Nghiên cứu hiện trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá trên vùng đồi gò huyện Chương Mỹ - Hà Tây

Bộ giáo dục và đào tạo trường đại học nông nghiệp hà nội ------------------ Đàm Thị Hiền Nghiên cứu hiện trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá trên vùng đồi gò huyện Chương Mỹ - Hà Tây Luận văn thạc sĩ nông nghiệp Chuyên ngành: trồng trọt Mã số: 60.62.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Huy TRí Hà Nội - 2008 Lời cam đoan - Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo

doc124 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2180 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hiện trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá trên vùng đồi gò huyện Chương Mỹ - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vệ một học vị nào. - Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Đàm Thị Hiền Lời cảm ơn Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Huy Trí người đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Bộ môn Hệ thống nông nghiệp, các thầy cô trong Khoa Nông học, Khoa Sau đại học - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này. Để hoàn thành luận văn, tôi còn nhận được sự động viên, khích lệ của bạn bè và những người thân trong gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những tình cảm cao quý đó. Hà Nội. ngày 15 tháng 9 năm 2008 Tác giả Đàm Thị Hiền Mục lục Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt v Danh mục bảng vi Danh mục hình vii Danh mục các chữ viết tắt HT Hệ thống HTNN Hệ thống nông nghiệp HTCT Hệ thống cây trồng Danh mục bảng STT Tên bảng Trang 4.1. Phân loại đất theo độ dốc của vùng đồi gò địa huyện Chương Mỹ năm 2007 41 4.2. Bảng thống kê các nhóm đất năm 2007 43 4.3. Tình hình dân số và lao động của vùng đồi gò huyện Chương Mỹ tính đến năm 2007 47 4.4. Tình hình thu nhập của các nông hộ năm 2007 50 4.5. Cơ cấu các ngành kinh tế của vùng đồi gò huyện Chương Mỹ từ năm 2005-2007 51 4.6. Tình hình phát triển kinh tế trang trại năm 2007 55 4.7. Tình hình phân bố sử dụng đất của huyện Chương Mỹ từnăm 2005-2007 60 4.8. Hiện trạng sử dụng đất đồi gò huyện Chương Mỹ năm 2007 62 4.9. Đặc điểm phân loại đất sản xuất nông nghiệp của vùng đồi gò huyện Chương Mỹ năm 2007 63 4.10. Diện tích của một số cây trồng chính của vùng đồi gò từ năm 2005-2007 64 4.11. Kết quả sản xuất của các cây trồng chính năm 2007 của vùng đồi gò huyện Chương Mỹ 68 4.12. So sánh kết quả sản xuất một số cây trồng năm 2007 của vùng đồi gò với của toàn huyện 70 4.13. Mức độ đầu tư phân bón cho một số cây trồng chính năm 2007 71 4.14. Tình hình sử dụng giống lúa vụ xuân, vụ mùa 2006-2007 72 4.15. Tình hình sử dụng giống cây màu chính năm 2007 75 4.16. Hiện trạng cơ cấu cây trồng trên chân đất đồi gò cao huyện Chương Mỹ năm 2007 77 4.17. Hiệu quả kinh tế của một số công thức luân canh trên đất gò ở huyện Chương Mỹ- Hà Tây 79 4.18. Hiệu quả kinh tế của hệ thống cây trồng nông nghiệp trên chân đất vàn của vùng đồi gò huyện Chương Mỹ 83 4.19. Lượng nông sản bán ra thị trường năm 2007 85 4.20. ảnh hưởng của che phủ nilon, rơm rạ đến một số chỉ tiêu sinh trưởng phát triển của cây lạc vụ xuân năm 2007 94 4.21. ảnh hưởng của che phủ nilon và rơm rạ đến các yếu tố   cấu thành năng suất lạc xuân năm 2007 95 4.22. Hiệu quả kinh tế sản xuất lạc vụ xuân năm 2007 97 4.23. Tình hình sinh sinh trưởng của các giống cỏ trong vụ xuân năm 2007 98 4.24. Hiệu quả kinh tế của mô hình trồng cỏ VA-06 trong vụ xuân năm 2007 99 Danh mục hìNH STT Tên hình Trang 4.1. Một số yếu tố khí hậu đặc trưng của huyện Chương Mỹ 39 4.2. Cơ cấu các ngành kinh tế của vùng đồi gò huyện Chương Mỹ từ năm 2005 – 2007 51 1. Mở đầu 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Chương Mỹ là huyện bán sơn địa, nằm ở phía tây nam tỉnh Hà Tây, bao gồm 31 xã và 2 thị trấn, diện tích đất tự nhiên là 232,9km2, dân số hiện nay trên 271 nghìn người. Chương Mỹ có địa hình khá đa dạng (vừa có đặc trưng của vùng đồng bằng châu thổ vừa có đặc trưng của vùng bán sơn địa với núi. sông, bãi, hồ, hang, động), có vị trí địa lý: Phía bắc giáp huyện Quốc Oai, phía nam giáp huyện Mỹ Đức, ứng Hòa, phía Đông giáp huyện Thanh Oai và phía Tây giáp huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình. Nơi đây nằm trong khu quy hoạch chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây, cách Hà Nội về phía Tây nam 20km qua thị xã Hà Đông, có quốc lộ 6A, 21A, đường 80 và đường sông (sông Bùi, sông Đáy) chạy qua, nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội - Ba Vì - Chùa Hương. Vì vậy, huyện Chương Mỹ là nơi có vị trí chiến lược về chính trị, an ninh quốc phòng đồng thời là vùng có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng. Từ cuối năm 2001 huyện chú trọng thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, bền vững từ đó nông nghiệp Chương Mỹ đã có những bước tiến nhảy vọt, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Để phát triển kinh tế xã hội cho vùng bán sơn địa với gần 70% người dân làm nghề nông nghiệp như huyện Chương Mỹ thì sản xuất nông nghiệp có vai trò trụ cột. Tuy nhiên thực trạng sản xuất nông nghiệp ở Chương Mỹ đang còn nhiều hạn chế, bất cập chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về đất đai, địa hình thời tiết, khí hậu của huyện. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế của huyện trong những năm tới, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết IX của Đảng cộng sản Việt Nam, cần phải tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá nông nghiệp với hệ thống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt nhằm đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường. Sản xuất nông ngiệp đạt hiệu quả kinh tế, bền vững, hạ giá thành phẩm. Để đảm bảo thành công mục tiêu này cần phải có một số một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá. Xuất phát từ yêu cầu trên, được sự nhất trí của bộ môn Hệ thống nông nghiệp, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Huy Trí, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng và giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá trên vùng đồi gò huyện Chương Mỹ - Hà Tây”. 1.2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu 1.2.1. Mục đích nghiên cứu Dựa trên cơ sở phân tích các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng hệ thống trồng trọt của vùng đồi gò Chương Mỹ – Hà Tây để đánh giá những khó khăn, thuận lợi, triển vọng trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó tìm ra giải pháp cải tiến, chuyển dịch cơ cấu cây trồng nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa phát triển bền vững. 1.2.2. Yêu cầu của đề tài - Thu thập, nghiên cứu, đánh giá lại hệ thống trồng trọt trên tài nguyên kinh tế xã hội, đồng thời đánh giá tính hiệu quả, tính hợp lý những hệ thống trồng trọt hiện có trên từng nhóm đất nông nghiệp. - Đề xuất một số hệ thống trồng trọt cho từng tiểu vùng sinh thái ở huyện Chương Mỹ. - Tiến hành thử nghiệm một số giải pháp để phát triển hệ thông trồng trọt có hiệu quả. Đề xuất những hệ thống trồng trọt mới hoặc cải tiến những hệ thống trồng trọt hiện có nhưng chưa phát huy được tiềm năng nông nghiệp. 1.3. ý nghĩa của đề tài 1.3.1. ý nghĩa khoa học - Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội của huyện Chương Mỹ - Hà Tây. Nâng cao thu nhập của nông dân và nâng cao nhận thức về các tiến bộ khoa học kỹ thuật giống cây trồng, kỹ thuật canh tác, bảo vệ thực vật... - Đây là nghiên cứu đầu tiên một cách có hệ thống và đánh giá được tình hình sản xuất nông nghiệp của huyện Chương Mỹ cũng là cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới của huyện. 1.3.2. ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuât nông nghiệp, phát triển kinh tế – xã hội của vùng đồi gò của huyện Chương Mỹ – Hà Tây (xóa đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí). 2. Tổng quan tài liệu 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Lý thuyết về hệ thống Theo Đào Châu Thu (2005) [29] trong thế giới tự nhiên cũng như trong xã hội loài người, mọi hoạt động đều diễn ra bởi các hợp phần (Compoments), có những mối liên hệ tương tác hữu cơ với nhau được gọi là tính hệ thống. Vì vậy muốn nghiên cứu một sự vật, hiện tượng, hoạt động nào đó chúng ta phải coi lý thuyết hệ thống là cơ sở của phương pháp luận và tính hệ thống là đặc trưng, bản chất của chúng. Cơ sở lý thuyết hệ thống đã được L, Vonbertanlanty đề xướng vào đầu thế kỷ XX và đã được sử dụng như một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Trong thời gian gần đây, quan điểm này rất phát triển trong sinh học cũng như trong nông nghiệp. Hệ thống (HT) là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau, có quan hệ và tác động qua lại. Một hệ thống có thể xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc tính được liên kết tạo thành một chỉnh thể và nhờ đó hệ thống có đặc tính mới, gọi là tính trồi. Như vậy, hệ thống không phải là phép cộng đơn giản của các yếu tố, các đối tượng mà sự liên kết hữu cơ giữa các yếu tố, giữa các đối tượng. Một hệ thống bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hợp thành (Cao Liêm và cộng sự, 1995) [17]. Các yếu tố bên ngoài có tác động tương tác với hệ thống gọi là yếu tố môi trường. Những yếu tố môi trường có tác động lên hệ thống được gọi là yếu tố đầu vào, còn những yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại của hệ thống gọi là yếu tố đầu ra. Phép biến đổi của hệ thống là khả năng thực tế khách quan của hệ thống trong việc biến đổi đầu vào thành đầu ra. Thực trạng của hệ thống là khả năng kết hợp giữa đầu vào và đầu ra tại một thời điểm nhất định. Trong hệ thống cây trồng, khả năng kết hợp đó tại một thời điểm đấy gọi là thực trạng của hệ thống cây trồng. Hành vi của hệ thống là tập hợp các đầu ra của hệ thống có thể có được trên cơ cở các giải pháp thích hợp đem lại hiệu quả kinh tế cao cho cả hệ thống. Còn cơ cấu của hệ thống bao gồm sự xắp xếp các phần tử, các yếu tố… trong hệ thống cùng các mối quan hệ tác động và ràng buộc giữa chúng. (Trần ĐứcViên,1998 ) [ 42]. Trong thiên nhiên có 2 loại hệ thống cơ bản: Hệ thống kín, các yếu tố tương tác với nhau trong phạm vi hệ thống; Hệ thống mở, ở đó các yếu tố tương tác với nhau giữa các yếu tố đầu vào và đầu ra, giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài hệ thống. Theo Trần Đức Viên (1998) [ 42 ], trong thực tiễn nghiên cứu hệ thống có hai phương pháp cơ bản: (1) nghiên cứu hoàn thiện hoặc cải tiến một hệ thống đã có sẵn. Điều đó có nghĩa là dùng phương pháp phân tích hệ thống, nhằm tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt của hệ thống cần được sửa chữa, khai thông để hệ thống hoàn thiện hơn, hoạt động có hiệu quả hơn; (2) nghiên cứu xây dựng hệ thống mới. Phương pháp này mang tính chất vĩ mô, đòi hỏi phải có sự tính toán, cân nhắc kỹ càng. Còn khi phân tích hệ thống thường dùng 2 công cụ là kỹ thuật mô hình hoá và phương pháp phân tích thống kê. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về Hệ thống nông nghiệp (HTNN) (Phạm Chí Thành và cộng sự, 1996) [27] cho biết có các định nghĩa sau đây về hệ thống nông nghiệp: Hệ thống nông nghiệp (Agricultural systems) là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các ngành sản xuất và các kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thoả mãn các yêu cầu. Nó biểu hiện sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học-sinh thái mà môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội-văn hoá, qua các hoạt động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật (Vissac, 1979) [ 27], Theo Touve (1988) [27] cho rằng Hệ thống nông nghiệp thích ứng với các phương thức khai thác nông nghiệp của không gian nhất định do một xã hội tiến hành, là kết quả phối hợp của các nhân tố tự nhiên, xã hội-văn hoá, kinh tế và kỹ thuật. Theo Đào Thế Tuấn, 1989 [35 ] hệ thống nông nghiệp thực chất là sự thống nhất của 2 hệ thống: (1) Hệ sinh thái nông nghiệp (Agro Ecosystems) là bộ phận của hệ sinh thái tự nhiên, bao gồm các cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi) trao đổi năng lượng, vật chất và thông tin với ngoại cảnh, tạo nên năng suất sơ cấp (trồng trọt) và thứ cấp (chăn nuôi) của hệ sinh thái. (2) Hệ kinh tế-xã hội chủ yếu là sự hoạt động của con người trong sản xuất tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội. Như vậy, hệ thống nông nghiệp là sự tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội, là sự kết hợp giữa các quy luật tự nhiên và kinh tế-xã hội, được chi phối bởi các yếu tố sinh học. Theo Grigg, 1979 [ 44 ] cho rằng: yếu tố quyết định của kiểu Hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về kinh tế và dân số. Theo tác giả Grigg việc luân canh, sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu, chọn giống, cơ giới hoá … do dân số và kinh tế thay đổi trong thời gian. Tóm lại, có những định nghĩa khác nhau về HTNN nhưng các tác giả đều thống nhất rằng HTNN thực chất là HSTNN đặt trong một điều kiện kinh tế-xã hội nhất định, tức là HSTNN được con người tác động bằng lao động, tập quán canh tác, hệ thống chính sách…. Phạm Chí Thành [ 27] và cs (1996) đã có đúc kết các phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu hệ thống cây trồng bao gồm: - Dùng phương pháp quan sát và phân tích HTNN, tiếp cận từ “dưới lên” là dùng phương pháp quan sát phân tích tìm điểm cách tác của hệ thống để xác định phương pháp can thiệp thích hợp và có hiệu quả. Trước đây thường dùng phương pháp tiếp cận từ trên xuống, phương pháp này tỏ ra không hiệu quả vì nhà nghiên cứu không thấy hết được điều kiện của nông dân, do đó giải pháp đề xuất thường không phù hợp và thường được thay thế bằng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của nông dân (PRA). - Tiếp cận hệ thống: đây là phương pháp nghiên cứu dùng để xét các vấn đề trên quan điểm hệ thống, nó giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương tác giữa các sự vật và hiện tượng. - Tiếp cận theo quá trình lịch sử từ thấp lên cao: phương pháp này coi trọng phân tích động thái của sự phát triển cơ cấu cây trồng trong lịch sử. Vì qua đó sẽ xác định được sự phát triển của hệ thống trong tương lai, đồng thời giải quyết các trở ngại phù hợp với hướng phát triển đó. Trong lịch sử phát triển nông nghiệp trên thế giới cho thấy quá trình thay đổi cơ bản nhất của HTNN là sự tiến hoá của hộ nông dân từ tình trạng tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Sự thay đổi theo hướng phát triển đó diễn ra không đồng thời giữa các vùng, các làng, các hộ. Do vậy mỗi nơi phải xây dựng những giải pháp riêng cho phù hợp với đặc điểm thực trạng của hệ thống. Hệ thống canh tác là một thành phần (phần tử) của hệ thống nông nghiệp. Hiện nay có nhiều cách hiểu về hệ thống canh tác: Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng được bố trí theo không gian và thời gian với hệ thống biện pháp kỹ thuật được thực hiện, nhằm đạt được năng suất cây trồng cao và nâng cao độ phì của đất đai (Nguyễn Văn Luật,1990) [20]. Tác giả còn nhấn mạnh cây trồng phải được đặt trong một không gian và thời gian nhất định, đi đôi với nó là biện pháp kỹ thuật thích ứng. Sản xuất nông nghiệp luôn gắn với điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế-xã hội. Cây trồng là đối tượng của sản xuất nông nghiệp và chịu sự tác động của nhiều yếu tố tự nhiên cũng như các yếu tố khác. Để phát triển nông nghiệp với tốc độ nhanh và vững chắc thì biện pháp kỹ thuật là giải pháp quan trọng nhằm tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và thoả mãn nhu cầu của con người. Hệ thống canh tác là một hệ thống bao gồm nhiều hệ thống: trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, tiếp thị, quản lý được bố trí một cách hệ thống ổn định phù hợp với mục tiêu của mỗi nông trại hay tiểu vùng nhất định. Như vậy, hệ thống trồng trọt (HTTT) là một bộ phận chủ yếu của hệ thống canh tác. Theo Nguyễn Duy Tính (1995) [38 ] HTTT là hệ phụ trung tâm của HTNN, cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các hệ phụ khác như: chăn nuôi, chế biến, ngành nghề. Nghiên cứu HTTT là một vấn đề phức tạp vì nó liên quan đến môi trường như môi trường đất, khí quyển, khí hậu, thời tiết, sâu bệnh ảnh hưởng đến cây trồng, mức đầu tư và trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp. Tất cả các nghiên cứu đều nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả đất đai, nâng cao năng suất cây trồng. Vì vậy, hệ thống cây trồng là một bộ phận chủ yếu của hệ thống trồng trọt, là trung tâm của hệ thống trồng trọt (Phạm Chí Thành, 1996) [13]. Theo Đào Thế Tuấn,1984 [33] cho rằng: hệ thống cây trồng (Cropping systems) là thành phần các giống và loài cây trồng được bố trí theo không gian trong một hệ sinh thái nông nghiệp, nhằm tận dụng hợp lý về các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế xã hội có sẵn. Tác giả cho rằng bố trí cây trồng hợp lý là biện pháp kỹ thuật nhằm sắp xếp lại các hoạt động của hệ sinh thái. Một cơ cấu cây trồng hợp lý chỉ khi nó lợi dụng tốt các điều kiện khí hậu, né tránh thiên tai, lợi dụng tốt các đặc tính sinh học của cây trồng, tránh sâu bệnh hại, cỏ dại, bên cạnh đó còn đảm bảo sản lượng cao và tỷ lệ thành phần hàng hoá lớn, đảm bảo tốt chăn nuôi và nghành kinh tế, sử dụng hợp lý lao động và vật tư. Theo Zandstra và ctv, 1981 [ 45], HTCT là các hình thức đa canh bao gồm: trồng xen, trồng gối, trồng đa canh, trồng thành băng, canh tác phối hợp vườn hỗn hợp. Công thức luân canh là tổ hợp trong không gian và thời gian của các cây trồng trên một mảnh đất và các biện pháp canh tác dùng để sản xuất chúng. Theo Nguyễn Duy Tính, 1995 [38], hệ thống cây trồng là một thể thống nhất trong mối quan hệ tương tác giữa các loài cây trồng, giống cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian. Một hệ thống cây trồng mang tính chất tự túc, tự cấp muốn trở thành hệ thống cây trồng mang tính chất hàng hoá cần phải phá vỡ tính hệ thống khép kín của từng hộ, trong đó chính sách là môi trường tốt nhất để chuyển đổi hệ thống canh tác. Do đặc tính sinh học của cây trồng và môi trường luôn biến đổi nên hệ thống cây trồng mang tính động. Vì vậy nghiên cứu hệ thống cây trồng không thể dừng lại ở một không gian và thời gian rồi kết thúc mà là việc làm thường xuyên để tìm ra xu thế phát triển, yếu tố hạn chế và những giải pháp khắc phục để chuyển đổi hệ thống cây trồng nhằm mục đích khai thác ngày càng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, tăng hiệu quả kinh tế xã hội phục vụ cuộc sống con người (Đào Thế Tuấn, 1984) [34 ]. Các nghiên cứu trong việc hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng cần dùng phương pháp phân tích hệ thống để tìm ra điểm hẹp hay chỗ thắt lại của hệ thống. Đó là chỗ có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của hệ thống cần được tác động sửa chữa, khai thông để hệ thống hoàn thiện hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn (Đào Châu Thu, 2005) [30]. Hoàn thiện hệ thống cây trồng hoặc phát triển hệ thống cây trồng mới, trên thực tế là tổ hợp lại các công thức luân canh, tổ hợp lại các thành phần cây trồng và giống cây trồng, đảm bảo các thành phần trong hệ thống có mối quan hệ tương tác với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm khai thác tốt nhất lợi thế về điều kiện đất đai, tạo cho hệ thống có sức sản xuất cao, bảo vệ môi trường sinh thái (Lê Duy Thước, 1991) [ 29]. Xác định hệ thống cây trồng nhằm quyết định phương hướng sản xuất của nông trại hay của vùng, giúp cho việc phân vùng sản xuất, xây dựng kế hoạch cho nông trại hay vùng, hệ thống cây trồng thay đổi thì thu nhập cũng thay đổi. Để xây dựng kế hoạch sản xuất cho một vùng hay một đơn vị sản xuất, việc đầu tiên đề cập đến diện tích, loại đất, số vụ trong năm, loại cây và giống cây trồng trong các vụ để cuối cùng có một tổng sản lượng cao nhất trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định sẵn có ( Lý Nhạc, Dương Hữu Tuyền, Phùng Đăng Chinh, 1987) [22]. Việc xác định hệ thống cây trồng cho một vùng, một khu vực sản xuất đảm bảo hiệu quả kinh tế, ngoài giải quyết tốt các mối quan hệ giữa HT cây trồng với các điều kiện khí hậu, đất đai, sinh vật, tập quán canh tác còn có mối quan hệ chặt chẽ với phương hướng sản xuất của vùng, khu vực đó. Phương hướng sản xuất quyết đinh cơ cấu cây trồng, ngược lại cơ cấu cây trồng là cơ sở để quyết định phương hướng sản xuất. Vì vậy, bố trí HT cây trồng có cơ sở khoa học sẽ giúp cho các nhà quản lý xác định phương hướng sản xuất một cách đúng đắn ( Đào Thế Tuấn, 1984) [34]. Để thiết kế hệ thống cây trồng được lựa chọn cho một môi trường không gian của hệ thống, Macarthun đã tổng hợp nên sơ đồ sau: Chọn vị trí nghiên cứu Mô tả điểm nghiên cứu Hệ thống cây trồng hiện tại Những phương án khả thi về sinh học Những phương án khả thi về kinh tế Những phương án có khả năng thành tựu kinh tế Thử nghiệm hệ thống cây trồng Môi trường Tài nguyên tự nhiên Tài nguyên kinh tế Điều kiên kinh tế Những điểm nghiên cứu khác Sự thực hiện những cây trồng có giá trị, có kỹ thuật thông qua Gradient môi trường Sơ đồ 1. Thiết kế hệ thống cây trồng cho một môi trường chọn trước (Nguồn: Võ Tòng Xuân, 1993 [40]) Qua sơ đồ trên cho thấy: Việc lựa chọn thiết kế HTCT cho một địa phương, một vùng sản xuất cần đảm bảo hiệu quả kinh tế và tính bền vững. Do vậy cần phải nghiên cứu đầy đủ khoa học về môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội. Khi đưa những cây trồng mới vào sản xuất cần kế thừa được những điểm tối ưu của cơ cấu cây trồng trước đó và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên, khí hậu, đất đai. Né tránh hoặc hạn chế được các tác hại, rủi do của thiên tai, lợi dụng được các tiềm năng sinh học của cây trồng, ngăn ngừa được các tác hại của sâu bệnh, cỏ dại, nâng cao độ màu mỡ cho đất. Các sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo tính sử dụng và trao đổi tiêu thụ. Khi phát triển hệ thống cây trồng mới cần đảm bảo sự đa dạng về sinh học, không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, dễ thực hiện và phải được tiến hành theo một hệ thống khoa học, đồng bộ từ điều tra, đánh giá, xây dựng mô hình điểm và tổng kết triển khai nhân rộng. Như vậy, lý thuyết về hệ thống là cơ sơ của các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, bởi nó nghiên cứu kết hợp giữa nhiều yếu tố cùng với các tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là các tiến bộ về giống và kỹ thuật canh tác cũng như công cụ sản xuất. Bên cạnh đó còn phải đáp ứng nhu cầu của xã hội, cũng như yếu tố quyết định việc xây dựng hệ thống cây trồng. 2.1.2. Vai trò của hệ thống cây trồng trong sự phát triển nông nghiệp theo sự phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá Những năm 60-70 của thế kỷ XX, Đào Thế Tuấn cùng các CTV ở Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về hệ thống cây trồng ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và đã đưa ra những nhận định cần đạt được của một hệ thống cây trồng thích hợp phải là: 1- Khai thác tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh hoặc giảm được những tác hại của thiên tai đối với cây trồng. 2- Khai thác tốt nhất các điều kiện về đất đai, bảo vệ và bồi dưỡng độ phì của đất. 3- Khai thác tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng ( khả năng cho năng suất cao, phẩm chất tốt, ngắn ngày, thích ứng rộng, khả năng chống chịu cao) nhằm đạt được hiệu quả sản xuất cao nhất. 4- Tránh được tác hại của sâu bệnh, cỏ dại và các tác nhân sinh học khác với phương pháp sử dụng ít nhất các biện pháp hoá học. 5- Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao. 6- Đảm bảo hỗ trợ cho các ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các nguồn lợi thiên nhiên ( Đào Thế Tuấn, 1989) [35]. Rõ ràng rằng, trên vùng đất bán sơn địa huyện Chương Mỹ với diện tích tương đối lớn 153.243 ha, nếu xây dựng được một hệ thống cây trồng hợp lý, đăc biệt với các cây vừa có tác dụng cải tạo đất, vừa có tác dụng che phủ đất như cây họ đậu… chắc chắn sẽ từng bước bồi dưỡng và nâng cao độ phì của đất, đồng thời chọn các giống cây trồng mới cho năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, sẽ né tránh được các yếu tố khí hậu không thuận lợi của vùng như bão, lũ lụt…Trên cơ sở đó, với các giống cây trồng hợp lý, đặc biệt là trồng xen sẽ có sản phẩm nông nghiệp, bởi sự có mặt của nhiều cây trồng trong cơ câu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích, đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của thị trường, nâng cao tính thương mại cuả sản phẩm. Như vậy, hệ thống cây trồng hợp lý có vai trò quan trọng trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất cây trồng, tăng gía trị hàng hoá, tăng thu nhập cho người dân bản địa. Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cây trồng rất có ý nghĩa trong việc tăng năng suất cây trồng và giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Vùng đất bán sơn điạ huyện Chương Mỹ nằm giữa đường quốc lộ 6A, với những sản phẩm phong phú và đa dạng được tạo ra của cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ có điều kiện cung cấp sản phẩm cho một số vùng lân cận như Hà Nội và Hoà Bình với giá thành rẻ và chất lượng tốt, cho phép định hướng của vùng là một nền nông nghiệp theo hướng thị trường, có nhiều thương hiệu của sản phẩm sẽ được đem giới thiệu trong và ngoài nước, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập vào WTO của Việt Nam. Tuy nhiên, để có một hệ thống cây trồng hợp lý trên diện tích 15.243 ha của vùng bán sơn địa, cũng như dẫn dắt hàng vạn nông dân thực hiện chuyển đổi thì việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng các mô hình ứng dụng mới là hết sức cần thiết. 2.1.3. Bản chất của nông nghiệp hàng hoá Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến cuả sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường. Sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan, nó bắt đầu từ kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ nhất định làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá và thông qua thị trường. Hàng hoá là sản phẩm do lao động của con người tạo nên để trao đổi, sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi phục vụ yêu cầu sản xuất và tiêu dùng. Nông nghiệp là một hoạt động mang tính cơ bản của mỗi quốc gia, [11] Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển, tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc dân chiếm phần lớn, còn nông nghiệp chỉ chiếm phần nhỏ. Tuy nhiên những khó khăn trong nông nghiệp đã gây ra không ít những xáo động và ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ tăng trưởng nền kinh tế [6 ]. Để nghành nông nghiệp có thể thực hiện vai trò của mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp phải được phát triển toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc để đảm bảo an ninh lương thực và tăng kim nghạch xuất khẩu nông sản. Theo Ngô Thế Dân [5] ở Việt Nam, kim nghạch xuất khẩu nông sản đã chiếm tới 30-40% tổng kim nghạch xuất khẩu của cả nước, điển hình như cao su, cà phê, lúa…Tuy nhiên, năng suất, sản lượng, chất lượng của nông sản hàng hoá Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Điều đó làm cho sản phẩm hàng hoá khó tiêu thụ, ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Lượng nông sản đã xuất khẩu được trong năm 1999 cao hơn 1998, nhưng hầu hết các mặt hàng nông sản đều bị giảm giá. Theo Đặng Hữu (2000) [8] nguyên nhân của tình trạng trên là do bố trí cây trồng, vật nuôi chủ yếu dựa vào tiềm năng tự nhiên, chưa có cơ sở khoa học, chưa áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Một trong những nguyên nhân của việc xuất khẩu hàng hoá sụt giảm là: “chúng ta chưa có tập quán sản xuất nông nghiệp có chất lượng cao để cạnh tranh với thị trường thế giới". Mặt khác, số đông nông dân còn thiếu những hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu năng lực, bản lĩnh và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Do dó, sản xuất hàng hoá còn mang tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với phát triển sản xuất nông nghiệp hiện nay là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có định hướng và thị trường ổn định [9]. Bên cạnh đó, sản xuất hàng hoá còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường, do đó khả năng rủi ro trong sản xuất là không thể tránh khỏi. Mặt khác, chúng ta chưa hình thành một nền nông nghiệp hàng hoá theo đúng nghĩa cũng như chưa có công nghệ để giải quyết vấn đề này [9]. Chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là sự phát triển hợp quy luật, đó là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu sang nền nông nghiệp hiện đại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển sản xuất của xã hội đó [38], Theo Lênin thì nguồn gốc sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động xã hội [31]. Vì thế, phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì sản xuất hàng hoá càng phát triển. Trước đây là nền kinh tế tự cung tự cấp gắn liền với nền kinh tế đóng cửa và gần như tách biệt với thị trường làm cho nông dân có cuộc sống thấp do năng suất lao động thấp, thế vận động kinh tế hộ nông dân từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hoá, kích thích sự phát triển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hoá là đúng quy luật, nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá [9]. Nền sản xuất hàng hoá có đặc trưng là cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ văn hoá của người lao động cao. Đó là nền sản xuất nông nghiệp có cơ cấu hợp lý, được hình thành trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế, thế mạnh sản xuất nông nghiệp của từng vùng. Đây là nền nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng hoá nhiều với chủng loại phong phú, đa dạng [11]. Việc đưa nền nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình lâu dài và có nhiều khó khăn, phức tạp. Do vậy, cần phải nhanh chóng hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh ngày càng cao phải gắn nông nghiệp với công nghệ chế biến được thực hiện thông qua việc phân công lại lao động, xã hội hoá sản xuất, ứng dụng các tiến bộ công nghệ mới vào sản xuất. Vậy sản xuất hàng hoá là gì? Đối với hộ nông dân, những sản phẩm được đưa ra bán thì gọi là sản phẩm hàng hoá [9]. Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức sản xuất hàng hoá được bán ra thị trường dưới 50% thì gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá một phần, nếu trên 50% gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá tức sản xuất theo hướng hàng hoá (Hà Thị Thanh Bình, 2000) [4]. Hàng hoá là sản phẩm của lao động dùng để trao đổi [39]. Sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm đem bán để thu về giá trị của nó trong đó phần giá trị thặng dư để tái sản xuất và mở rộng quy mô [9]. Hàng hoá là sản phẩm do người lao động tạo ra, nhưng để trao đổi, sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển dựa trên cơ sở phát triển các phương thức sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Sự phân công ấy càng cao, càng sâu sắc, sự phân công chuyên môn hoá c._.ao thì sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống người dân ngày một tăng lên, làm cho quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra mạnh mẽ hơn, sản xuất hàng hoá phát triển ngày càng đa dạng hơn. Nền kinh tế thị trường ra đời làm nảy sinh mối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp thì khả năng cung cho thị trường là các loại nông sản phẩm còn cầu trong nông nghiệp là các yếu tố đầu vào. Hiện nay, nếu chủ hộ không chuyên môn hoá cao trong việc sản xuất kinh doanh, không thay đổi cơ cấu giống và thâm canh tăng vụ thì kết quả sản xuất sẽ thấp và không có sản phẩm để bán ra thị trường hoặc sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của thị trường và sẽ không có tích luỹ để phòng rủi ro. Trong đó, rủi ro về thị trường luôn là mối lo ngại nhất của người sản xuất. Hiện nay, thị trường và hoạt động tiêu thụ nông sản phẩm ở nước ta nổi lên một số vấn đề sau: - Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp thường bị tồn đọng nhất là vào thời điểm thu hoạch. Trong tiêu thụ nông sản, sự phân phối sản phẩm phải qua nhiều khâu trung gian đã làm chậm quá trình lưu thông sản phẩm, thậm chí gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả mạo. Hệ thống kinh doanh thương mại nhà nước đang lâm vào thế lúng túng. Thị trường đầu ra không ổn định gây khó khăn thường xuyên cho nông nghiệp trong việc bao tiêu mua sản phẩm và bao cung ứng tư liệu sản xuất. Đối với nông dân, trong sản xuất nông nghiệp vẫn phổ biến là bán cái mình có chứ chưa phải bán cái thị trường cần. Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu sử dụng cái sẵn có chứ chưa chủ động khai thác các yếu tố của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, số đông nông dân còn thiếu hiểu biết về kinh tế thị trường, thiếu năng lực bản lĩnh và trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá, sản xuất hàng hoá còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội và môi trường, khả năng rủi ro trong sản xuất là không thể tránh khỏi. Do đó sản xuất hàng hoá còn mang tính tự phát, thiếu ổn định và thiếu định hướng thị trường, chúng ta chưa hình thành một nền nông nghiệp hàng hóa theo đúng nghĩa như chưa có công nghệ giải quyết vấn đề này. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với phát triển nông nghiệp hiện nay là phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá có định hướng và thị trường ổn định. Chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa là sự phát triển hợp quy luật, đó là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu sang nền nông nghiệp hiện đại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hoá là quy luật khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển sản xuất của xã hội đó. Theo LêNin thì nguồn gốc sản xuất hàng hoá là do sự phân công lao động xã hội. Vì thế phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì sản xuất hàng hoá càng phát triển.Trước đây là nền kinh tế tự cung tự cấp gắn liền với kinh tế đóng cửa và gần như tách biệt với thị trường làm cho nông dân có cuộc sống thấp, bấp bênh do năng suất lao động thấp, thế vận động kinh tế hộ nông dân từ tự cấp, tự túc lên sản xuất hàng hoá, kích thích sự phát triển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hoá là đúng quy luật, nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mới ở nông thôn, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá có đặc trưng là cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ văn hoá của người lao động cao. Đó là nền nông nghiệp có cơ cấu hợp lý, được hình thành trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế, thế mạnh sản xuất nông nghiệp của từng vùng. Đây là nền nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, khối lượng hàng hoá nhiều chủng loại phong phú đa dạng. Hàng hoá là sản phẩm do con người tạo ra, nhưng để trao đổi sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển phải dựa trên cơ sở phát triển các phương thức sản xuất và phân công lao động xã hội. Sự phân công ấy càng cao, càng sâu sắc thì sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống nhân dân ngày một tăng lên, làm cho quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra mạnh mẽ hơn, sản xuất hàng hoá phát trỉên ngày càng cao hơn. Từ những vấn đề nghiên cứu trên cho thấy việc xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá là hướng đi đúng đắn, là sự tiến hoá hợp quy luật nhưng đây là quá trình lâu dài, có nhiều khó khăn và phức tạp. Vì vậy cần nhanh chóng hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh, thâm canh ngày càng cao gắn với công nghệ chế biến, tìm kiếm thị trường, phân công lao động và các giải pháp đầu tư lao động phù hợp để sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá đạt hiệu quả cao là vấn đề cần thiết trong giai đoạn hội nhập hiện nay. 2.1.4. Những kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp hàng hoá ở nước ta trong những năm gần đây Thực tế 10 năm qua đã chỉ ra bài học trong sản xuất nông sản hàng hoá ở nước ta như sau [2]. * Thứ nhất: Thị trường tiêu thụ nông sản gặp phải khó khăn là đương nhiên, không những khó khăn ở tầm vĩ mô mà khó khăn còn đến với người sản xuất. Nước ta mới thoát ra từ nền sản xuất kế hoạch hoá tập trung, cả về nhận thức, tư duy, cách tiếp cận cũng không thể ngày một ngày hai có được, sau đó đến các vấn đề quản lý, nghiệp vụ, nghệ thuật trong thương trường, rồi đến các hệ thống phục vụ: thông tin, phương tiện, kho tàng, thông lệ quốc tế đều là các vấn đề khó khăn. Để đạt được những kết quả như ngày nay, đương nhiên phải trả giá và chắc chắn còn phải chi phí nhiều cho bài học về kinh tế thị trường. * Thứ hai: Nước ta có nhiều lợi thế để đa dạng hoá sản phẩm nông sản theo các vùng và theo mùa vụ. Nhưng đồng thời cũng hình thành những vùng tập trung chuyên canh lớn như: miền núi phía Bắc trồng chè; Tây Nguyên, đông Nam Bộ trồng cà phê, cao su, tiêu, điều; đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông cửu Long trồng lúa, rau, cây ăn quả. Lợi thế đất đai, khí hậu, thuỷ văn, lao động là tiền đề cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Song còn một số vấn đề thách thức trong sản xuất hàng hoá; đó là chất lượng sản phẩm thấp, kể cả sản phẩm thô và sản phẩm chế biến, giá thành cao làm cho sức cạnh trạnh kém. Điều này do nhiều nguyên nhân cần phải khắc phục: công nghệ và kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, lao động còn thủ công, chi phí và tiêu thụ cao. *Thứ ba: Hiện tại Việt Nam đã gia nhập ASEAN và WTO. Dù còn nhiều khó khăn nhưng sản xuất nông nghiệp hàng hoá nước ta đã từng bước hoà nhập với nhiều nước trong khu vực, nhiều lọai hình kinh tế đã tham gia vào sản xuất. Mỗi loại hình có trình độ, quy mô khác nhau nhưng đều có mục đích sản xuất nông sản hàng hoá. Vì vậy để sản xuất được thông suốt từ khâu sản xuất, lưu thông đến phân phối cần phải có cơ chế quản lý phù hợp. Vai trò quản lý từ trung ương đến địa phương là rất quan trọng, nó tác động đến tiêu thụ sản phẩm thị trường trong nước và xuất khẩu. * Thứ tư: Vai trò của khoa học công nghệ trong giai đoạn này có vai trò quyết định to lớn đến sản xuất nông sản hàng hoá. Không kể đến các nước phát triển, mà ngay một số nước trong khu vực như: Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan, Singgapore… nhờ tiến bô khoa học công nghệ đã tạo ra giống tốt, với quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến tiên tiến đã đưa năng suất, chất lượng sản phẩm lên cao, giá thành nông sản hạ, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng. Việc ứng dụng khoa học công nghệ đã hình thành các khu công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó ở nước ta, hiện nay mô hình công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp mới đang được tìm tòi. * Thứ năm:Vấn đề đầu tư kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp của nước ta còn rất thấp. Hệ thống cấp thoát nước, hệ thống giao thông nội đồng hệ thống điện đang xuống cấp, nhiều vùng có đầu tư không đáng kể. Đa số hộ nông dân ở đồng bằng sông Hồng đang sử dụng rất nhiều ô thửa nhỏ bé. Việc đồn điền, đổi thửa, để có diện tích sản xuất tập trung, tạo điều kiện cho cơ giới hoá và xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn. Trong khi đó, ngành công nghiệp và dịch vụ nước ta cũng đang ở trong giai đoạn phải đầu tư, việc tích luỹ từ công nghiệp và dịch vụ để hỗ trợ cho nông nghiệp còn thấp. 2.1.5. Định hướng phát triển nông nghiệp hàng hoá của Việt Nam Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X [3], đã đề ra phương hướng phát triển nông nghiệp như sau: - Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng, phải luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực và tạo điều kiện hình thành nền nông nghiệp sạch. Phấn đấu giá trị tăng thêm ngành nông-lâm-ngư nghiệp tăng từ 3,0-3,2%. - Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Đẩy mạnh thâm canh các loại cây trồng trên cơ sở áp dụng các quy trình sản xuất đồng bộ và tiên tiến, phát triển chăn nuôi theo hướng quy mô lớn. Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hoá tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản. - Thực hiện các giải pháp đồng bộ, đặc biệt chú trọng các giải pháp có tính quyết định chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Đưa nhanh tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp. Tăng cường nguồn đầu tư ngân sách nhà nước và đa dạng hoá các nguồn lực để phát triển ngành nông nghiệp. Phan Sĩ Mẫn, Nguyễn Việt Anh (2001) [21] đã đưa ra định hướng và tổ chức phát triển nền nông nghiệp hàng hoá như sau: - Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh hàng hoá theo chiều sâu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, gắn với bảo vệ tái tạo tài nguyên môi trường sinh thái. Đảm bảo an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu hàng nông sản và nguyên liệu cho thị trường trong nước đồng thời chuyển mạnh nền nông nghiệp sang sản xuất xuất khẩu. - Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách và có các giải pháp đồng bộ về việc tổ chức quản lý quá trình phát triển, cụ thể: + Tăng cường công tác quy hoạch, tổ chức và quản lý phát triển. Quy hoạch và định hướng phát triển nông nghiệp theo từng vùng, từng tiểu vùng kinh tế sinh thái và theo nhóm sản phẩm hàng hóa. Trước hết cần tập trung cho các vùng nông nghịêp trọng điểm, có điều kiện sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn các loại cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm hàng hoá chủ lực có giá trị kinh tế cao, có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng. + Tăng cường đầu tư và điều chỉnh cơ cấu đầu tư thích ứng với yêu cầu thực tế phát triển nông nghiệp, Tăng cường đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch và phát triển công nghệ chế biến. + Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật, phát triển hệ thống khuyến nông và các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp. + Hỗ trợ và thúc đẩy phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp. + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách thị trường. Như vậy, ta thấy rằng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là một định hướng đúng đắn trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Đó là con đường thuận lợi cho việc khai thác có hiệu quả trong việc sử dụng đất nông nghiệp, là điều kiện để thực hiện tiến trính hội nhập kinh tế thế giới. 2.2. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.2.1. Những nghiên cứu trên thế giới Việc nghiên cứu về hệ thống cây trồng và sản xuất nông nghiệp hàng hoá trong những năm gần đây là vấn đề quan trọng thu hút được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu vào việc nghiên cứu thực trạng từng loại cây trồng trên mỗi loại đất để từ đó đề ra định hướng sử dụng đất theo hướng sản xuất hàng hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Hàng năm viện nghiên cứu nông nghiệp các nước trên thế giới đều nghiên cứu và đưa ra được một số giống cây trồng mới giúp cho việc tạo ra được một số loại hình sử dụng đất mới ngày càng có hiệu quả hơn. Viện Lúa quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực giống trên đất canh tác. Đầu thập kỷ 60, viện lúa quốc tế đã tạo ra giống lúa IR8, IR5 có năng suất cao đạt từ 6 -9 tấn/ha, trong mùa khô và 5-7 tấn/ha trong mùa mưa (HG Zandstras, 1981) [ 45], đã tạo ra về bước đột phá về nâng cao năng suất lúa. Tuy nhiên đến cuối thập kỷ 60 các nhà khoa học đã nhận thấy rằng: IR8 không thích nghi với nhiều vùng khó khăn về đất đai, khí hậu, thuỷ lợi và tập quán canh tác. Trong cuộc cách mạng xanh, với sự đầu tư cơ giới hoá và năng lượng hoá thạch dưới dạng nhiên liệu, phân hoá học thuốc trừ sâu, thuỷ lợi, giống cây trồng… đã tạo ra bước nhảy vọt về năng suất, sản lượng cây trồng. Tuy nhiên người ta cũng nhân ra hậu quả tiêu cực của cách mạng sanh như ô nhiễm môi trường sống, suy giảm tài nguyên sinh học. Nhận thức về bố trí cây trồng nông nghiệp của từng vùng phải dựa trên cơ sở khoa học ngày càng được xã hội chấp nhận, người ta phát hiện ra nhân tố cơ bản đã hạn chế năng suất ở châu á là hệ thống cây trồng. Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống cây trồng các nhà khoa học đã và đang nỗ lực tập trung về hệ thống cây trồng. Nửa đầu thập kỷ 70, các nhà khoa học châu á đã nghiên cứu các HTCT trên đất lúa ở các vùng sinh thái khác nhau. Từ năm 1975 mạng lưới nghiên cứu hệ thống canh tác châu á ra đời F, S, R (Farming systems research) với 4 thành viên, đến nay có khoảng 4 nước tham gia. ở Nhật Bản, tạp chí “Faming Japan” ra hàng tháng đã giới thiệu nhiều công trình ở các nước trên thế giới về các hình thức sử dụng đất, điển hình là của Nhật Bản, Nhà khoa học Otak Tanakad của Nhật Bản đã nêu những vấn đề cơ bản về sự hình thành của sinh thái đồng ruộng, từ đó cho rằng yếu tố quyết định của hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về kỹ thuật, kinh tế – xã hội. Các nhà khoa học Nhật Bản đã hệ thống tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng đất thông qua hệ thống cây trồng trên đất canh tác là sự phối hợp giữa các cây trồng và gia súc, các phương pháp trồng trọt và chăn nuôi, cường độ lao động, vốn đầu tư, tổ chức sản xuất, sản phẩm làm ra, tính chất hàng hoá của sản phẩm. Một trong những chính sách tập trung vào hỗ trợ phát triển nông nghiệp quan trọng nhất là chính sách đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. ở Mỹ, tổng số tiền trợ cấp là 66,2 tỷ USD (chiếm 28,3 %trong tổng thu nhập nông nghiệp), Canada tương ứng là 5,7 tỷ USD (chiếm 39,1 %), Nhật Bản là 42,3 tỉ USD ( chiếm 68,9 %), châu Âu 67,2 tỷ (chiếm 40,1%), áo là 1,6 tỷ USD (chiếm 35,3 %) (FAO). Thái Lan luôn coi trọng việc nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá Thái Lan đã chú trọng vào việc tăng giá trị các sản phẩm trong nông nghiệp và làm cho nông nghiệp bền vững, hơn là chú trọng tăng năng suất cây trồng, mở rộng diện tích. Theo hướng này các nhà khoa học trong nông nghiệp của Thái Lan đóng một vai trò hết sức quan trọng. Một trong các vai trò công nghệ mới là cải tiến giống lúa cổ truyền nhờ công nghệ sinh học và kỹ thuật di truyền, các giống cây trồng khác cũng được cải tiến và trở thành những sản phẩm nổi tiếng trên thị trường quốc tế như phong lan, bông, đay… Thái Lan đã hợp tác với các nước tiên tiến trên thế giới trong việc áp dụng công nghệ sinh học để cải tiến quy trình sản xuất nhiều loại cây trồng, giảm tối thiểu sử dụng hoá chất. Kết quả này đóng vai trò trong phát triển nông nghiệp bền vững, tạo ra sản phẩm sạch với chất lượng cao. Các nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng: đối với các vùng nhiệt đới có thể thực hiện các công thức luân canh cây trồng hàng năm, có thể chuyển từ chế độ canh tác cũ sang chế độ canh tác mới tiến bộ hơn mang lại hiệu quả cao hơn. Nghiên cứu bố trí luân canh các cây trồng hợp lý hơn bằng cách đưa các giống cây trồng mới vào hệ canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực thực phẩm trên một đơn vị diện tích đất canh tác trong một năm. ở châu á cũng có nhiều nước cũng tìm ra phương pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác luân phiên cây lúa với cây trồng cạn đã thu được hiệu quả cao. Ngày nay vấn đề sản xuất nông nghiệp hàng hoá luôn được các quốc gia có nền nông nghiệp mạnh đầu tư phát triển. Chính vì vậy đã thu hút được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các nhà khoa học các nước đã chú trọng đến việc nghiên cứu các cây con giống mới, nghiên cứu những công nghệ sản xuất và chế biến, nghiên cứu về chính sách và định hướng nhằm phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao và bền vững. 2.2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Việt Nam là một nước nông nghiệp, các hoạt động kinh tế xã hội , thậm chí cả nền văn minh từ xa xưa đã gắn với trồng trọt và chăn nuôi. Vì vậy có thể nói những nghiên cứu về hệ thống trồng trọt và nông nghiệp của nước ta gắn liền với lịch sử hình thành, đấu tranh và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử đã ghi lại, từ thời vua Hùng dân ta đã di chuyển từ vùng đồi gò xuống vùng đồng bằng, ven biển để khai hoang xây dung đồng ruộng sản xuất nông nghiệp và hình thành nên các thôn, bản. Trong cuốn “Vân đài loại ngữ” tác giả Lê Quý Đôn - một học giả nổi tiếng của Việt Nam đã ghi chép nhiều về giống lúa tẻ, lúa nếp mà dân ta thường nuôi cấy từ thời tiền Lê (980-1005) (Bùi Huy Đáp, 1985).[1] Thời Nam Bắc phân tranh (1533-1788) và tiếp sau là thời các vua triều Nguyễn (1802- 1945) có những bậc “thần hoàng” nổi tiếng như Nguyễn Lộ, Nguyễn Tri Phương đã đưa dân đi khai khẩn đất đai ở các vùng đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, xây dựng các công trình thuỷ lợi tưới tiêu và cải tạo đất, lựa chọn hệ thống cây trồng, bố trí mùa vụ sản xuất, quy hoạch sử dụng đất lâu bền. Dưới thời Pháp thuộc (1867-1945), nhiều giống cây trồng mới đã được tuyển chọn trong nước hoặc du nhập từ nước ngoài vào sản xuất trong nước hoặc du nhập từ nước ngoài vào sản xuất ở các đồn điền như cà phê, cam, quýt, chè… đặc biệt là cao su. Cây cao su đã được trồng với quy mô rộng lớn. Tuy nhiên, dù thời nào đi nữa ở nước ta cây lúa nước vẫn là cây trồng chính, Năm 1880, Việt Nam đã xuất khẩu 300.000 tấn gạo cho các nước thuộc địa của Pháp (Mai Văn Quyền, 1996)[25] Do yêu cầu của việc tăng năng suất, sản lượng cây trồng để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của con người nên các nghiên cứu về trồng xen, trồng gối, luân canh, tăng vụ đã được nghiên cứu từ rất sớm và việc nghiên cứu hệ thống nông nghiệp được bắt đầu từ cơ cấu cây trồng. Trong nghiên cứu về hệ thống canh tác phải được bắt đầu bằng công tác kiểm kê các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, đánh giá được hệ thống canh tác truyền thống. Việc cải tiến những hệ thống canh tác của nông dân đang được các nhà khoa học nước ta quan tâm nghiên cứu và bước đầu đạt được nhiều kết quả tốt. Trong hệ thống luân canh trên đất màu tại miền Bắc Việt Nam, cây vụ đông có vai trò trong bảo vệ đất, nhờ vụ đông mà đất trồng được che phủ trong suốt thời kỳ khí hậu khô hạn (trong điều kiện khô hạn, đất màu bị thoái hoá nhanh nhất, đồng thời các chất hữu cơ phân hủy mạnh). Cây vụ đông đã làm tăng độ ẩm của đất từ 30-50% so với không trồng cây vụ đông. Đất bạc màu có trồng cây vụ đông đều làm tăng năng suất cây trồng vụ sau một cách rã rệt . Cải tiến cơ cấu cây trồng trong thời gian tới cần nghiên cứu bố trí lại hệ thống cây trồng thích hợp với các điều kiện đất đai và chế độ nước khác nhau, phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp nhằm khai thác cao nhất các nguồn lợi tự nhiên, lao động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đa dạng giống cây trồng và loại cây trồng là biện pháp tích cực để nâng cao tính ổn định của hệ thống (Trần Đình Long, 1997)[19]. Cũng theo tác giả Trần Đình Long (1997) thì giống cây trồng là tư liệu sản xuất sống, có liên quan chặt chẽ với điều kiện ngoại cảnh, có vai trò quan trọng trong cải tiến cơ cấu cây trồng. Để tăng năng suất cần tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp theo yêu cầu của giống. Sử dụng giống tốt là một biện pháp để tăng năng suất và ít tốn kém. Điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn nhiều khó khăn, chịu nhiều rủi ro (bão, lụt, hạn hán, sâu bệnh…) làm cho năng suất, sản lượng cây trồng thấp và không ổn định, bấp bênh. Một số cây trồng địa phương có khả năng chống chịu khá với điều kiện ngoại cảnh bất thuận, năng suất ổn định nhưng lại thấp, không đáp ứng nhu được nhu cầu của con người. Do vậy, cần có bộ giống tốt, năng suất cao, ổn định, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng cụ thể theo nguyên tắc “ đất nào cây ấy”. Tác giả Vũ Tuyên Hoàng (1995) [15], khi nghiên cứu, chọn tạo giống lúa cho các vùng khô hạn, ngập úng, chua phèn đã có nhận xét: so với các vùng thâm canh, các vùng khó khăn còn có yêu cầu thêm về giống mới thích hợp hơn nữa, các tiêu chuẩn giống chống chịu cũng cần được xác định chuẩn xác hơn. Đối với các vùng khó khăn, công tác cải tạo đất và nguồn nước tưới luôn luôn cần kết hợp với giống và các biện pháp kỹ thuật thích hợp để tăng năng suất. Mỗi khu vực có điều kiện sinh thái, đất đai, khí hậu khác nhau, do vậy các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở mỗi khu vực cho các kết quả khác nhau, cơ cấu cây trồng, hệ thống nông nghiệp được xây dựng ở mỗi vùng một khác. - Vùng đồng bằng sông Hồng: viện sĩ Đào Thế Tuấn khi nghiên cứu mô phỏng chiến lược phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng đã khẳng định rằng để phát triển nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng theo hướng sản xuất hàng hóa, bền vững và ổn định cần thực hiện theo các hướng sau: + Tăng sản xuất lương thực. + Tăng sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. + Tạo việc làm mới để ổn định đời sống nhân dân. Khi nghiên cứu vùng đất thường xuyên ngập úng huyện hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, tác giả Nguyễn Văn Hoàn cho biết nếu chỉ đơn thuần cấy một vụ lúa/năm thì lợi nhuận thu được là 5,8 triệu đồng/ năm/ đơn vị diện tích canh tác (nơi nghiên cứu), còn nếu cấy lúa kết hợp nuôi cá thì lợi nhuận thu được trên diện tích canh tác ấy sẽ là 13,7 triệu đồng/ha [14]. Bùi Thị xô (1994) [43] đã tiến hành xây dựng mô hình thử nghiệm đánh giá hiệu quả kinh tế một số công thức luân canh trên các vùng đất khác nhau của Hà Nội, kết quả thu được như sau: + Vùng thâm canh: hiệu quả kinh tế đạt từ 115-339 % so với mô hình cũ. + Vùng đất bạc màu: hiệu quả kinh tế đạt 130-167 % so với mô hình cũ. + Vùng đất trũng: với công thức lúa xuân – cá giống, hiệu quả kinh tế thu được rất cao, tổng gía trị sản phẩm đạt 72 triệu đồng/ ha/ năm. - Vùng đồng bằng sông Cửu Long: tác giả Trần An Phong (1996) [24] cho rằng khả năng thâm canh, tăng vụ và đa dạng hóa cây trồng ở vùng phù sa chủ động nước ven sông Tiền, sông Hậu cần phải đi đôi với việc cải tiến hệ thống cây trồng. Còn tác giả Tào Quốc Tuấn (1994) [37] khi nghiên cứu xác định hệ thống cây trồng hợp lý cho vùng phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu có nhận xét: các mô hình chuyên canh cây lúa đều sử dụng rất nhiều nước vào mùa khô, trong khi đó các mô hình luân canh 1 vụ lúa – 1 vụ màu, cây ăn quả hay mía sử dụng tiết kiệm nước hơn. Những nhóm hộ nông dân khác nhau có những mục tiêu chiến lược khác nhau, Tỷ lệ nông dân sản xuất lúa gạo để bán ở đồng bằng sông Cửu Long cao hơn đồng bằng sông Hồng, Trên 605 số hộ nông dân ở đồng bằng sông Hồng sản xuất lúa gạo để tự cấp. - Vùng đất cát ven biển: Tác giả Vũ Biệt Linh (1995) [18] khẳng định rằng nếu không thiết lập được các dải rừng phòng hộ trên các bờ cát bao quanh thì không có khả năng sản xuất nông nghiệp trên đất cát ven biển. Để giải quyết vấn đề này, phải có biện pháp xen canh, gối vụ các cây trồng như lạc, đậu tương, vừng… trong đó quan trọng nhất là cây họ đậu, tạo nguồn hữu cơ bổ sung cho đất. Nguyễn Vy (1996) [41] đã nghiên cứu vai trò của cây rừng trên đất cát ven biển chịu tác động của gió Lào phía Bắc tỉnh Nghệ An, việc thay các giống vừng cũ bằng các giống vừng mới, cải tiến cơ cấu cây trồng hiện có thành cơ cấu cây trồng mới đã đem lại hiệu quả cao hơn cả về kinh tế và bảo vệ đất. - Vùng trung du, miền núi phía Bắc: đậu tương và lạc là những cây công nghiệp ngắn ngày, ngoài giá trị về kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc cải tạo và bảo vệ đất trồng, chúng là những cây trồng quan trọng trong việc cải tạo và bảo vệ đất trồng, do đó chúng là những cây trồng quan trọng trong việc xây dựng hệ thống nông nghiệp bền vững, đặc biệt là canh tác trên đất dốc. Vì vậy nhiều tác giả đã nghiên cứu vai trò của cây đậu tương và cây lạc trong cơ cấu cây trồng ở vùng trung du, miền núi phía Bắc. Tác giả Trần Danh Thìn (2001) [26] khi nghiên cứu vai trò của cây đậu tương, cây lạc ở một số tỉnh trung du, miền núi phía Bắc đã đưa ra kết luận: sử dụng phân khoáng, phối hợp giữa đạm, lân và vôi trong thâm canh không những chỉ nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế của việc trồng lạc và đậu tương mà còn có tác dụng tạo ra một khối lượng lớn chất xanh, làm tăng độ che phủ đất và cung cấp nhiều chất hữu cơ cho đất trong chiến lược vừa sử dụng, vừa cải tạo đất vùng đồi. Trồng xen cây đậu tương và cây lạc ở giai đoạn chưa khép tán đã mang lại hiệu quả kinh tế và cải tạo đất rõ rệt. Việc trồng xen đậu tương với xoài đã nâng cao khả năng giữ ẩm của đất, hạn chế sự phát triển của cỏ dại, làm tăng sinh trưởng của xòai và tăng thu nhập của người nông dân, đáp ứng được nhu cầu lấy ngắn nuôi dài. - Vùng Tây Nguyên: các chương trình của nhà nước về Tây Nguyên đã cơ bản xác định được các tài nguyên thiên nhiên, kinh tế xã hội của Tây Nguyên, đồng thời đã thực hiện được cuộc điều tra, đánh giá các nghiên cứu, thí nghiệm về nông lâm nghiệp của Tây Nguyên. Khi nghiên cứu yếu tố hạn chế sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bào dân tộc Êđê trên cao nguyên Buôn Ma Thuột, Phạm Văn Hiển (1998) [13] đã xếp hạng các yếu tố cần thiết cho sản xuất nông nghiệp tại vùng theo thứ tự ưu tiên cần quan tâm là giống-phân bón-chăn nuôi-tín dụng. Nguyễn Văn Lạng (2002) [16] khi nghiên cứu cơ sở khoa học xác định cơ cấu cây trồng hợp lý đã đánh giá được tiềm năng đất, nước, khả năng bố trí cơ cấu cây trồng theo diện tích và đã đề xuất nhiều mô hình luân canh, xen canh, thâm canh hợp lý, có hiệu quả kinh tế cao tại huyện C Jut, tỉnh Đăk Lăk. Những nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về HTCT đã góp phần rất lớn trong việc phát triển nền nông nghiệp theo hướng bền vững, tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ tập trung một số vùng sinh thái. Nhiều kết quả nghiên cứu chỉ phù hợp ở một giai đoạn nhất định vì hệ thống cây trồng mang đặc tính động. Nghiên cứu hệ thống cây trồng không thể dừng lại ở một không gian và thời gian mà phải tiếp tục để tìm ra xu thế phát triển, những yếu tố hạn chế cùng các giải pháp khắc phục để hoàn thiện hệ thống cây trồng. Mặt khác mỗi vùng sinh thái có điều kiện đất đai, khí hậu khác nhau. Vì vậy, cần có những nghiên cứu và xác định hệ thống cây trồng riêng cho từng vùng, nhằm khai thác hợp lý những tiềm năng và né tránh những điều kiện bất lợi do thiên nhiên gây ra. Những đặc điểm về hệ thống trồng trọt ở vùng đồi gò Hà Tây Vùng đồi gò Hà Tây với diện tích đất tự nhiên là 180.000ha, đây là một vùng còn nghèo, năng suất cây trồng thấp. Trong những năm trở lại đây dưới sự chỉ đạo của tỉnh Hà Tây cho thấy diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày tăng. Các trang trại từng bước được phát triển nhờ sự hỗ trợ của nhà nước, cơ cấu cây trồng dần được thay đổi, đất 2 vụ lúa được bổ xung thêm một vụ đông với cây rau, khoai tây và các cây họ đậu vừa nâng cao hiệu quả kinh tế vừa có tác dụng cải tạo và bồi dưỡng đất. Hiện nay trên vùng đồi gò có một số công thức luân canh như sau: * Nhóm đất ruộng: - ở chân thấp: Lúa xuân-Lúa mùa-Rau Lúa xuân-lúa mùa-khoai tây Rau-Lúa mùa-Đậu tương ` Lúa xuân-Lúa mùa-Đậu tương Các công thức luân canh trên hàng năm trên 1 ha cho giá trị sản phẩm trên 15 triệu đồng, thu nhập thuần trên 6 triệu. Nhìn chung các công thức luân canh này đều làm cho đất tốt lên, hàng năm mỗi ha sử dụng trên 850 công lao động. - ở chân cao: Lạc xuân-Lúa mùa-Rau Đậu tương-Lúa mùa-Rau Ngô-Lúa mùa-Rau Các công thức luân canh trên mỗi ha hàng năm cho giá trị sản phẩm trên 15 triệu đồng, thu nhập thuần trên 6 triệu đồng và đều sử dụng lao động trên 900 công lao động. Bổ sung thêm 1 vụ đậu tương đông không những tăng giá trị sản phẩm/ ha/năm lên 80,5%. Số công lao động được sử dụng tăng 238 công mà còn có tác dụng nâng cao độ phì của đất. * Nhóm đất đồi núi: có một số công thức luân canh phổ biến như sau: - Sắn + Đậu tương + Băng chống xói mòn - Lạc xuân + Ngô - Chè-Na Dai-Cốt Khí - Mía tím - Đậu lạc - Chè-Keo tai tượng - Hồng-Quýt-Dứa - Lạc xuân + Ngô + Băng cây chống xói mòn Nhìn chung các công thức trên đều có tác dụng làm tăng độ phì của đất, Hàm lượng mùn, photpho và Kali đều tăng: nhất là các công thức có băng chống xói mòn. Về tình hình phát triển trang trại ở vùng đồi gò Hà Tây. Các trang trại chủ yếu là trang trại nông lâm kết hợp, đa dạng hóa cây trồng, có một số đặc điểm sau: - Diện tích đất từ 2-10 ha/hộ, trong đó bao gồm cả đất bằng và đất dốc. - Cơ cấu cây trồng và loại đất bằng rất đa dạng và phong phú, thông thường kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi, nhất là chăn nuôi trâu, bò, dê. - Về mặt lao động, các trang trại gia đình sử dụng lực lượng lao động trong hộ là chính, nhưng 100% các trang trại đều thuê lao động thời vụ, có trang trại thuê lao động thường xuyên. Nhìn chung các trang trại đều có thu nhập tăng (có trên 30% số hộ có khả năng tích lũy từ 15-20 triệu đồng/năm), các chủ trang trại đã biết tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 3.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu 3.1.1. Địa điểm nghiên cứu - Đề tài được thực hiện tại vùng đồi gò huyện Chương Mỹ-Hà Tây, trong đó sẽ lựa chọn một số xã đại diện cho từng vùng sinh thái và điều kiện kinh tế xã hội để đánh giá, so sánh và khái quát cho huyện. 3.1.2. Thời gian nghiên cứu - Đề tài tài được triển khai từ tháng 9/2007 đến 6/2008. 3.2. Nội dung nghiên cứu 3.2.1. Nghiên cứu đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của vùng nghiên cứu - Vị trí địa lý của vùng nghiên cứu - Tài nguyên khí hậu của vùng - Điều kiện kinh tế xã hội + Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội + Thực trạng dân số, lao động + Thực trạng cơ sở hạ tầng của địa phương 3.2.2. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất - Hiện trạng sử dụng đất tự nhiên của huyện Chương Mỹ - Hiện trạng sử dụng đất._.i tiêu đảm bảo chất lượng và có hiệu quả cao. Kết hợp chặt chẽ giữa việc dịch vụ điều tiết nước với dịch vụ bảo vệ đồng ruộng, bảo vệ và bảo dưỡng mương máng của các địa phương. Tích cực đầu tư vốn và vận động nhân dân cùng góp vốn để từng bước thực hiện kiên cố hoá hệ thống kênh mương, góp phần hạ được giá thành khâu tưới tiêu nước, đồng thời tiết kiệm được nhiều diện tích đất đai. - Dịch vụ khoa học công nghệ Tổ chức tốt việc dịch vụ kịp thời các giống cây trồng vật nuôi có, có năng suất cao, phẩm chất tốt, tổ chức hệ thống dịch vụ chế biến bảo quản nông sản. - Dịch vụ vốn Nhìn chung các hộ nông dân có ít vốn trong quá trình sản xuất. Khi thực hiện sản xuất sản phẩm hàng hoá thì vấn đề về vốn trở nên quan trọng hơn. Vì vậy, khi có các tiến bộ khoa học kỹ thuật muốn đưa vào ứng dụng trong sản xuất thì cần phải có biện pháp dịch vụ và hỗ trợ vốn để lôi kéo và giúp các hộ nông dân có điều kiện thực hiện sản xuất tốt. Việc dịch vụ và hỗ trợ kinh tế cần được áp dụng một cách linh hoạt theo nhiều phương pháp khác nhau + Đẩy mạnh các hoạt động tín dụng trong khu vực như: bán chịu vật tư, cho vay lãi suất thấp, hỗ trợ một phần tiền giống cây trồng... Đối với nhà nước cần xem xét giảm bớt các thủ tục phiền hà khi cho vay và vay vốn. Có như vậy không những huy động được nhiều nguồn vốn dư thừa trong nhân dân, mặt khác khuyến khích được những người khó khăn vay vốn đầu tư kịp thời vào quá trình sản xuất. Nhà nước cần thực hiện cơ chế cho các chủ trang trại vay vốn theo chu kỳ sản xuất kinh doanh của từng loại sản phẩm. Căn cứ vào điều kiện thực tế về địa hình, về đặc điểm và tính chất của các loại đất để có sự hỗ trợ vốn cho việc phát triển kinh tế trang trại. 4.7.2..5. Đề xuất một số mô hình trồng lạc có che phủ và mô hình trồng cỏ VA-06 trên vùng đồi gò huyện Chương Mỹ Theo dự báo trong tương lai, nhu cầu về cây trồng như: lạc, đậu tương, rau, hoa sẽ tăng cao. Để có cơ sở phát triển các loại cây này, chúng tôi nghiên cứu giải pháp, hoàn thiện hệ thống cây trồng nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá như sau: Thực hiện thử nghiệm đưa vào chân đất vàn cao công thức luân canh: có che phủ nilông nhằm nâng cao hệ số sử dụng đất, cải tạo chân đất vàn cao. Các sản phẩm của hệ thống cây trồng này đều dễ tiêu thụ bảo quản, giá trị ổn định, phục vụ nhu cầu rộng rãi của nhân dân. * Thử nghiệm 1: Nghiên cứu hiệu quả của trồng lạc vụ xuân có che phủ nilông trong hệ thống cây trồng: Lạc xuân - lúa mùa - đậu tương đông Mô hình trồng lạc có che phủ nilông là một mô hình mới nhằm khai thác tài nguyên khí hậu, điều kiện đất đai vụ đông ở đồng bằng Bắc Bộ. Nhờ được che phủ nilông nên khi nhiệt độ tháng 2,3 xuống thấp, cây lạc vẫn sinh trưởng phát triển tốt. *ảnh hưởng của sự che phủ nilon, rơm rạ đến sự nảy mầm và phát triển của lạc xuân năm 2007       Sự nảy mầm của lạc xuân rất quan trọng, nó quyết định mật độ và năng suất lạc. Qua theo dõi ảnh hưởng của che phủ nilông và rơm rạ đến quá trình sinh trưởng phát triển của lạc, chúng tôi thu được kết quả sau (bảng 4.20). Bảng 4.20. ảnh hưởng của che phủ nilon. rơm rạ đến một số chỉ tiêu    sinh trưởng phát triển của cây lạc vụ xuân năm 2007 STT Chỉ tiêu ĐVT CT1 CT2 CT3 (đ/c) 1 Tỷ lệ nảy mầm % 90,0 84,6 81,2 2 Thời gian sinh trưởng Ngày 119,0 121,0 123,0 3 Chiều cao thân chính (thu hoạch) cm 39,1 36,2 33,8 4 Tổng số cành - - - - + Cấp I Cành 4,30 3,8 3,6 + Cấp II Cành 3,80 3,5 3,2 Ghi chú: - CT1: che phủ nilon - CT2: che phủ bằng rơm rạ - CT3(Đc): Không che phủ - Qua bảng 4.21. chúng tôi có một số nhận xét sau: + Công thức luân canh có đặc điểm được bố trí 3 vụ với 3 loại cây trồng khác nhau, mỗi loại cây trồng có sự thích nghi với điều kiện sinh thái nhất định. Vụ lúa mùa, thực hiện cấy sớm và cực sớm bằng giống ngắn ngày để cho thu hoạch sớm, đảm bảo thời vụ trồng đậu tương vụ sau. - Lạc xuân được trồng vào 25/2/2007, thời điểm có nhiệt độ trung bình 16,30C, ẩm độ không khí 85%, thời tiết lạnh, rét và hạn gây khó khăn cho quá trình nảy mầm của cây lạc. - Tỷ lệ nảy mầm ở CT1 đạt 90%  cao hơn CT3 (đối chứng) là 8,8%; CT3 cao hơn CT2 là 6,4%, với tỷ lệ nảy mầm cao sẽ có lợi cho việc đảm bảo mật độ và sức sinh trưởng của cây con. Vào tháng 2 thường gặp rét và hạn làm cho hạt lạc không mọc được và bị thối. Nhờ che phủ nilon, rơm rạ đúng kỹ thuật ở CT1, CT2 nên đã hạn chế được ảnh hưởng này.       - Vào tháng 2,3 diễn biến thời tiết vẫn rét có tác động rõ rệt lên quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lạc, vật liệu che phủ là nilon và rơm rạ đã phát huy tác dụng. Giai đoạn từ mọc đến ra hoa mức chênh lệch về chiều cao cây thấp, đến lúc thu hoạch chiều cao cây CT1 hơn CT3 là 5,3cm; CT2 hơn CT3 là 1,5cm, thể hiện rõ tác dụng của việc che phủ nilon so với đối chứng.       - Mức độ phân cành cấp I và cấp II ở CT 1 cũng thể hiện hơn hẳn CT3 là 1-2 cành/cây và  CT2 hơn CT3 là 0,4 cành/cây.       - Thời gian sinh trưởng ở CT1 cũng rút ngắn hơn CT3: 3-4 ngày, nếu bán lạc tươi còn sớm hơn nữa. Điều này cũng có ý nghĩa lớn trong việc sản xuất thu hoạch lạc tươi trái vụ phục vụ nhu cầu thị trường nâng cao hiệu quả kinh tế.  * ảnh hưởng của che phủ nilon, rơm rạ đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất lạc xuân Lạc xuân trồng vào cuối tháng 2 nên đầu vụ thường gặp rét và hạn gây khó khăn cho quá trình mọc mầm của hạt. Việc dùng vật liệu che phủ nilon cho lạc xuân đã khắc phục cơ bản hạn chế này. Kết quả thu được cho thấy sự hơn hẳn của việc trồng lạc có che phủ nilon và che phủ bằng rơm rạ so với không che phủ. Bảng 4.21. ảnh hưởng của che phủ nilon và rơm rạ đến các yếu tố   cấu thành năng suất lạc xuân năm 2007 Chỉ tiêu Công thức Mật độ cây thu hoạch (cây/m2) Số quả/cây (quả) Số quả chắc/cây (quả) Tỷ lệ quả chắc (%) P 100 quả (g) Năng suất thực thu (tạ/ha) Chênh lệch so với Đ/C (%) CT1 32,40 13,65 11,97 87,69 107,00 29,80 30,70 CT2 30,20 12,67 10,26 80,98 107,00 24,50 7,50 CT3(đ/c) 29,40 11,55 9,07 78,52 107,00 22,80 0,0 CV% 4.7 LSD0,05 2,39 Từ kết quả bảng 4.21. chúng tôi có một số nhận xét sau: Năng suất lạc xuân phụ thuộc nhiều vào mật độ cây khi thu hoạch, bình quân số quả ở CT1 hơn hẳn CT3 nên năng suất cao hơn đến 30,7%. Điều đó cho thấy dùng nilon che phủ đã làm cho nhiệt độ và ẩm độ đất ổn định giúp cây sinh trường phát triển thuận lợi ở giai đoạn quả và chắc, hạn chế tối đa việc ảnh hưởng của thời tiết. Mặt khác che phủ nilon còn hạn chế bốc hơi nước, thoát nước nhanh, chống xói mòn, gí đất do mưa. Nhờ vậy đất tơi xốp hơn, ít cỏ dại, thuận lợi cho việc đâm tia hình thành quả, khi thu hoạch dễ nhổ, ít bị đứt củ. Do đục lỗ nhỏ nên những hoa ra ở vị trí cành xa gốc khi đâm tia gặp nilon đã bị thoái hoá làm tăng tỷ lệ quả chắc, đồng đều, dinh dưỡng được tập trung nuôi quả. * ảnh hưởng của che phủ nilon, rơm rạ đến cỏ dại và sâu bệnh       Cỏ dại và sâu bệnh là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng phát triển của lạc. Qua quá trình theo dõi quan sát chúng tôi có một số nhận xét sau:       - Về cỏ dại: trong khuôn khổ đề tài chúng tôi không nghiên cứu sâu về thành phần, mật độ, sinh trưởng, phát triển và tác hại của cỏ dại đối với cây lạc mà chỉ quan sát và đưa ra nhận xét: ở thời kỳ đầu vụ và giai đoạn cây con, do điều kiện thời tiết không thuận lợi nhiệt độ và ẩm độ thấp, tuy nhiên chỉ sau gieo 15-20 ngày cỏ đã bắt đầu mọc, nhất là ở CT3, còn ở CT1, CT2 nhờ được che phủ nên cỏ ít phát triển hơn.       Do vậy ở CT3, CT2 cần làm cỏ kịp thời, ở CT1 dùng đất đè chặt nilon với mặt luống, hạn chế tối đa sự phát triển của cỏ dại.       - Về sâu bệnh: ở thời kỳ đầu cả 3 CT thường xuất hiện các loại sâu hại chủ yếu là: sâu xám, sâu khoang cắn hại cây con với mức độ từ 5-6%, ở thời kỳ quả vào chắc xuất hiện sâu cuốn lá, sâu róm cắn phá các bộ phận thân lá non gây hại đáng kể cho quá trình sinh trởng phát triển của lạc, cần thực hiện biện pháp phòng trừ. Các loại bệnh phát triển như: gỉ sắt, đốm nâu, đốm đen thường xuất hiện ở mức độ cấp 2-3. * Hiệu quả kinh tế của việc áp dụng các biện pháp che phủ so với đối chứng       Để đánh giá hiệu quả kinh tế giữa biện pháp che phủ nilon, rơm rạ với không che phủ, chúng tôi tiến hành hạch toán kinh tế, so sánh giữa các công thức về: các chi phí vật tư, giống, giá trị thu nhập sản phẩm.... Giá trị các chỉ tiêu, đơn giá được tính theo giá cả thị trường trên địa bàn nghiên cứu thử nghiệm.       Hiệu quả kinh tế sản xuất lạc xuân năm 2007 được thể hiện qua bảng 4.23.       Từ kết quả trình bày ở bảng 4.22 chúng tôi có một số nhận xét sau:       Việc thực hiện sản xuất lạc xuân có che phủ nilon cho giá trị thu nhập khá cao hơn hẳn việc trồng không che phủ. Lợi nhuận CT1 tăng so với CT3 đối chứng là 41,6%, lợi nhuận CT2 so với CT3 tăng thấp đạt 4,11%.       Hiệu quả một đồng vốn của CT1 là 0,25 lần so với hiệu quả một đồng vốn của CT3 là 0,23 lần. Mức độ chênh lệch này có tác dụng thúc đẩy trong việc nâng cao giá trị sản xuất cho người nông dân. Hiệu quả một đồng vốn của CT2 là 0,25 lần bằng hiệu quả một đồng vốn của CT3 đây là kết quả không có ý nghĩa cho việc nâng cao giá trị sản xuất.       Trong thực tế sản xuất nếu người nông dân tận dụng được chi phí vật tư, phân bón, công lao động thì lợi nhuận thu được còn cao hơn nhiều. Bảng 4.22. Hiệu quả kinh tế sản xuất lạc vụ xuân năm 2007 Công thức Tổng chi phí Giá trị sản phẩm khô Tổng chi phí (1000 đ/ ha) Tăng so với Đ/C (%) Giá trị  (1000 đ) Lãi thuần (đ) Tăng so với Đ/C (%) Hiệu quả 1 đồng vốn (lần) CT1 23.638,5 27,7 29.700 6.061,5 41,6 0.25 CT2 19521,0 5,5 24.489 4.968,0 4.11 0.25 CT3(ĐC) 18.508,5 - 22.780 4.279,5 - 0.23 * Thử nghiệm 2: Thử nghiệm trồng cỏ VA06 trên đất đồi cao huyện Chương Mỹ Cỏ VA-06 là tên viết tắt của cỏ Varisme số 6, là dòng lai giữa giống cỏ voi và cỏ đuôi sói của Châu Mỹ và được đánh giá vua của các loài cỏ, VA-06 có hình dáng như cây trúc, thân thảo, cao lớn thuộc họ hoà thảo, dạng bụi. Cây mọc thẳng, năng suất cao, chất lượng tốt, phiến lá rộng mền, có hàm lượng dinh dưỡng cao, nhiều nước khẩu vị ngọt, hệ số tiêu hoá cao là thức ăn tốt nhất cho các loại gia súc ăn cỏ. Cỏ VA-06 có tốc độ tăng trưởng nhanh, tái sinh mạnh, quanh năm. Cây có thể cao 6m, đường kính thân 2-4 cm, đẻ khoẻ, một cây có thể cho từ 35-60 nhánh. Hệ số nhân giống lên tới 500 lần sau một năm. Bộ rễ phát triển khoẻ, có thể dài 3-5 m, chịu hạn tốt. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có gần 162 nghìn con bò, trong đó đàn bò sữa là 3.981 con và 18.322 con trâu. Để chủ động tạo nguồn thức ăn xanh cho trâu, bò, phục vụ cho phát triển chăn nuô bò sữa, bò thịt trung tâm khuyến nông tỉnh Hà Tây đã đưa giống cỏ VA06 về trồng thử nghiệm tại xã Thuỷ Xuân Tiên huyện Chương Mỹ.So sánh với giống cỏ voi hiện đang trồng phổ biến tại địa phương, chúng tôi thấy có nhiều điểm khác biêt về tình hình sinh trưởng và phát triển của 2 loại cỏ này được thể hiện qua bảng 4.23. Bảng 4.23. Tình hình sinh sinh trưởng của các giống cỏ trong vụ xuân năm 2007 Loại cỏ Tỷ lệ nảy mầm (%) Mật độ (hom/ha)) Thời gian từ trồng đến đẻ nhánh (ngày) Số nhánh/ bụi Chiều cao cây lúc thu hoạch (cm) Chiều cao thân (cm) VA06 97 30.000 21 19.5 247 110 Voi(ĐC) 93 30.000 20 11.2 245 135 Qua kết quả nghiên cứu bảng 4.23 chúng tôi có một số nhận xét: - Về tỷ lệ nảy mầm : Mặc dù được trồng trong điều kiện thời tiết bất thuận của vụ Xuân (trời rét và hạn) nhưng tỷ lệ nảy mầm của hai giống cỏ rất cao, đặc biệt là cỏ VA-06 có tỷ lệ nảy mầm đạt 97%, cao hơn so với cỏ voi 3 %. Điều này đã nói lên khả năng thích nghi của các giống cỏ trên vùng đồi gò thiếu nước. - Mật độ và thời gian từ trồng đến khi đẻ nhánh của cỏ VA-06 và cỏ voi tương đương nhau. Tuy nhiên, cỏ VA-06 có khả năng đẻ nhánh tốt hơn cỏ voi (đạt 19,5 nhánh/bụi), trong khi đó cỏ voi chỉ đạt 11,2 nhánh/bụi. - Chiều cao cây: Cỏ VA-06 và cỏ voi có chiều cao cây tương đương , ở thời điểm 2 tháng sau khi trồng cao trung bình đạt lần lượt là 247cm và 245cm. - Chiều cao thân là phần thân già không mang lá, gia súc không ăn được, chỉ để làm giống. Qua kết quả thu thập được cho thấy, cỏ VA-06 có chiều cao cây tương đương co voi nhưng chiều cao thân thấp hơn so với cỏ voi, điều này nói lên khả năng tận dụng phần thân lá của cỏ VA-06 lớn hơn so với cỏ voi. Qua các chỉ tiêu trên cho thấycỏ VA-06 có ưu thế hơn hẳn các giống cỏ khác, điều đó dẫn đến năng suất của cỏ VA-06 cao hơn hẳn các giống cỏ khác * Hiệu quả kinh tế của 2 giống cỏ VA-06 và cỏ voi Qua theo dõi các chỉ tiêu kinh tế của 2 loại cỏ trên chúng tôi thu được kết quả bảng 4.24. Bảng 4.24. Hiệu quả kinh tế của mô hình trồng cỏ VA-06 trong vụ xuân năm 2007 Cây trồng Năng suất (tấn/ha/vụ) Tổng thu(GR) (1000đ/ha) Chi phí VC(TVC) (1000đ/ha) Lãi (RAVC) (1000đ/ha) Tăng so với đối chứng (1000đ/ ha) Cỏ voi (ĐC) 162 48.600,0 27.162,0 21.438,0 Cỏ VA-06 197,1 98.550,0 34.992,0 63.558,0 42.120,0 CV% 6,7 LSD 33,3 Sau khi theo dõi thí nghiệm chúng tôi thấy cỏ VA06 có khả năng sinh trưởng phát triển rất nhanh. Đây là giống cỏ có thể trồng được ở hầu hết các loại đất, kể cả đất cát sỏi, đất khô hạn, đất đọng nước, đất dốc, đất bờ ruộng .... Trong vụ xuân có thể thu được 3,0 lứa/năm cao hơn so với cỏ voi chỉ đạt 2,6 lứa/ năm. - Về năng suất: Do có tốc độ sinh trưởng mạnh, sức sinh sản nhanh ở vùng nhiệt đới, VA-06 có thể sinh trưởng quanh năm. Trong vụ xuân năm 2008 cỏ VA06 đạt năng suất 197,1 tấn/ha, trong khi đó cỏ voi chỉ đạt 162 tấn/ha. - Cỏ VA-06 ngoài làm thức ăn cho chăn nuôi còn có rất nhiều công dụng như làm nguyên liệu giấy và gỗ ván nhân tạo, để nuôi nấm ăn và nấm dược liệu ...Chính vì vậy, trồng cỏ VA-06có thu nhập cao hơn hẳn so với cỏ voi, Lợi nhuận tăng hơn so với đối chứng là 42.120 nghìn đồng/ha. Mặt khác, đây là mặt hàng rất dễ tiêu thụ, nhân dân trong vùng thường tận dụng phần lá làm thức ăn cho bò sữa hoặc cho cá, do cỏ VA-06 có hàm lượng dinh dưỡng rất cao, nhiều nước, khẩu vị ngon. Trong cỏ có 17 axitamin và nhiều loại vitamin, Cỏ VA-06 có thể làm thức ăn tươi hoặc ủ chua mà không cần thêm thức ăn tinh vẫn đảm bảo vật nuôi phát triển bình thường. Hiệu quả chăn nuôi hơn hẳn so với cỏ voi. Chẳng hạn, cứ 14kg cỏ tươi thì sản xuất được 1kg trắm cỏ, trong khi đó để sản xuất ra 1kg trắm cỏ thì cỏ coi cần đến 19kg cỏ tươi. Ngoài phần ngọn làm thức ăn cho gia súc thì phần thân dùng làm nguyên liệu để làm giấy. So với các cây trồng khác như cói, tốc sinh dương thì giá thành rẻ hơn rất nhiều. 5. Kết luận và đề nghị 5.1 Kết luận 1.Vùng đồi gò huyện Chương Mỹ có địa giới giáp thủ đô Hà Nội và huyện Lương Sơn - Hoà Bình. có hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng phát triển. có điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá. Mặt khác, tiềm năng về đất còn rất lớn (2059,4 ha đất chưa sử dụng) đây là một thế mạnh cần chú ý nghiên cứu khai thác. 2. Tài nguyên khí hậu của vùng đồi gò rất đa dạng và phong phú do địa hình bị chia cắt mạnh, do đó hệ thống động thực vật, cây trồng vật nuôi rất đa dạng có thể phát triển được các loại cây trồng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới. 3. Chương Mỹ nằm ở vị trí hết sức thuận lợi, là cửa ngõ của thủ đô, là giao điểm của các thị xã lớn như Hoà Bình, Sơn Tây, Hà Đông, các vùng sản xuất lớn và các khu du lịch. Đây là thuận lợi rất quan trọng về mặt thị trường tiêu thụ. 4. Hạn chế của vùng là nước tưới khó khăn ảnh hưởng đến tốc độ phát triển về năng suất và diện tích các loại cây trồng. Bên cạnh đó do trình độ thâm canh thấp, năng suất cây trồng chưa cao. Vì vậy tiềm năng về năng suất là một vấn đề cần được khai thác. 5. Sau khi nghiên cứu, chúng tôi thấy cần hoàn thiện hệ thống cây trồng nông nghiệp trên các vùng đất theo các hướng sau: - Đối với đất đồi gò cao không chủ động nước: nên bố trí và thâm canh các loại cây ăn quả đặc sản như nhãn, vải, na, bưởi... và trồng xen các loại cây hàng năm có tác dụng cải tạo đất như đậu tương, lạc ... nhằm chống xói mòn rửa trôi đất ở mùa mưa. Ngoài ra có thể trồng cỏ VA06 vì đây là loại cỏ có khả năng chịu hạn rất tốt, sản phẩm làm thức ăn gia súc. - Đối với chân đất gò thấp. vàn cao nên chọn công thức luân canh: Lạc xuân (che phủ)-lúa mùa-đậu tương đông - Đối với diện tích có nguồn nước thuận lợi nên áp dụng các công thức luân canh. + Đậu tương xuân-lúa mùa-cải bắp + Dưa chuột xuân-lúa mùa-đậu tương đông - Đối với chân đất vàn nên áp dụng các công thức: + Lúa xuân-lúa mùa-súp lơ có giá trị thu nhập cao + Lúa xuân-lúa mùa-đậu tương đông - Đối với chân đất trũng: thực hiện cây 2 vụ lúa, giảm diện tích lúa dài ngày hoặc chuyển đổi sang công thức luân canh lúa-cá. 6. Phát triển mở rộng hình thức trang trại tại gia đình với phương thức nông lâm kết hợp. 7. Để hoạn thiện hệ thống cây trồng trên vùng đồi gò huyện Chương Mỹ cần có các chính sách đảm bảo thực hiện cùng với việc đầu tư tín dụng và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là giống cây trồng và các tiến bộ về kỹ thuật canh tác. 5.2. Đề nghị Để nền nông nghiệp huyện Chương Mỹ nói chung và của vùng đồi gò nói chung, chúng tôi có một số kiến nghị sau: - Tiếp tục thực hiện chương trình sản xuất giống lúa nhân dân, chương trình cấp I hoá giống lúa, tiến tới chương trình sản xuất giống lúa nguyên chủng để gieo cấy đại trà từ giống siêu nguyên chủng. Đồng thời áp dụng chương trình này cho lac, đỗ tương. Khảo sát tìm tòi giống lúa mới thay thế các giống lúa cũ hiện nay. - Khuyến khích hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hoá, mô hình kinh tế trang trại, liên doanh liên kết sản xuất với các cơ quan nghiên cứu khoa học và các doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo Bùi Huy Đáp (1985), Văn minh lúa nước và nghề trồng lúa Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại Hội đảng toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ X, NXB chính trị Quốc gia Hà Thị Thanh Bình (2000), Bài giảng hệ thống canh tác nhiệt đới, Trường ĐHNN I, Hà Nội. Ngô Thế Dân (2001), "Một số vấn đề khoa học công nghệ. Nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 1/2001 Đường Hồng Dật và các cộng sự (1994), Lịch sử Nông nghiệp Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Hồ Gấm (2003), Nghiên cứu góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá tại huyện Dak Mil, tỉnh Dak Lak, Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Đặng Hữu (2000), "Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn", Tạp Chí Cộng sản, số 17. Hoàng Thu Hà. "Cần dấn thân nghiên cứu chọn vẹn 1 vấn đề nào đó (Bài phỏng vấn đồng chí Nguyễn Quang Thạch)", Tạp chí Tia sáng 3/2001. Trần Đức Hạnh, Đoàn Văn Điếm, Nguyễn Văn Viết (1997), Lý thuyết về khai thác hợp lý nguồn tài nguyên khí hậu nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Nguyễn Đình Hợi (1993), Kinh tế tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp. NXB Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Văn Hiển (chủ biên) (2000), Chọn giống cây trồng, NXB Giáo dục, Hà Nội. Phạm Văn Hiển (1998), Nghiên cứu hệ thống canh tác vùng đồng bào dân tộc Êđê trồng cao su trong thời kỳ kiến thiết cơ bản trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Nguyễn Văn Hoàn (1999), Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá ở huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sỹ kinh tế Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Vũ Tuyên Hoàng (1995), Chọn tạo các giống lúa cho các vùng đất khô hạn, ngập úng, chua phèn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội Nguyễn Văn Lạng (2002), Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định cơ cấu cây trồng hợp lý tại huyện CJut, tỉnh Dak Lak, Luận văn Thạc sỹ Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Cao Liêm, Phạm Văn Phê, Nguyễn Thị Lan (1995), Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội Vũ Biệt Linh, Nguyễn Ngọc Bình (1995), Các hệ thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Trần Đình Long (1997), Chọn giống cây trồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Nguyễn Văn Luật (1990), “ Hệ thống canh tác”, Tạp chí nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Tr 14 -19 Phan Sĩ Mẫn, Nguyễn Việt Anh (2001), "Những giải pháp cho nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá", Tạp chí Tia sáng, 3/2001. Lý Nhạc, Phùng Đăng Chinh, Dương Hữu Tuyền (1987), Canh tác học, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (2002), “ Hệ thống canh tác”, Sử dụng bền vững đất miền núi và vùng cao ở Việt Nam, tr 93 Trần An Phong (1996), Cơ sở khoa học bố trí sử dụng đất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Mai Văn Quyền (1996), Thâm canh lúa của Việt Nam, NXB Nông nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh Trần Danh Thìn (2001), Vai trò của cây đậu tương, cây lạc và một số biện pháp kỹ thuật thâm canh ở một số tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng, Phạm Tiến Dũng, Đào Châu Thu, Trần Đức Viên (1996), Giáo trình hệ thống nông nghiệp (dành cho cao học), NXB Nông nghiệp, Hà Nội Phạm Chí Thành (1996), Hệ thống nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội Lê Duy Thước (1991) "Khí hậu đất đai và vấn đề bố trí cấy trồng ở miền Bắc. Phùng Đăng Chinh, Lý Nhạc (1987), Canh tác học, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, Việt Nam", Tạp chí Tổ quốc số 297, tr.117. Đào Châu Thu (2005 ), Bài giảng cao học hệ thống nông nghiệp. Vũ Thị Phương Thuỵ (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác ở ngoại thành Hà Nội. Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Nguyễn Hữu Tề, Đoàn Văn Điếm (1995), Một số kết quả nghiên cứu hệ thống cây trồng hợp lý trên đất đồi gò, bạc màu huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Kết quả nghiên cứu hệ thống cây trồng trung du, miền núi và đất cạn đồng bằng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Đào Thế Tuấn (1989),” Hệ thống nông nghiệp”, Tạp chí cộng sản tháng 1/ 1989 Đào Thế Tuấn (1984), Cơ sở khoa học để xác định cơ cấu cây trồng hợp lý, NXB nông nghiệp, Hà Nội Đào Thế Tuấn (1989) , “ Hệ thống nông nghiệp”, tạp chí cộng sản (6), tr 49 Đào Thế Tuấn (1997), Kinh tế hộ nông dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tào Quốc Tuấn (1994), Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù sa ngọt ven và giữa sông Tiền, sông Hậu, đồng bằng sông Cửu Long, Luận án Phó tiến sỹ nông nghiệp Nguyễn Duy Tính (1995), Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng đồng bằng Sông Hồng và Bắc Trung Bộ. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, Hà Nội. Võ Tòng Xuân (1993), Phương pháp nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác tại Việt Nam, IRRI - Đại học Cần Thơ Nguyễn Vy, Phan Bùi Tân, Phạm Văn Ba (1996), Cây vừng có có vị trí mới, giá trị mới, kỹ thuật trồng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Trần Đức Viên (1993), Văn minh lúa nước xưa nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Bùi Thị Xô (1994), “Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý trên các vùng đất nông nghiệp ở ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí khoa học công nghệ và quản kinh tế. Grigg D.B (1979), The Agricultural systems of the word, Cambrigdge university press Zandstra H.G.E. L. Pice, Litsinger.J.A and Moris (1981), Methodology for an farm cropping systeme research, IRRI, Philippines, page 31- 35. Phụ lục Phụ lục 1: Diễn biến một số yếu tố khí hậu ở huyện Chương Mỹ từ năm 2005 -2007 Tháng Nhiệt độ Trung bình (oC) Lượng mưa (mm) Số giờ nắng/tháng (giờ/ tháng) 1 16,6 14 60,8 2 19,0 28,3 51,2 3 20,3 35,0 40,8 4 24,0 101,6 85,0 5 26,9 171,7 156,8 6 29,2 184,2 169,7 7 29,1 264,0 181,8 8 28,0 306,3 131,6 9 27,0 213,3 149,2 10 25,3 59,7 124,8 11 22,2 39,5 143,4 12 17,9 11,9 94,4 Trung bình 23.8 119.13 115.8 Tổng cả năm 285.5 1429.5 1389.5 Phụ lục 2: Kết quả sản xuất một số cây trồng chính của huyện Chương Mỹ năm 2007 STT Loại cây trồng Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn) Giá trị sản lượng (triệu đồng) 1 Cây lúa 19.163 4,9 93.898,7 507.052,98 2 Cây ngô 1.367 3,9 5.331,3 239.908,5 3 Cây khoai lang 1.567 10,8 16.924,25 33.848,5 4 Cây lạc 585,1 2,5 1.462,775 11.702,2 5 Cây đỗ tương 1.327 1,6 2.123,52 25.482,24 6 Cây mía 65,62 56,7 3.720,654 26.044,58 7 Cây sắn 250 16,55 4.137,5 33.100 8 Rau các loại 1.431 9 Cỏ voi 22 78,6 1.729,2 3.458,4 10 Cây nhãn 269,9 4,8 1.295,52 5.182,08 11 Cây vải 379,8 5,7 2.164,86 4.329,72 12 Cây na 25 3,6 90 450 14 Cây chè 404 6,3 2.545,2 55.994,4 Phụ lục 3: Chi phí vật chất của 2 phương thức che phủ nilon. rơm rạ của cây lạc xuân năm 2007 ở huyện Chương Mỹ – Hà Tây ĐVT: sào. đồng STT Khoản mục ĐVT Số lượng Đơn giá CT1 CT2 CT3 I Chi phí sản xuất 2 Giống kg 7 20.000 140.000 140.000 140.000 3 Phân chuồng Kg 300 500 150.000 150.000 150.000 4 Phân đạm Kg 3 8.000 24.000 24.000 24.000 5 Phân lân Kg 17.5 1.800 31.500 31.500 31.500 6 Phân Kali kg 4 12.000 48.000 48.000 48.000 7 Vôi bột Kg 20 800 16.000 16.000 16.000 8 Nilon Kg 5 30.000 150.000 0 0 9 Rơm rạ Kg 250 150 0 37.500 0 10 Thuốc BVTV Lần 2 12.000 24.000 24.000 24.000 11 Thuốc trừ cỏ Lần 1 12.000 12.000 12.000 12.000 II Công lao động 280.000 240.000 240.000 Tổng 875.5 723 685.5 Phụ lục 4: Hạch toán giá trị thu nhập của 2 phương thức che phủ nilon. rơm rạ của cây lạc xuân năm 2007 ở huyện Chương Mỹ ĐVT: sào. đồng STT Khoản mục ĐVT CT1 CT2 CT3 1 Đơn giá 1000đ/kg 10 10 10 2 Năng suất Kg/sào 110 90,7 84,4 3 Giá trị thu nhập 1000 đ 1100 907 844 4 Lợi nhuận 1000 đ 224,5 184 158.5 5 Công lao động Công 7 6 6 6 Giá trị ngày công đ/ công 32,07 30,66 26,42 Phụ lục 5: Chi phí vật chất của 2 mô hình trồng cỏ VA- 06 và cỏ voi trong vụ xuân năm 2008 ĐVT: sào, đồng Khoản mục ĐVT SL Đơn giá (đồng) CT1 (cỏ VA-06) ( đồng) CT2 (cỏ voi) (đồng) Giống 750.000 500.000 Phân chuồng Kg 300 500 150.000 150.000 Phân đạm Kg 4 8.000 32.000 32.000 Phân lân Kg 20 1.800 36.000 36.000 Phân Kali kg 4 12000 48.000 48.000 `Công lao động Công 280.000 240.000 Cộng 1.296.000 1.006.000 Phụ lục 6: Giá trị thu nhập của 2 mô hình trồng cỏ VA-06 và cỏ voi ĐVT: sào, đồng STT Khoản mục ĐVT CT1 (cỏ VA-06) CT2 (cỏ voi) 1 Đơn giá đ/kg 500 300 2 Năng suất Tấn/ sào/vụ 7,3 6,0 3 Giá trị thu nhập 1000 đ 3.650.000 1.800.000 4 Lợi nhuận 1000 đ 2.354.000 794.000 5 Công lao động Công 7 6 TN mo hinh trong lac che phu BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS FILE HIEN2 20/ 7/ 2 9:38 ------------------------------------------------------------------ :PAGE 1 VARIATE V003 NS LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER SQUARES SQUARES LN ============================================================================= 1 CT$ 2 106.640 53.3200 37.29 0.001 3 2 NL 3 6.50000 2.16667 1.52 0.304 3 * RESIDUAL 6 8.57999 1.43000 ----------------------------------------------------------------------------- * TOTAL (CORRECTED) 11 121.720 11.0655 ----------------------------------------------------------------------------- TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE HIEN2 20/ 7/ 2 9:38 ------------------------------------------------------------------ :PAGE 2 MEANS FOR EFFECT CT$ ------------------------------------------------------------------------------- CT$ NOS NS CT1 4 29.8000 CT2 4 24.5000 CT3 4 22.8000 SE(N= 4) 0.597913 5%LSD 6DF 2.06828 ------------------------------------------------------------------------------- MEANS FOR EFFECT NL ------------------------------------------------------------------------------- NL NOS NS 1 3 25.3333 2 3 24.9333 3 3 25.6333 4 3 26.9000 SE(N= 3) 0.690410 5%LSD 6DF 2.38824 ------------------------------------------------------------------------------- ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE HIEN2 20/ 7 /2 9:38 ------------------------------------------------------------------ :PAGE 3 F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1 VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |CT$ |NL | (N= 12) -------------------- SD/MEAN | | | NO. BASED ON BASED ON % | | | OBS. TOTAL SS RESID SS | | | NS 12 25.700 3.3265 1.1958 4.7 0.0007 0.3038 TN mo hinh trong co VA06 BALANCED ANOVA FOR VARIATE NS1 FILE HIEN3 20/ 7/ 2 9:48 ------------------------------------------------------------------ :PAGE 1 VARIATE V003 NS1 LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER SQUARES SQUARES LN ============================================================================= 1 CT$ 1 3066.00 3066.00 21.22 0.011 3 2 NL 4 1430.27 357.568 2.47 0.201 3 * RESIDUAL 4 578.034 144.508 ----------------------------------------------------------------------------- * TOTAL (CORRECTED) 9 5074.31 563.812 ----------------------------------------------------------------------------- TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE HIEN3 20/ 7/ 2 9:48 ------------------------------------------------------------------ :PAGE 2 MEANS FOR EFFECT CT$ ------------------------------------------------------------------------------- CT$ NOS NS1 CT1 (co voi) 5 162.080 CT2 (VA06) 5 197.100 SE(N= 5) 5.37603 5%LSD 4DF 21.0729 ------------------------------------------------------------------------------- MEANS FOR EFFECT NL ------------------------------------------------------------------------------- NL NOS NS1 1 2 198.150 2 2 178.300 3 2 179.850 4 2 181.200 5 2 160.450 SE(N= 2) 8.50025 5%LSD 4DF 33.3191 ------------------------------------------------------------------------------- ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE HIEN3 20/ 9/ 2 9:48 ------------------------------------------------------------------ :PAGE 3 F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1 VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |CT$ |NL | (N= 10) -------------------- SD/MEAN | | | NO. BASED ON BASED ON % | | | OBS. TOTAL SS RESID SS | | | NS1 10 179.59 23.745 12.021 6.7 0.0113 0.2005 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHTT017.doc
Tài liệu liên quan