Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Lời nói đầu Đất nước chuyển sang nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần đã và đang làm cho đời sống kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Đặc biệt là vấn đề sử dụng đất đai để sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng...phục vụ cho phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân. Xong vấn đề nổi cộm đáng quan tâm ở đây việc thực hiện tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng còn rất chậm và hiệu quả sử dụng đất chưa cao...tại sao lại có hiện tượng đó?. Một phần rất quan trọng gây ra điều đó là vấn đề q

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý nhà nước về đất đai chưa được thực hiện tốt và giám sát chặt chẽ.., nó gây ra việtc giải toả thu hồi đất giảI phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn và việc sử dụng đất tràn lan sai mục đích làm làng phí , kém hiệu quả.. Chính điều này đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Đồng thời thực hiện theo đường nối chủ chương của đảng nhà nước: chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhằm nâng cao đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần, thì đất đai cũng trở thành đối tượng hàng hoá có thể đem ra mua bán, nó diễn dưới nhiều hình thức như chuyển nhượng trao đổi cho thuê cần cố thế chấp thừa kế ... tất cả các biến động này nếu không được quản lý tốt nó sẽ gây ảnh hưởng đấn trật tự an ninh xã hội đời sống nhân dân cũng như trở ngại lớn cho việc thực hiên các chiến lược kinh tế xã hội (do có tranh chấp đất đai, sử dụng không đúng mục địch và kém hiệu quả lãng phí, công tác giải toả thu hồi đất giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn rắc rối và châm khi xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng như đường giao thông, trường học, bệnh viện...). Trên đây là lý do và tính cấp thiết cử đề tài. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài: “Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” để nghiên cứu với mục đích góp một phần nhỏ bé của mình vào việc quản lý sử dụng đất đai có hiệu quả hơn; cũng như giảỉ quyết và đẩy nhanh công tác giải toả thu hồi đất giải phóng mặt bằng được diễn ra với tiến độ nhanh chóng và sớm như các công trìng cơ sở hạ tầng vào phục vụ phát triển kinh tế xà hội và phục vụ đời sống nhân dân. Do trình độ có hạn nên em chỉ nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai và đối tượng nghiên cứu nhính là đất đai. Đặc biệt là nâng cao vai trò quản lý nhà nước và cũng như việc thực hiện công tác quản lý nhà nưóc về đất đai chặt chẽ, hiệu quả hơn giúp cho việc sử dụng đất đai đầy đủ hợp lý hiệu quả tiết kiệm. Nhằm làm rõ mồi quan hệ giữa đất đai và đời sống xã hội, mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân trong quá trình quản lý và sử đất, các quan hệ khác của đối tượng đát đai trong nền kinh tế thị trường thì chúng ta phải đứng trên một quan điểm khách quan để xem xét vấn đề, cụ thể là nghiên cứu nó dựa trên phương pháp khoa học: Duy vật biện chưng, duy vật lịch sử, các quy luật xã hội, quy luật của nền kinh tế thị trường và phương pháp thông kê đăng ký điều tra, phương pháp toán... Kết cấu bài viết gồm bốn phần: Phần I : Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về đất đai Phần II : Thực trang quản lý nhà nước đói với đất đai Phần III: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về đất đai Phần IV: Kết luận Phần I Cơ sỏ lý luận của quản lý nhà nước và đất đai Vai trò của đất đai đói với sự tồn tại và phát triển xã hội Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, là điểm tựa, là chỗ đứng cho hoạt động diễn ra .Nó tham gia vào tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và cùng vừa là sản phẩm của lao động - con người tác động vào đất đai như cày, bừa.. .nhằm cải tạo , thay đổi chất lượng của đất để có được điều kiện thuận lợi cho sản xuất nâng cao năng xuất cây trồng; trên mặt này thì đất đai thể hiện là sản phẩm của lao động, đối tượng lao động. Thông qua đất đai con người lợi dụng có ý thức các tính chất tự nhiên của nó như tính lý hoá, sinh học và tính chất khác nữa để tác động lên cây trồng với mục đích thu được hiệu quả cây trồng cao nhất. Còn trong công nghiệp thì đất đai là địa bàn, địa đIểm để xây dựng các cơ sở sản xuất và với ngành khai khoáng thì nó là nguyên liệu đầu vào trực tiếp vì tất cả các nguồn khoáng sản, các mỏ đều năm trong lòng đất. Cùng với điều kiện tự nhiên khác như khí hậu... thì nó là một cơ sở quan trọng hình thành nên các vùng lãnh thổ, vùng kinh tế của mỗi quốc gia. Nó là nơi cư trú, nơi sống của con người và động thực vật, là điểm tựa cho các hoạt động kinh tế xã hội của loài người diễn ra. Vì vậy đất đai có vai trò quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi vùng mỗi quốc gia nói riêng và của xã hội loài người nói chung.Với ý nghĩa quan trọng như vậy thì Đảng và nhà nước ta đã khẳng định điều đó ngay đầu tiên trong luật đất đai năm 1993: “... Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đăc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư xây dựng, các cơ sở kinh tế văn hoá xã hội an ninh và quốc phòng...”.Chính vì vậy nó còn thể hiện trong nhiều van bản pháp luật của cơ quan nhà nước vê quản lý và sử dụng đất đai, và những vấn đề có liên quan đến đất đai. Sự cần thiết phảI quản lý nhà nước đối với đất đai trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa a- Khái niệm quản lý hà nước về đất đai Quản lý nhà nước về đất đai là sự tác động của nhà nước đối với tài nguyên đất đai trong đời sống kinh tế xã hội nhằm đảm bảo phân phối sử dụng đất đai một cách hợp lý tiết kiệm hiệu quảvà bảo vệ lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức, của cả cộng đồng và đảm bảo công bằng xã hội. Bằng quyền lực của bộ máy nhà nước mà nó duy trì tác động có mục đích và có định hướng của mình nên đối tượng quản đất đai cả về mặt quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và cả việc sử dụng đất đai của các chủ thể sử dụng đất. Điều này được cụ thể hoá và thể hiện, quy định trong hiến pháp, luật đất đai và cá văn bản khác về đất đai. Quản lý đất đai có mục đích gắn liền với tư tưởng chính trị của quốc gia đó, với lợi ích của nhân dân nước đó. b- Sự cần thiết quản lý nhà nước về đất đai , đặc biệt hiện nay trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa quan trọng của đất đai quyết định đến sự tồn tại và phát triển cuả xã hội loài người đã được nêu ở phần trước thì cần phải có sự quản lý. Cũng do đặc điểm là đát đai có hạn về số lượng, diện tích trên toàn cầu nói chung và từng vùng , từng quốc gia nói riêng; nó có vị trí cố định; sự phân bố các loại đất rất da dạng gắn liền với tính chất của đất và điều kiện tự nhiên khác nhau...cho nên, đặc biệt mỗi quốc gia đều có sự quản lý nhà nước đối với đất đai - nguồn tài nguyên quí giá có hạn này, nhằm sử dụng hợp lý tiết kiệm hiệu quả cao trong việc khai thác mọi tiềm năng lợi thế của đất đai ở quốc gia mình. Vấn đề quản lý nhà nhà nước về đất đai cần được xem xét trong mối quan hệ với chủ sở hữu đất đai và người sử dụng đất đai; nhằm đưa đến cho ta một cái nhìn, một quan đIểm rõ ràng xác đáng hơn về quan hệ hai chiều giữa quản lý nhà nước về đất đai và việc thực hiện chấp hành các nội dung đó của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và người sử dụng đất đai. Do tầm quan trọng của đất đai đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội và nó còn là sản phẩm của tự nhiên, cũng là sản phẩm của xã hội, và cũng như thể hiện ý chí quyền lực của bộ máy nhà nước của mình, đại diện cho lợi ích giai cấp mình cho cả quốc gia nói chung; nên là đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước làm đại diện sở hữu đứng ra quản lý đất đai trên phạm vi vĩ mô quốc gia mình. Dù ở bất kì chế độ chính trị nào: Như chủ nghĩa tư bản thì cho là đất đai thuộc sở hữu tư nhân nhưng sở hữu tư nhân ở đây là một phạm vi giới hạn, không hoàn toàn mà nhà nước vẫn là người quản lý và quyết định cao nhất nghĩa là nhà nước đại diện cho nhân dân sở hữu và quản lý về đất đai. Đối với chủ nghĩa xã hội như ở Việt Nam, Trung Quốc...thì qui định đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước đứng ra làm đại diện sở hữu và quản lý; thực hiện giao đất cho cá nhân, tổ chức, hộ gia đình sử dụng đất theo qui định của pháp luật. Thực tiễn nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, đặc từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tếhàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa thì mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân với nhau, cá nhân với tổ chức, tổ chức với nhau, cá nhân tổ chức với nhà nước... trong quản lý và sử dụng đất đai ngày càng thể hiện đầy đủ hơn: Trong nền kinh tế thị, đất đai có giá trị – nó được coi như một hàng hoá đem ra mua bán trao đổi, một tài sản dùng để chuyển nhượng, thế chấp và thừa kế... Cũng chính từ sự phomg phú yêu cầu của cuộc sống trong đổi mới và phát triển nền kinh tế của đất nước đã và đang dẫn đến sự đa dạng về đích sử dụng đất đai; đây là một biểu hiện tốt của việc sử dụng đất đai ngày càng có hiệu quả hơn. Tuy vậy vẫn lẫn ngững vấn đề đáng quan tâm như một số cá nhân, tổ chức lợi dụng chỗ hở của pháp luật hoặc vi luật để thu lợi cho mình mà làm thiệt hại lớn hơn cho xã hội, cho cộng đồng, cũng như sử dụng không có hiiêụ quả đất đai trên giác độ xã hội. Điều này đòi hỏi không ngừng tăng cường vai trò quản lý nhà nước về đất đai và hoàn thiện pháp luật, đồng thời hướng dẫn thi hành chi tiết tốt hơn pháp luật về đất đai nhằm sử dụng đất đai hợp lý hơn, tiết kiệm hiệu quả góp phần đảm bảo xây dựng một xã hội công bằng văn minh, dân chủ. Hiến pháp nướcCHXHCNVN năm 1992, cụ thể là luật đất đai 1993 đã pháp hoá bằng văn bản qui định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và cũng qui định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Sự quản lý nhà nước về đất đai được thể hiện qua 7 nội dung quản lý nhà nước về đất đai trong luật đất đai: + Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá và phân hạng đất, lập bản đồ địa chính. + Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất . + Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất. + Ban hành các văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực hiện các văn bản đó. + Đăng ký đất đai, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý các hợp đồng sử dụng đất, thống kê, kiểm kê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý và dụng đất. + Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất đai. c/ Chức năng quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước thông qua việc thực hiện chức năng của mình quản lý vè đất đai mà thực hiện đầy đủ có hiệu qủa các nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Định hướng cho các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai là tất yếu khác quan đối với bất kỳ quốc gia nào. Nó nhằm vào việc bảo đảm lợi ích của giai cấp mình, của quốc gia mình qua việc xác định các mục tiêu cơ bản lâu dài phù hợp với đường lối chính trị của Đảng cầm quyền và qua việc xây dựng cơ chế và giải pháp hướng hoạt động của các ngành các lĩnh vực, các cấp trên phạm vi quốc gia và thực hiện mục tiêu chung đó. Trong đó, bao gồm: việc định hướng các mục tiêu là sự thống nhất của Đảng và nhân dân, mỗi cấp cơ sở lại dựa vào mục tiêu chung đó mà vạch ra mục tiêu riêng cho mình để thực hiện; định hướng giải pháp luôn gắn liền với mục tiêu, mỗi mục tiêu phải có hệ thống các giải phấp riêng cho mình để thực hiện được và có hiệu quả cao, mang tính định hướng, bắt buộc... trong quản lý nhà nước; định hướng trong tổ chức thực hiện là bước quan trọng để tiến hành các hoạt động thực hiện mục tiêu theo giải pháp đã được định hướng trước. Vì vậy nó cũng cần được định hướng. Chức năng điều tiết là chức năng thực thi của cơ quan quản lý nhà nước; dùng để điều tiết các hoạt động, các nguồn lực sao cho tạo đIều kiên cho kinh tế xã hội phát triển đều và ổn định, nhất là trong việc quản lý và sử dụng đât đai hợp lý tiết kiệm có hiệu quả cao. Chức năng kiểm soát của nhà nước về đất đai là giám sát, đôn đốc việc thực hiện theo chính sách, quy định pháp luật đất đai. Kiểm soát để phát hiện sự mất cân đối, thiếu đồng bộ trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triểm kinh tế xã hội của các cấp các ngành để nhà nước điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh. Nó còn là công cụ giam sát hoạt động quản lý của cơ quan chuyên chách của nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Dựa vào công cụ kiểm soát của mình như: Công cụ quản lý vĩ mô (luật, chính sách, kế hoạch...); các quy định chuẩn mực quốc gia hay quốc tế cho trong loại hoạt động, sản phẩm (cá loại đất đai, khung giá đất, thuế suất cho tong loại sản phẩm trên đất, tiêu chuẩn về xây dung nhà ở về qui hoạch, đo đạc, kỹ thuật...); bằng các thiết bị dụng cụ và tiềm lực vật chất của mình mà nhà nước tiến hành thực hiện các nội dung kiểm soát có hiệu quả (kiểm soát về công tác tổ chức, kiểm soát các quá trình kinh tế, kiểm soát các hoạt động xã hội, kiểm việc bảo vệ và bồi bổ môi trường). Cùng với việc xem xét nội dung quản lý nhà nước về đất đai và xem xét chức năng quản lý nhà nước về đất đai thì ta thấy rõ được vai trò cần thiết của nhà nước trong việc quản lý đất đai. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì nó có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển, ổn định kinh tế xã hội vì đã thúc đẩy yếu tố đất đai tham gia mạnh mẽ vào sản xuất, vào thị trường như một hàng hoá đặc biệt ngày càng được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả cao hơn. Tất cả các hoạt động của Nhà nước tác lên đối tượng đất đau là cần thiết vì đất đai là một tài nguyên chung của xã hội mà có hạn hạn do đó cần sử dụng có hiệu quả, không lãng phí. Các hoạt động đó phải đảm bảo dựa trên nguyên tắc quản lý Nhà nước về đất đai làm căn cứ hoạt động (nguyên tắc đảm bảo sự kết hợp quyền sở hữu và sử dụng đất đai nhà ở; đảm bảo sự kết hợp hài hoà các lợi ích; đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả). Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về đất đai không chỉ nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả kinh tế cao mà còn là một nhiệm cụ một chức năng thể hiện quyền lực của Nhà nước đối với quản lý kinh tế xã hội nói chung đến đối tượng đất đai nói riêng Phần II Thực trạng quản lý Nhà nước về đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. I- Những quy định pháp lý về quản lý Nhà nước đối với đất đai Nhà nước quản lý nền kinh tế xã hội nói chung và đất đai nói riêng bằng pháp luật, nó được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước và sức mạnh tiềm lực vật chất, tài chính... và cũng như sử dụng các công khác để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo định hướng. Trong lĩnh vực đất đai thì ở đây pháp luật cụ thể là luật đất đai và các văn bản luật về đất đai khác là nhằm tác động điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai với người sử dụng đất đai và về quyền và nghĩa vụ của từng đối tượng; đảm bảo mọi người sống và làm việc theo pháp luật trong đất đai, nghĩa là Nhà nước quản lý vĩ mô về đất đai trên phạm vi quốc gia đúng với ý nghĩa của Nhà nước ta là một Nhà nước của dân do dân và vì dân. Để tìm hiểu pháp luật về đất đai của Việt Nam chúng ta nghiên cứu 3 vấn đề sau được quy định trong pháp luật và mối quan hệ giữa chúng: 1- Chế độ sở hữu dất đai. Đất đai có trước sự xuất hiện của loài người trên trái đất nghĩa là có trước lao động, do vậy đất đai là sản phẩm tự nhiên là tài sản chung của xã hội. Nhưng trong quá trình tồn tại và phát triển con người đã tác động vào đất đai cải tạo làm cho chúng màu mỡ hơn, có chất lượng đáp ứng với nhu cầu sử dụng của mình vì thế mà đất đai cũng còn là sản phẩm của lao động của xã hội. Do đó đất đai là yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội; giải quyết mối quan hệ giữa chúng có ý nghĩa lớn trong việc sử dụng đất đai hợp lý tiết kiệm hiệu quả đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống, cho phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và cả thế giới. Tuy nhiên đất đai có đặc điểm trong quan hệ xã hội nên trong chế độ sở hữu đất đai cũng có đặc thù riêng ở mỗi chế độ xã hội. ở chế độ Nhà nước phong kiến và TBCN thì đại bộ phận đất đai thuộc sở hữu tư nhân và pháp luật chủ yếu duy trì và bảo vệ lợi ích của sở hữu tư nhân đối với đất đai. Nhà nước CNXUCN Việt Nam thì quy định đất đai là sở hữu chung của toàn pháp luật bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân của cả xã hội trong quá trình sử dụng đất đai. Đặc biệt là trong hiến pháp năm 1992 và luật đất đai năm 1993 quy định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài (và) Nhà nước còn hộ gia đình, tổ chức, cá nhân thuê đất". Văn bản pháp luật đã xác lập quyền sở hữu pháp lý đất đai và mặt kinh tế của đất đai, nó được tách ra khi phân phối kết quả sản xuất nhưng chúng có sự thống nhất phù hợp với nhau là do quỹ đất đai (số lượng và chất lượng) ngày nay là thành quả khai phá cải tạo bảo vệ của bao lớp người của cách mạng, vì vậy đất đai không phải là của riêng ai, là tài sản của toàn xã hội, Nhà nước là người đại diện cho nhân dân thống nhất quản lý. Bất cứ chế độ nào cũng xác định sự vận động và phát triển của các quan hệ đất đai. ở nước ta từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ thì có sự thay đổi từ cơ chế hiện vật sang đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà các tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao cho sử dụng đất, vận hành theo quy luật thị trường. Quản lý đất đai là quản lý TLSX đặc biệt, yếu tố cấu thành môi trường sống là cần thiết và đòi hỏi phải xây dựng một chế độ sở hữu và quản lý cho phù hợp với lợi ích lâu dài của toàn xã hội. Đó cũng là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tránh tình trạng lãng phí khi thực hiện được quy định các quyền và nghĩa vụ thể về quản lý và sử dụng đất đai, đồng bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ đó cho các thủ thể quản lý và sử dụng. Đất đai là tài sản chung của xã hội. Chủ thể đặc biệt của quyền sở hữu đất đai là Nhà nước. Nhà nước CHXHCN Việt Nam đại diện cho nhân dân mình sở hữu và quản lý toàn bộ đất đai. Để thực hiện và bảo vệ quyền đó Nhà nước ban hành pháp luật về chế độ quản lý và sử dụng đất đai. Khách thể quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai là toàn bộ đất đai trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam bao gồm đất liền, hải đảo, lãnh hải (tuỳ theo mục đích sử dụng và đặc điểm từng loai mà đất đai được phân ra 6 loại: Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất đô thị, đất khu dân cư nông thôn, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng). Nội dung cơ bản quyền sở hữu Nhà nước đối với đất đai là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đất đai. 2- Chế độ quản lý Nhà nước đối với đất đai. Chế độ quản lý Nhà nước đối với đất đai là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước đối với đất đai (quan hệ về sở hữu đất đai, sử dụng đất đai và quan hệ về phân phối các sản phẩm được tạo ra do sử dụng đất đai...). Nhà nước thống nhất quản lý đất đai bằng pháp luật của cơ quan quyền lực, nó được thực hiện bởi các cơ quan quản lý do Nhà nước lập ra và thông qua các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng sở hữu Nhà nước đối với đất đai, nghĩa là thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu trong mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau và giữa cơ quan Nhà nước với các đối tượng sử dụng đất. Đó là hoạt động của Nhà nước trong việc nắm chắc tình hình sử dụng đất đai; hoạt động của Nhà nước về việc phân phối và phân phối lại quỹ đất đai trên cơ sở kế hoạch và quy hoạch đất đai; các hoạt động của Nhà nước về đất đai giám sát quá trình sử dụng đất đai. Và nó phải tuân thủ theo các quy tắc của pháp luật và các yêu cầu kỹ thuật... 3- Chế độ sử dụng đất đai Chế độ sử dụng đất đai là một chế định quan trọng của đất đai. Nó bao gồm các quy phạm, quy định bảo vệ quyền và nghĩa của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao đất, cho thuê đất để sử dụng. Thông qua pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất và đất đai mà họ có cơ sở pháp lý để thực hiện sử dụng đất đai hợp pháp, đạt hiệu quả kinh tế cao và tiết kiệm. Chính vì thế mà hoàn thiện chế độ sử dụng đất đai là cần thiết. Quyền và sự bảo đảm quyền của người sử dụng đất là tiền đề quan trọng cho sự phát triển sản xuất hàng hoá, cho đất đai tham gia vào thị trường như một hàng hoá đặc biệt. Hình thức của chế độ này là đòi hỏi phải được bảo hệ bằng pháp luật thông qua các hợp đồng cho thuê đất và quyết định giao đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Dựa vào đây mà Nhà nước khẳng định quyền lực của mình và khẳng định Nhà nước là chủ ở hữu đối với toàn bộ đất đai. Luật đất đai và các văn bản luật khác quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các đối tượng cá nhân, họ gia đình, tổ chức trong quá trình sử dụng đất. Mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ sử dụng đất đai là hết sức mật thiết, gắn bó ràng buộc với nhau, thống nhất với nhau. Nó là cơ sở cho việc hình thành các mối quan hệ kinh tế xã hội trong việc quản lý và sử dụng, là nhân tố cho đất đai tham gia vào nền kinh tế hàng hoá và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đây cùng là cốt lõi của luật và các văn bản luật khác có liên quan trong việc thể hiện ý chí và quyền lực của Nhà nước, người đại diện cho nhân dân sở hữu và quản lý đất đai sử dụng nó hợp lý tiết kiện hiệu quả đem laị lợi ích cho từng cá nhân - cho quốc gia - cho toàn xã hội. Chính sách pháp luật đất đai của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian qua đã thực sự gó phần quan trọng cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng, phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội. Đặc biệt trong những năm đổi mới thì đất đai trở thành động lực cho phát triển kinh tế xã hội. Quan hệ đất đai xét trên khía cạnh pháp lý hay tâm lý xã hội, do nó được quy định bởi một hình thức sở hữu nào đi nữa thì nó cũng tạo ra trong suy nghĩ của người sử hữu dụng đất đai về quyền của mình đối với mảnh đất mình đang sử dụng. Điều này đã được chứng minh trong sản xuất nông nghiệp và trong thực tiễn đời sống xã hội. Từ trước năm 1980 "khoán 100" đến "khoán 10" và theo quy định của luật đất đai 1993 thì Nhà nước giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình cá nhân tổ chức sử dụng vào các mục đích khác nhau như sản xuất, xây dựng..., nó xuất khẩu lúa gạo đáng kể. Điều này cho thấy một khi quyền lợi của người sử dụng đất gắn liền với mảnh đất của họ đang sử dụng thì đất đai sẽ được sử dụng hiệu quả hơn. Các quan hệ quản lý, sử dụng đất đai nằm trong tổng thể đường lối phát triển kinh tế chung của cả nước; quan hệ này không tách rời khỏi cơ chế chung trong quan hệ Nhà nước, quan hệ kinh tế. Luật đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ sung 1998 đã và đang từng bước đưa các quan hệ đất đi tham gia vào thị trường trong hoạt động chung của cả thị trường bất động sản là một nhu cầu tất yếu của cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước ta. Ngày nay, đất đai sử dụng cho phát triển kinh tế, nó không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất hay địa bàn phân bổ lực lượng sản xuất, dân cư mà nó còn được coi như 1 tài sản được Nhà nước giao cho và họ có trách nhiệm bảo toàn vốn của Nhà nước, trên cơ sở đó sinh lời tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và thu nhập của mình. Luật đất đai đã đánh dấu bước đáng kể trong công tác, cơ chế quản lý đất đai. Một mặt nó tiếp tục khẳng định "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý" mặt khác nó cũng khẳng đinh "Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, hộ gia đình, cá nhân sử dụng theo thời hạn và có một số quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra Nhà nước còn cho thuê đất. Như vậy với các quy định vừa nêu trên, đã xác định chủ sở hữu đất đai là Nhà nước và chủ sử dụng là các tổ chức hộ gia đình cá nhân (kể cả tổ chức, cá nhân nước ngoài). Điều này tạo điều kiện thuận lơi cho đất đai tham gia vào nên sản xuất hàng hoá và người sử dụng đã chủ động hơn trong việc đầu tư, phương thức sản xuất, mục đích sử dụng trên mảnh đất của mình sao cho hợp lý hiệu quả nhất vì thời gian được giao đất là ổn định lâu dài. Thực tế việc chuyển dịch của đất đai từ đất trồng lúa năng suất thấp sang trồng cây ăn quả, đất nhiễm măn sang nuôi trồng thuỷ sản đem lại giá trị cao đóng góp mỗi năm hàng tỷ đổng vào ngân sách Nhà nước và nâng cao đời sống dân cư từ việc sử dụng hiệu quả hơn đối với đất đai. Lần đầu tiên luật đất đai năm 1993 ghi nhận "đất có giá". Đây là một nội dung quan trọng thể hiện sự có mặt của quan hệ đất đai trong cơ chế thị trường. Nhà nước đã thể chế hoá thực tiễn là dất có giá. Giá đất nó cũng là một công cụ để Nhà nước quản lý chặt chẽ đầy đủ hơn đối với đất đai như công tác tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, bồi thường thiện hại đất đai khi thu hồi... nó được dựa trên cơ sở pháp lý và đây cũng là công cụ kinh tế để người quản lý và sử dụng tiếp cận với cơ chế thị trường. Vấn đề kinh tế xã hội trong nền kinh tế đối với các quan hệ đất đai là sự rộng lớn về phạm vi, hình thức phong phú cả về sự hiểu hiện, nó liên quan đến cả cấp ban hành chính sách và đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Luật đất đai 1993 và luật sửa đổi bổ sung 1998 đã công nhận 5 quyền của người sử dụng đất (chuyển nhượng, trao đổi, thừa kế, thế chấp, cho thuê). đã tạo sự đa dạng về cách thức tham gia của đất đai vào nền kinh tế thị trường nhằm sử dụng đất đai có hiệu quả nhất. Nó tào điều kiện cho người dân vay vốn từ ngân hàng để sản xuất bằng việc thế chấp quyền sử dụng đất. Đây là cũng là động lực cho phát triển kinh tế và cũng là sự kết hợp đất đai và tư liệu sản xuất khác với lao động phù hợp với trình độ sản xuất khác nhau; mở rộng thị trường vốn cũng như thị trường bất động sản hoạt động mạnh hơn. Luật đất đai 1993 và luật sửa đổi bổ sung 1998 đã làm bước thay đổi quan trọng về đất đai là đất đai từ 1 tư liệu sản xuất - điều kiện sinh tồn sang nền kinh tế thị trường nó là một tư liệu sản xuất hàng hoá vận động theo hướng ngày càng được sử dụng có hiệu quả hơn. Dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, trình độ phát triển kinh tế và quá trình chuyển dịnh cơ cấu kinh tế làm thay đổi tương quan dân số - lao động - đất đai trong nông nghiệp nông thôn theo hướng giảm lao động trong nông nghiệp, đất cho công nghiệp, dịch vụ và đất chuyên dùng tăng lên. Sự thay đổi này dễ thúc đẩy các quan hệ đất đai tham gia vào thị trường bất động sản hơn nữa và cũng tạo ra điều kiện thu hút lao động, trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng thị trường cho nông nghiệp làm cho năng suất ngày càng nâng cao, đất đai càng có giá trị, nó dần xoá bỏ sự khác biệt so với các loại đất khác. Sự tham gia này của đất đai vào thị trường mang tính nhân quả: chính nhờ tham gia vào cơ chế thị trường mà đất đai được sử dung có hiệu quả hơn, việc nâng cao hiệu quả này làm tăng giá trị đất đai và lại thúc đẩy quan hệ đất đai tham gia mạnh mẽ vào qua hệ thị trường. Tới thời điểm này, rõ ràng quan hệ đất đai không còn là một vấn đề mệnh lệnh hành chính đơn thuần, mà trong quan hệ đất đai giữa Nhà nước với người sử dụng, giữa người sử dung với nhau và giữa những người sử dụng với các tổ chức tín dụng đã là những quan hệ kinh tế, quan hệ " Hàng - Tiền". Xuất phát từ những thay đổi về chất của vấn đề, em thấy rằng cần có những đổi mới trong việc xây chính sách quản lý đất đai của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, và đi đôi với nó là hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai ở các cấp và công tác tổ chức thực hiện của nó. Yêu cầu về việc xây dựng đổi mới chính sách là trong quan niệm xây dựng chính sách pháp luật phải xem quan hệ đất đai là một quan hệ cung cầu, quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự giữa các chủ sử dụng đất với nhau nhất là khi đã hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng cũng không tuyệt đối vì vấn đề này còn có tính xã hội, nuế mà ra quy định chính sách pháp luật không phù hợp thì việc quản lý Nhà nước sẽ không chặt chẽ và mất đi một nguồn thu đáng kể; đồng thời cũng phải xây dựng một mô hình quản lý phù hợp đâu là quản lý Nhà nước, đâu là tác nghiệp dịch vụ công công phù hợp với bản chất vấn đề quản lý có hiệu lực và hiệu quả, để từng bước hạn chế thị trường ngầm về đất đai, và chủ động quản lý nó và hạn chế việc sử dụng đất đai vi phạm và ngoài sự quản lý của pháp luật của cơ quan quản lý Nhà nước. Còn về bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai và công tác tổ chức thực hiện cần đảm bảo yêu cầu gọn nhẹ, thống nhất, kịp thời hoạt động có hiệu lực và hiệu quả cao. Vì Nhà nước quản lý xã hội nói chung và đất đai nói riêng bằng pháp luật và nó được bảo đảm thực hiện thông qua bộ máy Nhà nước có chức năng quản lý, hướng dẫn, giám sát việc thực hiện các nội dung trong quản lý và sử dụng đất đai... và có hiệu quả tốt nhất cho đời sống kinh tế xã hội của quốc gia đình; do đó mà việc thực hiện yêu cầu trên là cần thiết là tất yếu . II. Thực trạng quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam. 1. Tình hình sử dụng đất ở Việt Nam. a- Hiện trạng sử dụng đất đai ở Việt Nam. Theo kết quả tổng kiểm kê đất đai của Tổng cục địa chính năm 2000 thì tình hình sử dụng đất của nước ta như sau: Tổng diện tích tự nhiên 32924000ha phân bố theo 61 đơn vị hành chính cấp tỉnh, trong đó có 4 tỉnh có diện tích dưới 100.000 ha; 29 tỉnh thành phố có diện tích tự nhiên từ trên 500.000 -> 1000.000ha; có 7 tỉnh diện tích tự nhiên trên 1000.000ha. Các tỉnh có diện tích tự nhiên lớn nhất là: Đắc lắc 1960000 ha; Lai Châu 1692000 ha; Nghệ An 1649000 ha; Gia Lai 1550 000 ha. Các tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất là: Bắc Ninh 80.000ha; Hà Nam 85.000ha; Hà Nội 92.000ha; Hưng yên 92.000ha. Quá trình hình thành và phát triển trải qua nhiều thời với các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau đã để lại thực trạng phân bố dân cư và đất đai giữa các vùng lãnh thổ, các địa phương là rất khác nhau. Ngoài ra nhu cầu sử dụng đất đai trong thời gian tới rất biến động đất đai là cũng khác nhau; mật độ dân số rất cao ở các thành phố như Hà Nội 3018 người/ km2, TP Hồ Chí Minh 2533người/ km2, ở thành phố Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Hưng Yên - Hà Tây- Bắc Ninh. Trên 1000 người/ Km2. Trong khi đó các tỉnh miền núi, Tây nguyên mật độ dân số rất thấp (Không đến 100 người /km2 như KonTun 33 người/ Km2, Lai Châu 35 người/ Km2, Bắc Cạn 57người/Km2, Sơn La 53,Gia Lai 64, Cao Bằng 74, Lào Cai 75, Hà Giang 77, Lạng Sơn 86, Bình phước 97, Yên Bái 99 người/ Km2). Diện tích đất sử dụng vào các mục đích nông nghiệp, Lâm nghiệp chuyên dùng và đất ở là 22871000 chiếm 69,47% Tổng điện tích đất tự nhiên, trong đó: Đất nông nghiệp 9345000 ha chiếm 28,38% tổng diện tích tự nhiên và 40, 86% diện tích đất đã sử dụng vào các mục đích, phân bổ ở các vùng như sau; Trung du và miền núi Bắc Bộ 1424000 ha (15,24%), Đồng Bằng Bắc Bộ 739000 - 7,9%, Bắc trung bộ 725000 ha chiếm 7,76%; Duyên Hải Nam Trung bộ 807000 ha - 15,48%, Đồng Bằng sông._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29596.doc
Tài liệu liên quan