năng. 1.2.đặc điểm của mô hình tổng công ty nhà nước. Trong thực tế hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại hai mô hình tổng công ty nhà nước. Thứ nhất là Tổng công ty 90 (thành lập theo quyết định 90 TTg), thứ hai là Tổng công ty 91 (thành lập theo quyết định 91 TTg). Giữa hai loại Tổng công ty này có sự phân biệt dựa trên một số chỉ tiêu như: Quy mô vốn pháp định, số lượng doanh nghiệp thành viên, cấp có thẩm quyền quyết định thành lập, phê chuẩn điều lệ và bổ nhiệm nhân sự của bộ máy của Tổng công ty. Cho đến nay, cả nước có 77 Tổng công ty 90 và 18 Tổng công ty 91 qua những doanh nghiệp đang tồn tại hiện nay có thể rút ra một vài kết luận là: Trước tiên là Tổng công ty 91 thí điểm thành lập Tập đoàn kinh doanh có một số đặc điểm nổi bật như: Xét về quy mô, các Tổng công ty ở nước ta đều có qui mô tương đối lớn xét trên các mặt: vốn, doanh thu và số lượng thành viên tham gia. Điều này một phần là do quy định của chính phủ (Theo quyết định 91 TTg của thủ tướng chính phủ thì các tổng công ty nhà nước phải có vốn pháp định từ 1000 tỷ đồng trở lên và phải có ít nhất 7 thành viên tham gia). Theo tính toán đến ngày 31-12-1993, tổng giá trị tài sản cố định của Tổng công ty dầu khí là 180,5 tỷ đồng và 948 triệu USD tương đương 10428 tỷ đồng. Doanh thu của các đơn vị đều ở mức cao. Ví dụ Tổng công ty Bưu chính viễn thông đạt doanh thu 1920,31 tỷ đồng, Tổng công ty thép là 2693 tỷ đồng, Tổng công ty hàng không là 2320 tỷ đồng. Về số lượng thành viên, Tổng công ty Bưu chính viễn thông có 17 doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, 59 đơn vị thanh toán phụ thuộc, 12 đơn vị sự nghiệp. Tổng công ty Giấy Việt Nam có 15 doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, 1 đơn vị hạch toán phụ thuộc và 2 đơn vị sự nghiệp. Xét về vai trò, các tổng công ty nhà nước đều nắm giữ những vị trí trong mỗi ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vị trí trọng yếu này thể hiện rõ trên hai mặt: - Sản lượng sản phẩm của Tổng công ty chiếm đại bộ phận sản lượng trong toàn ngành. Do vậy, sự phát triển của tổng công ty nhà nước có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp khác không nằm trong thành phần của tổng công ty nhà nước. Chẳng hạn Tổng công ty thép năm 1993 chiếm 99,6% tổng sản lượng thép cả nước, Tổng công ty xi măng chiếm 97,9%. - Sự phát triển của ngành và của tổng công ty nhà nước có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, các tổng công ty nhà nước được thành lập đều thuộc những ngành trọng yếu, được Nhà nước ưu tiên và có triển vọng phát triển cao. Xét thành phần, các tổng công ty nhà nước đều rất đa dạng về thành phần nhưng có nét chung. Các tổng công ty nhà nước ở nước ta hiện nay về cơ bản là thuộc sở hữu nhà nước, do đó gọi là tổng công ty nhà nước. Trong quá trình thành lập. Tổng công ty nhà nước đã thực hiện việc sắp xếp lại tổ chức, từng bước xoá bỏ sự phân tán của các doanh nghiệp. Thành phần các doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp do Trung ương quản lý và doanh nghiệp do địa phương quản lý. Điều đó có nghĩa là tình trạng chia cắt các doanh nghiệp thuộc Trung ương quản lý và chính quyền địa phương quản lý về cơ bản đã được xoá bỏ tạo điều kiện thuận lợi để thống nhất và đầu tư phát triển. Tuy vậy, cũng có những tổng công ty nhà nước thành phần về cơ bản không có gì thay đổi so với trước khi thành lập loại hình kinh doanh mới này. Chẳng hạn như Tổng công ty điện lực, xi măng, thép... ở các tổng công ty nhà nước này, các đơn vị thành viên của tổng công ty nhà nước có quan hệ với nhau về cùng tính chất ngành. Nói cánh khác tính đơn ngành của của các tổng công ty nhà nước thể hiện rõ nét. Nét mới đáng chú ý trong thành phần các tổng công ty nhà nước là các tổng công ty nhà nước đều có công ty tài chính, một đặc trưng của mô hình tập đoàn kinh doanh. Ví dụ Tổng công ty than thành lập công ty tài chính than, Tổng công ty điện lực có công ty tài chính điện lực. Xét về nền tảng tổ chức, các tổng công ty nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh doanh đều có chung nền tảng tổ chức ban đầu. Đó là sự chuyển đổi từ liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty nhà nước kiểu cũ sang tổng công ty nhà nước theo mô hình Tập đoàn kinh doanh. Nói cách khác, sự thành lập chúng là kết quả trực tiếp của quá trình thực hiện quyết định 91 TTg về thí điểm thành lập Tập đoàn kinh doanh và quyết định 90 TTg về việc tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Điều này cho thấy việc thành lập các tổng công ty nhà nước theo mô hình Tập đoàn kinh doanh ở nước ta có thuận lợi là dựa trên cơ sở điều kiện tiền đề đã có. Song nếu không xác định rõ tính chất của loại hình kinh doanh mới này sẽ không tránh khỏi việc đi theo lối mòn của các tổ chức tiền thân đã mắc nhiều khuyết điểm. Xét về cơ cấu tổ chức quản lý, Các tổng công ty nhà nước ở nước ta có cơ cấu tổ chức bộ máy cũng gần giống như công ty cổ phần nhưng về sở hữu lại khác. Như đã đề cập, các tổng công ty nhà nước về cơ bản thuộc sở hữu nhà nước. Cơ cấu bộ máy tổng công ty nhà nước bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban điều hành và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị của tập đoàn gồm 7 - 9 thành viên do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm thực hiện các nhiệm vụ đại diện cho Nhà nước về phần vốn góp của Nhà nước trong tổng công ty nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ và trước luật pháp. Tổng giám đốc do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm theo đề nghị của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của tổng công ty nhà nước chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị trước người bổ nhiệm mình và trước pháp luật về hoạt động điều hành tổng công ty nhà nước. Ban kiểm soát có 5 thành viên trong đó có thành viên Hội đồng quản trị làm trưởng ban theo sự phân công của Hội đồng quản trị và 4 thành viên khác do Hội đồng quản trị quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng công ty nhà nước, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên của tổng công ty nhà nước trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật, điều lệ tổng công ty nhà nước, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng quản trị. Đó là đặc điểm của Tổng công ty 91 theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Các Tổng công ty 90 về cơ bản cũng mang những đặc điểm trên như của Tổng công ty 91 nhưng có một vài khác biệt ở chỗ: Về quy mô, Tổng công ty 90 có mức vốn và doanh thu nhỏ hơn nhiều so với Tổng công ty 91. Vốn bình quân của một Tổng công ty 90 là 280 tỷ đồng rất nhỏ so với mức vốn bình quân 3661 tỷ đồng của Tổng công ty 91 theo số liệu năm 98. Năng lực sản xuất của Tổng công ty 90 rất nhỏ bé. Mặt khác xét về vị trí trong các ngành kinh tế quốc dân không phải là các đơn vị đều chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế nhưng là các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong ngành và có đóng góp lớn cho nền kinh tế. Một số Tổng công ty 90 hoạt động trong những ngành không thuộc định hướng phát triển của Chính phủ chẳng hạn Tổng công ty thuốc lá... Cũng như Tổng công ty 91, các Tổng công ty 90 ra đời trên cơ sở 250 tổng công ty nhà nước kiểu cũ được thành lập trước năm 1991 và do đó cũng có chung nền tảng ban đầu. Thành phần của các Tổng công ty 90 về cơ bản cũng như của Tổng công ty 91 và cũng mang tính đơn ngành rõ nét. Về cơ cấu tổ chức bộ máy, cũng giống như đối với Tổng công ty 91 nhưng chỉ khác ở chỗ người ra quyết định thành lập không phải là thủ tướng chính phủ mà là thủ tướng uỷ nhiệm . Người ra quyết định thành lập sẽ bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, các bộ phận khác cũng hoạt động giống như Tổng công ty 91. 2.Vai trò của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp. Để đáp ứng được những yêu cầu và thách thức của tình hình mới, phù hợp với chủ trương đường lối , chính sách của Đảng và Nhà nước đó là doanh nghiệp Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân để có thể làm sứ mệnh quan trọng là giữ vững Định hướng Xã hội chủ nghĩa thì loại hình doanh nghiệp tổng công ty nhà nước sẽ phải có những vai trò quan trọng mới để xứng đáng với vị thế to lớn của mình, trong đó có các vai trò cơ bản là: 2.1.Tổng công ty nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Các tổng công ty nhà nước hiện nay có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân, trong đó vai trò quan trọng bậc nhất đó là công cụ vật chất của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế nhằm định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được mục tiêu đó thì bộ phận doanh nghiệp quốc doanh phải nắm vai trò chủ đạo và thông qua các doanh nghiệp Nhà nước, nhà nước có thể tác động tới định hướng phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các tổng công ty nhà nước có vai trò trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận kinh tế quốc doanh để kinh tế quốc doanh thực sự phát huy vai trò chủ đạo của mình. Trên thực tế, các tổng công ty nhà nước ở nước ta đã và đang nắm giữ những ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta như điện lực, bưu chính viễn thông, thép, xi măng.v.v... và những ngành có tiềm năng phát triển và được ưu tiên phát triển cao để tạo động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, các tổng công ty nhà nước hoạt động có hiệu quả sẽ có vai trò trong việc góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng nguồn thu ngân sách, góp phần làm ổn định chính chị xã hội trong nước. 2.2.Có vai trò rất quan trọng trong việc triển khai ứng dụng công nghệ mới hiện đại vào quá trình sản xuất và áp dụng hình thức sản xuất kinh doanh với quy mô lớn. Đó là việc tập trung các nguồc lực về con người trong triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng vật chất lớn mà mỗi công ty riêng rẽ gặp rất nhiều khó khăn. Việc tập trung các nguồn vốn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cần thiết cho triển khai nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Các đề tài nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ đòi hỏi phải có sự phối hợp của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu cần thiết. Chỉ có trên cơ sở liên kết các công ty mới tạo được tiềm năng to lớn đó về nghiên cứu khoa học công nghệ. Mặt khác, nhờ sự liên kết của các doanh nghiệp thành viên trong tổng công ty nhà nước có thể thực hiện trao đổi thông tin và trao đổi những kinh nghiệm trong việc thực hiện nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ. Từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành viên có thể ứng dụng những thành tựu mới nhất vào sản xuất, sử dụng những thông tin và kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác cho doanh nghiệp của mình. 2.3.Có vai trò định hướng cho các doanh nghiệp thành viên trong tổng công ty tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thứ nhất, tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của cả tổng công ty nhà nước và của từng doanh nghiệp thành viên. tổng công ty nhà nước có thể tập hợp được các nguồn lực vật chất, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư phát triển, đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, có điều kiện mở rộng thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài. Thứ hai, các tổng công ty nhà nước có vai trò trong việc tập trung và điều hoà các nguồn vốn. Các tổng công ty nhà nước có thể huy động vốn từ các thành viên, hoặc từ bên ngoài và điều hoà các nguồn vốn để thực hiện các chương trình đầu tư theo chiều sâu, đầu tư vào những ngành có triển vọng phát triển cao cần nguồn vốn lớn và có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên khi gặp khó khăn về nguồn vốn. Việc đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ cần lượng vốn lớn do đó phải có sự tập trung vốn lớn mới thực hiện được. Việc tập trung vốn vào đầu tư có trọng điểm sẽ khắc phục được tình trạng vốn bị phân tán. Mặt khác, vốn có thể huy động từ các doanh nghiệp thành viên do đó các doanh nghiệp thành viên có mối quan hệ chặt chẽ với tổng công ty nhà nước và với các thành viên khác. Nhờ mối liên hệ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất các phương hướng chiến lược của các doanh nghiệp trong tổng công ty nhà nước phát triển kinh doanh chống lại sự cạnh tranh của các công ty nước ngoài. 2.4.Có vai trò trong công tác đối ngoại. Tổng công ty nhà nước có vai trò trong việc giải quyết các vấn đề và định hướng cho các doanh nghiệp thành viên trong quan hệ kinh tế với nước ngoài như trong vấn đề chuyển giao công nghệ. Ngoài việc trao đổi thông tin trong lĩnh vực nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ thì trong vấn đề chuyển giao công nghệ các công ty sẽ thực hiện hiệu quả hơn do các công ty có thể trao đổi thông tin trong lĩnh vực này, điều đó sẽ tránh cho vấn đề trùng lắp công nghệ chuyển giao hoặc có thêm kinh nghiệm chuyển giao công nghệ có hiệu quả. 3.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp. -Thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, với việc chuyển nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế thị trường, mở cửa nền kinh tế, cùng với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, khai thác những cơ hội kinh doanh và gây ra những thách thức về cạnh tranh, hội nhập. Để giải quyết vấn đề đó, một trong những biện pháp quan trọng là thành lập các tổng công ty nhà nước, nhưng trong thực tế thời gian qua các tổng công ty nhà nước hoạt động không có hiệu quả. Trước tình hình đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước là rất cần thiết để thoả mãn một số đòi hỏi của môi trường kinh doanh mới và để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. - Đó là tình hình chung, về cụ thể, hiện nay, chúng ta đang phải quan tâm đến thách thức lớn như: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã có hiệu lực khi đi vào thực thi ngoài những thuận lợi đạt được cũng có những cản trở và gây lên những thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho các tổng công ty nhà nước nói riêng là rất lớn. Điều đó đặt lên vai các tổng công ty nhà nước một sứ mệnh nặng nề. Và đặt ra một vấn đề là làm thế nào để nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trong đó có những lượng lớn hàng hóa của các tổng công ty nhà nước? Đây là một vấn đề cực kỳ bức xúc đòi hỏi các tổng công ty nhà nước phải nhanh chóng giải quyết một cách có hiệu quả nhất. Để các tổng công ty nhà nước cùng với các doanh nghiệp trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước giữ được vai trò chủ đạo của mình, trước hết hệ thống này phải đi đầu trong việc đổi mới, cải tiến thiết bị để từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm của hàng hóa của Việt Nam. +Là thành viên chính thức của ASEAN, theo dự kiến của chính phủ, đến 01/ 01/ 2006 Việt Nam gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Khi thực hiện AFTA, 90% dòng thuế của chúng ta sẽ phải giảm đi từ 0% - 5%. Sự gia nhập này là một khó khăn thách thức hết sức quan trọng và đáng phải quan tâm để tìm những biện pháp khắc phục phù hợp. -Nước láng giềng Trung Quốc đã trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta sẽ phải chịu sức ép và sức cạnh tranh về hàng hóa từ phía nước láng giềng này là rất lớn. -Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức tài trợ đặc biệt là Qũy tiền tệ Quốc tế (IMF) đềuđặt điều kiện phải cải cách doanh nghiệp nhà nước, mới đầu tư vào Việt Nam. Đây cũng là một thách thức không nhỏ. Đứng trước những thách thức đó, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước là việc làm có cấp bách cũng như về lâu dài. Từ năm 1991 đến nay, qua 3 lần đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cải tổ mô hình tổng công ty nhà nước đã thu được một số kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, nhất là về năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đó Trung ương Đảng đã chủ trương đánh giá thật toàn diện, sâu sắc những mặt được cũng như yếu kém, hạn chế của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam nói chung và các tổng công ty nhà nước nói riêng là rất cần thiết để có cơ sở đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả của nó một cách căn bản. Đảng ta cũng cho rằng: việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước là việc làm có cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phải khẩn trương kiên quyết triển khai thực hiện ; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn những sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững chắc. Như vậy, việc phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp không những là để thực hiện đúng Chủ trương, Đường lối, Chính sách của Đảng, Nhà nước ta mà còn là để đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của thực tế khách quan, có thể khái quát điều đó qua mấy vấn đề cơ bản sau đây: 3.1.Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải đối đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Xét về khả năng cạnh tranh, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đổi mới là doanh nghiệp vừa và nhỏ, do cá sự manh mún, phân tán và trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh trong thị trường nội địa và quốc tế là rất yếu, trừ một số ngành có khả năng cạnh tranh nhưng không phải do năng lực công nghệ mà do các yếu tố khác như độc quyền về nguyên liệu (ví dụ như nguyên liệu than) hoặc một số mặt hàng truyền thống. Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, thì trình độ tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định nhưng xét riêng các doanh nghiệp thì trừ một vài doanh nghiệp có quy mô lớn trang bị tương đối hiện đại còn lại là hầu hết có quy mô nhỏ bé. Nếu căn cứ vào 2 tiêu thức: vốn và lao động để xem xét thì trên 2/3 số DNNN có hiệu số lao động dưới 200 người, chỉ có khoảng 4% số lao động trên 100 người. Gần 1/2 số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, chưa đầy 20% có vốn 5 tỷ đồng, chỉ có 1% số doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng. Quy mô hạn chế, do đó trình độ công nghệ cũng thấp kém, xét trong phạm vi các doanh nghiệp nhà nước chỉ có 18% được đầu tư mới. Sau năm 1996 bình quân 14-15 năm mới đổi mới trang bị. Tài sản cố định hao mòn gần hết và cũ kỹ lạc hậu. Mặt khác, từ khi chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp trong các lĩnh vực hoạt động đều phải đối đầu với sự cạnh tramh ngày càng gay gắt. Về nguyên tắc, trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường liên kết và cạnh tranh với nhau. Thực tế các quan hệ kinh tế tuy đã được thiết lập và trong một số trương hợp đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, nhưng nhìn chung, tình trạng cạnh tranh có xu hướng lấn lướt các quan hệ kinh tế không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp trong nước thậm chí các doanh nghiệp thành viên trong cùng một tổng công ty nhà nước cũng cạnh tranh với nhau gây ra những bất lợi và thua thiệt trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại, vấn đề đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết, nhưng cùng với điều đó là vấn đề liên kết kinh tế và cạnh tranh có trật tự cũng phải được quan tâm nhằm tăng sức mạnh chung của các tổng công ty nhà nước, trong đó cần có một cơ chế rõ ràng hơn về vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp thành viên trong cùng một tổng công ty nhà nước để mô hình tổng công ty nhà nước ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn là một yêu cầu cấp thiết để tránh và hạn chế được những thiệt hại không đáng có như hiện nay. 3.2.Việc mở rộng hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đã và đang tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho các tổng công ty nhà nước. Về mặt quan hệ kinh tế đối ngoại. Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi các doanh nghiệp nước ta phải tận dụng những cơ hội kinh doanh thuận lợi. Nền kinh tế mở cửa các quan hệ kinh tế đối ngoại được phát triển mạnh đặc biệt là trong quan hệ liên doanh liên kết. Về cơ bản hoạt động liên doanh, liên kết nhằm để học hỏi kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp nước ta. Nhưng nếu các doanh nghiệp thành viên trong tổng công ty nhà nước tự động thực hiện liên doanh liên kết sẽ gây nhiều bất lợi. Tỷ lệ vốn góp ít, khả năng tài chính nhỏ bé và kinh nghiệm non kém sẽ bị bên đối tác nước ngoài chèn ép và phải bán phần vốn góp cho nước ngoài khi liên doanh bị thua lỗ, đó là một thực tế diễn ra trong thời gian qua. Như vậy, để tăng cường tiềm lực tài chính đảm bảo cho các hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả thì đòi hỏi các tổng công ty nhà nước phải có những giải pháp mới như định hướng cho các doanh nghiệp thành viên, làm vai trò kết nối giữa các thành viên này một cách có hiệu quả và cần có chính sách kinh tế đối ngoại phù hợp hơn nữa. 3.3.Đứng trên phương diện ngành, một số ngành có trình độ tích tụ cao, có khả năng đảm nhận vai trò trụ cột của nền kinh tế. Về vấn đề ngành kinh tế quốc dân, một số ngành đã đạt được trình độ tích tụ và tập trung nhất định, trong đó có những ngành trọng yếu, then chốt đang cần có những giải pháp thích hợp để nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung để có thể phát huy đầy đủ hơn vai trò làm động lực cho sự phát triển nền kinh tế. Trình độ tích tụ và tập trung sản xuất trực tiếp phản ánh trình độ phát triển của môi trường ngành, mỗi doanh nghiệp thông qua đó phản ánh trình độ ngành và vị trí của chúng trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. ở nước ta, nền kinh tế để đạt được những thành tựu nhất định và có những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế, một số ngành đã đạt được một số trình độ tích tụ và tập trung hoá sản xuất cao như Điện lực, Bưu chính viễn thông, Dầu khí, Xi măng, Cà phê, Điện lực, Bưu chính viễn thông, Cao su... Những ngành này đều chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Các tổng công ty nhà nước ra đời mới chỉ làm được một phần công việc đó. Như vậy, các tổng công ty nhà nước cần thiết phải đẩy nhanh quá trình này hơn nữa sao cho ngày càng có hiệu quả. 3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Về vấn đề nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất. Mặc dù nhiều ngành đã đạt được mức tăng trưởng cao, mức độ tập chung vốn lớn nhưng nhu cầu về vốn ngày càng tăng để đầu tư phát triển vì thế mà hầu hết các tổng công ty nhà nước ở một số ngành then chốt lại đang thiếu vốn. Ví dụ, để thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2010 Tổng công ty Bưu chính viễn thông cần khoảng 28695 tỷ đồng, Tổng công ty hàng không dân dụng có nhu cầu đầu tư trong 10 năm (1996-2005) khoảng 5690 triệu USD, Tổng công ty dầu khí cần khoảng 14.165 triệu USD, Tổng công ty thép cần 6.382 triệu USD từ 1994-2010. Để đáp ứng được nhu cầu về vốn lớn như vậy thì các tổng công ty nhà nước cần có chính sách thu hút vốn phù hợp với tình hình mới hiện nay. Mặt khác, các tổng công ty nhà nước cũng phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình, có nghĩa là phải Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước trong công nghiệp 3.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nhằm tạo ra sự phù hợp với cơ chế quản lý mới, góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Xét về năng lực quản lý kinh tế của cơ quan nhà nước, sự ra đời của tổng công ty nhà nước theo mô hình Tập đoàn kinh doanh đã có từ lâu. Các Tổng công ty được thành lập theo mô hình Tập đoàn kinh doanh được coi là biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế và là một trong những nội dung của cải cách doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện cơ chế quản lý mới. Hiện nay vẫn còn tình trạng phân tán trong quản lý các doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước do nhiều cơ quan khác nhau quản lý. Trong số các doanh nghiệp Nhà nước được đăng ký thành lập lại có tới 4573 doanh nghiệp do địa phương quản lý và có tơi 1971 doanh nghiệp do các bộ và cơ quan trung ương quản lý. Trên cùng một địa bàn lãnh thổ, các doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương chồng chéo, trùng lắp nhau về phương hướng sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn trên địa bàn Hà Nội có 355 doanh nghiệp Nhà nước thì 235 doanh nghiệp do nhà nước quản lý và 120 do chính quyền thành phố quản lý. Nhưng các doanh nghiệp trung ương lại có 22 cơ quan chủ quản và doanh nghiệp địa phương lại có tới 13 cơ quan chủ quản khác nhau. Sự phân tán chồng chéo đó không thể là điều kiện tốt để nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước về kinh tế, cũng không thể bảo đảm phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống doanh nghiệp Nhà nước và hệ thống kinh tế quốc dân. Sự tồn tại các cơ quan hành chính chủ quản đối với các doanh nghiệp đã gây nên những cản trở cho việc thực hiện chức năng "người nhạc trưởng" trong hoạt động điều hành hệ thống kinh tế quốc dân của Nhà nước, cản trở sự phát huy và tính tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Thực tiễn đã cho thấy mô hình liên hiệp xí nghiệp và Tổng công ty kiểu cũ đã phát huy được thế mạnh trong thời kỳ bao cấp nhưng trong thời kỳ nền kinh tế thị trường nó bộc lộ rất nhiều hạn chế. Nhiều liên hiệp xí nghiệp biến thành một cấp trung gian ít có tác dụng giúp đỡ các doanh nghiệp có khi gây ra những khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Vì thế thành lập các Tổng công ty theo mô hình Tập đoàn kinh doanh là cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Có thể thấy rõ điều này qua việc các Tổng công ty ra đời, cho đến nay với việc xoá bỏ chế độ chủ quản cơ quan hành chính đã tạo cho các doanh nghiệp quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần tăng cường quản lý Nhà nước về kinh tế trên cơ sở đảm bảo các cơ quan Nhà nước thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan này.Tuy nhiên, tổng công ty nhà nước vẫn chưa làm tốt được vai trò là người điều phối chính cho các doanh nghiệp thành viên mà vẫn còn tình trạng tổng công ty nhà nước chỉ là tổng hợp của các doanh nghiệp nhỏ mà thôi. Do đó, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của tổng công ty nhà nước theo đúng như tiềm năng của nó. Như vậy, để làm tốt được điều đó thì các tổng công ty nhà nước cần nâng cao vai trò của mình, đổi mối cơ cấu tổ chức…sao cho phù hợp hơn với thực tế nước ta. 4.Chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước trong công nghiệp. Với mục đích và yêu cầu của các tổng công ty nhà nước là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong từng thời kỳ là: 4.1.Thời kỳ trước 1994. Để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, thì vấn đề đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, mà trọng tâm là các doanh nghiệp nhà nước được coi là một trong các nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu phải được xúc tiến với nhịp độ nhanh, vững chắc và có hiệu quả. Việc ứng dụng các mô hình quản lý mới nhằm phát huy hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước là rất cần thiết khi mà mô hình cũ đã bộc lộ nhiều hạn chế, xuất phát từ hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã xác định chủ trương thành lập các Tập đoàn kinh doanh thông qua việc thí điểm thành lập các Tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh. Chủ trương thành lập các tổng công ty nhà nước theo hướng Tập đoàn kinh doanh đã được đề cập trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991 về việc "sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của cơ chế thị trường. Xây dựng một số tổng công ty nhà nước hoặc liên hiệp xí nghiệp có quy mô lớn, có uy tín lớn và khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài". Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ VII (khoá IV) của Đảng khẳng định: "Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ và tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, từng bước xoá bỏ chế độ bộ chủ quản cấp hành chính chủ quản đối với nhà nước. Trên thế giới, mô hình Tập đoàn kinh doanh đã tồn tại ở nhiều nước từ khá lâu và đã phát huy được sức mạnh của nó ._.trong việc mở rộng thị trường nước ngoài như các tập đoàn lớn với các công ty đa quốc gia như: Tập đoàn Misubishi của Nhật, Genera Motor (Mỹ) và các tập đoàn công ty ở Hàn Quốc. Chủ trương thành lập các tổng công ty nhà nước theo hướng Tập đoàn kinh doanh là một chủ trương lớn và cần thiết nhằm củng cố vai trò của nền kinh tế nhà nước trong điều kiện hiện nay. 4.2.Thời kỳ từ 1994 đến 2000. Để cụ thể hóa chủ trương thành lập tổng công ty nhà nước của Đảng đã ghi trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (Khóa IV ) năm 1991 và phát triển thêm một bước chủ trương này ngày 7/3/1994 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 91/TTg về “thí điểm thành lập các Tập đoàn kinh doanh” với mục đích tạo điều kiện, thúc đẩy, tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời chính phủ đưa ra quyết định 90/TTg về việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, xoá bỏ những hoạt động có tính chất trung gian, trả lại những nhiệm vụ có tính quản lý Nhà nước cho cơ quan quản lý ngành. Trong chủ trương xoá bỏ chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chiểu theo quyết định 91/TTg các đơn vị được lựa chọn làm thí điểm là một số công ty lớn có mối liên hệ theo ngành và theo lãnh thổ, không phân biệt doanh nghiệp trung ương hay do địa phương quản lý, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo những yêu cầu cho thị trường trong nước, có triển vọng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Tiếp theo đó, để hướng dẫn sự hoạt động của các tổng công ty nhà nước Chính phủ đã ra nhiều quy định có liên quan, Điều lệ về tổ chức và hoạt động của tổng công ty nhà nước như Nghị định 36/CP đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nhằm từng bước hoàn thiện mô hình tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp Nhà Nước nói chung mà có thành lập Hội đồng quản trị, ngày 04-3-1997 Thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 135/TTg ( do Phó Thủ tướng chính phủ lúc đó là Đồng chí trần đức lương ký). Chỉ thị đã đề cập đến một số nội dung cơ bản sau: - Bắt buộc tất cả các tổng công ty nhà nước có thành lập Hội đồng quản trị đều phải xây dựng quy chế hoạt động của Hội Đồng Quản Trị và Ban Kiểm Soát để xác định cụ thể trách nhiệm quyền hạn và mối quan hệ giữa các bộ phận và giữa các thành viên liên quan trong việc quản lý và điều hành các hoạt động của tổng công ty nhà nước. - Quy chế hoạt động của Hội Đồng Quản Trị phải tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo tính thống nhất và tăng cường hợp tác vì sự tiến bộ và sự nghiệp phát triển lâu dài của toàn tổng công ty nhà nước. Tập thể Hội Đồng Quản Trị trong đó có Tổng Giám Đốc hoặc Giám Đốc là tổ chức quản lý lãnh đạo tổng công ty nhà nước theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách”. Từng thành viên Hội Đồng Quản Trị được Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị phân công nhiệm vụ cụ thể phù hợp với quy chế của Hội Đồng Quản Trị đã Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị được ký ban hành. - Hội Đồng Quản Trị các tổng công ty nhà nước căn cứ vào Chỉ thị này, cùng với các quy định có liên quan, Điều lệ về tổ chức và hoạt động của tổng công ty nhà nước đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt, phải khẩn trương xây dựng Quy chế hoạt động của Hội Đồng Quản Trị và Ban Kiểm Soát cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng tổng công ty nhà nước và báo cáo với với cơ quan quyết định thành lập tổng công ty nhà nước`. Chính phủ cũng đã hướng dẫn rất cụ thể Quy chế hoạt động của Hội Đồng Quản Trị bao gồm 3 phần : Phần I là Những quy định chung có 4 điều quy định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn nguyên tắc làm việc trong đó điều 4 quy định riêng cho Tổng giám đốc. Phần II là những quy định cụ thể có 7 điều, quy định về tổ chức bộ máy của Hội Đồng Quản Trị; nhiệm vụ của các thành viên Hội Đồng Quản Trị; chế độ làm việc của Hội Đồng Quản Trị; mối quan hệ giữa Hội Đồng Quản Trị và Tổng giám đốc; điều kiện làm việc của Hội Đồng Quản Trị; phân cấp trách nhiệm đối với một số công việc cụ thể; một số quy đinh làm viêc chủ yếu. Phần III là Điều khoản thi hành có 2 điều. Ngoài ra Chính phủ còn có ban hành Quy chế hoạt động của Ban Kiểm Soát bao gồm 7 điều, trong đó có các nội dung cơ bản sau: những quy định chung về yêu cầu quyền hạn trách nhiệm và mối quan hệ giữa Ban Kiểm Soát và các bộ phận khác trong tổng công ty nhà nước ; tổ chức của Ban Kiểm Soát; Ban Kiểm Soát có nhiệm vụ thực hiện chức năng kiểm tra giám đối với những công việc cụ thể nào; quyền hạn trách nhiệm của Ban Kiểm Soát; chế độ làm việc của Ban Kiểm Soát. 4.3.Thời kỳ từ 2001 đến 2005 và 2010. -Nhằm tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, vẫn với mục tiêu giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và định hướng Xã hội chủ nghĩa, trong đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX có nêu ra như sau: +Trong kế hoạch đến năm 2010 về vấn đề hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa có đoạn : xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm lòng cốt trong các Tập đoàn kinh doanh lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí, điện, than, hàng không, đường sắt, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán… +Cũng về vấn đề này, trong kế hoạch 5 năm 2002 – 2005 Đảng yêu cầu phấn đấu cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước; củng cố và hiện đại hóa một bước các tổng công ty nhà nước. Về vấn đề định hướng cơ chế chính sách và các giải pháp chủ yếu thực hiện kế họach cần: kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước theo mô hình công ty mẹ – công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hóa, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia kinh doanh, làm lòng cốt để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như viễn thông, dầu khí, hàng không,… -Cụ thể hóa chủ trương này, Nghị quyết Trung ương III khóa IX có đề ra một số giải pháp cơ bản sau: +Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động từ nhiều nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viênvề sản xuất, tài chính,thị trường…; có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, làm lực lượng chủ lực trong việc đảm bảo các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đống góp lớn cho ngân sách; làm lòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần tổ chức tổng công ty nhà nước như khai thác, chế biến dầu khí và kinh doanh buôn bán xăng dầu; sản xuất và cung ứng điện, khai thác, chế biến, cung ứng than, các khoáng sản quan trọng; luyện kim; cơ khí chế tạo; sản xuất xi măng; bưu chính, viễn thông, điện tử, hàng không, hàng hải, hóa chất và phân hóa học, đường sắt, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng; hóa dược; xây dựng, kinh doanh buôn bán lương thực; ngân hàng, bảo hiểm… Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sự điều chỉnh phù hợp. Những tổng công ty nhà nước đang họat động không có đủ các yêu cầu trên sẽ được sắp xếp lại. Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra tổng công ty có thể đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Tổng công ty 100% vốn nhà nước phải có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại tổng công ty, nhận và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, tài sản nhà nước giao. Nhiệm vụ của hội đồng quản trị: Trình Thủ tướng Chính phủ ( hoặc bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ) xem xét quyết định chủ trương thành lập, chia tách, sáp nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể đơn vị thành viên; ban hành điều lệ mẫu; bổ nhiệm, miễn nhiêm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, ủy viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc; phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn của tổng công ty, các dự án đầu tư thuộc quyền Chính phủ phê duyệt. Quyết định bổ nhiệm phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, thông việc bổ nhiệm giám đốc đơn vị thành viên để tổng giám đốc ra quyết định; quyết định và chịu trách nhiệm về các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo chiến lược quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt và các phương án tổ chức quản lý tổ chức kinh doanh, biên chế bộ máy quản lý tổng công ty; ra quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế. Kiểm tra, giám sát tổng giám đốc, giám đốc đơn vị thành viên trong việc sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và thực hiện nghị quyết của hội đồng quản trị. Chính phủ quy định tiền lương, chế độ tiền thưởng cho hội đồng quản trị gắn với hiệu quả hoạt động của tổng công ty. +Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất - kinh doanh. Thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế trong một số ngành, lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: xây dựng, viễn thông, điện lực, dầu khí… 5.Những bài học kinh nghiệm nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty nhà nước trong công nghiệp. Tập đoàn kinh doanh cũng là một loại mô hình tổng công ty nhà nước và sản xuất kinh doanh rất có hiệu quả. Thực tế thời gian qua cho thấy một số Tập đoàn kinh doanh trên thế giới có những hoạt động sản xuất kinh doanh rất có hiệu quả, đặc biệt là các Tập đoàn kinh doanh ở nước Châu Âu và Châu á như : 5.1. Tập đoàn general motor. - Bắt đầu từ hoạt sản xuất ô tô, GENERAL MOTOR đã nhanh chóng mở rộng sản xuất sang các lĩnh vực khác. Thực chất nó là một công ty đa quốc gia, đa ngành nghề, tuy nhiên hoạt động chính vẫn là sản xuất ô tô. - Quản lý phi tập trung là cách có hiệu quả đối với Tập đoàn. Việc nhanh chóng dành quyền tự chủ cho các công ty thành viên là một trong những nhân tố chính đưa GENERAL MOTOR lên vị trí hàng đầu trong suốt 50 năm. Trong khi vẫn giữ quyền độc lập cho các công ty thành viên, GENERAL MOTOR vẫn thực hiện quản lý tập trung thống nhất về chiến lược tài chính và đầu tư. Tích tụ và tập trung sản xuất, vốn vẫn là con đường cơ bản trong việc hình thành và phát triển của Tập đoàn kinh doanh GENERAL MOTOR. So với các Tập đoàn kinh doanh khác, tích tụ đóng vai trò quan trọng hơn vì từ kết quả của hoạt động trong ngành sản xuất ô tô, Tập đoàn đã đầu tư mới xây dựng nhiều công ty sản xuất ô tô cùng ngàmh khác. - GENERAL MOTOR khá thành công trong việc áp dụng phương thức quản lý tiên tiến phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Trong khi giữ vững ngành chuyên môn hoá truyền thống, tập đoàn đã từng bước đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cùng với nó là có sự chuyển hướng kịp thời trong phương thức đầu tư cho phù hợp với sự biến động của thị trường trong từng giai đoạn. trong những năm gần đây đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh được GENERAL MOTOR đặc biệt nhấn mạnh. - Sự thành công của GENERAL MOTOR còn có một nguyên nhân khách quan nữa là nó được hoạt động trong môi trường rất thuận lợi do chính phủ tạo ra. Chính phủ Mỹ luôn nhận thức rằng sức mạnh của nền kinh tế Mỹ phụ thuộc chặt chẽ vào sự thành công và sức mạnh của các công ty khổng lồ này. Vì vậy luôn có sự gắn bó hết sức chặt chẽ giữa chính phủ nà các nhà kinh doanh lớn. Chính phủ Mỹ đã thực hiện vai trò của mình một cách có lợi nhất cho giới kinh doanh lớn, ví dụ như thông qua các hiệp định “tự nguyện bắt buộc” với chính phủ Nhật Bản để hạn chế sự sâm nhập của các Tập đoàn kinh doanh sản xuất ô tô của vào Mỹ. 5.2.Tập đoàn sam sung. - Tập đoàn SAMSUNG góp phần cơ bản vào sự thành công kỳ diệu của quá trình công nghiệp hóa, vào việc biến Hàn Quốc thành một nước tiên tiến về mặt công nghệ thông qua sự phát triển công nghệ cao và phương thức quản lý tiên tiến. - Từ chuyên môn hóa trong lĩnh vực thương mại, chỉ sau một thời gian ngắn SAMSUNG đã nhanh chóng trở thành một Tập đoàn kinh doanh hùng mạnh dưới hình thức một tập đoàn công ty, kinh doanh rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực từ những sản phẩm đơn giản đến những máy móc công nghiệp nặng, sản phẩm công nghệ cao. - Phương hướng đầu tư linh hoạt theo nguyên tắc đa dạng hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự đa dạng hóa các loại hình kinh doanh theo hướng phát triển tất cả các ngành nào có hứa hẹn cho lợi nhuận cao. Tuy nhiên trong phương hướng chiến lược luôn có các lĩnh vực chủ chốt như các sản phẩm công nghệ cao, các ngành mũi nhọn tương lai. Trong suốt quá trình phát triển, Tập đoàn SAMSUNG rất chú trọng đến nghiên cứu khoa học công nghệ và phát triển sản phẩm mới. Ví dụ trong năm 1989 SAMSUNG đã dành 4,2% tổng doanh thu cho hoạt động nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới. Tập đoàn đóng vai trò là trung tâm nghiên cứu chuyển giao công nghệ cho các công ty thành viên với mục tiêu đưa vào khai thác ứng dụng nhanh nhất, có hiệu quả nhất tiến bộ khoa học công nghệ mà bản thân mỗi công ty thành viên không thể đảm đương nổi. - Sự thành công của SAMSUNG cũng là kết quả của cách thức quản lý tiến, linh hoạt năng động phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và trên thế giới trong từng giai đoạn cụ thể. Tập đoàn luôn tìm cách đổi mới tổ chức quản lý, thực hiện một kiểu phi tập trung dựa trên cơ sở đa dạng hóa sản phẩm để đối phó kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu và đa dạng hóa của thị trường. Các công ty thành viên vẫn giữ tính độc lập pháp lý nhưng chiến lược chung của Tập đoàn vẫn giữ vững. Tập đoàn là trung tâm hỗ trợ giúp đỡ, điều hòa tài chính vào những lĩnh vực có khả năng phát triển đem lại lợi nhuận cao. - Trong suốt quá trình phát triển luôn có sự gắn bó chặt chẽ tương đồng giữa các chính sách công nghiệp hóa của đất nước với phương hướng chiến lược phát triển của Tập đoàn. chẳng hạn nhằm góp phần thực hiện chính sách công nghiệp hóa hướng vào suất khẩu của Chính phủ, một trong những trọng tâm chiếnlượcphát triển sản xuất kinh doanh của Tập đoàn là tập trung vào đẩy mạnh các hoạt nghiệp hóa chuyển sang chính sách khuyến khích phát triển thị trường trong nước các hoạt động kinh doanh của Tập đoàn bắt đầu chú ý vào tăng cường các hoạt động nhập khẩu. Tỉ lệ hàng hóa nhập khẩu và bán nội địa tăng lên khá nhanh trong những năm gần đây. Chính nhờ luôn đi đầu trong chính sách công nghiệp hóa của đất nước nên Tập đoàn SAMSUNG luôn nhận được sự động viên, hỗ trợ tích cực và kịp thời của Chính phủ. Ngược lại sự phát triển của Tập đoàn đã phản ánh và phục vụ thành công nhiệm vụ công nghiệp hóa đất nước. - Thành công của Tập đoàn SAMSUNG còn là vì Tập đoàn có một chiến lược kinh doanh táo bạo. Chiến lược đó một mặt đưa vào nghiên cứu dự đoán nhu cầu thị trường trong tương lai, mặt khác tận dụng tối đa những điều kiện thuận lợi và những cơ hội do chính sách phát triển công nghiệp hóa của Chính phủ đưa lại. Trong quá trình phát triển, Tập đoàn sẵn sàng chấp nhận và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới, tăng cường quốc tế hóa hoạt động sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn cầu. 5.3. Tập đoàn mitsubtshi. - Quá trình hình thành và phát triển của MITSUBISHI và các TĐKD Nhật Bản khác diễn ra với những nét đặc thù gắn liền lịch sử và đặc điểm dân tộc của Nhật. Đó là lịch sử phát triển lâu dài và nhanh chóng trở thành tập đoàn hùng mạnh trên thế giới. Ngay từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai, MITSUBISHI cũng như các Tập đoàn kinh doanh Nhật Bản khác đã là các tập đoàn rất mạnh trên thế giới. Đó là kết quả của sự kết hợp hài hòa giữa ba yếu tố: tính dân tộc đặc thù, khả năng nắm bắt xu thế hiện đại trên thế giới và có được sự hướng dẫn tích cực của nhà nước. - Chính phủ Nhật Bản có vai trò rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của MITSUBISHI. Nền kinh tế có hướng dẫn của Nhật Bản đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của Nhật Bản và tạo điều kiện đưa các công ty Nhật Bản, trong đó có MITSUBISHI, lớn ngang tầm các công ty độc quyền quốc tế trong khi đó lại hạn chế sự thâm nhập của các tập đoàn tư bản nước ngoài vào Nhật Bản. Ngược lại các Tập đoàn kinh doanh Nhật Bản là nhân tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của Nhật nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai - Vai trò của ngoại thương đặc biệt lớn. MITSUBISHI và hầu hết các Tập đoàn kinh doanh lớn nhất Nhật Bản hiện nay đều bắt đầu từ hoạt động ngoại thương. Ngoại thương được coi như là sự mở rộng chuyên môn hóa ở Nhật Bản. Các công ty thương mại Nhật Bản là những tập đoàn kinh tế khổng lồ giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Nhật Bản vì các nhà sản xuất Nhật Bản bị tách rời với thế giới bên ngoài và cần có tổ chức đứng ra làm cầu nối giữa họ với bên ngoài. Chúng đóng vai trò quan trọng như những trung gian môi giới trong việc chuyển giao kỹ thuật, môi giới trên các thị trường hàng hóa và vốn. Chúng còn là những nhà đâu tư quan trọng vào công nghiệp chế tạo của Nhật Bản. Chúng đã tiến hành nhiều hoạt động đóng góp vốn và kinh nghiệm kinh doanh trong công nghiệp chế tạo. - Bắt đầu từ kinh doanh chuyên môn hóa vận tải biển và các hoạt động xuất khẩu, MITSUBISHI đã nhanh chóng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sang rất nhiều các sản phẩm, các lĩnh vực khác bao gồm cả thương mại, tài chính, đầu tư sản xuất. Để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh thương mại và sản xuất các tập đoàn luôn có sẵn các nguồn tài chính lớn, và chúng giữ vai trò lãnh đạo trong quá trình phát triển của tập đoàn. Thực tế, MITSUBISHI đã trở thành một Tập đoàn kinh doanh đa quốc gia, đa ngành, đa chức năng lớn nhất Nhật Bản hiện nay. - Đặc điểm trong tổ chức quản lý của MITSUBISHI nói riêng và của các Tập đoàn kinh doanh của Nhật Bản nói chung, là các công ty con không phải độc lập hoàn toàn mà hoạt động như những công ty vệ tinh giữ được quyền tự do ở mức đáng kể. Thông thường các công ty thành viên trong các tập đoàn kinh tế của Mỹ có tính độc lập về kinh tế cao hơn so với các công ty ở Nhật Bản. - Qua MITSUBISHI ta còn thấy một thành công lớn trong phát triển Tập đoàn kinh doanh ở Nhật Bản là giải quyết tốt việc tách quyền sở hữu ra khỏi quyền quản lý. Phần lớn các Tập đoàn kinh doanh ở Nhật Bản là các tập đoàn có sở hữu gia đình, nhưng việc quản lý lại rất hiệu quả. Trong rất nhiều trường hợp người quản lý tập đoàn không phải là thành viên của gia đình. Yếu tố quyết định là sự lựa cán bộ quản có năng lực thực sự. 5.4.Tập đoàn volvo. - Từ một công ty nhỏ với nhiệm vụ ban đầu là sản xuất kinh doanh ô tô khách, chỉ sau một thời gian ngắn VOLVO đã trở thành một tập đoàn kinh tế lớn nhất trên thế giới. Đó là kết quả của việc lựa chọn đúng đắn phương hướng phát triển và tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh thích ứng với xu hướng vận động thay đổi của môi trường kinh doanh trên thế giới. - Hoạt động sản xuất kinh doanh của VOLVO bắt đầu đi từ chuyên môn hóa sản phẩm. Nhờ quá trình tự tích lũy và đầu tư mở rộng sản xuất theo nhiều phương thức khác nhau như đầu tư mở rộng sản xuất, mua lại các công ty nhỏ hơn, tham gia góp cổ phần trong các lĩnh vực khác, liên doanh, liên kết và cuối cùng các công ty cổ phần thành một bộ phận hữu cơ không tách rời của tập đoàn. Hoạt động phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh được tiến hành dựa trên cơ sở chủ yếu của liên kết dọc. Các sản phẩm đa dạng hóa đều có liên quan và gắn bó chặt chẽ với dây chuyền công nghệ ban đầu. Mặc dù tập đoàn ngày nay bao gồm rất nhiều các sản phẩm và hoạt động dịch vụ khác nhau nhưng chúng có liên quan hoặc phục vụ trực tiếp cho các hoạt động chính của tập đoàn. Cách tiến hành này rất phù hợp với loại ngành sản xuất phương tiện vận tải. Nhờ đó tập đoàn luôn phát huy được những lợi thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm trên thế giới. - Trong khi hoạt động sản xuất được mở rộng ra khắp nơi trên thế giới thì các hoạt động quan trọng như đầu tư tài chính, bảo hiểm và nghiên cứu ứng dụng được thực hiện tập trung, thống nhất tại Thụy Điển. Nhờ đó tập đoàn thực hiện một chiến lược kinh doanh chung thống nhất, đảm bảo sự phối hợp tích cực có hiệu quả giữa các công ty thành viên. - Việc phát triển và mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn trong nhiều năm liền được thực hiện theo hướng lấy công nghệ ban đầu là sản xuất ô tô làm hạt nhân. Các sản phẩm mới phát triển tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thiết bị giao thông vận tải nhưng không chỉ giới hạn trong khâu sản xuất, phương tiện vận tải đường bộ mà đã mở rộng sang phương tiện vận tải biển và hàng không. Phương hướng đa dạng hóa sản phẩm này cho phép tập đoàn phát huy được vị trí của mình trên thị trường thế giới thông qua khai thác có hiệu quả những kiến thức kinh nghiệm kinh doanh và khoa học công nghệ sẵn có. - Tập đoàn VOLVO cũng luôn nắm bắt kịp thời các xu thế biến đổi của thời đại để chuyển hướng thích ứng với tình hình mới. Các hoạt động đã và đang được đa dạng hóa theo mô hình công ty và tập đoàn công ty. Điều đó có nghĩa là các hoạt động bắt đầu xa rời các lĩnh vực ban đầu và chuyển vào bất kỳ lĩnh vực nào có lợi nhuận cao. Việc tập đoàn có tới 26% cổ phần trong công ty dược và ý định mở rộng hoạt động của nó đã chứng minh điều đó. Đây là một chuyển hướng tích cực đúng theo xu thế kinh doanh hiện đại, phản ánh giai đoạn mới trong sự phát triển của tập đoàn VOLVO. 5.5.Tập đoàn Chế biến Thực phẩm quốc tế Hình thành Tập đoàn Chế biến Thực Phẩm Quốc tế theo phương thức hợp nhất là một chiến lược hợp lý, có hiệu quả mà các công ty Chế biến Thực Phẩm thành viên đã lựa chọn. Thông qua tập đoàn, các công ty thành viên đã phối hợp được các nguồn lực tạo ra sức mạnh tổng hợp, tăng cường khả năng cạnh tranh, củng cố vị thế và mở rộng sản xuất kinh doanh trên thị trường.Tập đoàn Chế biến Thực Phẩm Quốc tế mang hình thức “tổ chức kinh tế có sự phối hợp hành động chung” (cartel) dựa trên sự hợp nhất của các công ty trong cùng một ngành và nó chính là kết quả của sức ép cạnh tranh của các Tập đoàn Chế biến Thực Phẩm lớn mạnh khác. phương hướng phát triển và đa dạng hóa sản phẩm đều nằm trong lĩnh vực Chế biến Thực Phẩm. Quy mô và khả năng sản xuất kinh doanh không lớn lắm nên luôn chịu sức ép mạnh mẽ của cạnh tranh với các tập đoàn hàng đầu thế giới. Hình thức tổ chức tập đoàn mới đã tạo nên sức sống mới cho các công ty thành viên và cho cả Tập đoàn như là một thể thống nhất trong công việc tìm kiếm và mở rộng ra thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chiến lược quốc tế hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn đã đạt được những thành công nhất định. Những hoạt động tích cực trong việc mở thị trường sang các nước Bắc Mỹ và các nước châu Âu đã giúp Tập đoàn vượt qua thờ kỳ khó khăn, từng bước mở rộng thị trường. Qua đó cho thấy Tập đoàn có thể coi như một giải pháp chiến lược để thâm nhập và tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tập đoàn Chế biến Thực Phẩm Quốc tế đã thực hiện nhiều phương thức khác nhau như xuất khẩu, hợp đồng bán giấy phép và nhãn hiệu hàng hóa, xây dựng các nhà máy chế biến kinh doanh trên thị trường thế giới. Việc kết hợp các hình thức phong phú đó đã góp phần không nhỏ vào củng cố, phát triển Tập đoàn và các công ty thành viên. Tuy nhiên, không phải thị trường nào cũng áp dụng những phương thức như nhau và đem lại những kết quả tốt ngay từ đầu. Việc thành lập công ty góp vốn cổ phần và xây dựng nhà máy chế biến ở Pháp giống như làm ở Anh đã gặp những thách thức cạnh tranh mạnh mẽ trong việc chiếm giữ và phát triển thị trường trên đất Pháp. Tập đoàn đã phải cố gắng rất lớn để vượt qua những thách thức đó. Nhờ có sự chỉ đạo thống nhất theo chiến lược chung, phối hợp sức mạnh của các công ty thành viên, Tập đoàn đã huy động kịp thời nguồn vốn đầu tư cho thực hiện dự án đổi mới dây chuyền công nghệ của công ty Chế biến Thực Phẩm Pháp, góp phần nâng caop chất lượng sản phẩm,tăng khả năng cạnh tranh, nhanh chóng thoát khỏi tình trạng trì trệ, củng cố và phát triển sản xuất kinh doanh trên thị trường Pháp. 5.6.Tập đoàn xi măng SIAM - Từ một công ty chuyên môn sản xuất cung ứng xi măng, sau 70 năm phát triển đã trở thành một Tập đoàn kinh doanh hùng mạnh nhất Thái Lan tổ chức theo kiểu tập đoàn công ty. Tập đoàn đi từ hoạt động sản xuất đã mở rộng sang hoạt động thương mại bằng cách trong khi giữ vững và khai thác chuyên sâu thêm các sản phẩm truyền thống, Tập đoàn đã mở rộng sản xuất kinh doanh theo hướng đa dạng hóa sản phẩm tạo ra cơ cấu sản phẩm hết sức đa dạng và phong phú. Việc mở rộng sản xuất kinh doanh được thực hiện từng bước từ thấp đền cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trước Tập đoàn phát triển các sản phẩm có liên quan về mặt công nghệ gần gũi về tổ chức sản xuất, chẳng hạn từ xi măng sang vật liệu xây dựng, máy móc xây dựng rồi đền các lĩnh vực khác. Hoạt động của Tập đoàn không chỉ còn bó hẹp trong sản xuất mà được mở rộng sang thương mại và suất khẩu. Tuy nhiên do đặc điểm kinh tế xã hội của Thái Lan còn thấp nên hoạt động của Tập đoàn cũng chỉ mới giới hạn (dừng lại ) ở dạng liên kết phát triển sản xuất với thương mại mà chưa có các hoạt động ngân hàng bảo hiểm như ở các tập đoàn hùng mạnh ở Châu Âu và Châu Mỹ. - Sự phát triển của Tập đoàn thực hiện chủ yếu bằng hai cách: + Thứ nhất là các bộ phận của công ty lớn do sự phát triển của sản xuất, tự lớn lên và khi có đủ khả năng sản xuất đã tách thành những công ty độc lập nhưng vẫn là thành viên của Tập đoàn để đáp ứng nhu cầu trong nước tăng nhanh trong những năm gần đây. + Thứ hai là hàng loạt các công ty thành viên của Tập đoàn được thành lập theo kiểu liên doanh với nước ngoài. Sự phát triển của tập đoàn dựa vào liên doanh với các công ty nước ngoài là một xu hướng mới xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. Nó thể hiện sự phản ứng linh hoạt của các công ty kinh ở các nước kém phát triển nhằm thích ứng với sự vận động và phát triển của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện đại. Phát triển các công ty liên doanh cho phép khai thác được các nguồn vốn đầu tư và công nghệ nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu trong nước và nước ngoài (xuất khẩu). Hầu hết các công ty liên doanh của Tập đoàn đều có sản phẩm xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Bằng cách này Tập đoàn xi măng SIAM có điều kiện để dần thâm nhập vào thị trường thế giới.Sự phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh của Tập đoàn xi măng SIAM chủ yếu tập trung vào hai chục năm gần đây. Hàng loạt các công ty mới hình thành và các công ty liên doanh ra đời từ sau những năm 80. Điều đó phản ánh một thực tế khách quan là sự phát triển của Tập đoàn gắn bó chặt chẽ với tình hình phát triển và tăng trưởng kinh tế của Thái Lan, đồng thời nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan phát triển nhanh hơn. CHươNG II Đánh giá hiệu quả hoạt động của cáC tổng công ty nhà nước trong công nghiệp thời gian qua. 1.Hiệu quả hoạt động của một số tổng công ty điển hình. 1.1.Hiệu quả hoạt động của Tổng công ty thép Việt Nam Tổng công ty Thép Việt Nam là một trong 23 doanh nghiệp lớn của nhà nước được xếp hạng đặc biệt, hoạt động theo mô hình tổng công ty 91. Sau hai năm hoạt động theo mô hình này, Tổng công ty và các đơn vị thành viên đã có những nỗ lực vượt bậc thể hiện rõ nét trên một số mặt sau: Tổng công ty đã xây dựng cơ chế điều hành theo mô hình Tổng công ty 91. Điều tra khảo sát và xây dựng các định hướng chiến lược, quy hoach phát triển ngành thép êôfng thời tham gia với Nhà nước đề ra các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển ngành . Tổng công ty đã cố gắng chỉ đạo sản xuất – kinh doanh, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu trong nước về các loại thép xây dựng thông dụng, giữ ổn định thị trường thép trong cả nước. Bước đầu phát huy được sức mạnh chung của toàn ngành, hỗ trợ cho các đơn vị thành viên trong các lĩnh vực tài chính, tiêu thụ sản phẩm, đầu tư phát triển. Tổng công ty đã chủ trương đúng và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả trên một số lĩnh vực như xử lý hàng tồn đọng, quản lý hàng khai thác xã hội, đẩy mạnh kinh doanh thép sản xuất trong nước …, do vậy đã góp phần cải thiện tình hình kinh doanh, tài chính của ngành; nhiều đơn vị sản xuất hoạt động có lãi, nhiều đơn vị kinh doanh đã giảm lỗ, tiến tới có lãi. Việc sắp xếp một bước các phòng ban của cơ quan Tổng công ty cũng như các đơn vị thành viên đã được thực hiện trên cơ sở giảm đầu mối, gắn chặt sản xuất với kinh doanh. Các đơn vị được sắp xếp lại đã nhanh chóng ổn định, hoạt động đi dần vào nền nếp và từng bước phát huy hiệu quả. Tuy nhiên,trong 2 năm hoạt động của Tổng công ty cũng đã phát sinh những tồn tại sau : -Tuy sản lượng thép của cả nước vẫn tăng ở mức 13% năm, nhưng sản lượng thép của các đơn vị thành viên Tổng công ty thép Việt nam có xu hướng chững lại, dẫn tới một số chỉ tiêu kế hoạch đạt không cao. - Các vấn đề cơ bản của chiến lược đầu tư phát triển của Tổng công ty còn lúng túng, như nguyên liệu nhiên liệu, cơ sở hạ tầng ,vốn…dẫn tới các dự án cụ thể hầu như dậm chân tại chỗ. Qua thực tiễn chỉ đạo sản suất kinh doanh theo mô hình Tổng công ty 91, tổng công ty thép rút ra một số kinh nghiệm sau : Thứ nhất, thường xuyên bám sát thị trường ;làm tốt công tác thị trường ;làm tốt công tác thị trường để kịp thời đề ra các giảI pháp sản suất kinh doanh . Thứ hai, Phân công và hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị trong hệ thống ngành, đồng thời x._.à đôi khi còn có tác dụng ngược lại. Do vậy, song song với đổi mới công nghệ cần đạo tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho phù hợp nhằm làm chủ công nghệ được giao. Chỉ khi đó mới tạo ra được hiệu quả sản xuất kiinh doanh cao nhất đáp ứng được yêu cầu của đổi mới công nghệ. 2.3.Hoàn thiện cơ chế tạo lập vốn đầu tư. Từ một Chủ trương lớn của Đảng: “ Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới”, đến nay nhiều Tổng công ty tổ chức theo hướng Tập đoàn kinh doanh ở nước ta đã được thành lập. Mục đích nhằm chuyển các Tổng công ty này sang mô hình sản xuất kinh doanh mới hoàn toàn thay đổi về chất, trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, là công cụ thực sự trong tay Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo của thành kinh tế Nhà nước cũng như hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Vấn đề cốt lõi ở đây là tìm ra được một cơ chế tạo lập vốn đầu tư của các Tổng công ty nhà nước để thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung cao về vốn. Cơ chế này phải phát huy từ những quan điểm sau đây: Đảm bảo pháthuy lợi thế, tiềm lực kinh tế - tài chính của từng thành viên cũng như của cả Tổng công ty nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung cao về vốn. Phải đạt yêu cầu tập trung điều hòa vốn linh động, chuyển dịch vốn nhanh, kịp thời huy động được nguồn vốn lớn để đầu tư vào những nơi có khả năng sinh lợi cao. Đảm bảo sự hài hòa và thống nhất lợi ích giữa các thành viên cũng như giữa các thành viên với cả Tổng công ty. Phải phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên và với cả Tổng công ty trong qúa trình huy động và sử dụng vốn đầu tư nhằm đảm bảo và phát triển vốn. Phải sử dụng một cách triệt để nhất, linh hoạt nhất tất cả công cụ tài chính – tiền tệ trong qúa trình huy động, tạo lập, quản lý và sử dụng vốn cho nhu cầu về đầu tư phát triển. Từ đó cần Hoàn thiện cơ chế tạo lập vốn đầu tư phát triển của các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp ở nước ta hịên nay theo các nội dung chủ yếu sau: 2.3.1.Quy trình xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển. Trước hết, Tổng công ty phải xây dựng chiến lược đầu tư cho toàn Tổng công ty trên cơ sở xác định lợi thế so sánh, tiềm năng thị trường, công nghệ sẵn có. đây là điều kiện tiền đề để phát huy hiệu quả của đồng vốn đầu tư, là căn cứ để kế hoạch đầu tư phát triển cho Tổng công ty và cho các đơn vị thành viên. Kế hoạch đầu tư phải được xây dựng từ cơ sở vì cơ sở là nơi xuất hiện nhu cầu đầu tư. Tổng công ty có nhiệm vụ tổn hợp kế hoạch đầu tư toàn bộ. Nội dung của kế hoach đầu tư tối thiểu gồm có: giá trị các hạng mục công trình, bảng cân đối vốn, các chỉ tiêu hiệu qủa đầu tư. 2.3.2.Cơ chế điều hòa vốn, quản lý và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản và các quỹ tập trung khác. Trong giai đoạn hiện nay, Tổng công ty nhà nước cần có một nguồn vốn tập trung đủ mạnh để có thể quyết định kịp thời việc chuyển vốn vào những nơi có khả năng sinh lợi cao, giành ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy, một đòi hỏi bức thiết đặt ra là phải có cơ chế để Tổng công ty có thể huy động được tất cả các nguuồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ để hình thành các quỹ tài chính tập trung. Muốn vậy, phải thành lập một công ty tài chính hoạt động như một thành viên độc lập. công ty tài chính trước hết là một tổ chức tài chính phục vụ nhu cầu nội bộ của Tổng công ty, song cơ chế hoạt động như một ngân hàng nội bộ. Muốn vậy, Phải định được lãi suất , cả lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Thời gian đầu, lãi suất tiền gửi tại công ty tài chính chưa thể bằng lãi suất tiền gửi tại Ngân hàng thương mại được, song cũng không thấp hơn mức trượt giá hàng năm do Ngân hàng Nhà nước công bố. để khuyến khích các đơn vị thành viên vay vốn đầu tư, lãi suất tiền vay nên thấp hơn lãi suất tiền vay của Ngân hàng thương mại và Ngân hàng đầu tư. 2.3.3. Cơ chế tài chính để tham gia thị trường vốn và thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán đã bắt đầu chuyển động nhưng nhìn chung thì “ hàng hóa” tham gia thị trường này vẫn thuộc về phía Nhà nước, còn quá ít “ hàng hóa” từ các doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa một số bộ phận kinh doanh của Tổng công ty Nhà nước để tăng thêm nguồn vốn cho Tổng công ty, mặt khác phải xúc tiến việc tìm kiếm thị trường đầu tư để tiến hành bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, kể cả trái phiếu quốc tế. Dịch vụ cổ phần hóa giao cho công ty tài chính thuộc Tổng công ty đảm nhận. Trong hai hình thức nói trên, thì hình thức thứ nhất diễn ra ở giai đoạn đầu khi mà hình sở hữu chủ yếu là hình thức sở hữu Nhà nước. hình thức thứ hai diễn ra chủ yếu khi thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ. đó cũng là con đường để chuyển các Tổng công ty mạnh từ hình thức đơn sở hữu sang hình thức đa sở hữu. 2.3.4. Cơ chế gọi vốn liên doanh trong và ngoài nước Liên doanh là giải pháp cho phép giải các nguồn vốn ở dạng tiềm năng của mỗi doanh nghiệp, phát huy lợi thế riêng ở từng doanh nghiệp, tổng hợp và nhân lên sức mạnh cảu công nghệ và kỹ năng, kinh nghiệm quản lý của các bên liên doanh. để có thể thực hiện được các dự án liên doanh đúng hướng, có hiệu quả, Tổng công ty nhất thiết phải có “Hội đồng thẩm định các dự án đầu tư”. Việc liên doanh phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả , bảo toàn và an toàn vốn, tăng thu nhập. Lợi nhuận thu được trong họat động liên doanh sau khi trừ đi khoản làm nghiã vụ với ngân sách Nhà nước, hoàn trả lãi vay vốn, các chủ thể liên doanh và các Tổng công ty cần được toàn quyền chủ động phân phối và sở dụng theo quy định tài chính hiện hành. Vấn đề về vốn đang trở lên hết sức nóng bỏng đối với các Tổng công ty nhà nước, việc huy động và sử dụng vốn ở các Tổng công ty nhà nước hiện nay là rất quan trọng, cần phải có chính sách tạo nguồn vốn và tăng cường các biện pháp quản lý vốn để tăng tiềm lực tài chính cho các Tổng công ty. Ngoài việc tạo ra một quy chế tài chính rõ ràng, có thể sử dụng một số biện pháp nhằm làm tốt công tác huy động và sử dụng vốn ở các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp hiện nay như sau: Cổ phần hóa một số doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty để huy động vốn tiềm tàng mà vẫn duy trì sự quản lý của Nhà nước ở mức độ cần thiết. Tuy nhiên cần nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các Tổng công ty sau khi diễn ra quá trình cổ phần hóa ở một số doanh nghiệp thành viên. một số Tổng công ty đã thu được một số kết quả bước đầu từ việc thí điểm cổ phần hóa một số đơn vị trực thuộc và rút ra kinh nghiệm để tiếp tục cổ phần hóa một số đơn vị thành viên khác trong Tổng công ty Nhưng cần được tháo gỡ các khó khăn về cơ chế và thủ tục. Vì vậy, Nhà nước cần đề ra các cơ chế và chính sách giúp cho doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trên. qua thực tế tiến hành cổ phần hóa ở một số doanh nghiệp thuộc các Tổng công ty nhà nước cho thấy có một số khăn cần phải sớm nghiên cứu tháo gỡ, trong đó có việc xác định giá trị doanh nghiệp. Khi xác định giá trị doanh nghiệp cần chú ý đánh giá ảnh hưởng của việc xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa. đây là một yêu cầu quan trọng, nếu không xác định đúng giá trị doanh nghiệp sẽ gây ra khó khăn cho quá trình cổ phần hóa. Cần nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta. đa dạng hóa các kênh tài chính và giải phóng nguồn vốn bên trong Tổng công ty. Bài toán về vốn đã và đang thu hút sự quan tâm của công luận vì có ảnh hưởng quyết định đến khả năng hoạt động và sức cạnh tranh của Tổng công ty. Cần làm cho các nguồn vốn tín dụng ngân hàng được khai thông và linh hoạt hơn, đơn giản hóa các quy định và thủ tục gây ách tắc trong nguồn vốn tín dụng. Ngay ở lĩnh vực này, các ngân hàng nước ngoài cũng thể hiện những ưu thế hơn trong cạnh tranh, thủ tục thuận lợi hơn so với các ngân hàng ở Việt nam. Nên thí điểm đa dạng hóa các phương thức tạo vốn để tăng cường năng lực tài chính cho các Tổng công ty trọng điểm. Cho phép một số doanh nghiệp Nhà nước được phát hành trái phiếu công ty một cách rộng rãi hơn, vừa huy động được vốn trong dân để kinh doanh, vừa thúc đẩy được sự hình thành của thị trường trái phiếu công ty. Tập trung đầu tư có trọng điểm một số Tổng công ty nhà nước để có đủ khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Cần khẳng định rằng nếu các Tổng công ty nhà nước muốn có đủ khả năng cạnh tranh với các công ty nước ngoài thì trước hết phải đảm bảo khả năng tài chính với quy mô đủ lớn. Thực tế, sau khi thành lập lại 74 Tổng công ty nhà nước có thể nói rằng quy mô của các Tổng công ty nhà nước ở Việt nam còn quá nhỏ bé so với các công ty trung bình của các nước trong khu vực. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt như hiện nay, xu thế sáp nhập , liên kết diễn ra hết sức mạnh mẽ, do đó các Tổng công ty nhà nước cũng cần phải liên kết để tăng thêm sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh tài chính cho mình. với quy mô vốn quá nhỏ bé của các Tổng công ty nhà nước ở Việt nam hiện nay so với nước ngoài, rõ ràng các Tổng công ty nhà nước sẽ mất khả năng cạnh tranh, không có đủ năng lực chi trả cho các chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí MARKETING như các đối thủ cạnh tranh đã, đang và sẽ làm. Ngoài ra, thúc đẩy nhanh quá trình liên kết nội bộ cũng là một khả năng thu hút, huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty. Cũng với điều đó thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý tài chính là rất cần thiết. Quy mô Tổng công ty càng lớn thì càng cần đội ngũ cán bộ quản lý tài chính giỏi và có năng lực, phẩm chất tốt. Có thể thấy rằng vấn đề tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là cho các Tổng công ty nhà nước là rất cân thiết trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì, nó là yếu tố quyết định quy mô và khả năng cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước. Nếu khả năng tài chính tốt, thì quy mô của các Tổng công ty nhà nước càng lớn và từ đó sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước trên thị trường trong nước và nước ngoài. Ngược lại, nếu không có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh thì trong điều kiện ngày nay nền kinh tế thị trường sẽ không chấp nhận doanh nghiệp ấy, các doanh ngiệp sẽ bị những quy luật nghiệt ngã của kinh tế thị trường đào thải. Và các doanh nghiệp kể cả các Tổng công ty nhà nước cũng không thể ỷ lại vào Nhà nước được, cũng không thể hoạt động ngoài các quy luật nghiệt ngã ấy của nền kinh tế thị trường, điều đó sẽ dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. 2.4.Nâng cao chất lượng sản phẩm và đổi mới cơ chế quản lý chất lượng. Do sức ép của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường và do yêu cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nêu cao vai trò chủ đạo và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp nói riêng, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang được coi là những nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Đi liền với vấn đề đó, vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp Nhà nước cũng cần có sự quan tâm hơn nữa và phải đặt đúng với vai trò vị trí của nó. Trong những năm đổi mới vừa qua, các doanh nghiệp Nhà nước phải đương đầu với những thách thức như cung lớn hơn cầu do sản xuất quá nhiều so với nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng, hàng ngoại nhập tràn đầy, thị trường trong và ngoài nước yêu cầu khắt khe về chất lượng. điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các Tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 phải quan tâm hơn nữa tới đảm bảo và nâng cao chất lượng. Trong quá trình đổi mới quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển biến tích cực, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, thay đổi nhận thức về vai trò và nội dung quản lý chất lượng. Nếu như trước đây các doanh nghiệp đồng nhất quản lý chất lượng với kiểm tra chất lượng và coi việc đảm bảo, nâng cao chất lượng là trách nhiệm của người sản xuất và người kiểm tra chất lượng, coi quản lý chất lượng là công việc của bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm, thì ngày nay các doanh nghiệp Nhà nước đã hiểu quản lý chất lượng đầy đủ hơn, các doanh nghiệp Nhà nước đã coi quản lý chất lượng là công việc của tất cả mọi người, mọi tổ chức trong doanh nghiệp, gồm tổng hợp các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức , xã hội, văn hóa được tiến hành đồng bộ ở các khâu của chu trình sản xuất và cung ứng dịch vụ, từ Marketing, thiết kế, chế tạo, lắp đặt, sử dụng và bảo hành nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. Thứ hai, xác định vai trò lãnh đạo đối với quản lý chất lượng. Vấn đề quản lý chất lượng không chỉ thuộc về cán bộ quản lý chất lượng mà cả lãnh đạo cũng cần phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận trong doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã xác định 80 – 90% trách nhiệm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm thuộc về giám đốc. Bởi vậy, quản lý chất lượng là công việc, trách nhiệm của tất cả mọi người, mọi tổ chức, bộ phận trong doanh nghiệp. Để nâng cao vai trò của lãnh đạo đối với quản lý chất lượng, một số doanh nghiệp đã có cơ cấu bộ máy quản lý doanh nghiệp và bộ máy quản lý chất lượng theo mô hình giám đốc trực tiếp nắm các bộ máy quản lý chất lượng. Một số doanh nghiệp đã xây dựng chính sách, chiến lược chất lượng và coi trọng công tác đào tạo chất lượng cho giám đốcvà toàn thể cán bộ công nhân viên. Có thể nói rằng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, vấn đề chất lượng là yếu tố quan trọng, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp rất coi trọng việc đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó việc quản lý chất lượng được coi trọng, nó không chỉ là trách nhiệm của cán bộ sản xuất hay cán bộ quản lý chất lượng mà nó là trách nhiệm của lãnh đạo và toàn bộ doanh nghiệp. Thứ ba, xác định biện pháp chủ yếu của quản lý chất lượng. Có rất nhiều biện pháp quản lý chất lượng đã được áp dụng trong các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng vấnđề đặt ra là sử dụng bịên pháp quản lý nào là có hiệu quả nhất. Trong quá trình quản lý chất lượng, đổi mới công nghệ là khâu đột phá, xây dựng chất lượng nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển và phát huy vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và của các Tổng công ty nhà nước nói riêng trong nền kinh tế quốc dân. Chất lượng sản phẩm nói chung và chất lượng sản phẩm công nghiệp nói riêng của các Tổng công ty nhà nước ở Việt nam còn rất khiêm tốn so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Do vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm cần dựa trên một số quan điểm quản lý chất lượng sau: đổi mới quản lý chất lượng phải gắn liền với đổi mới sản xuất kinh doanh. Thực chất quản lý chất lượng là quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng. Quản lý chất lượng là một bộ phận hợp thành trong quản lý sản xuất kinh doanh. Nó phải phục vụ cho mục tiêu chung của quản lý sản xuất kinh doanh và phù hợp đồng bộ các hoạt động quản lý khác của doanh nghiệp như quản lý công nghệ, quản lý nhân lực, quản lý tài chính, quản lý Marketing,…. đổi mới quản lý chất lượng trong các Tổng công ty nhà nước theo hướng thúc đẩy tiến trình hội nhập của các Tổng công ty nhà nước Việt nam vào thị trường thế giới và khu vực. Để hội nhập, cơ chế và phương pháp quản lý chất lượng của các Tổng công ty nhà nước Việt nam phải đảm bảo sự tương đồng quốc tế. Lựa chọn áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 900 hoặc TQM, HACCP cũng như các hệ thống quản lý chất lượng khác phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp là hướng phấn đấu của các Tổng công ty nhà nước trong quá trình hội nhập. đổi mới quản lý chất lượng phải hướng đến tạo sản phẩm có chất lượng đáp ứng yêu cầu thị trường với chi phí thấp nhất nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đa dạng hóa các mức chất lượng phù hợp với giá cả và thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Thực hiện tiêu chuẩn chất lượng là cơ sở để kiểm tra, kiểm soát là việc làm thường xuyên. Hiện nay trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam còn thua kém thế giới 2 – 3 thế hệ nên đổi mới công nghệ được coi là nền tảng, là khâu đột phá trong hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng. Bởi vì không đổi mới được công nghệ thì không đổi mới được thiết kế và không thể nâng cấp được các thông số kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm. Tiêu chuẩn hóa là cơ sở đảm bảo và nâng và quản lý chất lượng; nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã tăng cường và đổi mới công tác tiêu chuẩn hóa theo hướng xây dựng và thực hiện 3 tiêu chuẩn chủ yếu: Hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với từng loại sản phẩm. Các quy định về quy trình, quy phạm sản xuất. Xác định mức phế phẩm cho phép, đồng thời mở rộng, nâng cao tỷ trọng các tiêu chuẩn do doanh nghiệp quản lý. Thứ tư, phấn đấu thực hiện theo hệ thống quản lý chất lượng TQM ISO 9000, HACCP. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã phấn đấu để đạt được chỉ tiêu ISO 9000. Trong những năm 90 của thế kỷ 20, rất ít doanh nghiệp áp dụng ISO 9000 và chưa hiểu hết ISO 9000, nhưng cho đến nay số lượng các doanh nghiệp áp dụng và được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000 tăng lên rất nhiều. Năm 1997 chỉ có vài doanh nghiệp, năm 1998 có 28 doanh nghiệp, năm1999 có 75 doanh nghiệp được cấp chứng nhận ISO 9000; Rõ ràng, ngày nay cải cách doanh nghiệp Nhà nước đang tích cực phấn đấu đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Một số doanh nghiệp đang phấn đấu thực hiện hệ thống quản lý chất lượng TQM và HACCP. Các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 muốn nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước cần thiết phải xây dựng và phấn đấu thực hiện theo hệ thống quản lý chất lượng trên cơ sở các quan điểm về đổi mới quản lý chất lượng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau để đổi mới quản lý chất lượng. Một là, cần nâng cao nhận thức về quản lý chất lượng, đẩy mạnh công tác đào tạo về quản lý chất lượng cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Ngày nay có không nhiều các Giám đốc am hiểu về công tác quản lý chất lượng, nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng và có quyêt định thay đổi hệ thống quản lý chất lượng của doanh nghiệp, tạo phong cách làm việc mới, đưa chiến lược chất lượng sản phẩm vào phương hướng chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp, đảm bảo cơ chế và nguồn lực cho chiến lược và chính sách chất lượng được thực hiện tốt trên thực tế. Chiếm số lượng khá đông là các Giám đốc hiểu biết và quan tâm đến vấn đề quản lý chất lượng chưa đầy đủ, chưa đúng mức, họ thường giao khoán trách nhiệm quản lý chất lượng của doanh nghiệp cho bộ phận kiểm tra chất lượng. Bên cạnh đó còn một số ít các Giám đốc nhận thức và tiếp thu kiến thức quản lý chất lượng hạn chế, coi kiểm tra chất lượng như một nội dung chính của quản lý chất lượng, khóan trắng toàn bộ vấn đề quản lý chất lượng cho bộ phận kiểm tra chất lượng. Như vậy, nâng cao nhận thức về vai trò và nôị dung quản lý chất lượng theo quan điểm hiện đại là điều kiện cần làm tích cực và đồng bộ đối với tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần đào tạo kiến thức và kỹ năng về chất lượng và quản lý chất lượng cho mọi thành viên của doanh nghiệp từ Giám đốc đến từng công nhân. nội dung và hình thức đào tạo phải phù hợp với từng đối tượng. Hai là, công tác đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Xác định vấn đề đổi mới công nghệ phải là khâu đột phá, là giải pháp cơ bản, trung tâm có tính chiến lược tác động lâu dài đến chất lượng sản phẩm. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm đang sản xuất và sản phẩm mới, cũng như sản phẩm đa dạng hóa phải là mục tiêu của đổi mới công nghệ. Hình thức và phương thức đổi mới công nghệ phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần xác định những sản phẩm quan trọng, mũi nhọn trong từng giai đoạn để lựa chọn đầu tư đổi mới có trọng điểm. Thiết kế sản phẩm mới là hoạt động sáng tạo để chuyển hóa nhu cầu của khách hàng thành kiểu dáng, đặc điểm và các thông số kỹ thuật của sản phẩm, đủ sức đáp ứng nhu cầu của khách hàng. đây cũng là khâu yếu nhất trong quản lý chất lượng ở các Tổng công ty nhà nước Việt nam vì các doanh nghiệp chưa coi trọng công tác điều tra nhu cầu khách hàng, mặt khác khả năng trình độ thiết kế của đội ngũ cán bộ thiết kế còn yếu và thấp nên sản phẩm đơn điệu, chủng loại nghèo nàn và nặng về bắt trước. để nâng cao năng lực thiết kế và thiết kế sản phẩm mới, cần có sự kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Phòng kinh doanh và bộ phận Marketing với Phòng kỹ thuật trong khâu thiết kế sản phẩm và phải nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thiết kế, chế tạo sản phẩm. Ba là, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, TQM hay HACCP. Lý Luận thực tế đã chứng minh rằng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, TQM hay HACCP là hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến quán triệt được các quan điểm và nội dung quản lý chất lượng hiện đại, được các doanh nghiệp ở hầu hết các nước phát triển và đang phát triển áp dụng. Mỗi hệ thống quản lý chất lượng đều có ưu điểm và nhược điểm, do vậy tùy thuộc từng doanh nghiệp nên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng phù hợp. ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn về chất lượng được quy định nhằm giúp các doanh nghiệp phấn đấu liên tục, không ngừng để đảm bảo và nâng cao chất lượng phục vụ tốt nhất cho khách hàng trong và ngoài nước. Doanh nghiệp được cộng nhận đạt chứng nhận ISO 9000 coi như được cấp giấy thông hành di vào thị trường thế giới. Do vậy, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu phấn đấu được cấp giấy chứng nhận đạt ISO 9000. TQM là một phương pháp quản lý chất lượng có hiệu quả mà nội dung của TQMlà cáhc tổ chức quản lý một tổ chứctập trung vào chất lượng thông qua động viên, thu hút toàn bộ mọi thành viên tham gia quản lý chất lượng ở mọi cấp mọi khâunhằm đạt được thành công lâu dài nhờ thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Doanh nghiệp áp dụng TQM tuy không tổ chức nào chứng nhận nhưng nó là một việc làm cải tiến thường xuyên, liên tục, đồng bộ nhằm làm cho chất lượng của doanh nghiệp tiến bộ không ngừng. Do đó bất cứ doanh nghiệp nào cuãng có thể áp dụng TQM. HACCP là hệ thống phân tích, xác định và kiểm soátmối nguy hại trọng yếu, nó được áp dụng trong ngành chế biến thực phẩm. Bốn là, tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa. Các doanh nghiệp Việt nam nói chung, các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng đã coi tiêu chuẩn hóa là biện pháp quan trọng để đảm bảo và nâng cao chất lượng. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước trong đó có các Tổng công ty nhà nước đã xây dựng tiêu chuẩn cho doanh nghiệp của mình và phấn đấu đạt tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt nam, tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên công tác tiêu chuẩn hóa còn có các tồn tại chủ yếu chưa nhận thức đầy đủ về nội dung của tiêu chuẩn hóa, chủ yếu tiêu chuẩn hóa chỉ tập trung vào khâu sản xuất, rất ít Tổng công ty nhà nước quan tâm đến tiêu chuẩn hóa ở khâu hỗ trợ. Hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn được xây dựng chủ yếu được căn cứ vào tình hình thực tế hiện có của Tổng công ty chưa dựa vào nhu cầu khách. Khi đánh giá chất lượng vẫn chủ yếu dực vào thực hiện các tiêu chuẩn đề ra, còn coi nhẹ sự đánh giá chất lượng từ những nhận thức của khách hàng. Vì vậy để tăng cường công tác tiêu chuẩn làm nền tảng cho quản lý chất lượng cần chú ý các biện pháp: Chú trọng xây dựng tiêu chuẩn doanh nghiệp đi đôi với thực hiện tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt nam, tiêu chuẩn quốc tế; Hoàn thiện, điều kiện tiêu chuẩn đã lạc hậu, không phù hợp; áp dụng chế độ thưởng đối với cá nhân và tập thể vượt tiêu chuẩn; Xây dựng tiêu chuẩn cho các khâu hỗ trợ và dịch vụ sản xuất như bao gói, dịch vụ sau bán hàng; Phát triển công tác chứng nhận hợp chuẩn. Năm là, phát triển công tác tư vấn về quản lý chất lượng. Phấn đấu theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 9000, HACCP là vấn đề mới mẻ, hiện nhiều Tổng công ty nhà nước vẫn còn lúng túng. Vì vậy, phát triển công tác tư vấn về quản lý chất lượng theo quan điểm theo phương pháp hiện đại là điều cần thiết. Trung tâm năng suất chất lượng và các trung tâm chất lượng khu vực (I, II, III) thuộc Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong thời gian qua đã có những hoạt động tích cực, đặc biệt là đã mở nhiều lớp đào tạo về quản lý chất lượng, và tiến hành hoạt động tư vấn về quản lý chất lượng. Nhưng nhìn chung các tổ chức tư vấn về quản lý chất lượng còn thiếu và yếu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu. Bên cạnh đó, một số tổ chức quốc tế cũng làm tư vấn quản lý chất lượng nhưng giá còn cao, nhiều doanh nghiệp chưa đủ tiền thuê. Do đó, cần có cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển hệ thống tư vấn quản lý chất lượng và miễn giảm chi phí đối với hoạt động tư vấn quản lý chất lượng. Sáu là, tăng cường quản lý Nhà nước đối với quản lý chất lượng. Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng là trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhưng Nhà nước có vai trò kiểm tra, giám sát, khuyến khích, tạo điều kiện cho quản lý chất lượng của doanh nghiệp, cụ thể như sau: -Định hướng chiến lược chất lượng sản phẩm và dịch vụ. -Tăng cường hợp tác quốc tế với các Tổ chức quản lý quốc tế về chất lượng. -Đẩy mạnh việc phổ biến tuyên truyền, quảng bá kiến thức về quản lý chất lượng. -đào tạo đôị ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về chất lượng cho các trung tâm và địa phương, hỗ trợ đào tạo về quản lý chất lượng cho các doanh nghiệp. -Đầu tư các chương trình, đề tài nghiên cứu về quản lý chất lượng. -Tổ chức quản lý và phát huy hiệu quả, hiệu lực cảu bộ máy Nhà nước về quản lý chất lượng, đó là Tổng cục và các chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng. -Xây dựng tiêu chuẩn Nhà nước, tiêu chuẩn Ngành với một số sản phẩm quan trọng đối với an ninh quốc phòng, sản xuất và đời sống nhân dân. -Kiểm tra, kiểm soát để đấu tranh và xử lý đối với những trường hợp làm hàng giả, làm hàng kém phẩm chất nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Trên đây là một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và của các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng. Ngoài ra còn có rất nhiều giải pháp khác cũng đang cần quan tâm đúng đắn hơn trong các Tổng công ty nhà nước như điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, nâng cao vai trò của Hội đồng quản trị trong các Tổng công ty nhà nước. Vấn đề là ở chỗ các Tổng công ty nhà nước cần thiết phải xem xét, đánh giá đâu là khâu yếu, đâu là khâu quan trọngnhất, từ đó có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thể hiện đúng đắn và tăng cường vai trò chủ đạo của các Tổng công ty nhà nước Việt nam nói chung các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng của nền kinh tế quốc dân. Kết luận Chủ trương thành lập các Tổng công ty của Đảng và nhà nước là một hướng đi đúng và cần thiết để củng cố khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay. Sự ra đời của các Tổng công ty nhà nước mới trong thời gian ngắn hay nói đúng hơn là trong giai đoạn thử nghiệm theo mô hình mới. Từ những kết quả đã đạt được trên các mặt có thể khẳng định các Tổng công ty nhà nước về cơ bản đã thực hiện được các mục tiêu đề ra của Đảng và nhà nước, góp phần rất lớn vào việc phát huy vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần làm ổn định kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, trật tự quốc phòng được giữ vững, đóng góp lớn vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm của thập kỷ 90, đưa nền kinh tế nước ta dần dần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do mới thành lập và tồn tại trong thời gian ngắn do đó không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại, vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa loại hình doanh nghiệp này. Những tồn tại và vướng mắc đó một phần do đặc điểm nội tại khi thành lập các Tổng công ty mà chúng ta không thấy được, đó là những quy định về cơ cấu tổ chức, các bộ phận trong Tổng công ty không phù hợp với thực tế. Mặt khác, Những tồn tại về cơ chế, chính sách, luật pháp cũng cần phải khắc phục bởi vì một môi trường kinh doanh lành mạnh phải được tạo ra cho các Tổng công ty. Việc khắc phục những tồn tại cần phải được tiến hành ngay, nhưng phải có bước đi thích hợp tránh nóng vội và đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan khác nhau cùng thực hiện. Phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia các nhà quản lý có kinh nghiệm và nắm bắt những kinh nghệm của nước ngoài để thực hiện những điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước ở nước ta nói chung và các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam Chủ biên: PGS, PTS Nguyễn Đình Phan, NXB Chính trị Quốc gia - 1996. 2. Các quy định mới về doanh nghiệp Nhà nước NXB Thống kê - 1996 3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX 4. Nghị quyết Trung ương III khóa IX Phần Tạp chí: 1. Kinh tế và phát triển số 8/1995, 27/1998, 28/1999, 29/1999, 107/1999, 108/1999, 34/2000, 38/2000, 40/2000, 55/2002. 2. Tài chính doanh nghiệp số 8/1995, 9/1995, 4/1999, 5/1999, 9/1999, 6/2000, 8/2000, 9/2000. 3. Công nghiệp số 9/1998, 18/1998, 2+3/1999, 5/1999, 6/1999, 18/1999, 19/1999, 11/2000, 21/2000, 3/2001, 5/2001, 7/2001, 8/2001, 12/2001, 16/2001, 19/2001, 20/2001. 4. Hoạt động ngân hàng số 8/1997 5. Tạp chí quản lý Nhà nước số 7/2000, 7/2001. 6. Công báo số 29/2000 7. Công nghiệp hoá chất số 8/2000 8. Thương mại 9/1999, 11/1999, 7/2000, 6/2001, 30/2001. 9. Tạp chí Cộng sản số 10/1999, 13/2001, 19/2001. 10. Tạp chí xây dựng số 9/2001. 11. Nghiên cứu kinh tế số 5/2000, 12. Kinh tế dự báo số 67/1999, 4/2001, 6/2001 13. Lý luận chính trị số 6/2001 14. Thông tin lý luận số 2/1999, 7/2000, 10/2000 15. Chứng khoán Việt nam số 8/1999 16. Nghiên cứu lý luận số 8/1999, 5/2000 17. Khoa học xã hội số1/2001, 18. Kinh tế châu á Thái bình dương số 3/2001 19. Phân tích kinh tế số 108/1999 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34222.doc