Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Trung tâm XNK thiết bị thuỷ thuộc Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại

LờI Mở ĐầU Việt Nam một đất nước có bờ biển chạy dài từ Bắc xuống Nam, nhiều cảng lớn nhỏ và sông ngòi dày đặc là một thuận lợi cho phát triển kinh tế biển và giao thông vận tải thuỷ. Mặt khác, chính sách mở cửa hoà nhập với nền kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước đã tạo ra những cơ hội cho nghành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam . Từ thực tế nghành công nghiệp sản xuất máy móc thiết bị và thiết kế chưa đủ khả năng đáp ứng cho những dự án đóng tàu lớn có mức chất lượng cao. Nhà nước đã cho p

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Trung tâm XNK thiết bị thuỷ thuộc Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hép các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp nhập khẩu mặt hàng thiết bị thuỷ từ nước ngoài phục vụ cho nghành công nghiệp đóng tàu trong nước. Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ ra đời trực thuộc công ty Tư vấn đầu tư và thương mại thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ đóng vai trò là nhà trung gian phân phối thực hiện các hoạt động kinh doanh nhầm mục tiêu doanh số, lợi nhuận, thị phần thông qua thoả mãn yêu cầu của khách hàng đồng thời góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp tàu thuỷ và nền kinh tế Việt Nam . Sau một thời gian thực tập tại Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại, nhận thức được việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đang là một bài toán khó, có ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Trung tâm. Vì vậy trong quá trình thực tập được sự giúp đỡ của cán bộ nhân viên công ty và của thầy giáo hướng dẫn Th.S Vũ Kim Dũng, em quyết định chọn đề tài : “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại” Mục đích nghiên cứu :Trên cơ sở làm rõ những nét đặc thù trong hoạt động kinh doanh của Trung tâm, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả kinh doanh của Trung tâm thời gian qua từ đó nêu ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại trong thời gian tới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tà : là hiệu quả hoạt động kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại. Phạm vị nghiên cứu: Khảo sát thực tế hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ từ năm 2000 -2001. Các phân tích của chuyên đề đưa ra trên cơ sở tổng hợp các tài liệu, các kết quả nghiên cứu của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ. Phương pháp nghiên cứu: Quán triệt phương pháp duy vật biện chứng với quan điểm lịch sử cụ thể, sử dụng các phương pháp phân tích hiệu quả, phân tích tài chính, phân tích thống kê, phân tích so sánh trong nghiên cứu. Vừa dựa trên những lý thuyết cơ bản vừa dựa trên hoàn cảnh cụ thể của qúa trình kinh doanh tại đơn vị thực tập cũng như những tác động của môi trường kinh doanh trong và ngoài Trung tâm. Những đóng góp của chuyên đề: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. - Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ trên một số chỉ tiêu tổng hợp chủ yếu. - Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 phần: - Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. - Phần 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ. - Phần 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ. Mặc dù có rất nhiều cố gắng song do những hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp và chỉ bảo thêm của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn ! Phần 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Quan niệm về hiệu quả kinh doanh. 1.1. Quan niệm chung. Có thể nói rằng mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Theo P Samueleson và W Nordhaus cho rằng : “ Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Vậy theo quan điểm này chỉ ra rằng việc phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho việc sử dụng chúng nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả. Đây cũng chính là mức hiệu quả cao nhất mà nền kinh tế đạt được. Tuy nhiên, để đạt được mức hiệu quả kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện, trong đó đòi hỏi phải dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo quy mô phù hợp với cầu thị trường. Thế mà không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực. Theo Manfred Kuhn lại cho rằng : “Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”. Vậy từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực ( nhân tài, vật lực, tiền vốn ) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng này được đánh giá bởi kết quả tạo ra xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định, vậy có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng công thức chung nhất như sau : Trong đó : H – Hiệu quả kinh doanh K – Kết quả đạt được C – Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó. Như thế, hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của từng nhân tố. Hiệu quả có thể được đánh giá ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau và thời kỳ khác nhau. Trên cơ sở này, để hiểu rõ hơn bản chất của hiệu quả kinh doanh chúng ta xem xét các vấn đề hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội : Hiệu quả xã hội : Là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là giải quyết công ăn, việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi xã hội, nâng cao mức sống và đời sống tinh thần cho người lao động, đảm bảo và nâng cao sức khoẻ cho người lao động, cải thiên điều kiện lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường… Hiệu quả kinh tế : Phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Hiệu quả kinh tế - xã hội : Phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội nhất định. Hiệu quả kinh doanh : Là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất ( lao động, máy móc thiết bị, nguyên liệu, tiền vốn ) trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể thấy từ các khái niệm ở trên thì hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả kinh doanh là hai phạm trù khác nhau, giải quyết ở hai góc độ khác nhau song có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hiệu quả kinh tế xã hội đạt mức tối đa là mức hiệu quả thoả mãn tiêu chuẩn hiệu quả của Pareto. Trong thực tế, do các doanh nghiệp cố tình giảm chi phí kinh doanh biên cá nhân làm cho chi phí kinh doanh này thấp hơn chi phí kinh doanh biên xã hội nên có sự tách biệt giữa hiệu quả kinh doanh và hiệu quả xã hội. Tuy nhiên, với tư cách là một tế bào của nền kinh tế – xã hội các doanh nghiệp có nghĩa vụ góp phần vào quá trình thực hiện các mục tiêu xã hội. Mặt khác, xã hội càng phát triển thì nhận thức của con người đối với xã hội cũng dần thay đổi, nhu cầu của người tiêu dùng không chỉ ở công dụng của sản phẩm ( dịch vụ ) mà còn cả các điều kiện khác như chống ô nhiễm môi trường …Vì vậy, càng ngày các doanh nghiệp càng tự giác nhận thức vai trò , nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với thực hiện các mục tiêu xã hội bởi chính sự nhận thức và đóng góp của doanh nghiệp vào thực hiện các mục tiêu xã hội lại làm tăng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp và tác động tích cực, lâu dài đến kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này. Vì lẽ đó, càng ngày các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh mà còn càng quan tâm hơn đến hiệu quả xã hội. Từ những quan điểm ở trên em có thể đưa ra tổng kết khái quát về hiệu quả như sau: Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh phải là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra của doanh nghiệp. Thứ hai, chỉ xét đến kết quả đạt được và chi phí bỏ ra của doanh nghiệp. Thứ ba, so sánh kết quả với chi phí thì phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc: Kết quả/chi phí hoặc chi phí/kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp những thông tin có ý nghĩa khác hẵn nhau. Thứ tư, khi nói đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp thì "kết quả" có thể dùng nhiều chỉ tiêu khác nhau nhưng "chi phí" thì chính là lượng tài sản mà doanh nghiệp đã chi ra và sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Thứ năm, cần coi "hiệu quả kinh doanh" là một loại chỉ tiêu chất lượng dùng để đánh giá chất lượng lượng kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ sáu, cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu để phản ánh hiệu quả kinh doanh, nhưng khi đánh giá thì phải lựa chọn các chỉ tiêu phù hợp với mục tiêu xem xét. Thứ bảy, phải dựa trên nhiều căn cứ để đánh giá: Số kế hoạch, số thực tế, mức bình quân của ngành, lãi suất ngân hàng... 1.2. Quan niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu 1.2.1. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Như vậy, xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ là việc đầu tư công sức, tiền của để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ nhằm thu lợi nhuận - xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ là nội dung cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế - xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ được thực hiện theo qui luật cung cầu thị trường, người mua và người bán hay người xuất khẩu và người nhập khẩu gặp nhau trên thị trường quốc tế để thoả thuận về giá cả, số lượng hàng hoá, dịch vụ. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có những đặc điểm khác biệt với hoạt động kinh doanh nội địa, các đặc điểm này có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Đặc điểm chủ yếu của kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm: Thứ nhất, kinh doanh xuất nhập khẩu có thị trường rộng lớn cả trong nước và ngoài nước, chịu ảnh hưởng rất lớn của sự phát triển sản xuất trong nước và thị trường ngoài nước. Mặt khác hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong từng doanh nghiệp lại có ảnh hưởng và liên quan trực tiếp tới hiệu quả chung của nền kinh tế và các quan hệ chính trị - xã hội khác. Thứ hai, người mua người bán thuộc các quốc gia khác nhau, có trình độ quản lý, phong tục tập quán tiêu dùng và chính sách ngoại thương ở mỗi quốc gia cũng khác nhau. Hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Thứ ba, hàng hoá xuất khẩu đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu tiêu dùng từng khu vực, từng quốc gia trong từng thời kỳ. Do đó có thể nói kinh doanh xuất nhập khẩu có mức rủi ro cao hơn nhiều so với kinh doanh trong nước. Thứ tư, điều kiện về mặt địa lý, phương tiện chuyên chở , điều kiện thanh toán có ảnh hưởng không ít đến quá trình kinh doanh, làm cho thời gian giao hàng và thanh toán có khoảng cách khá xa. Hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng trực tiếp của sự biến động tỷ giá ngoại tệ và phương thức thanh toán với đối tác... 1.2.2. Quan niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp về nguyên tắc cũng được phân tích, đánh giá như hiệu quả sử dụng tài sản nói chung vì doanh nghiệp sử dụng tài sản để chi dùng cho các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tất nhiên, hoạt động kinh doanh này vượt ra ngoài biên giới quốc gia nên nó có những đặc điểm khác biệt. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu cũng là sự so sánh giữa doanh thu xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ với chi phí xuất nhập khẩu nhưng không phải để xác định lãi mà để xem xét khả năng tạo doanh thu từ một đơn vị chi phí. Trong đó, chỉ tiêu chung đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu là: Doanh thu xuất nhập khẩu Hiệu quả xuất nhập khẩu = Chi phí xuất nhập khẩu 2. Những chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu 2.1. Lợi nhuận và doanh lợi của hoạt động xuất nhập khẩu Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả của kinh doanh trong một thời kì nhất định. Lợi nhuận là chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp muốn tồn tại lâu dài trên thị trường quốc tế thì phải có khả năng bù đắp chi phí thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp cần có một khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí để thực hiện tái sản xuất kinh doanh trên phạm vị doanh nghiệp, nâng cao phúc lợi, đời sống của cán bộ công nhân viên. Khoản chênh lệch đó được gọi là lợi nhuận. Nếu chúng ta đem so sánh lợi nhuận đó với chi phí kinh doanh, doanh thu hay vốn kinh doanh thì sẽ biết được một đồng chi phí hay một đồng vốn thu về được bao nhiêu lợi nhuận. Sự so sánh đó đưa ra chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận hay doanh lợi của hoạt động kinh doanh. 2.1.1. Tổng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Tổng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ được tính như sau: P = TR- TC Trong đó: TR là tổng doanh thu từ hoạt động XNK hàng hoá - dịch vụ. ( Đối với xuất khẩu thì TR gọi là doanh thu từ hoạt động bán hàng cho phía nước ngoài; Đối với nhập khẩu thì TR là doanh thu từ hợp đồng buôn bán hoặc hoạt động bán lẻ hàng nhập khẩu). TC: Tổng chi phí thực hiện hợp đồng kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ. (Đối với xuất khẩu nó bao gồm: các khoản chi phí sản xuất, chế biến, giá vốn thu mua hàng xuất khẩu, thuế xuất khẩu, chi phí vận chuyển, bảo quản, bảo hiểm hàng hoá, tiền công, tiền lương và các chi phí khác) Trong thực tế hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ để đánh giá, cân nhắc hiệu quả kinh tế của một hợp đồng XNK các nhà kinh doanh thường so sánh tỷ giá hối đoái thị trường với tỷ giá hàng xuất nhập khẩu, các nhà xuất khẩu chỉ có lợi khi tỷ giá hàng xuất khẩu tỷ giá hối đoái của thị trường. Như vậy, xét về mục đích kinh doanh thì lợi nhuận là động cơ trực tiếp của các doanh nghiệp, xét về hiệu quả kinh tế của kinh doanh thì lợi nhuận là chỉ tiêu cơ bản và được sử dụng phổ biến nhất. 2.1.2. Doanh lợi của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Có nhiều cách tính khác nhau về doanh lợi hay tỷ suất lợi nhuận với những ý nghĩa và tác dụng khác nhau trong phân tích hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hoá - dịch vụ. Phương pháp 1: Doanh lợi theo chi phí (Dcf) được tính theo công thức sau: P Dcf = x 100% TC Trong đó: P: Tổng lợi nhuận kinh doanh XNK trong một thời kỳ nhất định. TC: Tổng chi phí tiến hành hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ trong thời kỳ đó. Chỉ tiêu Dcf cho biết bao nhiêu đồng lợi nhuận có thể thu về từ một đồng chi phí bỏ ra. Phương pháp 2: Doanh lợi theo doanh thu. P DTR = x 100% TR Trong đó: P :Tổng lợi nhuận kinh doanh XNK trong một thời kỳ nhất định. TR: Tổng doanh thu từ hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ. Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu có thể mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Phương pháp 3: Doanh lợi theo vốn (DV) có nhiều tỷ suất lợi nhuận theo vốn (DV) khác nhau tuỳ thuộc vào vốn nào được sử dụng trong khi tính - Đối với đơn vị kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ vốn chủ yếu là vốn lưu động. Vậy DV được tính theo công thức sau: P DV = x 100% VLĐ Trong đó: P: Tổng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ trong một thời kỳ nhất định. VLĐ:Tổng số vốn lưu động bình quân trong thời kỳ đó. Chỉ tiêu này cho biết có thể thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng vốn lưu động kinh doanh bỏ ra ban đầu. Lợi nhận và doanh lợi phản ánh kết quả kinh tế của hoạt động kinh doanh và kết quả trong đó mối quan hệ với chi phí, doanh thu và vốn. Nhưng hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh còn được thể hiện qua mức tiết kiệm sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Mức tiết kiệm trong sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp được thể hiện qua sử dụng vốn và lao động của đơn vị. 2.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản và vốn của doanh nghiệp xuất nhập khẩu 2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung Hiệu suất sử dụng vốn: Doanh thu thuần trong kỳ Vòng quay toàn bộ vốn trong kỳ = ------------------------------------------- Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được bao nhiêu vòng. Qua chỉ tiêu này ta có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp thể hiện qua doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản doanh nghiệp đã đầu tư. Vòng quay càng lớn thì hiệu quả càng cao. Suất hao phí vốn: Là chỉ tiêu nghịch đảo chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn, phản ánh một đồng doanh thu cần có bao nhiêu đồng vốn. Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Suất hao phí vốn trong kỳ = ----------------------------------------------- Doanh thu thuần trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên tổng vốn: Lợi nhuận thuần trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên tổng vốn trong kỳ = ------------------------------------------ Số vốn sử dụng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn kinh doanh trong kỳ. 2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, nó giúp cho các nhà phân tích biết được đầu tư một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Doanh thu thuần trong kỳ Hiệu suất sử dụng vốn cố định = -------------------------------------------- Vốn cố định bình quân trong kỳ Suất hao phí vốn cố định: Là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu cần phải bỏ vào sản xuất bao nhiêu đồng vốn cố định. Vốn cố định bình quân trong kỳ Suất hao phí vốn cố định = ------------------------------------------------ Doanh thu thuần trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định: Lợi nhuận trong kỳ Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định = ----------------------------------------------- Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định. Chỉ tiêu này thể hiện một đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh lời của vốn cố định càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng tốt. 2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Hiệu suất sử dụng vốn lưu động: Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động trong kỳ = --------------------------------- Vốn lưu động bình quân Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng. Qua đó cho biết một đồng lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động: SLợi nhuận Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động = -------------------------------------------- Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này phản ánh hiệu qủa sử dụng vốn lưu động. Kỳ luân chuyển vốn lưu động: 360 K = ---------- L K: kỳ luân chuyển vốn lưu động. L: số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động trong kỳ. Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để thực hiện một vòng quay vốn lưu động. Vòng quay của vốn càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Hệ số này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao và ngược lại. Vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = ----------------------------------- Doanh thu sau thuế 2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán Tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng công tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại nếu hoạt động tài chính kém thì sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa, kéo dài. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp chỉ tập trung vào thanh toán khoản vay nợ mà doanh nghiệp cần phải thanh toán trong năm. Do vậy doanh nghiệp phải dùng toàn bộ tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh toán nợ tới hạn. Nếu khả năng thanh toán yếu, doanh nghiệp phải chịu lãi suất đồng thời làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ kinh tế trong kinh doanh. Vì vậy khi xét đến khả năng thanh toán người ta chỉ xét đến khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Thuộc nhóm chỉ tiêu này bao gồm: Tổng tài sản Hệ số khả năng thanh toán tổng quát = --------------------------- Tổng nợ phải trả Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa tổng tài sản hiện nay mà doanh nghiệp đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả (nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, ...) Nếu hệ số này nhỏ hơn một là báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu bị mất toàn bộ, tổng số tài sản hiện có (tài sản lưu động, tài sản cố định) không đủ trả số nợ mà doanh nghiệp phải thanh toán. Hệ số khả năng thanh toán tạm thời: Hệ số khả năng Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn trong kỳ thanh toán = -------------------------------------------------------------- tạm thời trong kỳ Tổng nợ ngắn hạn trong kỳ Hệ số khả năng thanh toán tạm thời thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là khoản nợ phải thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp phải dùng tài sản thực có của mình để thanh toán bằng cách chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền. Trong tổng số tài sản mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng và sở hữu, chỉ có tài sản lưu động là trong kỳ có khả năng chuyển đổi thành tiền. Hệ số khả năng thanh toán nhanh: Tài sản lưu động - Vốn vật tư hàng hoá Hệ số khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------------------------ Tổng nợ ngắn hạn Trong đó: Tài sản lưu động bao gồm: tiền, các khoản phải thu, các khoản đầu tư ngắn hạn. Việc phân tích và tính toán các hệ số khả năng thanh toán nhanh giúp cho doanh nghiệp biết được thực trạng các khoản cần thanh toán nhanh để có kế hoạch dự trữ nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán. 2.2.5. Các chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn Nhóm các chỉ tiêu phản ánh khả năng cân đối vốn bao gồm các tỷ lệ sau: Hệ số nợ: Các doanh nghiệp cần phải xác định các chỉ tiêu hệ số nợ. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nợ trong tổng số tài sản của dong nghiệp, từ đó cho thấy trong tổng tài sản của doanh nghiệp, tài sản sở hữu thực chất của doanh nghiệp là bao nhiêu. Nếu tỷ số này tăng lên, mức độ đơn vị cần được thanh toán tăng điều này gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tổng số nợ Hệ số nợ = -------------------------- Tổng tài sản Trong đó: Tổng nợ phải trả bao gồm: - Nợ ngắn hạn - Nợ dài hạn - Nợ khác Tổng tài sản bao gồm: - Tài sản lưu động - Tài sản cố định Khi hệ số nợ cao tức là chủ doanh nghiệp chỉ đóng góp một phần nhỏ trên tổng số tài sản thì sự rủi ro trong kinh doanh được chuyển sang cho chủ nợ gánh chịu một phần. Đồng thời khi hệ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt vì khi đó họ chỉ bỏ ra một lượng vốn nhỏ nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn. Và khi kinh doanh vốn lớn hơn lãi suất tiền vay thì lợi nhuận của họ gia tăng rất nhanh. Tuy nhiên khi hệ số nợ cao thì độ an toàn trong kinh doanh càng kém vì chỉ cần một khoản nợ tới hạn trả, không trả được sẽ rất dễ làm cho cán cân thanh toán mất cân bằng và xuất hiện nguy cơ phá sản. Tỷ suất tự tài trợ: Đây là một chỉ tiêu tài chính đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng số vốn hiện có của doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tự tài trợ = ---------------------------------- = 1 - hệ số nợ Tổng nguồn vốn Tỷ suất tự tài trợ càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn tự có, có tính độc lập cao với các chủ nợ, do đó không bị ràng buộc hoặc bị sức ép của các khoản vay. Các chủ nợ thường thích tỷ suất tự tài trợ càng cao càng tốt. Chủ nợ nhìn vào tỷ số này để tin tưởng một sự đảm bảo cho các món nợ vay được hoàn trả đúng hạn. 2.3. Hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp kinh doanh XNK. Năng suất lao động bình quân Trên góc độ kinh tế hiệu quả sử dụng lao động được thể hiện qua năng suất lao động bình quân của toàn cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và năng suất bình quân của từng bộ phận cá biệt . Năng suất lao động bình quân được tính bằng tổng doanh số của hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá - dịch vụ chia cho số lao động trực tiếp và gián tiếp, chính thức hoặc không chính thức của doanh nghiệp. TR NSLĐ = L Trong đó: NSLĐ : Năng suất lao động bình quân năm của doanh nghiệp TR: Doanh thu bán hàng hoá dịch vụ trong năm L: Số lao động bình quân năm của doanh nghiệp Việc so sánh năng suất lao động bình quân giữa kỳ báo cáo với kỳ kế hoạch giúp đánh giá hiệu quả sử dụng lao động trên góc độ kinh tế. Tuy nhiên chỉ tiêu này thường chỉ có ý nghĩa lý thuyết không phản ánh được đầy đủ những khó khăn khách quan tác động từ bên ngoài làm ảnh hưởng xấu đến tổng doanh thu mặc dù lao động của Công ty, của doanh nghiệp có thể vẫn đang được quản lý tốt. Mức sinh lời bình quân của lao động Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của một lao động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của một lao động cho biết mỗi lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một kỳ tính toán xác định. Chỉ tiêu này có thể được xác định theo công thức cụ thể sau : PR PBQ = L Trong đó : L – Số lao động làm việc bình quân trong kỳ PR - Lợi nhuận doanh nghiệp tạo ra trong kỳ PBQ – Lợi nhuận bình quân do một lao động tạo ra trong kỳ tính toán Bên cạnh các chỉ tiêu trên còn rất nhiều các chỉ tiêu khác được dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên trên đây là những chỉ tiêu có giá trị thực tế rất cao, có thể dùng để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh ở Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là yêu cầu quan trọng và là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lại chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Để đạt được hiệu quả kinh doanh cao đòi hỏi phải có các quyết định chiến lược và quyết sách đúngtrong quá trình lựa chọn các cơ hội hấp dẫn cũng như tổ chức, quản lý và điều khiển hoạt động kinh doanh cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có thể được chia thành hai nhóm đó là nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp ( nhân tố khách quan ) và nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp ( nhân tố chủ quan ). Mục tiêu của quá trình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích lưạ chọn các phương án kinh doanh phù hợp. Tuy nhiên việc nghiên cứu các nhân tố ảnh đến hiệu quả kinh doanh cần phải được thực hiện liên tục trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này càng trở nên quan trọng hơn râtds nhiều đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bởi đặc thù thị trường rộng lớn và đầy biến động. Vậy xin đưa ra các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu như sau : 3.1. Các nhân tố khách quan * Trước hết là cơ chế quản lý của nhà nước. Hiện nay nhà nước chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tự do buôn bán xuất khẩu trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay phải đương đầu cạnh tranh với các đơn vị kinh tế thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Yếu tố cạnh tranh này đã buộc các doanh nghiệp phải nhạy bén, linh hoạt với thị trường . Trong cơ chế cũ, các hợp đồng ngoại thương được cấp trên giao cho cấp dưới. Nhưng ngày nay để có được các hợp đồng xuất khẩu , các doanh nghiệp phải tự giao dịch, tự tìm kiếm bằng hoạt động Maketing của mình. Do đó nếu doanh nghiệp năng động sẽ kiếm được nhiều hợp đồng với chi phí ít và ngước lại. Về luật pháp: các bộ luật điều chỉnh các quan hệ trong thương mại quốc tế tạo hành lang pháp lý cho các đơn vị ngoại thương, vừa phải tuân theo luật thương mại trong nước, vừa phải tuân theo luật thương mại quốc tế. Những điều luật nhà nước qui định sẽ có tác động khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động xuất nhập khẩu thông qua luật thuế - Với các mức thuế cụ thể, hạn ngạch. * Về trình độ công nghệ: Hiện nay khoa học công nghệ trong các lĩnh vực của nền kinh tế rất được chú trọng bởi lợi ích cuả nó mang lại. Yếu tố công nghệ tác động sẽ làm tăng hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu. Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương có thể đàm thoại, giao dịch với khách hàng qua điện thoại, Fax, Internet... để giảm bớt chi phí đi lại, ký kết hợp đồng. Hơn nữa nó còn là phương tiện quảng cáo , thông tin.... rất hiệu quả. Mặt khác, yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất hàng xuất khẩu để nâng cao chất lượng sản phẩm, tác động đến các dịch vụ vận chuyển, thanh toán, ngân hàng ... * Vấn đề giá cả hàng hoá trong cơ chế thị trường : là rất phức tạp, bấp bênh không ổn định ... dẫn đến khả năng rủi ro cao có thể bị biến động do thay đổi thị trường xuất nhập khẩu , điều kiện giao hàng , hình thức thanh toán, sự biến động về chính trị... * Dịch vụ thương mại: Xuất hiện ở mọi giai đoạn của hoạt động bán hàng, nhằm hỗ trợ của trước , trong và sau khi bán hàng hoá. Nếu dịch vụ cung ứng đồng bộ sẽ tạo niềm tin tuyệt đối cho khách hàng và góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. * Tỷ giá hối đoái: Là giá cả của một đ._.ơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia. Sự biến động của tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng các các nhân tố như: Mức chênh lệch lạm phát của hai nước ảnh hưởng đến sự biến động gia tăng của tỷ giá; Tình hình dư thừa hay thiếu hụt của cán cân thanh toán ảnh hưởng trực tiếp và nhạy bén đến sự biến động của tỷ giá. Nếu cán cân thanh toán dư thừa thì tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. Nếu cán cân thanh toán thiếu hụt thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên; Tình hình cung cầu ngoại hối trên thị trường ngoại hối. Để khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu, có thể điều chỉnh tỷ giá bằng cách: - Nâng giá đồng tiền nội tệ so với đồng ngoại tệ hay là hạ thấp tỷ giá hối đoái xuống nhằm hạn chế xuất khẩu hàng hoá và khuyến khích nhập khẩu. - Phá giá đồng nội tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. - Các đặc điểm của nền kinh tế: Mức tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, cơ cấu các ngành kinh tế ... thường 1 nền kinh tế suy thoái, lạm phát, thất nghiệp cao thì rủi ro trong tiêu thụ hàng hoá càng lớn. * Thanh toán quốc tế trong xuất nhập khẩu: Đó là việc thu chi những khoản ngoại tệ, tín dụng có liên quan đến việc xuất nhập khẩu hàng hoá được thoả thuận, qui định trong hợp đồng kinh tế về xuất nhập khẩu hàng hoá thanh toán là bước đảm bảo cho ngươi xuất khẩu thu được tiền về và hiệu quả kinh tế trong xuất khẩu một phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Để thực hiện thanh toán một cách có lợi nhất, tránh được những rủi ro có thể xảy ra phải xét đến vấn đề: Tỷ giá hối đoái, tiền tệ trong thanh toán quốc tế, thời hạn thanh toán; Các phương thức và hình thức thanh toán quốc tế; các điều kiện bảo đảm hối đoái. * Đối thủ cạnh tranh : Bao gồm cả đối thủ cạnh tranh sơ cấp ( cùng tiêu thụ các sản phẩm đồng nhất ) và các đối thủ thứ cấp ( tiêu thụ các sản phẩm có khả năng thay thế ). Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vì doanh nghiệp lúc này chỉ có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng, giảm giá hàng bán để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ và yêu cầu doanh nghiệp phải tổ chức bộ máy hoạt động cho phù hợp để sao cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh về giá cả, chất lượng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng dịch vụ bán hàng,…Như vậy đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đồng thời tạo ra sự tiến bộ và động lực phát triển của doanh nghiệp.Việc xuất hiện càng nhiều đối thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng khó khăn và sẽ bị giảm một cách cân đối. Đây đang là một khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Bởi đặc thù của xuất nhập khẩu là một thị trường rộng lớn với sự hoạt động kinh doanh của rất nhiều doanh nghiệp cả trong và ngoài nước đang cạnh tranh gay gắt. * Thị trường:Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường đầu vào và cả thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Đối với thị trường đầu vào của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đó là hàng hoá kinh doanh của doanh nghiệp. Cho nên nó tác động trực tiếp đến giá thành và chất lượng hàng hoá bán ra của doanh nghiệp. Còn thị trường đầu ra quyết định doanh thu của doanh nghiệp trên cở sở hàng hoá kinh doanh của doanh nghiệp tiêu thụ được và hiệu quả được tác động bởi tốc độ tiêu thụ.Vậy hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rát lớn vào cả thị trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. * Mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường : Đây chính là tiềm lực vô hình của doanh nghiệp tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình, nó tác động rất lớn đến sự thành bại của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sự tác động này là sự tác động phi lượng hoá bởi chúng ta không thể tính toán, định lượng được. Một hình ảnh, uy tín tốt về doanh nghiệp liên quan đến hàng hoá, diạch vụ chất lượng sản phẩm, giá cả…là cơ sở tạo ra sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của doanh nghiệp. Mối quan hệ rộng sẽ tạo ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội, nhiều đầu mối mở rộng cả thị trường đầu ra và đầu vào. Từ đó doanh nghiệp có thể lựa chọn những cơ hội, phương án kinh doanh tốt nhất cho mình. Ngoài ra môi trường kinh doanh còn có các nhân tố khác như : cơ cấu ngành, tập quán dân cư, thu nhập bình quân của dân cư, nhân tố thời tiết, nhân tố tài nguyên thiên nhiên, nhân tố vị trí địa lý, nhân tố về tình hình chính trị …nó cũng có những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến nó để có những cãch ứng xử với thị trường trong từng doanh nghiệp từng thời điểm cụ thể. 3.2. Các nhân tố chủ quan Các nhân tố chủ quan trong doanh nghiệp chính là thể hiện tiềm lực của một doanh nghiệp. Cơ hội, chiến lược kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp luôn phụ thuộc chặt chẽ vào các yêú tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp cụ thể. Tiềm lực của doanh nghiệp không phải là bất biến mà nó có thể mạnh lên hay yếu đi, có thể thay đổi toàn bộ hay bộ phận. Chính vì vậy trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp luôn phải chú ý tới các nhân tố này nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp hơn nữa. * Nhân tố vốn : Đây là một nhân tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối, đầu tư có hiệu quả nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả nguồn vốn đưa vào kinh doanh. Vốn là yếu tố quyết định đến quy mô của doanh nghiệp và quy mô cơ hội có thể khai thác. Đặc biệt trong kinh doanh xuất nhập khẩu vốn cũng đang là vấn đề rất quan trong đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi làm ăn với nước ngoài, nó chó phép doanh nghiệp ký được các hợp đồng có giá trị lớn tạo đà phát triển của doanh nghiệp cũng như nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách đáng kể cho doanh nghiệp. * Nhân tố con người : Trong kinh doanh ngày nay con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với trình độ và năng lực thật sự của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các nguồn lực đã có và sẽ có : vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ, …một cách có hiệu quả. Nước ta là nước chậm phát triển, để từng bước hoà nhập với thị trường thế giới thì cần phải coi trọng nhân tố con người, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của kinh doanh trong thời "Mở cửa". Vì con người là chủ thể của hoạt động kinh doanh. Nói chung đội ngũ cán bộ trong các doanh nghiệp của nước ta còn yếu kém về quản lý , luật pháp, giao tiếp bằng ngoại ngữ ... điều đó, thường gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu nhân tố con người không chỉ trình độ và năng lực cơ bản mà nó còn phải sánh ngang tầm với thế giới và có những hiểu biết vượt ra ngoài đất nước. Để có thể phục vụ tốt hơn cho giao dich kinh doanh quốc tế, tránh những thua thiệt về kinh tế với đối tác nước ngoài, đem lại hiệu quả kinh doanh cho bản thân doanh nghiệp cũng như cho nền kinh tế quốc gia. * Nhân tố quản trị doanh nghiệp : Càng ngày nhân tố quản trị càng đóng vai ttrò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh, các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá về sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng để đảm bảo cho một doanh nghiệp giành chiến thắng trong canh tranh phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản trị của các nhà quản trị doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, quản trị doanh nghiệp khai thác và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất. Chất lượng của hoạt động này cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của mỗi thời kỳ.ở mọi doanh nghiệp, kết quả và hiệu quả hoạt động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân và thiết lập các mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức bộ máy đó. Ngày nay bộ máy gọn nhẹ, kết cấu phù hợp với hoạt động kinh doanh sẽ làm tăng hiệu quả của hoạt động quản lý, giảm thiểu các loại chi phí kinh doanh. Lề lối giải quyết công việc không những tác động tới tình cảm của khách hàng mà còn hạn chế được những chi phí phát sinh không cần thiết cũng như việc đáp ứng được phong cách làm việc hiện đại trong giao dịch quốc tế. Môti trong những tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngoài ra các nhân tố chủ quan của doanh nghiệp cũng góp phần đáng kể vào kết quả kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như : trình độ kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp, hệ thống trao đổi và sử lý thông tin của doanh nghiệp, sự vận dụng các đòn bẩy kinh tế, các hoạt động Marketing của doanh nghiệp…Các nhân tố này cần phải được doanh nghiệp xem xét và thay đổi chu phù hợp với điều kiện đầy biến động của nền kinh tế thị trường, biến các nhân tố đó luôn trở thành một tiềm lực, một điểm mạnh của doanh nghiệp nhằm ngày một nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Trước tiên cần phải nói đến sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung. Ngày này con người ngày càng sử dụng các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực ngày càng khan hiếm thì nhu cầu của con người ngày càng tăng không có giới hạn. Điều này phản ánh quy luật khan hiếm bắt buộc mọi doanh nghiệp phải lựa chọn trả lời chính xác là : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai? Nếu doanh nghiệp nào trả lời không đúng ba câu hỏi trên sẽ sử các nguồn lực vào sản xuất các sản phẩm không tiêu thụ được trên thị trường – tức kinh doanh không có hiệu quả, lãng phí nguồn lực xã hội- sẽ không có khả năng tồn tại. Mặt khác, mọi doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh. Để duy trì lợi thế cạnh tranh về giá cả doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Chỉ trên cơ sở sản xuất kinh doanh vơí hiệu quả kinh tế cao, doanh nghiệp mới có khả năng đạt được điều này. Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm (dịch vụ ) cung cấp cho thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực xã hội nhất định. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao càng phản ánh doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Ngoài ra sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong nền kinh tế thị trường nhiệm vụ quan trọng và bao quát của xuất nhập khẩu là làm động lực chính cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá . Vấn đề cơ bản ở đây là khi tham gia trao đổi hàng hoá trên thị trường thế giới, nước ta phải chấp nhận những nguyên tắc của cạnh tranh trên thị trường. Điều đó đòi hỏi hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế phải tính kỹ lỗ, lãi giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời kinh doanh có hiệu quả trong hoạt động ngoại thương sẽ kéo theo những thay đổi của cơ chế, tháo gỡ những ràng buộc, cản trở không thuận lợi cho hoạt động ngoại thương nói riêng và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường nói chung. Đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiệm vụ tìm kiếm những đầu vào mới cho công nghiệp là nơi thu hút công nghệ, thiết bị và nguyên vật liệu cho công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. - Xuất nhập khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục nghèo nàn và chậm phát triển ở nước ta. Để công nghiệp hoá trong thời kỳ ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động... nó quyết định qui mô và tốc độ tăng của hoạt động xuất nhập khẩu. - Xuất nhập khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với nước ta xuất nhập khẩu tạo điều kiện tiền đề cho các ngành sản xuất phát triển, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần cho sản xuất phát triển ổn định; Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất trong nước (vốn, vật tư, kỹ thuật), nhằm chế tạo, nâng cao năng lực sản xuất ở trong nước, góp phần nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá nước ta sẽ tham gia vào cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Để cạnh tranh được đòi hỏi nền kinh tế phải tổ chức lại các ngành kinh tế, tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. - Xuất nhập khẩu có tác động tích cực đến việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động, xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu sản phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân, nhập khẩu thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động. - Xuất nhập khẩu là cơ sở để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta. Sự phát triển của xuất nhập khẩu có liên quan mật thiết và thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như các dịch vụ vận tải hàng hoá, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính, tín dụng quốc tế và đặc biệt có liên quan đến việc mở rộng sự hợp tác quốc tế trong sản xuất, khoa học công nghệ và đầu tư. 5. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh 5.1. Tăng cường quản trị chiến lược kinh doanh Nền kinh tế thị trường mở cửa và ngày càng hội nhập với khu vực và quốc tế vừa tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, vừa làm cho tính biến động của môi trường kinh doanh càng lớn. Đặc biệt khi mà hiệp định thương mại của nước ta và các nước trên thế giới được ký kết, cũng như việc gia nhập APEC và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO đang xoá đi rào cản thuế quan với các hoạt động xuất, nhập khẩu. Trong môi trường kinh doanh đầy biến động này để chống đỡ với sự thay đổi không lường trước của môi trường đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược kinh doanh mang tính chất động và tấn công. Chất lượng của hoạch định và quản trị chiến lược tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, vị thế cạnh tranh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 5.2. Lựa chọn quyết định sản xuất kinh doanh có hiệu quả * Quyết định mức sản xuất và sự tham gia của các yếu tố đầu vào Mọi doanh nghiệp kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Xét trên phương diện lý thuyết thì để đạt được mục tiêu này, trong mọi thời kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải quyết định mức sản xuất của mình thoả mãn điều kiện doanh thu biên thu được từ đơn vị sản phẩm thứ i phải bằng với chi phí kinh doanh biên để sản xuất ra đơn vị sản phẩm thứ i đó ( MC = MR ). Mặt khác, để sử dụng nguồn lực các đầu vào có hiệu quả nhất doanh nghiệp quyết định sử dụng khối lượng môĩ nguồn lực sao cho mức chi phí kinh doanh để có đơn vị yếu tố đầu vào thứ j nào đó phải bằng với sản phẩm doanh thu biên mà yếu tố đầu vào đó tạo ra MRPj = MCj * Xác định và phân tích điểm hoà vốn Kinh doanh trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp đều quan tâm đến hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Để quyết định sản xuất một loại sản phẩm doanh nghiệp phải tính toán để biết được phải sản xuất bao nhiêu sản phẩm với mức giá đầu vào cụ thể nào và bán với giá nào thì đảm bảo hoà vốn và bắt đầu có lãi. Điều này đặt ra yêu cầu xác định và phân tích điểm hoà vốn. 5.3. Phát triển trình độ và tạo động lực cho đội ngũ lao động Lao động sáng tạo của con người là nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh. Doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu lao động tối ưu, đảm bảo đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người. Phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các điều kiện cần thiết của quá trình sản xuất, đảm bảo sự cân đối thường xuyên trong sự biến động của môi trường kinh doanh. Phải chú trọng công tác vệ sinh công nghiệp và các điều kiện về an toàn lao động. Động lực tập thể và cá nhân là yếu tố quyết định khả năng sáng tạo, là yếu tố tập hợp, liên kết giữa các thành viên lại với nhau. Tạo động lực cho tập thể, cá nhân là vấn đề đặc biệt quan trọng. Yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới việc tạo động lực là việc thực hiện trả lương, khuyến khích lợi ích vật chất và chịu trách nhiệm vật chất đối với người lao động. Không thể tạo ra động lực khi trả lương, thưởng không theo nguyên tắc công bằng. Mặt khác, nhu cầu tinh thần của người lao động ngày càng cao đòi hỏi phải chuyển sang quản trị dân chủ, tạo ra bầu không khí hữu nghị, thân thiện giữa các thành viên. Phải ngày càng đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin cho người lao động. Đồng thời phải đặc biệt chú trọng phát triển nhân cách của đội ngũ những người lao động. 5.4. Công tác quản trị Bộ máy quản trị doanh nghiệp gọn, nhẹ, năng động, linh hoạt trước biến đổi thị trường luôn là đòi hỏi bức thiết đối với công tác quản trị doanh nghiệp. Muốn vậy, phải chú ý ngay từ khâu tuyển dụng theo nguyên tắc tuyển người theo yêu cầu của công việc chứ không được phép ngược lại. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp phải thích ứng với sự biến động của môi trường kinh doanh. Phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ trách nhiệm, mối quan hệ giữa các bộ phận, cá nhân trong bộ máy quản trị doanh nghiệp và phải được quy định rõ ràng trong điều lệ cũng như hệ thống nội quy của doanh nghiệp. Thiết lập hệ thống thông tin hợp lý là nhiệm vụ không kém phần quan trọng của công tác tổ chức doanh nghiệp. Việc thiết lập hệ thống thông tin phải đáp ứng các yêu cầu sau : Đảm bảo cung cấp thông tin thường xuyên đến đúng địa chỉ cần sử dụng ; Đảm bảo thường xuyên cập nhật, bổ sung thông tin cũng như tăng cường thường xuyên chất lượng thu thập và xử lý thông tin ; Đảm bảo chi phí kinh doanh cho thu thập, xử lý và khai thác sử dụng thông tin là thấp nhất ; Phải dần phù hợp với trình độ phát triển của công nghệ thông tin và từng bước hội nhập với hệ thống thông tin quốc tế. 5.5. Phát triển công nghệ kỹ thuật Nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay có trình độ công nghệ kỹ thuật rất lạc hậu, máy móc thiết bị quá cũ kỹ là cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không đảm bảo và kết cục là hiệu quả kinh tế thấp hoặc kinh doanh không có hiệu quả. Nhu cầu đổi mới kỹ thuật công nghệ là rất chính đáng song phát triển công nghệ kỹ thuật luôn đòi hỏi phải đầu tư lớn; đầu tư đúng hay sai sẽ tác động tới hiệu quả lâu dài trong tương lai. Vì vậy, để quyết định đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ phải giải quyết tốt ba vấn đề : Thứ nhất, phải luôn dự đoán đúng cung- cầu thị trường, tính chất cạnh tranh trên thị trường hàng hoá ( dịch vụ ) mà doanh nghiệp sẽ đầu tư phát triển. Thứ hai, phải phân tích đánh giá lựa chọn công nghệ phù hợp. Trường hợp công nghệ lỗi thời, thiết bị bãi rác, gây ô nhiễm môi trường,…đều đã ản chứa nguy cơ sử dụng chúng không có hiệu quả trong tương lai. Thứ ba, phải có giải pháp huy động và sử dụng vốn đúng đắn. Nếu dự án đổi mới thiết bị không được đảm bảo bởi các điều kiện huy động và sử dụng vốn đúng đắn cũng đều chứa nguy cơ thất bại, không đem lại hiệu quả. 5.6. Tăng cường và mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp và xã hội Cùng với sự phát triển và mở rộng thị trường, sự phụ thuộc giữa các doanh nghiệp với thị trường cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau càng chặt chẽ. Doanh nghiệp nào biết khai thác tốt thị trường cũng như các quan hệ bạn hàng doanh nghiệp đó sẽ có cơ hội phát triển kinh doanh. Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả cao, doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội, hạn chế khó khăn, tránh các cạm bẫy,… Muốn vậy, doanh nghiệp phải : Giải quyết tốt các mối quan hệ với khách hàng. Tạo sự tín nhiệm, uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường. Giải quyết tốt các mối quan hệ với các đơn vị tiêu thụ, cung ứng và các đơn vị kinh doanh có liên quan khác,… Giải quyết tốt các mối quan hệ với các cơ quan quản lý vĩ mô vì chỉ trên cơ sở này hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới diễn ra thuận lợi, hiệu quả kinh doanh mới gắn chặt với hiệu quả xã hội. Thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh doanh bền vững. Trên đây mới chỉ là những biện pháp cơ bản và chung nhất để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Còn trong mỗi trường hợp cụ thể của từng doanh nghiệp, thông qua hoạt động kinh doanh thực tế của doanh nghiệp mà phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu, những chỗ cần tiếp tục phát huy, những chỗ lại cần thay đổi cho phù hợp,…Từ đó những nhà quản trị của doanh nghiệp sẽ đưa ra những quyết định hay những biện pháp cụ thể và đặc thù của doanh nghiệp mình hơn để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. phần 2 Thực trạng hiệu quả kinh doanh của trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc công ty tư vấn đầu tư và thương mại 1. Khái quát về tổ chức và hoạt động kinh doanh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ 1.1. Quá trình thành lập, chức năng và nhiệm vụ Tên đầy đủ : Trung tâm thương mại và xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ Tên giao dịch : Commercial center of shipping equipment import-export Trực thuộc Công ty Tư vấn đầu tư và thương mại thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam . Địa chỉ : 120 B Hàng Trống – Hà Nội – Việt Nam Điện thoại : 84 - 4 - 8289562/9285617 Fax : 84 - 4 - 8287444 Email : mtc@fpt.vn Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ là một bộ phận của Công ty Tư vấn đầu tư và thương mại, quá trình hình thành cũng như chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm chịu ảnh hưởng rất nhiều từ phía công ty. Do đó xem xét sự hình thành của Trung tâm phải trong bối cảnh chung của quá trình hình thành và phát triển của công ty. Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại ra đời và phát triển khi mà nền kinh tế đang có sự chuyển đổi từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Công ty- một doanh nghiệp Nhà nước - đơn vị thành viên của Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển được đánh dấu bằng các mốc chính sau đây : - Ngày 11/5/1991, đánh dấu sự ra đời của Công ty với tên gọi ban đầu là Công ty Đầu tư và phát triển đóng tàu. Nòng cốt cán bộ công nhân viên của công ty là các cán bộ nhân viên từ các phòng ban của Liên hiệp khoa học sản xuất đóng tàu cũ tách ra. - Năm 1994, theo văn bản số 161/TB ngày 29/11/1994 về thông báo của Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập lại doanh nghiệp nhà nước và quyết định số 2557/QĐ/TCCB – LĐ của Bộ Giao thông vận tải quyết định cho phép công ty đổi tên là Công ty Tư vấn đầu tư và phát triẻn đóng tàu. - Quí 3 năm 1996, Tổng công ty cho phép sát nhập Công ty Tư vấn và công ty Tài chính thành công ty mới có tên là Công ty Tư vấn đầu tư và Tài chính công nghiệp tàu thuỷ. -Năm 1999, nhận thấy trước tình hình kinh tế có nhiều thayđổi, nhằm phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của mình, công ty đề nghị và được chấp nhận của các ban nghành có liên quan Công ty Tư vấn đầu tư và Tài chính công nghiệp tàu thuỷ tách ra làm hai công ty : + Công ty Tài chính công nghiệp tàu thuỷ + Công ty Tư vấn đầu tư và thương mại trực thuộc Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam Công ty tư vấn đầu tư và thương mại có chức năng và nhiệm vụ chính được giao là kinh doanh vật tư thiết bị thuỷ phục vụ cho các đơn vị đóng tàu thuộc Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Tháng 12/ 1995, Bộ xây dựng cấp chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng thì chức năng và nhiệm vụ của công ty được mở rộng không những trong phạm vi nghành mà còn cả ngoài nghành chẳng hạn như mở rộng phục vụ ngoài nghành không thuộc Tổng công ty như các đơn vị thuộc nghành Thuỷ sản hay các đơn vị Hải quân. Là doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ tư cách pháp nhân, Công ty thực hiện trong các lĩnh vực sau: + Tư vấn đầu tư và môi giới phát triển công nghiệp đóng tàu + Dịch vụ khoa học kỹ thuật chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực thuỷ + Dịch vụ vật tư, thiết bị đóng tàu Đầu năm 2000, trước sự phát triển và hoàn thiện của Công ty cũng như nhằm đạt hiệu quả kinh doanh hơn ở thị trường đầy biến động. Được sự chấp nhận của các ban ngành có liên quan, công ty quyết định thành lập Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ. Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ trực thuộc công ty tư vấn đầu tư và thương mại chính thức ra đời và đi vào hoạt động. Hoạt động cuả trung tâm theo hình thức thanh toán nội bộ, có con dấu riêng và tài khoản riêng. Chức năng và nhiệm vụ cuả Trung tâm là cung cấp vật tư, thiết bị thuỷ phục vụ cho các đơn vị có nhu cầu. Trước hết là các đơn vị đóng tàu và sửa chữa tàu thuyền thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam , sau là các đơn vị ngoài ngành có nhu cầu như thuộc nghành thuỷ sản và các đơn vị Hải quân… 1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy ( Thể hiện ở sơ đồ 1 ) Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ có cơ cấu tổ chức quan hệ trực tuyến trong phạm vi nội bộ và quan hệ tham mưu với các bộ phận khác của Công ty mẹ. Trung tâm cũng chịu sự quản lý của Công ty mẹ thông qua ban lãnh đạo công ty tuy nhiên do Trung tâm có hình thức kinh doanh là hoạch toán nội bộ tự trang trải chi phí hoạt động của mình do đó Công ty mẹ chỉ có nhiệm vụ giám sát và tạo điều kiện cho Trung tâm còn hầu hết các quyết định của Trung tâm đều do ban lãnh đạo Trung tâm trực tiếp đưa ra và chịu trách nhiệm trước các quyết định đó. Có thể thấy Trung tâm có một cơ cấu tổ chức quan hệ trực tuyến – chức năng rất phù hợp cho loại hình kinh doanh với quy mô doanh nghiệp nhỏ và hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Cơ cấu này giúp cho ban lãnh đạo Trung tâm XNK thiết bị thuỷ có các quyết định kịp thời, nhanh chóng trong kinh doanh tạo lợi thế cho tận dụng các cơ hội kinh doanh và lợi thế cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Ban lãnh đạo công ty Chi nhánh Miền Trung Phòng khảo sát thiết kế Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng tài chính kế toán Phòng tổ chức hành chính Chi nhánh Thành phố HCM Chi nhánh Hải Phòng Trung tâm XNK thiết bị thuỷ GĐ Trung tâm Chú thích Quan hệ trực tuyến Quan hệ tham mưu PGĐ Trung tâm Bộ phận nhân sự Bộ phận kinh doanh Bộ phận kế toán Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấutổ chức bộ máy Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ - Ban lãnh đạo Trung tâm gồm Giám đốc và Phó giám đốc Trung tâm. + Giám đốc Trung tâm : Phụ trách chung toàn bộ hoạt động kinh doanh của Trung tâm, đồng thời xem xét tới sự phù hợp với mục đích và nhiệm vụ của toàn công ty. + Phó giám đốc Trung tâm : phụ trách tham mưu cho Giám đốc trong các hoạt động kinh doanh, chịu trách nhiệm và trực tiếp điều hành khi Giám đốc vắng mặt. Các bộ phận chức năng của Trung tâm + Bộ phận kinh doanh : trực tiếp tổ chức kinh doanh các mặt hàng của Trung tâm và tiêu thụ hàng hoá + Bộ phận kế toán : quản lý vốn, giám sát hoạt động kinnh doanh qua tổ chức công tác thống kê hoạch toán chính xác, kịp thời, đầy đủ, xác định lỗ lãi kinh doanh, tổ chức vay vốn, thanh toán với ngân sách nhà nước, ngân hàng, khách hàng và nhân viên Trung tâm, cung cấp thông tin cho việc ra quyết định của ban lãnh đạo Trung tâm + Bộ phận nhân sự : có chức năng quản lý lao động của Trung tâm về số lượng, chất lượng, tổ chức các hoạt động phục vụ cán bộ nhân viên cũng như tiếp khách tới làm việc với Trung tâm Các hoạt động của Trung tâm đều nhằm mục tiêu và chiến lược của Trung tâm đồng thời gắn bó với chiến lược và mục tiêu chung của toàn Công ty mẹ. Khi ra các quyết định cho hoạt động kinh doanh của Trung tâm đều có sự thu thập, tham khảo các thông tin từ các bộ phận khác của Công ty mẹ như phòng tổ chức, phòng hành chính kế toán, phòng kế hoạch kinh doanh, phòng khảo sát thiết kế. Trung tâm còn có quan hệ hỗ trợ với các chi nhánh của Công ty mẹ tại các địa phương cũng hoạch toán nội bộ và tự trang trải chi phí như Trung tâm. Điều dễ nhận thấy là Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ có bộ máy rất gọn nhẹ đó là do bản thân Trung tâm là đơn vị mới thành lập chưa được 2 năm và quan điểm quản trị của Ban lãnh đạo Trung tâm là tinh giảm bộ máy tới mức tối thiểu nhưng hiệu quả công việc phải tối đa để mang lại lợi nhuận cao nhất. Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ có số nhân viên cán bộ là 12 người hơn 85% là trình độ đại học và trên đại học. Các nhân viên có điểm mạnh là trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao, trẻ, năng động, thích ứng nhanh nhậy với sự biến động của thị trường. Các cán bộ nòng cốt và Ban lãnh đạo của Trung tâm đều có kinh nghiệm do hoạt động tại Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại từ trước khi Trung tâm ra đời và rất quen thuộc với lĩnh vực kinh doanh mặt hàng thiết bị thuỷ. Trong quan hệ đồng nghiệp, cấp trên và cấp dưới tại Trung tâm rất khăng khít, đoàn kết, tạo nên phong cách làm việc riêng của Trung tâm cũng như bản sắc riêng của Trung tâm. Đây được coi là điểm mạnh của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ mà không phải công._.Để tăng cường năng lực tài chính trước hết phải chú trọng tăng vốn chủ sở hữu. Một đơn vị kinh doanh có vốn chủ sở hữu nhiều sẽ chủ động hơn trong việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình hơn một đơn vị có vốn chủ sở hữu ít. Nếu vốn ít khi giao dịch, nghiên cứu thị trường ký kết được 1 hợp đồng kinh doanh với các điều kiện rất tốt, thực hiện được sẽ có lãi lớn nhưng bàn bạc với ngân hàng vay vốn, ngân hàng không đồng ý cho vay hoặc phải bàn nhiều lần mới đồng ý cho vay thì lỡ thời cơ không thực hiện được hợp đồng đành phải "Lực bất tòng tâm". Như đã phân tích ở trên thì đây chính là một điểm yếu của Trung tâm. Bởi Trung tâm tách ra hoạt động từ năm 2000 và được quyền sử dụng vốn kinh doanh trong phạm vi toàn bộ nguồn vốn của Công ty là 490.000.000 đồng và được bổ sung 650.000.000 đồng. Có thể nói đây là một nguồn vốn rất nhỏ so với mặt hàng kinh doanh của Trung tâm là thiết bị thuỷ, những mặt hàng có giá trị đơn chiếc lớn có cái lên tới vài tỷ. Do đó đây sẽ là khó khăn cho Trung tâm trong việc kinh doanh khi mà nhận được các hợp đồng kinh tế cung cấp các thiết bị thuỷ có giá trị lớn . Vậy trong thời gian tới vấn đề đặt ra đối với Trung tâm là phải làm thế nào để tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Để tăng nguồn vốn chủ sở hữu Trung tâm cần thực hiện các biện pháp như : Thông qua Công ty xin ngân sách của Tổng công ty, ngân sách Trung ương cấp bổ sung vốn lưu động, gia tăng lợi nhuận giữ lại để bổ sung cho nguồn vốn chủ sở hữu. Cùng với việc bổ sung vốn chủ sở hữu Trung tâm cần quan tâm đến nguồn vốn vay tại ngân hàng. Đây thực sự là nguồn tài trợ to lớn trong hoạt động kinh doanh của Trung tâm, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh mặt hàng thiết bị thuỷ. Có những lô hàng trị giá hơn 5 tỷ đồng VND Trung tâm phải vay ngân hàng 100%. Để tạo được quan hệ vay vốn tốt Trung tâm cần phải giữ được uy tín trong việc vay và trả theo đúng khế ước, hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích không để phát sinh nợ quá hạn. Trong thời gian tới Công ty cần giữ vững và phát huy hơn nữa 3 nguồn tài trợ vốn trên đây theo hướng tăng cường vốn chủ sở hữu, xác định vốn vay so với vốn chủ sở hữu ở mức độ tối ưu nhất giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. 4.1.2. Tổ chức và quản lý tốt tài sản và vốn trong quá trình kinh doanh Đây là một giải pháp rất quan trọng nhằm đạt tới kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. * Quản lý tài sản cố định, vốn cố định Để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định, vốn cố định, Trung tâm phải trang bị tài sản cố định hiện đại và thực hiện sao cho có hiệu quả nhất việc sử dụng tài sản cố định bao gồm: Tổ chức tốt việc sử dụng các thiết bị văn phòng phục vụ cho mục đích kinh doanh như hệ thống máy tính nối mạng để thường xuyên cập nhật thông tin phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh một cách nhanh nhất và chính xác. Tận dụng tốt các thiết bị văn phòng khác như : điện thoại, máy fax giúp Trung tâm giao dịch kinh doanh với các bạn hàng từ các nước trên thế giới. * Quản lý tài sản lưu động, vốn lưu động Như ta đã biết hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Do vậy, Trung tâm cần phải tăng cường các biện pháp quản lý tài sản lưu động và vốn lưu động. Theo báo cáo kết quả kinh doanh thấy tổng chi phí kinh doanh của Trung tâm lớn và tăng cùng với doanh thu. Do đó vấn đề đặt ra đối với Trung tâm là cần phải hết sức tiết kiệm các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm giúp phần giảm chi phí để có thể gia tăng lợi nhuận. Nếu một trong số những khoản chi phí này hết sức cần thiết thì Trung tâm nên cân nhắc tính toán sao cho các khoản chi phí được hợp lý và tiết kiệm. Trung tâm nên xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường. Trong các giao dịch kinh tế – tài chính với khách hàng, Trung tâm phải tổ chức tốt quá trình thanh toán, không để tình trạng công nợ dây dưa. Đặc biệt đối với Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ là một đơn vị kinh doanh chủ yếu dựa trên phần vốn vay và chiếm dụng thì việc tạo uy tín đối với bạn hàng là một điều hết sức quan trọng. Nếu cùng một lúc tất cả các chủ nợ đều đến đòi nợ Trung tâm thì Trung tâm sẽ gặp khó khăn về vốn lưu động, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. 4.1.3.Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng cường quản lý, kiểm tra kiểm soát quá trình kinh doanh, sử dụng các loại vốn nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên kế toán là hệ thống thông tin thực hiện, các số liệu, tài liệu kế toán tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý vốn sản xuất kinh doanh. Do vậy, định kỳ Trung tâm phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế, trong đó có phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Hiện nay, công tác này chủ yếu thuộc trách nhiệm của phòng Kế toán mà trực tiếp là do kế toán trưởng đảm nhiệm. Trong thời gian tới, để đạt hiệu quả cao hơn thì Trung tâm nên phân công một cán bộ chuyên trách thực hiện phân tích tài chính và theo dõi công tác quản lý và sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân dẫn đến thành tích, tiến bộ so với kỳ trước để có biện pháp phát huy và nguyên nhân gây ra tồn tại, sút kém để có biện pháp khắc phục kịp thời. 4.1.4. Chủ động phòng ngừa các rủi ro trong sản xuất kinh doanh Để chủ động phòng ngừa các rủi ro trong kinh doanh, Trung tâm cần mua bảo hiểm, trích lập các quỹ dự phòng tài chính để bù đắp số vốn bị thiếu hụt. Khi hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nhiều biến động, Trung tâm phải luôn đối phó với nhiều tình hình phức tạp, rủi ro trong kinh doanh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trong nợ phải thu của Trung tâm chưa xảy ra nợ khó đòi xong trong kinh doanh không có gì có thể đảm bảo rằng không có những rủi ro xảy ra. Do đó, để hạn chế phần nào những tổn thất có thể xảy ra, Trung tâm phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Để khi xảy ra Trung tâm phải có nguồn bù dắp, bảo toàn được nguồn vốn và đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn. 4.1.5. Khai thác, huy động các nguồn vốn cho kinh doanh Thông qua công tác tìm hiểu nhu cầu thị trường, Trung tâm có thể xác định nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó, tìm ra các giải pháp để đáp ứng nhu cầu đó. Đối với Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ, trong những năm vừa qua, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ bé, Trung tâm còn phải sử dụng nguồn vốn nợ để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trung tâm có mối quan hệ với Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và phát triển. Mặt khác, thời gian tới, Trung tâm cũng nên chú ý đến một số hình thức huy động vốn khác rất có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường như: - Huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ nợ. Đây là hình thức gọi vốn tương đối mới và tương đối khó thực hiện do thị trường tài chính của nước ta chưa phát triển. Nhưng trong giai đoạn hiện nay cũng như trong thời gian tới, hình thức này sẽ ngày càng phát triển mạnh do nó có nhiều ưu điểm. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi và thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Do đó, Ban Giám đốc có thể nghiên cứu, lập dự án cổ phần hoá một phần Trung tâm nhằm huy động thêm vốn, tạo thêm động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh doanh. Khi tiến hành cổ phần hoá, Trung tâm có thể chuyển phần vốn vay người lao động trước đây thành cổ phần. Điều này sẽ tạo điều kiện hơn cho người lao động tham gia vào quản lý và điều hành doanh nghiệp, đồng thời, giúp Trung tâm chuyển một bộ phận vốn vay thành vốn chủ sở hữu, góp phần làm giảm hệ số nợ. - Liên doanh, liên kết: Đây không phải là hình thức tạo vốn mới. Tuy nhiên, thông qua liên doanh, liên kết với đối tác trong nước hoặc nước ngoài, Trung tâm sẽ có được vốn kinh doanh, học được kinh nghiệm trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tác (nhất là đối tác nước ngoài). Hiện tại, Trung tâm có một số liên doanh, liên kết song đây mới chỉ thông qua hình thức nhận làm đại lý của Trung tâm cho một số hãng cung cấp thiết bị tàu thuỷ như : South China Marine Machinery plant thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Trung quốc, Asiatic engineering pte LTD, … Trong thời gian tới để đẩy mạnh kinh doanh Trung tâm không chỉ dừng lại việc nhận làm đại lý mà còn cần có những hợp đồng liên doanh với các đối tác nước ngoài để trở thành nhà phân phối độc quyền của các hãng tại Việt Nam nhằm tận dụng được nguồn vốn của nhà cung ứng. Đồng thời tiến tới các hợp đồng liên doanh xây dựng nhà máy sản xuất thiết bị thuỷ trong nước. 4.2.Giải pháp về chính sách sản phẩm, thị trường, khách hàng 4.2.1. Giải pháp về chính sách sản phẩm Mặt hàng thiết bị thuỷ với khách hàng là các tổ chức, đơn vị đóng tàu được mua nhằm mục đích là phục vụ cho việc lắp đặt, thay thế để trở thành bộ phận của sản phẩm khác trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tất cả các quyết định của Trung tâm về mặt hàng nhập khẩu này có yêu cầu cao về tính kỹ thuật, dịch vụ đi kèm, tính đồng bộ, chất lượng…Do đó nếu chính sách sản phẩm của Trung tâm không đạt được yêu cầu của khách thì sẽ gây thiệt hại lớn cho cả Trung tâm và khách hàng do chi phí cao ( Cước phí vận chuyển, thủ tục hải quan, lãi vay…) Trong chính sách sản phẩm của Trung tâm cần phải quan tâm tới phối thức sản phẩm hỗn hợp của mặt hàng thiết bị thuỷ gồm ba mức độ : sản phẩm cốt lõi, sản phẩm hiện hữu, cung cấp dịch vụ. Trong việc cung cấp sản phẩm cốt lõi và hiện hữu của Trung tâm cho khách hàng thể hiện được qua việc lựa chọn các nhà sản xuất và cung ứng phù hợp nhất với đòi hỏi của khách hàng đó là xuất xứ, tên gọi, chất lượng, thông số kỹ thuật…Trung tâm phải tiến hành ký kết các hợp đồng nhập khẩu với các điều khoản nhằm đảm bảo được các thông số trên của mặt hàng không bị thay đổi trong quá trình vận chuyển vào Việt Nam. Đối với sản phẩm công nghiệp thì mức độ cung cấp dịch vụ cực ký quan trọng trong đánh giá của khách hàng công nghiệp đôi khi còn quan trọng hơn cả giá thành. Với mức độ cung cấp dịch vụ Trung tâm cần tiến hành các chiến thuật khai thác để tạo ra lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ và thu hút được khách hàng. Vì sản phẩm cốt lõi và hiện hữu là do các nhà sản xuất tạo ra chỉ có hoạt động cung cấp dịch vụ là các trung gian thương mại góp phần thực hiện. Trung tâm có thể tiến hành như sau : - Bảo hành sản phẩm : cần xây dựng một chế độ bảo hành hợp lý quy định quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia. Chế độ bảo hành được thể hiện trong hợp đồng nhập khẩu của Trung tâm với các nhà cung cấp và trong hợp đồng bán với khách hàng. - Lắp đặt và sử dụng : đối với các mặt hàng thiết bị thuỷ thì việc lắp đặt và sử dụng là do khách hàng của Trung tâm thực hiện. Trung tâm tiến hành cung cấp tốt yếu tố này bằng cách là yêu cầu các nhà cung ứng cung cấp các bản chỉ dẫn, sơ đồ thiết kế và vận hành về mặt hàng đầy đủ cho khách hàng đính kèm theo các hợp đồng mua bán. - Dịch vụ sau bán luôn phải được đề cao, Trung tâm nên thường xuyên cung cấp những thông tin về sản phẩm, hướng dẫn sử dụng. Đối với việc sửa chữa, bảo dưỡng Trung tâm nên tìm cách gợi mở nhu cầu về các vật tư, thiết bị phụ tùng thay thế, đảm bảo tính đồng bộ của sản phẩm. - Điều kiện giao hàng và thanh toán : Trung tâm thường tiến hành hình thức là giao tay ba hoặc vận chuyển thẳng tại địa điểm nhập khẩu hàng. Thực tế là từ địa điểm nhập khẩu đến cơ sở sản xuất của khách hàng là không dài, Trung tâm nên tiến hành thanh toán cước phí vận chuyển hàng hoá toàn bộ hoặc một phần trên quang đường đó, điều này có thể làm chi phí của Trung tâm tăng lên nhưng lại là biện pháp hữu hiệu trong việc thu hút khách hàng và củng cố sự Trung thành của họ với Trung tâm. Trong chính sách của Trung tâm cũng cần cân nhắc về nhập khẩu mặt hàng kinh doanh đó là nhập khẩu nguyên kiện hay nhập khẩu linh kiện, bộ phận. Bởi vì theo quy định của Chính phủ về nhập khẩu đối với những máy móc, bộ phận mà trong nước không sản xuất được thì khuyến khích nhập khẩu với thuế nhập khẩu 0% còn với các máy móc và bộ phận trong nước sản xuất được thì chịu mức thuế nhập khẩu cao hơn. Trung tâm cần phân tích, đánh giá sao cho giảm thiểu được chi phí nhất góp phần giảm giá thành nâng cao việc cung cấp lợi ích cho khách hàng. 4.2.2. Lựa chọn thị trường mục tiêu và các chiến lược đáp ứng thị trường Từ những trình bày ở phần 2 về thực trạng của Trung tâm với những điểm mạnh, điểm yếu thì xác định thị trường mục tiêu và xây dựng chiến lược đáp ứng thị trường của Trung tâm là đúng đắn trong thời gian này. Đặc điểm của Trung tâm là mới đi vào hoạt động, nhân sự và khả năng tài chính chưa lớn thì việc xây dựng và thực thi chiến lược marketing tập trung theo đuổi các khách hàng là nhưng đơn vị đóng tàu thuộc Tổng công ty và một số đơn vị bên ngoài như thuộc bộ thuỷ sản, Hải quân là phù hợp trong thời gian ngắn hạn. Hiện nay với sự khuyến khích phát triển nền kinh tế biển của nhà nước và chính sách mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia làm kinh tế bên cạnh những khách hàng lớn - đơn vị, tổ chức đóng tàu nhà nước còn có một bộ phận những cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu thuyền tư nhân, các hộ gia đình sở hữu tàu thuyền đánh cá và vận tải thuỷ có nhu cầu về mặt hàng thiết bị thuỷ. Khi đã trở lên lớn mạnh và có khả năng trong thời gian dài hạn, Trung tâm nên tiến hành khai thác thêm đoạn thị trường tiềm năng này mà hiện nay hầu như bị các công ty lớn bỏ rơi. Thị trường của Trung tâm sẽ có thể được phân chia thành các nhóm sau : Nhóm khách hàng truyền thống : + Các khách hàng là các nhà máy đóng tàu thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ + Các khách hàng là các đơn vị tổ chức có nhu cầu về mặt hàng thiết bị thuỷ ngoài Tổng công ty như Thuỷ sản, Hải quân. Với nhóm khách hàng này Trung tâm cần tiếp tục khai thác và mở rộng hơn nữa. - Nhóm khách hàng tương lai : Các hộ gia đình, Công ty tư nhân có tàu thuyền phục vụ đánh bắt và vận tải, xưởng đóng tàu tư nhân có nhu cầu về mặt hàng này để thay thế, lắp đặt, sửa chữa, đóng mới các phương tiện thuỷ. Khi tiến hành xây dựng chiến lược đáp ứng cho các đoạn thị trường trên, Trung tâm phải sử dụng chiến lược Marketing phân biệt thay cho chiến lược Marketing hiện nay : - Trung tâm cần xây dựng chính sách sản phẩm với mặt hàng kinh doanh đa dạng sao cho mỗi loại sản phẩm sẽ cung cấp cho các nhóm khách hàng khác nhau. Với khách hàng truyền thống- các đơn vị tổ chức đóng tàu có dự án lớn thì trong chính sách sản phẩm của Trung tâm sẽ cung cấp các mặt hàng thiết bị thuỷ nhập khẩu từ các hãng nước ngoài có uy tín, có chất lượng cao và đảm bảo các thông số kỹ thuật. Đối với nhóm khách hàng tương lai, các hộ gia đình và xưởng sản xuất tư nhân có nhu cầu phục vụ cho các phương tiện tàu thuỷ nhỏ, trọng tải và công suất thấp thì Trung tâm nên tiến hành khai thác các mặt hàng trong nước sản xuất được, có mức chất lượng phù hợp với nhóm khách hàng này bên cạnh các mặt hàng nhập khẩu đưa ra giá thành thấp hơn. - Trong Marketing phân biệt Trung tâm cần chú ý tới việc xây dựng chính sách giá bao gồm nhiều mức giá khác nhau cho từng nhóm khách hàng. Chính sách giá được đặt ra xem xét tới yêu cầu của khách hàng như : chủng loại, xuất xứ hàng hoá, chát lượng, quy mô lô hàng, quan hệ giữa khách hàng và Trung tâm, khoảng cách vận chuyển… - Trung tâm cũng cần chú ý tới chính sách phân phối, mỗi nhóm khách hàng sẽ có một hình thức phân phối phù hợp. Đối với khách hàng truyền thống, Trung tâm có thể tiếp tục sử dụng hình thức cũ là nhập khẩu rồi vận chuyển thẳng tới khách hàng. Đoạn thị trường mới thì Trung tâm cần xây dựng hệ thống phân phối với các đại diện, người phụ trách có sự quen thuộc và hiểu biết về địa phương, khu vực đó. Trung tâm có thể kết hợp hình thức liên kết với các chi nhánh địa phương của Công ty mẹ với hình thức phân phối sử dụng các đơn vị tổ chức tại địa phương có ảnh hưởng tới nhóm khách hàng này như hợp tác xã , xưởng sữa chữa tư nhân. - Chính sách xúc tiến lúc này phải được xây dựng với các chương trình xúc tiến khác nhau. Chẳng hạn với đoạn thị trường mới trên có thể kết hợp hình thức quảng cáo trên báo đài, truyền hình địa phương tập trung các nhóm khách hàng này, hoặc sử dụng các cuộc tiếp xúc trực tiếp của đại diện tại địa phương để đưa ra hình ảnh, uy tín và khả năng cung ứng của Trung tâm - Nếu thực hiện được chiến lược này thông qua việc đáp ứng được nhu cầu của nhóm khách hàng đa dạng thì Trung tâm sẽ khai thác đoạn thị trường tiềm năng có doanh thu cao, lợi nhuận cao bên cạnh bên cạnh thị trường hiện tại. Đồng thời Trung tâm sẽ hạn chế được những rủi ro khi khai thác nhiều đoạn thị trường. 4.2.3. Các giải pháp về khách hàng * Duy trì, củng cố mối quan hệ với bạn hàng truyền thống Trong cơ chế thị trường, cơ chế cạnh tranh tìm được bạn hàng nhất là khách mua hàng đã khó, giữ được mối quan hệ với các bạn hàng, khách hàng cũ đã có mối quan hệ buôn bán, làm ăn hiểu biết lẫn nhau và có uy tín với nhau còn khó hơn. Cái cốt yếu để giành chiến thắng trên thương trường hiện nay là có sự tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bạn hàng và khách hàng quen thuộc, làm ăn có uy tín. Đó là chỗ dựa tin cậy trong hoạt động kinh doanh và muốn được như vậy thì phong cách làm ăn của Trung tâm với các bạn hàng và khách hàng cũng phải thể hiện được chữ tín, giúp đỡ và bảo vệ lợi ích của mình, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi cả một mối quan hệ làm ăn lâu dài, mất nhiều thời gian và công sức mới gây dựng được việc tận dụng quan hệ cũ để tiếp tục gây dựng công việc làm ăn mới là công việc dễ dàng hơn nhiều so với việc gây dựng mối quan hệ mới. Bên cạnh đó cũng cần đánh giá tương lai , triển vọng của các bạn hàng cũ, từ đó tập trung vào những mối quan hệ hiệu quả hơn trong hợp tác kinh doanh cả hiện tại cũng như lâu dài. Thị trường truyền thống của Trung tâm là các nhà máy đóng tàu thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ và một số đơn vị thuộc Bộ thuỷ sản, Hải Quân mà chủ yếu là các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng. * Mở rộng quan hệ, thu hút khách hàng mới Ngoài khách hàng truyền thống thì trong tương lai để mở rộng thị trường, tăng tiêu thụ sản phẩm thì Trung tâm còn cần phải thu hút một lượng khách hàng mới là các hộ gia đình, xưởng sửa chữa tư nhân có nhu cầu về sản phẩm thiết bị thuỷ. Để thu hút được lượng khách hàng này Trung tâm cần tiến hành các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng. Tuy nhiên hoạt động này đòi hỏi phải có những khoản chi phí khá lớn do vậy việc lựa chọn hình thức quảng cáo là tuỳ thuộc vào chi phí mà Trung tâm chi cho hoạt động quảng cáo. Đối với điều kiện của Trung tâm hiện nay thì cần thực hiện các hình thức quảng cáo sau : - Quảng cáo trên các tạp chí, báo chuyên ngành đối tượng là các nhà kinh doanh doanh quan tâm tới mặt hàng thiết bị thuỷ như báo Lao động, GTVT, Thương mại, Thị trường giấ cả vật tư thiết bị… - Quảng cáo qua thư trực tiếp. Với hình thức này là gửi các tới các khách hàng đã được lựa chọn có tên và địa chỉ rõ ràng, thông tin chính xác thường được thể hiện dưới dạng bản chào hàng có đính kèm theo quyền giới thiệu, catalog, tài liệu, danh sách giá… - Quảng cáo trên danh bạ công nghiệp. Trung tâm có thể tiến hành cung cấp thông tin về Trung tâm , sản phẩm đang kinh doanh trên các danh bạ công nghiệp nhằm mục đích hướng vào các nhà quản trị, công ty đang có nhu cầu mua thiết bị thuỷ và đang tiến hành lựa chọn nguồn hàng. - Trung tâm còn cần tham gia các chương trình hội chợ trong nước về hàng công nghiệp, ở đó Trung tâm sẽ có điều kiện để cho nhiều khách hàng đang có nhu cầu về mặt hàng thiết bị thuỷ biết đến. Từ đó Trung tâm sẽ có được những khách hàng mới, và cũng qua đó nhiều nhà sản xuất kinh doanh biết đến Trung tâm và đó là hình thức quảng cáo, lan truyền tên và lĩnh vực kinh doanh của Trung tâm đến các nhà sản xuất có nhu cầu về mặt hàng thiết bị thuỷ. 4.3. Một số giải pháp khác 4.3.1. Về lao động Hiện nay theo quy mô và và phạm vi hoạt động của Trung tâm việc sử dụng lao động như vậy là phù hợp. Trong thời gain tới, với sự phát triển của Trung tâm đòi hỏi việc mở rộng lao động đồng thời phát sinh yêu cầu cần tuyển chọn và đào tạo lao động. Do đặc điểm kinh doanh trên thị trường mặt hàng thiết bị thuỷ yêu cầu Trung tâm cần phải lựa chọn và đào tạo nhân viên của mình có chuyên môn kỹ thuật và sự hiểu biết sâu sắc về mặc hàng, ngành nghề, trình độ về ngoại thương, sự nhiệt tình…đặc biệt đối với những người có chức năng bán hàng cá nhân chú trọng tới kinh nghiệm và kỹ năng bán hàng, đàm phán, thương lượng. Bên cạnh việc sử dụng đúng người, đúng việc Trung tâm cần quan tâm tới việc tạo bầu không khí cởi mở, đoàn kết, đây vốn là một thế mạnh của Trung tâm trong sử dụng lao động. 4.3.2. Về nguồn cung ứng Các sản phẩm kinh doanh của Trung tâm thường là các sản phẩm kinh doanh có nguồn gốc nước ngoài do vậy phụ thuộc rất lớn vào các nhà cung ứng. Trung tâm phải lựa chọn các nhà cung ứng dựa trên sự hiểu biết về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng…để có thể ứng phó với những biến động bất thường và đảm bảo nguồn hàng kinh doanh. Không nên chỉ chọn một nhà cung ứng duy nhất để tránh bị thụ động và phụ thuộc nhiều, nên tìm kiếm các nhà cung ứng có chính sách ưu đãi về giá, phương thức thanh toán, thời gian thanh toán… Các nhà cung ứng nước ngoài có thể trở thành đối thủ cạnh tranh của Trung tâm khi họ không sử dụng trung gian công nghiệp trong việc phân phối sản phẩm vào Việt Nam. Đối phó với tình huống này Trung tâm cần tiến hành ký thác các hợp đồng làm đại diện hoặc các đaị lý đặc quyền cho các công ty có uy tín trên thế giới có sản phẩm liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của Trung tâm đang thực hiện hoặc hoặc có kế hoạch xâm nhập thị trường Việt Nam. Trung tâm cũng có thể tìm thêm những sản phẩm trong nước đảm bảo chất lượng cao và trình độ kỹ thuật có thể thay thế được các sản phẩm của nước ngoài mà vẫn đảm bảo yêu cầu khách hàng, giảm được chi phí phát sinh, mang lại giá thấp nhất cho khách hàng. Điều này phụ thuộc vào quan điểm mua và sự thuyết phục của Trung tâm. Về điều kiện cơ sở giao hàng Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ cũng như hầu hết các công ty Việt Nam khi nhập khẩu hàng hoá thường sử dụng điều khoản CIF. Hiện nay nhà nước ta đang khuyến khích các công ty có quan hệ buôn bán với nước ngoài thay hình thức “ mua CIF bán FOB” bằng hình thức “ mua FOB bán CIF”. Trung tâm rất quan tâm đến vấn đề này, nếu có điều kiện sử dụng FOB trong nhập khẩu Trung tâm có thể tiết kiệm được chi phí vận tải và bảo hiểm cũng như thời gian giao hàng chủ động hơn. Để dần thay thế điều kiện bán hàng cũ và tình hình thực tế Trung tâm có thể yêu cầu nhà cung ứng thuê hãng vận tải và bảo hiểm. Trung tâm chọn lựa các hợp đồng nhập khẩu hoặc Trung tâm tiến hành đứng ra mua bảo hiểm hàng hoá tức là dùng CFR thay cho CIF. Về sử dụng hình thức thương mại điện tử Đối với thế giới thì hình thức thương mại điện tử được rất nhiều công ty sử dụng, nhưng với Việt Nam thì đây là hình thức còn mới mẻ. Trung tâm nên từng bước tham gia vào hình thức kinh doanh này thông qua mạng kết nối quốc gia và toàn cầu. Sử dụng bán hàng trên internet giúp các nhà cung ứng, khách hàng biết được nhiều thông tin và tìm đến Trung tâm, việc khai thác hình thức bán hàng này cũng giúp cho việc giảm chi phí chẳng hạn Trung tâm có thể gửi các thư điện tử thương mại tới nhiều vị trí khác nhau với cước phí rẻ hơn nhiều so với điện fax. Đặc biệt tiến tới Trung tâm có thể thiết kế các trang Web về Trung tâm và ngành nghề kinh doanh tới thị trường mục tiêu, giảm tối thiểu chi phí giao dịch cho việc đi lại và thăm viếng khách hàng. Về phương thức thanh toán Là đơn vị mới hoạt động kinh doanh, phạm vi vốn thấp, phải sử dụng tới nhiều vốn huy động đặc biệt là vốn vay ngân hàng, Trung tâm rất chú trọng đến công tác tránh ứ đọng vốn nhất là với lĩnh vực kinh doanh thiết bị thuỷ có giá trị lớn thì việc chiếm dụng vốn của khách hàng gây rất nhiều khó khăn cho Trung tâm trong việc quay vòng vốn và lãi suất phải trả ngân hàng. Trung tâm cần phải có những biện pháp kích thích công việc thanh toán diến ra nhanh chóng, thuận tiện. - Khi ký hợp đồng tuỳ theo giá trị lô hàng và uy tín về thời gian thanh toán của khách hàng yêu câù bên mua ứng trước từ 20 – 50% giá trị thanh toán. - Kích thích việc thanh toán nhanh chóng những khoản chiết khấu đối với đơn vị trả tiền nhanh hoặc phần trăm lãi suất ngân hàng đối với khách hàng trả tiền chậm. - Do việc thanh toán và tính toán tiền hàng của Trung tâm liên quan tới ngoại tệ nên phải chú ý tới tỷ giá hối đoái. Trung tâm phải có sự so sánh chênh lệnh tỷ giá hối đoái khi nhập hàng và thanh toán cho nhà cung ứng với tỷ giá hối đoán khi bán hàng cho khách hàng và nhận thanh toán của khách hàng. Khi mà tỷ giá hối đoái bị hạ thấp xuống tức là khi giá đồng nội tệ được nâng lên so với đồng ngoại tệ thì lúc đó nhập khẩu đem lại hiệu quả hơn cho Trung tâm vì khi đó sẽ phải bỏ ra chi phí thấp hơn. Ngược lại khi mà đồng nội tệ bị phá giá thì việc nhập khẩu sẽ gây ra một chi phí lớn. Trong những năm gần đây tỷ giá hối đoái của chúng ta hầu như được nhà nước thả nổi trong một giới hạn do đó nó hoàn toàn do thị trường cung cầu ngoại tệ điều chỉnh . Vì vậy, để tiết kiệm chi phí cho kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh Trung tâm cần luôn luôn chú trọng việc nắm bắt thông tin, nghiên cứu kỹ thông tin về tỷ giá hối đoán. Từ đó ra các quyết định thanh toán cả của Trung tâm với nhà cung ứng và thanh toán của khách hàng với Trung tâm sao cho có các quyết định kinh doanh có hiệu quả nhất. 5. Kiến nghị với nhà nước và các đơn vị chủ quản 5.1. Kiến nghị với Tổng công ty và Công ty Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ là đơn vị trực thuộc Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại, thuộc Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ do đó hoạt động của Trung tâm chịu ảnh hưởng rất lớn bởi quan điểm, phương hướng hoạt động của các đơn vị trên. - Yêu cầu Tổng công ty và Công ty nắm bắt kịp thời những chính sách thay đổi điều hành công tác xuất nhập khẩu và thương mại của nhà nước và các cơ quan chức năng, phổ biến sơm xuống các đơn vị trực thuộc. - Hỗ trợ và phân bổ vốn lưu động cho hoạt động của Trung tâm vì vấn đề khó khăn của Trung tâm là vốn còn hạn chế nên khi tham gia vào các thương vụ lớn hoặc nhiều thương vụ cùng một lúc thì Trung tâm sẽ gặp nhiều bất lợi. - Tổng công ty nên tiến hành các cuộc gặp gỡ trao đổi giữa các đơn vị trong và ngoài ngành để Trung tâm có cơ hội tiếp xúc với các khách hàng trọng điểm. - Tổng công ty và Công ty nên có kế hoạch đào tạo các cán bộ chuyên ngành, chuyên môn giúp các đơn vị trực thuộc. - Công ty tư vấn đầu và thương mại hoạt động trong hai lĩnh vực tư vấn xây dựng đường thuỷ và lĩnh vực kinh doanh thiết bị thuỷ, cần phối hợp hai lĩnh vực này với nhau. Lĩnh vực tư vấn xây dựng sẽ góp phần cung cấp thông tin về các dự án, khách hàng và giới thiệu khách hàng cho hoạt động kinh doanh của Trung tâm. 5.2. Kiến nghị với nhà nước Các thủ tục xuất nhập khẩu đặc biệt là thủ tục hải quan vẫn còn rườm rà, gây mất thời gian ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính sách thương mại, xuất nhập khẩu và nhiều luật định thay đổi và đôi khi không nhất quán, yêu cầu cần kiệm toàn để không ảnh hưởng đến các chiến lược kinh doanh dài hạn và đầu tư của Trung tâm nói riêng và các công ty xuất nhập khẩu nói chung. Chính sách thuế cần có sự khuyến khích để không đẩy giá bán quá cao và đảm bảo tính thuế công bằng. Đặc biệt mặt hàng thiết bị thuỷ nhập khẩu mà trong nước sản xuất còn hạn chế hơn nữa đây là mặt hàng phục vụ cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu trong nước. Cần có những qui định và chính sách nhằm đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghiệp tàu thuỷ vì đây là ngành quan trọng để tận dụng được tiềm năng của đất nước. Từ đó kéo theo sự phát triển của các ngành thuỷ sản, GTVT, …từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Đẩy mạnh quan hệ ngoại giao, tham gia vào các hiệp hội kinh tế khu và thế giới góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng quan hệ giao lưu buôn bán với các công ty nươc ngoài. Kết luận Đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại” được nghiên cứu và phân tích với tinh thần nghiêm túc và cố gắng. Khi bắt tay vào thực hiện đề tài này, em luôn cố gắng kết hợp những kiến thức được học ở trường với thực trang tình hình của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thông qua quá trình thực tập tại đây. Em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của đơn vị thực tập. Tuy nhiên, do thực hiện trong giới hạn thời gian và trình độ hạn chế của một sinh viên nên đề tài chỉ dừng lại ở việc giải quyết một số vấn đề của hiệu quả kinh doanh tại Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ và không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo thêm của các thầy, cô và sự đóng góp của mọi người quan tâm. Cuối cùng em xin được cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn Th.S Vũ Kim Dũng, các thầy cô giáo trong Trung tâm quản trị kinh doanh tổng hợp, chú Nguyễn Tiến Hân cùng toàn thể cán bộ nhân viên của Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ đã giúp em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này. Sinh viên Phạm Văn Tân Danh mục tài liệu tham khảo 1. Trung tâm xuất nhập khẩu thiết bị thuỷ thuộc Công ty tư vấn đầu tư và thương mại: Các báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch và báo cáo tài chính các năm 2000-2001, và các số liệu khác của Trung tâm. Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu năm 2000 Giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp năm 2001 tập 2 PGS.PTS Trần Chí Thành, giáo trình Quản trị kinh doanh thương mại quốc tế, năm 1996 PGS. PTS. Nguyễn Thành Độ – CN Nguyễn Ngọc Huyền, giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp, năm 1999. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp Giáo trình Lý thuyết Marketing PGS. PTS. Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên), Giáo trình Quản trị thương mại của doanh nghiệp công nghiệp, NXB Giáo dục, 1996. 9. Một số báo và tạp chí chuyên ngành GTVT và thương mại Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33314.doc
Tài liệu liên quan