Phân tích dự trữ hàng hoá của Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội thời kỳ 1998-2005

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - TM : Thương mại - DV : Dịch vụ - TT : Thời trang - XHCN : Xã hội chủ nghĩa - HN : Hà Nội - TP : Thành phố - TB : Trung bình - KT : Kế toán - CP : Chính phủ - CT : Công ty LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và phát triển mạnh mẽ, trong đó các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế k

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5541 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích dự trữ hàng hoá của Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội thời kỳ 1998-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác nhau cùng tồn tại, cạnh tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước can thiệp rất sâu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước quyết định tất cả các vấn đề kinh doanh như mặt hàng, đối tượng phân phối, giá cả, số lượng... và doanh nghiệp sẽ được bù đắp nếu làm ăn thua lỗ. Vì vậy, vấn đề tiêu thụ hàng hoá chỉ mang tính pháp lệnh và hình thức, không được quan tâm và thúc đẩy. Trong nền kinh tế mới hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là hết sức gay go, quyết liệt khi cùng sản xuất một mặt hàng. Việc đứng vững giữa cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt, nắm vững nhu cầu thị trường. Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội đang đứng trước những thử thách của cơ chế này. Tuy nhiên sản phẩm của công ty cũng đã có mặt trên thị trường trong và ngoài nước đồng thời công ty cũng đang từng bước khẳng định vị trí của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành dịch vụ đối với nền kinh tế nước ta, cùng với những kiến thức được trang bị tại nhà trường, trong thời gian thực tập tại công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội, em đã nghiên cứu, tìm hiểu về các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong nững năm gần đây. Đặc biệt em đã đi sâu nghiên cứu về công tác dự trữ hàng hoá của công ty. Với sự giúp đỡ của các cán bộ trong công ty nói chung và phòng kế toán nói riêng, cùng sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – PGS.TS Bùi Huy Thảo và các thầy giáo trong khoa thống kê, em đã chọn vấn đề: “Phân tích dự trữ hàng hoá của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội thời kỳ 1998-2005” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. * Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: Luận văn có hai mục tiêu cơ bản sau đây: - Phân tích khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về dự trữ hàng hoá và phân tích thống kê về dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường. - Vận dụng một số phương pháp thống kê để đánh giá, phân tích dự trữ hàng hoá của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó, luận văn bước đầu đề xuất một số kiến nghị và giải pháp để tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả dự trữ hàng hoá của công ty trong những năm tới. * Phạm vi nghiên cứu của luận văn: - Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp, mà cụ thể là công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội. - Phạm vi thời gian nghiên cứu là dự trữ hàng hoá của Công ty trong thời kỳ 1998- 2005. * Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Phương pháp phân tích thống kê như: dãy số thời gian, chỉ số, hồi quy tương quan... để đánh giá thực trạng dự trữ hàng hoá của Công ty trong những năm gần đây. - Phương pháp lịch sử và phương pháp logic để mô tả và đánh giá tổng quát tình hình dự trữ hàng hoá của Công ty, làm cơ sở cho việc đề xuất các kiến nghị và giải pháp. - Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp duy vật lịch sử, phân tích so sánh, khảo sát thực tiễn, phương pháp chuyên gia... * Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương: Chương I: Tổng quan về dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp. Chương II: Những vấn đề chung về phân tích thống kê dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp. Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích dự trữ hàng hoá của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội thời kỳ 1998-2005. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DỰ TRỮ HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP I. Khái niệm dự trữ và dự trữ hàng hoá 1. Khái niệm dự trữ Bản chất và sự hình thành các dự trữ trong nền kinh tế quốc dân cho đến nay vẫn chưa được thống nhất. Các Mác đã phê phán quan điểm sai lầm của Adam Smith về bản chất hình thành dự trữ. Adam Smith đã nhầm lẫn giữa bản chất, tính tất yếu của dự trữ với hình thức dự trữ. Trái với quan điểm của Adam Smith, C.Mác cho rằng dự trữ là tất yếu trong mọi phương thức sản xuất xã hội. Tính tất yếu hình thành dự trữ bắt nguồn từ những cơ sở sau đây: Thứ nhất, phân công lao động xã hội đã dẫn tới chuyên môn hoá sản xuất. Kết quả của chuyên môn hoá sản xuất là hình thành các ngành, các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế tương đối tách biệt nhau. Các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế đóng trên các vùng lãnh thổ khác nhau, tách biệt về không gian và thời gian. Do đó, từ sản xuất đến tiêu dùng, sản phẩm phải có quá trình vận động bằng các phương tiện vận tải. Nó tạo ra sự ngưng đọng tạm thời của sản phẩm xã hội. Thứ hai, do đặc điểm của sản xuất nên tiến độ và thời gian sản xuất sản phẩm không ăn khớp và đồng nhất với tiến độ và thời gian tiêu dùng sản phẩm cũng tạo ra sự ngưng đọng của sản phẩm. Sự không ăn khớp này ngày càng lớn hơn nếu có tính thời vụ. Thứ ba, do sự vận động khách quan của tự nhiên và của sản xuất mà nhiều vấn đề ta không dự báo được từ trước như thiên tai, địch hoạ, rủi ro... Để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh, trong mọi trường hợp phải có dự trữ cho an toàn, hạn chế rối loạn cho sản xuất, đời sống dân cư và an ninh quốc phòng. Thứ tư, sản phẩm trước khi đi vào lưu thông phải có sự chuẩn bị và hoàn thiện. Thời gian ngưng đọng này dài ngắn tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ, đặc điểm sản phẩm và yêu cầu của công tác chuẩn bị. Dự trữ là sự ngưng đọng tạm thời của sản phẩm hàng hoá trong quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng, được giữ lại để bán và tiêu dùng sau này. Bản chất của dự trữ là sự ngưng đọng tạm thời được nhận thức và nhận biết trước của sản phẩm xã hội. Do vậy, không phải mọi sự ngưng đọng sản phẩm đều là dự trữ. Chỉ những sản phẩm ngưng đọng được nhận thức và nhận biết trước mà sau đó được đưa vào lưu thông và tiêu dùng (cho sản xuất hoặc tiêu dùng cá nhân) mới là dự trữ. Dự trữ hình thành là tất yếu do tác động của các nguyên nhân khách quan song con người hoàn toàn có thể nhận thức (thông qua công tác định mức) để điều chỉnh và tối ưu hoá đại lượng dự trữ trong nền kinh tế quốc dân. 2. Khái niệm dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là khối lượng hàng hoá đã rời khỏi lĩnh vực sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Nói cách khác, dự trữ hàng hoá là khối lượng hàng hoá đang nằm trong khâu lưu thông. + Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng mức dự trữ hàng hoá là một bộ phận của sản phẩm vật chất được sản xuất và được nhập khẩu nhưng chưa đi vào tiêu dùng. Tổng mức dự trữ gồm 3 bộ phận: - dự trữ trong các đơn vị sản xuất (dự trữ vật tư). - dự trữ trong các đơn vị kinh doanh thương mại (dự trữ hàng hoá). - dự trữ trong các kho dự trữ của Nhà nước (dự trữ quốc gia). + Xét trong phạm vi ngành thương nghiệp: Trong phạm vi ngành thương nghiệp, tổng mức dự trữ là bộ phận hàng hoá đã rời khỏi lĩnh vực sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng, nói cách khác đây là khối lượng hàng hoá đang nằm trong khâu lưu thông trong một thời gian nhất định để đảm bảo cho quá trình lưu chuyển hàng hoá được liên tục. + Xét trong phạm vi 1 tổng thể thương nghiệp (Tổng công ty, công ty, cửa hàng...): Trong phạm vi 1 tổng thể thương nghiệp, tổng mức dự trữ là bộ phận hàng hoá thuộc quyền sở hữu của các đơn vị thương mại. Tổng mức dự trữ gồm 3 bộ phận: - Hàng hoá đang ở trong kho của tổng thể thương nghiệp. - Hàng mua đang đi trên đường. - Hàng hoá đang gửi ở các đơn vị khác. II. Phân loại dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại. Khi nghiên cứu dự trữ các tư liệu vật chất dưới chủ nghĩa tư bản, Các Mác đã chia thành ba loại: Dự trữ dưới hình thái tư bản sản xuất, dự trữ dưới hình thái tư bản hàng hoá (hay dự trữ hàng hoá) và dự trữ dưới hình thái quỹ tiêu dùng cá nhân. Dự trữ dưới hình thái tư bản sản xuất là dự trữ những tư liệu sản xuất đang nằm trong quá trình sản xuất hay ít nhất đã ở trong tay người sản xuất nhưng chưa bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp. Dự trữ hàng hoá là dự trữ trong lĩnh vực lưu thông. Còn dự trữ quỹ tiêu dùng cá nhân là dự trữ những vật phẩm tiêu dùng cá nhân của người tiêu dùng. Trong quá trình vận động của mình, vật tư hàng hoá chuyển từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông và từ lưu thông lại quay về sản xuất, tạo nên sự tuần hoàn của sản phẩm hàng hoá. Do vậy, các loại dự trữ có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu và quản lý dự trữ. 1. Xét theo công dụng của các tư liệu vật chất: Xét theo công dụng của các tư liệu vật chất, dự trữ hàng hoá có thể phân chia thành: Dự trữ các tư liệu sản xuất: là những vật tư kỹ thuật phục vụ cho tiêu dùng sản xuất, bao gồm nguyên, nhiên, vật liệu và thiết bị máy móc. Dự trữ các tư liệu tiêu dùng: là những vật phẩm tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân, xã hội, được sử dụng trong lĩnh vực phi sản xuất của nền kinh tế quốc dân. 2. Xét theo đặc điểm và quá trình chu chuyển hàng hoá: Dự trữ lưu thông: là những sản phẩm hàng hoá đang nằm trong quá trình chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, bao gồm: Dự trữ các thành phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất. Dự trữ hàng trên đường đi: là những thành phẩm hàng hoá đang trong quá trình vận động. Dự trữ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại: là những sản phẩm hàng hoá nằm trong mạng lưới kinh doanh, kho hàng, cửa hàng, bến bãi. Dự trữ sản xuất: được hình thành trong lĩnh vực sản xuất và đang nằm chờ để bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp. Dự trữ sản xuất bao gồm: Dự trữ vật tư kỹ thuật ở các doanh nghiệp sản xuất. Dự trữ các bán thành phẩm và các chi tiết thành phẩm đang nằm ở các giai đoạn khác nhau của quá trình gia công và hoàn chỉnh sản phẩm. 3. Xét theo mục đích và cấp độ quản lý dự trữ: Dự trữ quốc gia: Đây là một dạng đặc biệt của dự trữ hàng hoá. Dự trữ này bắt buộc phải có đối với những sản phẩm hàng hoá quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Dự trữ Nhà nước được đổi mới và bổ sung hàng năm căn cứ vào yêu cầu của nền kinh tế khi có những biến động lớn xảy ra và khả năng của nền tài chính quốc gia dành cho dự trữ này. Dự trữ quốc gia được quản lý thống nhất và có hệ thống kho bãi bảo quản riêng từ trung ương đến địa phương. Trong cơ chế thị trường, chính sách dự trữ quốc gia của một nước có ý nghĩa to lớn, tác động trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Dự trữ ở các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế: Dự trữ này được hình thành theo kế hoạch của doanh nghiệp, của tổ chức kinh tế. Nó nhằm đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Hàng năm doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch dự trữ. Dự trữ ở các hộ tiêu dùng cá nhân: Đây là những sản phẩm hàng hoá nằm ngoài quá trình sản xuất và lưu thông, phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Từ một nền kinh tế vận hành theo cơ chế kê hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hoá với triết lý là “nên bán cái thị trường cần hơn là cái mình có” đã làm cho cơ cấu dự trữ hàng hoá có những thay đổi cơ bản. Từ chổ dự trữ hàng hoá chủ yếu tập trung ở khâu sản xuất đã chuyển dần sang lĩnh vực lưu thông, hình thành mối tương quan hợp lý giữa hai loại vốn dự trữ này, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào dự trữ. Trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo ổn định sản xuất và lưu thông, Nhà nước quy định các đơn vị kinh doanh thuộc kinh tế Nhà nước phải đảm bảo dự trữ ở mức độ nhất định. Trong những trường hợp cần thiết vì lợi ích quốc gia, Nhà nước quy định các doanh nghiệp phải tạm trữ hoặc mua tạm trữ một khối lượng hàng hoá theo quyết định của Chính phủ. III. Sự cần thiết của dự trữ hàng hoá đối với hoạt động lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp. Vai trò của dự trữ hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân là hết sức to lớn. Vai trò chung của các loại dự trữ thấy rõ ở hai vấn đề: - Dự trữ đảm bảo cho nền kinh tế, cho sản xuất, kinh doanh, an ninh, quốc phòng diễn ra bình thường theo đúng kế hoạch dự kiến. - Dự trữ đảm bảo cho các hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra liên tục khi có những biến cố ngẫu nhiên xảy ra ngoài dự kiến. Mặt khác, vai trò của dự trữ hàng hoá trong quá trình sản xuất, kinh doanh còn được xem xét trên từng giác độ và đối với từng loại dự trữ nhất định. Mỗi loại dự trữ có một chức năng nhất định và vì vậy nó có vai trò khác nhau. Vai trò của dự trữ hàng hoá thể hiện: Thứ nhất, dự trữ đảm bảo cho quá trình lưu thông và quá trình tái sản xuất xã hội được tiến hành thường xuyên và liên tục. Trong diều kiện chuyên môn hoá sản xuất giữa nhu cầu và việc đảm bảo nhu cầu không phù hợp về thời gian và không gian, dự trữ đã làm cân bằng sự không phù hợp đó, đảm bảo sản xuất tiến hành với quy mô và nhịp độ ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng hàng hoá. Thứ hai, sức mạnh kinh tế của Nhà nước trước hết phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế bao gồm cả tiềm lực về dự trữ. Chính Lênin trước đây đã coi sản xuất và dự trữ lương thực là “ vận mệnh của toàn Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga” và Người cho rằng “ chỉ khi nào thực sự có được một số dự trữ lương thực đầy đủ thì khi đó Nhà nước công nhân mới đứng vững về mặt kinh tế”. Thứ ba, chỉ có trong tay một lực lượng dự trữ đủ sức và được huy động hợp lý mới có thể ổn định thị trường giá cả. Thực tế, kinh nghiệm của các cơn sốt giá cả của một số mặt hàng thời gian qua như: ximăng, sắt, thép, xăng dầu... đã cho ta thấy điều đó. Có đơn vị không đủ vốn mua hàng để dự trữ, có đơn vị có vvốn nhưng lại chưa sử dụng một các hợp lý, đem vốn đó kinh doanh các mặt hàng có lãi trước mắt, đến khi thị trường xuất hiện sự mất cân đối cung cầu mới tiến hành mua hàng, gây nên hiện tượng lộn xộn giá cả, cung cầu căng thẳng, đơn vị kinh doanh thua lỗ và người sản xuất gặp nhiều khó khăn. Thứ tư, đối với các doanh nghiệp thương mại, duy trì được dự trữ hợp lý không những sử dụng có hiệu quả đồng vốn kinh doanh, giảm khấu hao, chi phí bảo quản mà còn đảm bảo có đủ hàng bán liên tục, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thứ năm, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường, dự trữ như là một phương tiện tăng cường uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Cùng với giá cả, chất lượng hàng hoá bán ra và việc duy trì một lượng hàng hoá đối với doanh nghiệp được coi là một phương tiện có hiệu lực để tăng cường uy tín, tăng cường khả năng cạnh tranh của các đơn vị trên thị trường. Nếu không có dự trữ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu, doanh nghiệp sẽ mất tiền lãi một lần bán hàng và nếu lặp đi lặp lại hiện tượng này thì doanh nghiệp sẽ mất luôn nguồn lợi do khách hàng mang lại. Bởi thế trong kinh doanh cần phải tạo cho khách hàng hiểu rằng: với bất cứ thời gian nào, khách hàng đến doanh nghiệp cũng sẽ được đáp ứng nhu cầu. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng quan trọng, thông qua lực lượng dự trữ của mình có thể vươn lên nắm giữ vai trò chủ đạo trên thị trường. Đối với dự trữ sản xuất, việc quy định đúng đắn mức dự trữ có ý nghĩa rất lớn. Nó cho phép giảm các chi phí về bảo quản hàng hoá, giảm hao hụt, mất mát, bảo đảm cho các doanh nghiệp có đủ những vật tư hàng hoá cần thiết trong sản xuất để thực hiện các nhiệm vụ đề ra. Dự trữ sản xuất vừa đủ để cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp được liên tục, vừa hợp lý để nâng cao hiệu quả khâu dự trữ, giảm vốn ngưng đọng do dự trữ và tăng hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Dự trữ sản xuất còn nhằm đề phòng các bất trắc xảy ra trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là lực lượng dự trữ bảo hiểm cho sản xuất. Vòng tuần hoàn của quá trình sản xuất ở doanh nghiệp được bảo đảm khi đại lượng dự trữ được xác định đúng đắn. Xét trên khía cạnh kế hoạch tác nghiệp, dự trữ sản xuất ở doanh nghiệp cần thiết để: - Xác định các loại nhu cầu hàng hoá, luợng đặt hàng và tính toán khối lượng hàng hoá nhập về trong các kế hoạch kinh doanh. Muốn vậy, trong quá trình xây dựng kế hoạch kinh doanh phải tính toán hàng hoá dự trữ cuối kỳ và đầu kỳ cho doanh nghiệp. - Điều chỉnh lượng hàng hoá nhập trong quá trình hoạt động kinh doanh và kiểm tra thực tế dự trữ hàng hoá ở các kho hàng. - Xác định mức vốn lưu động đầu tư vào dự trữ sản xuất. Để làm việc này người ta thường quy định mức dự trữ sản xuất bình quân. - Tính toán nhu cầu về diện tích kho hàng cần thiết cho các doanh nghiệp để bảo quản số lượng và chất lượng hàng hoá dự trữ. Việc tính toán diện tích kho hàng dựa trên cơ sở mức dự trữ sản xuất tối đa. Trong cơ chế thị trường, dự trữ lưu thông và dự trữ quốc gia có một vai trò rất lớn, với đặc điểm có tính cơ động cao, dự trữ lưu thông đảm bảo cho quá trình kinh doanh thương mại tiến hành được liên tục và có hiệu quả đồng thời dự trữ lưu thông còn góp phần vào việc ổn định thị trường hàng hoá. Cùng với dự trữ quốc gia, dự trữ lưu thông được coi là công cụ quan trọng trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Như vậy, vai trò của dự trữ không chỉ giới hạn trong phạm vi của một doanh nghiệp, mà còn là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công, sự chiến thắng của tất cả các doanh nghiệp trong việc tham gia cạnh tranh và vươn lên trong cơ chế thị trường. Tóm lại, chương I của luận văn đã nêu lên tổng quan về dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp, khái niệm dự trữ và dự trữ hàng hoá, phân loại dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại dựa trên các tiêu chí khác nhau và sự cần thiết của dự trữ hàng hoá đối với hoạt động lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp. CHƯƠNG II : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ DỰ TRỮ HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP I. Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp. 1. Khái niệm chỉ tiêu thống kê, hệ thống chỉ tiêu thống kê và xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê. 1.1 Chỉ tiêu thống kê. Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Do đó chỉ tiêu thống kê phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả các đơn vị hoặc nhóm đơn vị tổng thể. Căn cứ vào nội dung có thể chia các chỉ tiêu thống kê thành hai loại: chỉ tiêu khối lượng và chỉ tiêu chất lượng. Chỉ tiêu khối lượng biểu hiện quy mô của tổng thể. Chỉ tiêu chất lượng biểu hiện các tính chất, trình độ phổ biến, các mối quan hệ của tổng thể. 1.2 Hệ thống chỉ tiêu thống kê. Hệ thống chỉ tiêu là một tập hợp những chỉ tiêu phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng nhất, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt và giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan. 1.3 Yêu cầu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê. Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu được mối liên hệ giữa các mặt, các bộ phận của hiện tượng nghiên cứu và giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan. - Trong hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu mang tính chất chung, các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận và các chỉ tiêu nhân tố nhằm phản ánh đầy đủ và sâu sắc hiện tượng nghiên cứu. - Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính thống nhất về nội dung, phương pháp tính và phạm vi tính của các chỉ tiêu cùng loại để có thể so sánh các chỉ tiêu với nhau. 2. Sự cần thiết phải lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại. Tất cả các sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối quan hệ biện chứng với các sự vật hiện tượng khác. Chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Nhưng một chỉ tiêu thống kê chỉ phản ánh được một mặt, một khía cạnh của vấn đề. Vì vậy muốn nghiên cứu được một cách toàn diện ta phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu có khả năng lượng hoá được các mặt, các tính chất, cơ cấu, mối liên hệ cơ bản của đối tượng nghiên cứu, từ đó nhận thức được bản chất cụ thể và tính quy luật của hiện tượng. Hệ thống chỉ tiêu thống kê dự trữ hàng hoá là tập hợp các chỉ tiêu phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng về quy mô, cơ cấu dự trữ, mức đảm bảo dự trữ, tốc độ chu chuyển hàng hoá... Dự trữ hàng hoá là việc không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó có vai trò quan trọng và góp phần quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hệ thống chỉ tiêu dự trữ hàng hoá sẽ là công cụ quan trọng để các nhà quản lý có được cái nhìn khách quan về thực trạng và phương hướng để cải thiện công tác dự trữ của doanh nghiệp mình sao cho hiệu quả nhất. Đối với doanh nghiệp thương mại, việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu dự trữ có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể: - Đây là căn cứ đánh giá, phân tích tình hình dự trữ của doanh nghiệp để thấy được những mặt còn tồn tại đồng thời phát huy những mặt đã làm tốt. - Thông qua việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp thấy được biến động và xu hướng phát triển của dự trữ để từ đó xây dựng kế hoạch cho công tác dự trữ được chính xác. 3. Nguyên tắc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê dự trữ hàng hoá. Để phân tích một cách có hiệu quả công tác dự trữ hàng hoá của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội, khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu dự trữ hàng hoá, cần tuân theo các nguyên tắc sau: Đảm bảo tính hướng đích: Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê cần đảm bảo đáp ứng đúng nhu cầu, đối tượng, những thông tin cần thiết đảm bảo tính thiết thực của hệ thống chỉ tiêu xây dựng. Nhiệm vụ phân tích nào thì sử dụng chỉ tiêu đó. Hệ thống chỉ tiêu phải phục vụ cho mục đích nghiên cứu và phân tích dự trữ hàng hoá. Đảm bảo tính hệ thống: Các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình dự trữ của công ty phải có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và được sắp xếp một cách phù hợp, xem chỉ tiêu nào là chủ yếu, quan trọng... Không chỉ dùng một chỉ tiêu để phân tích mà phải sử dụng nhiều chỉ tiêu nhằm bổ sung cho nhau, giúp phân tích đầy đủ và chính xác hơn. Đảm bảo tính khả thi: Khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đòi hỏi phải đảm bảo tính khả thi, tức là phải đảm bảo về khả năng vật lực để có thể cho phép tiến hành thu thập thông tin tổng hợp các chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu này phải phù hợp với tình hình thực tế của công ty. Do vậy, đảm bảo tính khả thi thì hệ thống chỉ tiêu phải có hình thức thu thập thông tin phù hợp. Đảm bảo tính linh hoạt: Hệ thống chỉ tiêu phải có tính ổn định cao. Điều đó có nghĩa là hệ thống phải đảm bảo tính sử dụng trong một thời gian dài đồng thời phải có tính linh hoạt. Tuy nhiên, hệ thống chỉ tiêu cũng cần thường xuyên được hoàn thiện theo sự phát triển của yêu cầu quản lý hoạt động dự trữ của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Đảm bảo tính hiệu quả: Theo nguyên tắc này, toàn bộ chi phí bỏ ra để xây dựng hệ thống chỉ tiêu (gồm cả chi phí bỏ ra để xây dựng và chi phí về sức lực, trí óc) không được lớn hơn những kết quả thu được. Nguyên tắc này đòi hỏi thông tin cung cấp phải phù hợp với nhu cầu quản lý, điều kiện, trình độ của cán bộ thống kê để có thể tính toán, phân tích hệ thống chỉ tiêu được chính xác. 4. Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu dự trữ hàng hoá. 4.1 Chỉ tiêu về quy mô dự trữ hàng hoá. Quy mô dự trữ là lượng hàng hoá thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, là bộ phận cấu thành tài sản lưu động của doanh nghiệp đó, không phân biệt nó đang ở đâu. Quy mô dự trữ gồm ba bộ phận: - Hàng hoá đang ở trong kho của doanh nghiệp - Hàng hoá mua đang đi trên đường - Hàng hoá đang gửi ở các đơn vị khác Quy mô dự trữ là chỉ tiêu tuyệt đối, thời điểm, có thể tính theo đơn vị hiện vật hoặc giá trị. 4.2 Chỉ tiêu về cơ cấu dự trữ hàng hoá : Cơ cấu dự trữ hàng hoá có thể xét theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. a. Theo loại hàng, nhóm và ngành hàng: Phân loại dự trữ hàng hoá theo tiêu thức này cho phép xác định các định mức dự trữ, mức đảm bảo dự trữ theo từng loại hàng, tính toán và phân tích các chỉ tiêu tốc độ chu chuyển hàng hoá bình quân. b. Theo vị trí để hàng : Theo tiêu thức này, dự trữ hàng hoá được chia thành: - Dự trữ hàng hoá ở doanh nghiệp - Dự trữ hàng hoá gửi ở đơn vị khác - Dự trữ hàng hoá đang di trên đường Phân loại dự trữ theo tiêu thức này cho phép phản ánh khả năng thực tế cuả hàng hoá dự trữ có thể được đưa ra tiêu thụ. Nó cũng phản ánh tình hình điều động và vận chuyển hàng hoá, nghiên cứu tỷ trọng của dự trữ thực tế có thể đem ra tiêu thụ và dự trữ hàng hoá đang đi trên đường. c. Theo mục đích sử dụng Theo tiêu thức này, toàn bộ dự trữ hàng hoá được chia thành: - Dự trữ thường xuyên - Dự trữ bảo hiểm - Dự trữ thời vụ Dự trữ thường xuyên là dự trữ dùng để đảm bảo cho việc lưu chuyển hàng hoá được đều đặn, liên tục, thoả mãn nhu cầu thường xuyên của các đối tượng được cung cấp. Đây là bộ phận dự trữ lớn nhất được thường xuyên sử dụng và đổi mới. Dự trữ thời vụ là dự trữ phục vụ cho các nhu cầu có tính chất thời vụ và những loại hàng hoá được sản xuất có tính thời vụ. Dự trữ bảo hiểm là dự trữ đề phòng những rủi ro trong kinh doanh như bão lụt, cung cầu biến động đột ngột... Dự trữ bảo hiểm giúp cho doanh nghiệp luôn có hàng bán trong các trường hợp gặp rủi ro. d. Theo các đơn vị thành viên Theo tiêu thức này, dự trữ được chia thành dự trữ ở kho của các đơn vị thành viên của doanh nghiệp. Nó cho phép xác định tốc độ chu chuyển hàng hoá bình quân của doanh nghiệp. 4.3 Mức đảm bảo dự trữ Mức đảm bảo dự trữ là số ngày (thời gian) dự trữ có đủ hàng để bán mà không phải nhập thêm hàng hoá. Công thức tính: D: tổng mức dự trữ đầu kỳ (tính theo giá bán ra) mk : mức lưu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày kế hoạch mdm : mức lưu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày định mức Mức đảm bảo dự trữ chia thành hai chỉ tiêu: - Mức đảm bảo dự trữ tiềm năng (BTN): tính cho toàn bộ hàng hoá dự trữ (bao gồm cả dự trữ thời vụ). - Mức đảm bảo dự trữ thực tế (BTT): chỉ được tính đối với dự trữ thường xuyên (không bao gồm dự trữ thời vụ). 4.4 Tốc độ chu chuyển hàng hoá. Tốc độ chu chuyển hàng hoá là chỉ tiêu tương đối, nói lên thời gian hàng hoá nằm lại trong khâu dự trữ. Tốc độ chu chuyển hàng hoá biểu hiện quá trình lưu chuyển hàng hoá nhanh hay chậm. Tăng tốc độ chu chuyển hàng hoá có ý nghĩa to lớn, nó cho phép mở rộng quy mô kinh doanh với một lượng hàng hoá dự trữ nhất định đồng thời giảm chi phí bảo quản và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tốc độ chu chuyển hàng hoá được biểu hiện qua hai chỉ tiêu: số lần chu chuyển hàng hoá (L) và thời gian lưu thông hàng hoá (t). a. Số lần chu chuyển hàng hoá (L): Số lần chu chuyển hàng hoá là số lần dự trữ được bán, là số vòng quay của dự trữ hay số lần tái dự trữ được thực hiện. Số lần chu chuyển hàng hoá có thể xác định cho từng loại hay toàn bộ hàng hoá. Số lần chu chuyển của mỗi loại hàng hoá được xác định: Số lần chu chuyển hàng hoá bình quân: Trong đó: M: mức lưu chuyển hàng hóa trong kỳ : mức dự trữ hàng hoá bình quân kỳ đó. b. Thời gian lưu thông (t): Thời gian lưu thông là thời gian cần thiết để hàng hoá quay được một vòng hay là thời gian cần thiết để bán hết dự trữ. Thời gian lưu thông là chỉ tiêu tương đối, biểu hiện bằng số ngày. Nó nói lên thời gian hàng hoá nằm lại trong kho của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng nhỏ biểu hiện tốc độ chu chuyển hàng hoá càng nhanh và ngược lại. Thời gian lưu thông cũng như số lần chu chuyển hàng hoá, được xét cho từng loại và toàn bộ hàng hoá. Công thức xác định: ; Trong đó: m: là mức lưu chuyển hàng hoá thực tế bình quân 1 ngày T: là số ngày trong kỳ ( T: tháng, quý , năm) Thời gian lưu thông bình quân: hoặc 4.5 Chi phí dự trữ (C): Chi phí dự trữu là toàn bộ chi phí bằng tiền cho hoạt động dự trữu hàng hoá bao gồm chi phí kho tàng, năng lượng, nhân công, chi phí gián tiếp phân bổ cho dự trữ, hao hụt, tổn thất trong định mức trong quá trình dự trữ hàng hoá. Chi phí dự trữ bao gồm các khoản sau đây: + Chi phí giữ gìn, bảo quản: Chi phí vật liệu hoá chất cho bảo quản, giữ gìn. Khoản chi phí này tỷ lệ thuận với tổng lượng dự trữ trong kỳ. Chi phí năng lượng, động lực, thắp sáng, thông gió, giảm độ ẩm, tăng giảm nhiệt độ ở kho chứa. Chi phí lao động, kỹ thuật bảo quản, bảo vệ, giữ gìn. Khấu hao sử dụng kho bãi, thiết bị và chi phí thuê kho bãi, thiết bị cho công tác bảo quản, dự trữ Chi phí hành chính gắn với các kho, tạm, bến bãi dự trữ hàng hoá. + Thiệt hại trong bảo quản, dự trữ: Thiệt hại do hao hụt số lượng trong định mức. Thiệt hại do giảm phẩm cấp do dự trữ gây ra. II. Lựa chọn phương pháp thống kê dự trữ hàng hoá. 1. Sự cần thiết phải lựa chọn các phương pháp phân tích thống kê. Đối tượng của thống kê là những con số biểu hiện bản chất và tính quy luật của hiện tượng. Phân tích thống kê không chỉ dừng lại ở hình thức của con số mà phải tìm ra cái chứa đựng bên trong những con số đó, tìm ra bản chất và quy luật mang tính trừu tượng. Để làm được điều đó cần có các phương pháp thống kê. Mỗi phương pháp thống kê không thể giải quyết được tất cả các mặt của vấn đề nghiên cứu, hơn nữa mỗi vấn đề có thể được phân tích bằng các phương pháp khác nhau.Vì vậy, phải kết hợp các phương pháp phân tích thống kê khác nhau khi tiến hành phân tích. Phân tích thống kê dự trữ hàng hoá thường sử dụng các phương pháp sau: phân tổ, dãy số thời gian, chỉ số. 2. Nguyên tắc lựa chọn các phương pháp phân tích thống kê. Vấn đề cơ bản nhất của phân tích thống kê đó là phải lựa chọn chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích phù hợp. Để phân tích có hiệu quả, khả thi thì việc lựa chọn phương pháp phân tích cẩn phải đảm bảo nguyên tắc sau: Đảm bảo tính hướng đích: Đối tượng nghiên cứu của thống kê thường là hiện tượng phức tạp. Vì vậy, việc nghiên cứu phải có quy trình chặt chẽ và khoa học. Các phương pháp phải được áp dụng một cách khoa học và hiệu quả. Điều đó có nghĩa phương pháp đưa ra phải mô tả được các sự kiện, hiện tượng khác nhau trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, từ mặt lượng sang mặt chất với nhiều góc độ khác nhau để từ đó đưa ra được những nhận xét và kết luận cần thiết cho hoạt động và kinh doanh của doanh nghiệp. Những kết luận đó phải mang ý nghĩa lý luận cũng như thực tế. Đảm bảo tính hệ thống: Khi lựa chọn phương pháp phân tích phải xem xét kỹ lưỡng mối liên hệ giữa phương pháp với đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu. Vì không phải bất kỳ một phương pháp nào cũng có thể sử dụng để phân tích được tất cả các hiện tượng kinh tế, và cũng không phải chỉ sử dụng một phương pháp để phân tích. Phải dựa trên những đặc điểm của hiện tượng và phương pháp phân tích để có thể kết hợp nhiều phương pháp với nhau tạo thành một ._.hệ thống các phương pháp cho phép phân tích đúng bản chất và tìm ra được quy luật của hiện tượng. Đảm bảo tính khả thi: Phương pháp được lựa chọn phải phổ biến và phù hợp với điều kiện nghiên cứu (nhân lực, tài lực và vật lực của doanh nghiệp). Đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu trong công tác nghiên cứu. Đảm bảo tính hiệu quả: Mỗi phương pháp phân tích được lựa chọn phải đáp ứng được những yêu cầu của công tác nghiên cứu. Mỗi phương pháp đều bộc lộ những ưu, nhược điểm khác nhau nên khi sử dụng phương pháp phải quan tâm đến thông tin thu thập được, thời gian nghiên cứu và đặc biệt phải phụ thuộc vào nhiệm vụ phân tích của hệ thống. 3. Các phương pháp phân tích. 3.1 Phương pháp bảng và đồ thị thống kê. 3.1.1 Phương pháp bảng thống kê. a. Khái niệm. Bảng thống kê là một hình thức trình bày các tài liệu thống kê một cách có hệ thống, hợp lý và rõ ràng. Cấu thành của bảng thống kê có thể biểu hiện bằng sơ đồ sau: Phần giải thích Các chi tiêu giải thích (tên cột) Tổng số 1 2 3 ... n Tên chủ đề Tổng số Căn cứ vào kết cấu của phần chủ đề, có thể chia làm 3 loại bảng thống kê: bảng giản đơn, bảng phân tổ, bảng kết hợp. b. Đặc điểm vận dụng: Phương pháp bảng thống kê cho phép trình bày các số liệu thống kê mức dự trữ hàng hoá có tính hệ thống và hợp lý. Do đặc điểm số liwuj của công ty được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau nên công ty thường sử dụng kết hợp tất cả các loại bảng trên. Công tyđang sử dụng các loại bảng sau: - Các bảng báo cáo kế hoạch và thực hiện kế hoạch các chỉ tiêu về doanh thu, về lượng hàng hoá,... - Bảng báo cáo kết quả tài chính của doanh nghiệp. - Bảng báo cáo xuất khẩu được tổng hợp hàng tháng, hàng quý, hàng năm... 3.1.2 Phương pháp đồ thị. a. Khái niệm. Đồ thị là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để mô tả có tính chất quy ước các tài liệu thống kê khác. Đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét, màu sắc để trình bày các đặc điểm số lượng của hiện tượng. Căn cứ theo nội dung phản ánh có thể phân chia đồ thị thống kê thành đồ thị kết cấu, đồ thị phát triển, đồ thị hoàn thành kế hoạch định mức, đồ thị liên hệ, so sánh, đồ thị phân phối. Căn cứ vào hình thức biểu hiện, có thể phân chia đồ thị thống kê thành: biếu đồ hình cột, biểu đồ tượng hình, biểu đồ diện tích, đồ thị đường gấp khúc, bản đồ thống kê. b. Đặc điểm vận dụng. Trong thống kê dự trữ hàng hoá, đồ thị thống kê được sử dụng để biểu hiện: - Sự biến động về tổng mức dự trữ hàng hoá bằng đồ thị phát triển. - Kết cấu của các mặt hàng, nhóm hàng bằng đồ thị kết cấu. 3.2 Phương pháp hồi quy tương quan. 3.2.1 Khái niệm. Hồi quy tương quan là phương pháp toán học được vận dụng trong thống kê để biểu hiện và phân tích mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng kinh tế - xã hội. 3.2.2 Đặc điểm vận dụng. Khi nghiên cứu tình hình dự trữ hàng hoá của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội, phương pháp hồi quy tương quan cho phép xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến biến động quy mô, cơ cấu hàng hoá dự trữ qua các chỉ tiêu hệ số tương quan và hệ số co giãn, cường độ mối liên hệ hay vai trò của các nhân tố qua chỉ tiêu hệ số tương quan hay tỷ số tương quan. Nếu các tiêu thức có mối liên hệ tương quan tuyến tính thì phương trình hồi quy có dạng: Trong đó: x: trị số của tiêu thức nguyên nhân : trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả a: hệ số tự do nói lên ảnh hưởng của các nhân tố khác ngoài x b: hệ số hồi quy nói lên ảnh hưởng của x đối với y, sự thay đổi của x làm y thay đổi b đơn vị a, b được xác định bằng phương pháp bình quân nhỏ nhất. Để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính, ta sử dụng hệ số tương quan (r). Ngoài dạng phương trình hồi quy tuyến tính, trên thực tế ta còn gặp một số dạng phương trình mà mối liên hệ của nó là liên hệ tương quan phi tuyến. - Phương trình Parabol có dạng: - Phương trình hàm mũ có dạng: - Phương trình Hypebol có dạng: Để đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan phi tuyến giữa tiêu thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả ta sử dụng tỷ số tương quan (). Trong thực tế, một tiêu thức kết quả có thể do nhiều tiêu thức nguyên nhân tác động. Để biểu thị mối quan hệ này, ta sử dụng phương trình hồi quy có dạng như sau: Để đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ tương quan tuyến tính của nhiều tiêu thức, ta tính hai loại hệ số là hệ số tương quan bội và hệ số tương quan riêng phần. 3.3 Phương pháp dãy số thời gian 3.3.1 Khái niệm và yêu cầu xây dựng dãy số thời gian a. Khái niệm. Các hiện tượng kinh tế - xã hội không ngừng biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong những nhiệm vụ thống kê là phải biểu hiện được các mặt biến động đó, đồng thời phân tích đặc điểm xu hướng và tính quy luật của các hiện tượng, dự đoán sự phát triển của chúng trong tương lai. Để đáp ứng được mục đích nghiên cứu này, thống kê thường dùng phương pháp dãy số biến động theo thời gian (gọi tắt là dãy số thời gian) . Dãy số thời gian là một dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Ví dụ: dãy số về doanh thu du lịch trong một giai đoạn nào đó hay lượng gạo xuất khẩu trong một thời kỳ nào đó... Trong dãy số thời gian, các chỉ số của chỉ tiêu được sắp xếp theo thời gian, qua đó nhận thấy được sự tăng (giảm) hoặc biến động không ổn định qua thời gian của chỉ tiêu biểu hiện. Dãy số thời gian chia thành nhiều loại, phụ thuộc vào tiêu thức phân loại khác nhau, cụ thể: - Nếu căn cứ vào tính chất, mức độ dãy số thời gian có ba loại: dãy số tuyệt đối (có các mức độ là các số tuyệt đối), dãy số tương đối (có các mức độ là các số tương đối) và dãy số trung bình (có các mức độ là các số trung bình). - Nếu căn cứ vào đặc điểm của thời gian, dãy số thời gian được chia thành hai loại: dãy số thời kỳ và dãy số thời điểm. Dãy số thời kỳ là dãy số trong đó các mức độ của nó là số tuyệt đối thời kỳ phản ánh quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian nhất định. Dãy số thời điểm là dãy số trong đó mỗi mức độ của dãy số là những số tuyệt đối thời điểm, phản ánh quy mô khối lượng của hiện tượng tại những thời điểm nhất định. b. Yêu cầu xây dựng dãy số thời gian. Dãy số thời gian gồm hai thành phần: thời gian và trị số của chỉ tiêu. Tuy nhiên không phải dãy số nào cũng là dãy số thời gian. Để có một dãy số thời gian, khi xây dựng cần phải tuân theo yêu cầu sau: Đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số nhằm phản ánh một cách khách quan sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Cụ thể: - Nội dung, phương pháp tính chỉ tiêu nghiên cứu qua thời gian phải thống nhất. - Phạm vi của hiện tượng nghiên cứu qua thời gian phải thống nhất. - Các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau, nhất là đối với dãy số thời kỳ. Dùng phương pháp dãy số thời gian trong phân tích thống kê sẽ giúp ta rút ra những kết luận xác đáng và phân tích được xu hướng biến đổi của hiện tượng đồng thời dự báo sự phát triển của hiện tượng trong tương lai. 3.3.2 Đặc điểm vận dụng của dãy số thời gian. - Phương pháp dãy số thời gian cho phép phân tích xu thế biến động của các chỉ tiêu quy mô dự trữ hàng hoá qua thời gian của từng loại hàng hoặc nhóm hàng, xu thế biến động của các chỉ tiêu mức đảm bảo dự trữ, số lần chu chuyển hàng hoá, thời gian lưu thông hàng hoá theo thời gian. - Cho phép tính toán mức độ biến động của các chỉ tiêu dự trữ hàng hoá bằng các chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối như: + lượng tăng (giảm) tuyệt đối : liên hoàn, định gốc, bình quân. + tốc độ phát triển : liên hoàn, định gốc, bình quân. + tốc độ tăng (giảm) : liên hoàn, định gốc, bình quân. + giá trị tuyệt đối 1% tăng (giảm). Các chỉ tiêu nêu trên có nội dung, công thức tính khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau giúp cho việc phân tích dễ dàng và chính xác hơn - Cho phép phân tích ảnh hưởng của yếu tố thời gian và yếu tố ngẫu nhiên đến sự biến động của chỉ tiêu tổng mức dự trữu hàng hoá bằng phương pháp hồi quy theo thời gian. - Cho phép nghiên cứu biến động thời vụ để đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp. kịp thời nhằm hạn chể những ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất và công tác dự trữ hàng hoá của công ty. 3.3.3 Một số phương pháp biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian. Phương pháp này được sử dụng đối với dãy số thời kỳ mà dãy số đó có khoảng cách thời gian ngắn, có quá nhiều mức độ chưa phản ánh được xu hướng phát triển cơ bản của kết quả sản xuất. Khi đó cho phép ta ghép các khoảng cách liền nhau nhất định thành một khoảng thời gian dài hơn. Phương pháp này có tác dụng làm hạn chế tác động ngẫu nhiên nhưng nó lại làm mất đi dần các mức độ của dãy số thời gian. Phương pháp số trung bình trượt (di động). Số trung bình trượt (trung bình di động) là số trung bình của một nhóm nhất định của dãy số được tính bằng cách loại dần các mức độ đầu đồng thời thêm vào các mức độ tiếp theo sao cho tổng số lượng các mức độ tham gia tính số trung bình không thay đổi. Phương pháp này thường áp dụng cho những dãy số có mức dao động không lớn lắm. Việc lựa chọn nhóm bao nhiêu mức độ để tính trung bình trượt phải dựa vào đặc điểm biến động về mặt lượng của hiện tượng qua thời gian và số lượng các mức độ nhiều hay ít để quyết định. Phương pháp hồi quy theo thời gian. Phương pháp này nhằm xác định một mô hình hồi quy phản ánh sự biến động (hay sự phụ thuộc) của hiện tượng theo thời gian, còn gọi là hàm xu thế. Hàm hồi quy có dạng: Trong đó: t là biến độc lập chỉ thứ tự thời gian (t có thể theo thứ tự năm, quý, tháng). Phương trình hồi quy có thể có 3 dạng sau: - Phương trình đường thẳng: - Phương trình parabol : - Phương trình hàm mũ : Trong đó: : là trị số các mức độ trong đường hồi quy lý thuyết b0, b1, b2: là các tham số của hàm hồi quy Biểu hiện biến động thời vụ. Sự biến động của một hiện tượng kinh tế, xã hội thường có tính thời vụ. Biến động thời vụ là biến động mang tính chất lặp đi lặp lại trong từng khoảng thời gian nhất định của năm. Nguyên nhân gây ra hiện tượng này là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, phong tục, tập quán sinh hoạt của người dân. Ảnh hưởng của biến động thời vụ thường gây ra hiện tượng căng thẳng, dồn đạp vào lúc thời vụ và nhàn rỗi khi qua thời điểm đó. Vì vậy cần nghiên cứu phân tích tính thời vụ để có biện pháp kinh doanh phù hợp với tính thời vụ của mỗi hiện tượng. Để nghiên cứu biến động thời vụ có nhiều phương pháp, một trong những phương pháp đơn giản là tính chỉ số thời vụ. Yêu cầu dựa vào số liệu của nhiều năm, ít nhất là ba năm để xác định tính chất và mức độ của biến động thời vụ. + Trường hợp biến động thời vụ của hiện tượng tương đối đều đặn, không có hiện tượng tăng (giảm) rõ rệt thì chỉ số thời vụ tính như sau: Trong đó: Ii là chỉ số thời vụ của thời gian thứ i là số trung bình các thời gian cùng tên i là số trung bình của tất cả các mức độ trong dãy số + Trường hợp biến động thời vụ của hiện tượng qua thời gian biến động tăng (giảm) rõ rệt thì chỉ số thời vụ được tính theo công thức sau: Trong đó: yi là mức độ thực tế của hiện tượng là mức độ tính toán từ hàm xu thế m là số năm trong dãy số thời gian 3.4 Phương pháp chỉ số. 3.4.1 Khái niệm. Theo nghĩa rộng, chỉ số là một số tương đối (biểu hiện bằng lần hay %) được tính bằng cách so sánh hai mức độ của hiện tượng. Các số tương đối gồm có: số tương đối động thái, số tương đối kế hoạch, số tương đối không gian. Theo nghĩa hẹp, chỉ số là số tương đối dùng để nghiên cứu sự biến động của hiện tượng phức tạp có đặc điểm, tính chất, đơn vị tính khác nhau. Với đối tượng nghiên cứu chủ yếu của mình, chỉ số có những tính chất đáng chú ý. Một mặt, chỉ số vừa có tính chất tổng hợp lại vừa có tính phân tích. Mặt khác, không giống như các số tương đối thông thường, chỉ số là số tương đối có tính giả định. Nó là kết quả của sự so sánh giữa hai đại lượng được xác định theo giả thiết, không tồn tại trong đời sống kinh tế thực. Phương pháp chỉ số có hai đặc điểm cơ bản: - Khi nghiên cứu nhiều hiện tượng phức tạp thì phải tìm cách chuyển các đặc điểm, tính chất khác nhau về dạng đồng nhất để thực hiện tổng hợp tài liệu. - Để nghiên cứu sự biến động của một hiện tượng nào đó thì cần giả thiết các nhân tố còn lại không biến đổi. 3.4.2 Đặc điểm vận dụng và phân loại chỉ số. * Đặc điểm vận dụng: - Dùng chỉ số để nghiên cứu sự biến động của hiện tượng qua thời gian và không gian. - Dùng chỉ số để nêu lên nhiệm vụ kế hoạch hoặc tình hình thực hiện kế hoạch. - Dùng chỉ số để phân tích ảnh hưởng biến động của các nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng. - Dùng chỉ số để phân tích các vai trò và ảnh hưởng của từng nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng phức tạp. Thực chất vấn đề này là nêu lên các nguyên nhân chủ yếu quyết định sự biến động của hiện tượng phức tạp và xác định mức độ ảnh hưởng cụ thể của các nguyên nhân này. * Phân loại: có 3 cách phân loại chỉ số - Theo nội dung mà chỉ số phản ánh, có 3 loại: chỉ số phát triển, chỉ số không gian, chỉ số kế hoạch. Chỉ số phát triển phản ánh sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Chỉ số không gian phản ánh sự biến động của hiện tượng qua không gian. Chỉ số kế hoạch dùng để lập và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. - Theo phạm vi tính toán thì chỉ số có 2 loại: chỉ số đơn và chỉ số tổng hợp. Chỉ số đơn phản ánh sự biến động của từng đơn vị, từng hiện tượng cá biệt. Chỉ số tổng hợp phản ánh sự biến động chung của nhiều đơn vị, nhiều hiện tượng. - Theo tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh, có 2 loại: chỉ số chỉ tiêu chất lượng và chỉ số chỉ tiêu khối lượng. Chỉ số chỉ tiêu chất lượng phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu chất lượng nào đó. Ví dụ: giá thành, năng suất lao động... Chỉ số chỉ tiêu khối lượng phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu khối lượng nào đó. Ví dụ: khối lượng sản phẩm, số lao động... 3.4.3 Các mô hình phân tích biến động dự trữ. Mô hình 1: Tổng mức dự trữ hàng hoá theo giá hiện hành tăng hoặc giảm do 2 nhân tố: - Lượng hàng hoá dự trữ - Giá cả của hàng hoá dự trữ P Mô hình 2: Tổng mức dự trữ hàng hoá bình quân theo giá hiện hành hoặc giá so sánh tăng (giảm) do 2 nhân tố: - Thời gian chu chuyển hàng hoá bình quân - Tổng mức chu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày: Mô hình 3: Tổng mức dự trữ hàng hoá bình quân theo giá hiện hành hoặc giá so sánh tăng hay giảm do 2 nhân tố: - Thời gian chu chuyển hàng hoá cá biệt của từng loại hàng hoặc nhóm hàng (t) - Mức lưu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày của từng loại hàng, nhóm hàng Mô hình 4: Tổng mức dự trữ hàng hoá bình quân theo giá so sánh tăng hay giảm do 3 nhân tố: - Thời gian chu chuyển hàng hoá cá biệt của từng loại hàng, nhóm hàng (t) - Kết cấu của tổng mức lưu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày - Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bình quân 1 ngày Tóm lại, chương II của luận văn đã trình bày những vấn đề chung về phân tích thống kê dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp, trong đó đề cập đến hai vấn đề lớn là lựa chọn chỉ tiêu thống kê dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp và lựa chọn phương pháp thống kê dự trữ hàng hoá. Các phương pháp được sử dụng để phân tích là: phương pháp bảng và đồi thị thống kê, phương pháp hồi quy tương quan, dãy số thời gian, phương pháp chỉ số. CHƯƠNG III: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH DỰ TRỮ HÀNG HOÁ CỦA CÔNG TY THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ THỜI TRANG HÀ NỘI THỜI KỲ 1998-2005 I. Tổng quan về công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội. 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội. - Tên công ty: Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội - Tên giao dịch quốc tế: Hanoi Trading Service Fashion Company Viết tắt là: HAFASCO - Trụ sở chính của công ty: 13 Đinh Lễ - Hoàn Kiếm – Hà Nội Công ty thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở Thương mại Hà Nội, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, sản xuất và cung cấp dịch vụ nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu cho người dân. Hiện nay Công ty đang trên đà phát triển, mở rộng quy mô kinh doanh và đang cùng các đơn vị kinh tế khác tích cực phục vụ xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tiền thân của công ty Thưong mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội là công ty bông vải sợi may mặc Hà Nội được thành lập theo quyết định số 477/NT ngày 18/7/1960 của Bộ Nội thương. Thời gian này công ty thực hiện chức năng cơ bản là tiếp nhận, sản xuất và phân phối hàng vải sợi và may mặc theo tem phiếu cho tất cả các đối tượng thuộc khu vực Hà Nội. Đây là công ty chuyên doanh cấp hai duy nhất và độc quyền kinh doanh hàng vải sợi may mặc cho Thủ đô trong thời kỳ còn cơ chế bao cấp. Trong những tháng năm đó, công ty luôn được xếp hạng là một trong số ít doanh nghiệp quan trọng nhất Thủ đô. Để thích ứng với sự biến đổi về kinh tế xã hội của đất nước, theo tinh thần nghị định 388 ngày 20/11/1981 của HĐBT về việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh trong tình hình mới, Uỷ ban Nhân dân Thành phố đã có quyết định số 2885/QĐ – UB ngày 11/11/1992 thành lập lại công ty với tên là Công ty vải sợi may mặc Hà Nội, giấy phép kinh doanh số 105894 ngày 28/11/1992 do Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cấp. Lúc này hoạt động của công ty không chỉ đơn thuần là kinh doanh sản xuất những mặt hàng len, dạ, vải, quần áo may sẵn nữa mà còn bao gồm nhiều loại hình kinh doanh khác. Ngày 18/5/1993 hội đồng trọng tài kinh tế đã chấp nhận bổ sung giấy phép đăng ký kinh doanh lần thứ nhất cho công ty như sau: - Công ty được kinh doanh đại lý, ký gửi hàng hoá, tư liệu tiêu dùng. - Được xuất khẩu các hàng may sẵn, thêu ren do công ty sản xuất, gia công. - Tổ chức các dịch vụ phục vụ đời sống. Không chỉ dừng lại ở đó, theo đà phát triển của nền kinh tế đất nước cộng với tiềm năng sẵn có của mình và được sự cho phép của Uỷ ban kế hoạch, công ty đã được chấp nhận bổ sung giấy phép đăng ký kinh doanh lần thứ 2 gồm: - Kinh doanh dịch vụ và khách sạn. - Kinh doanh đại lý hàng điện máy, điện lạnh, mô tô, xe máy, thiết bị văn phòng. - Được nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị, phương tiện điện tử tại nước ngoài. Đây là điều kiện thuận lợi để công ty tự “cởi trói”, thoát khỏi tình trạng trì trệ cũ để vươn lên tự khẳng định mình, hoạt động cho mục đích cuối cùng là thúc đẩy sự tăng trưởng vốn, lấy đó làm cơ sở để từng bước nâng cao đời sống cho người lao động. Cho đến nay, Công ty đã đạt được nhiều thành tựu và xây dựng cho mình được chỗ đứng vững chắc trên thương trường. Tuy nhiên không tự hài lòng với chính mình, vừa qua Ban giám đốc công ty đã đầu tư sửa chữa và làm mới một số cơ sở hạ tầng như cửa hàng, trang thiết bị... nhằm bắt kịp với tiến trình phát triển chung của toàn xã hội và một lần nữa đổi tên công ty thành Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội theo quyết định số 4104/QĐ – UB ngày 26/8/2000 của UBND Thành phố Hà Nội. Trải qua hơn 45 năm xây dựng và trưởng thành, hiện nay công ty có 6 đơn vị trực thuộc là các cửa hàng, 2 trung tâm XNK, 1 tổng kho và 4 cửa hàng liên doanh liên kết. Công ty đang nỗ lực vươn lên để trở thành doanh nghiệp mạnh của thành phố, đóng góp tích cực vào công cuộc thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” mà Đảng đã đề ra. 2. Chức năng và nhiệm vụ của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội. Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước có vai trò rất lớn. Công ty được thành lập với mục đích: - Tận dụng tiềm năng về địa điểm, mạng lưới kinh doanh sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị, đội ngũ lao động kỹ thuật chuyên ngành để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, sản xuất ra nhiều hàng hoá, sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất nhập khẩu góp phần ổn định thị trường, mở rộng giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước. - Điều tra nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc, thiết kế các kiểu mốt thời trang, góp phần nâng cao trình độ thẩm mỹ trong trang phục của người dân Thủ đô. - Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo luật định, tăng trưởng vốn tạo nguồn thu ngày càng tăng cho ngành, đảm bảo việc làm và thu nhập ngày càng cao cho cán bộ công nhân viên của công ty. Xuất phát từ mục đích chính của việc thành lập công ty TMDV Thời trang Hà Nội, nhiệm vụ chủ yếu của công ty là: - Tự chủ xây dựng các kế hoạch kinh doanh, sản xuất dịch vụ theo sự định hướng của ngành. - Tổ chức kinh doanh mua bán: + Các mặt hàng vải sợi, len, dạ, tơ lụa + Các mặt hàng may sẵn + Các mặt hàng thêu ren mỹ nghệ + Các mặt hàng mỹ phẩm, trang sức... - Dịch vụ may đo tại chỗ cho mọi nhu cầu với chất lượng cao. - Tổ chức sản xuất các hàng may sẵn phục vụ tiêu dùng xuất khẩu. - Tổ chức các hoạt động thi thiết kế, trình diễn quần áo thời trang. - Liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng kinh doanh, sản xuất gia công phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty TMDV Thời trang Hà Nội được trình bày khái quát qua sơ đồ sau: Hình 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty TMDV Thời trang Hà Nội. - Các cửa hàng thương mại dịch vụ - Trung tâm xuất nhập khẩu - Các cửa hàng liên doanh liên kết Phòng kế toán tài vụ Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng tổ chức hành chính Phòng nghiên cứu xây dựng cơ bản Ban giám đốc Nguồn: Công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội Để thành công trong kinh doanh, hoạt động của mọi doanh nghiệp đều cần được thực hiện trên nền của một hệ thống cấu trúc hợp lý và có hiệu quả. Trong các giai đoạn phát triển của doanh nghiệp, hệ thống tổ chức cần phải đảm bảo khả năng thích ứng tốt với các xu hướng vận động, tăng trưởng hay suy thoái trong kinh doanh. Nắm vững điều đó, công ty TMDV Thời trang Hà Nội trong những năm qua đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, có năng lực về chuyên môn, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đến nay bộ máy quản lý của công ty đã có những thay đổi hợp lý được xây dựng theo quan điểm gọn nhẹ, hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường, đáp ứng được yêu cầu hoạt động kinh doanh của công ty đồng thời bảo đảm tính tập trung thống nhất theo chế độ một thủ trưởng. Ban lãnh đạo công ty bao gồm: Một giám đốc: Là những người do Sở Thương mại đề nghị và được UBND Thành phố Hà Nội ra quyết định bổ nhiệm, vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho công nhân viên chức quản lý công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc là người có quyền hành cao nhất, tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động của công ty theo đúng pháp luật và nghị quyết của Hội đồng công nhân viên chức, chịu trách nhiệm trước tập thể cán bộ, Nhà nước, cơ quan chủ quản. Giám đốc là người đại diện pháp nhân cho công ty trong quan hệ kinh tế với bạn hàng trong và ngoài nước, là người ký nhận vốn và các nguồn lực khác cho công ty. Giám đốc có nhiệm vụ xây dựng chiến lược phát triển, kế hoạch dài hạn, đề nghị cơ quan chủ quản quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các phó giám đốc, kế toán trưởng, xây dựng và tổ chức thực hiện điều lệ của công ty. Ba phó giám đốc: Là người tham mưu giúp việc cho Giám đốc theo sự phân công, uỷ quyền và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về nhiệm vụ được giao. Quyền hạn và trách nhiệm của phó giám đốc là phụ trách các lĩnh vực công tác theo phân công, đảm bảo đúng đường lối, chính sách của Dảng và Nhà nước, của ngành cũng như mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ của công ty; có trách nhiệm chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, chuẩn bị các văn bản báo cáo chuyên đề và tổ chức triển khai, sau đó báo cáo kết quả tại hội nghị giao ban. - Một phó giám đốc: phụ trách kinh doanh xuất nhập khẩu - Một phó giám đốc: phụ trách tổ chức - Một phó giám đốc: phụ trách mạng lưới kiêm chủ tịch công đoàn. Một kế toán trưởng: do Giám đốc công ty trực tiếp lựa chọn và đề nghị cấp có thẩm quyền bổ nhiệm. Các phòng ban: Phòng kế toán tài vụ: - Chức năng: Tham mưu giúp Giám đốc chỉ đạo các đơn vị trực thuộc công ty thực hiện đúng pháp luật kế toán thống kê của Nhà nước và điều lệ tài chính kế toán hiện hành; tham mưu giúp công ty quản lý, sử dụng vốn, tài sản và các hoạt động tài chính đạt hiệu quả, đúng pháp luật. - Nhiệm vụ: Tập hợp, theo dõi, ghi chép và xử lý các số liệu trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cuối kỳ lập quyết toán cho công ty. Phòng tổ chức hành chính - Chức năng: Tham mưu giúp Giám đốc tổ chức, sắp xếp và quản lý cán bộ, phụ trách các công việc hành chính như bảo vệ, văn thư, quan tâm tới các chính sách xã hội. - Nhiệm vụ: quản lý số cán bộ công nhân viên, vị trí làm việc của từng người, quyền hạn và trách nhiệm của họ đối với công ty; tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai việc thực hiện các văn bản, nghị định của Nhà nước về quản lý cán bộ, xây dựng nội quy công ty, tổ chức công tác bảo vệ an ninh trật tự nơi làm việc, chăm lo sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên. Phòng kế hoạch kinh doanh: - Chức năng: Tham mưu giúp Giám đốc công ty chỉ đạo hướng dẫn, thực hiện kinh doanh, mở rộng thị trường mặt hàng kinh doanh. - Nhiệm vụ: Xây dựng kế hoạch chiến lược kinh doanh cho toàn công ty, thực hiện công tác thống kê báo cáo, dự báo thăm dò thị trường, lập các phương án tăng cường sức mạnh cạnh tranh và mở rộng thị trường, mặt hàng; hướng dẫn các đơn vị thành viên lập kế hoạch sản xuất kinh doanh từng kỳ và giám sát việc thực hiện của họ, ngoài ra còn trực tiếp kinh doanh, tổ chức nguồn hàng bán buôn và giao hàng cho các đơn vị bán. Phòng nghiên cứu xây dựng cơ bản: - Chức năng: Tham mưu giúp Giám đốc công ty chỉ đạo hướng dẫn thực hiện công tác xây dựng cơ bản của toàn công ty. - Nhiệm vụ: Tiến hành khảo sát tình hình thực tế, đề ra các phương hướng, biện pháp về công tác đầu tư xây dựng cơ bản, trình giám đốc phê duyệt sau đó triển khai thực hiện; lập tính toán và dự báo khối lượng đầu tư trong kỳ kế hoạch tới. Ngoài ra công ty còn có 6 đơn vị kinh doanh thương mại, 1 tổng kho, 2 cửa hàng liên doanh liên kết và 1 xí nghiệp may trực thuộc công ty. 4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội. Chuyển sang cơ chế thị trường, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế, Công ty TMDV Thời trang Hà Nội có các đặc điểm sản xuất kinh doanh chủ yếu sau: - Tổ chức kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng với mặt hàng kinh doanh chính là vải sợi và quần áo may sẵn. - Thực hiện gia công liên kết với các xí nghiệp may mặc để tạo nguồn kinh doanh phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Công ty chủ yếu cung cấp hàng may mặc trong nước, cung cấp mặt hàng mỹ nghệ truyền thống cho thị trường nước ngoài, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế đất nước trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và tiến trình hội nhập nền kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và thế giới. 5. Kết quả kinh doanh của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội thời gian qua. Trong nền kinh tế, nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là thực hiện tái sản xuất của cải, vật chất góp phần tạo ra tổng sản phẩm xã hội bằng nguồn lực sẵn có. Do vậy các nhà quản trị của công ty TMDV Thời trang Hà Nội luôn nỗ lực nghiên cứu để đề ra các biện pháp kinh doanh phù hợp nhằm không ngừng gia tăng nội lực và tìm kiếm lợi nhuận. Có thể khái quát các nguồn lực chủ yếu của công ty như sau: 5.1 Vốn kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn của công ty thời kỳ 2001 -2004 như sau: Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn của công ty Đơn vị: 1000đ Cơ cấu nguồn vốn 2001 2002 2003 2004 Vốn kinh doanh 7.642.626 7.831.379 15.584.140 17.464.140 Vốn do ngân sách Nhà nước cấp 7.096.827 7.311.567 15.064.328 16.944.328 Nguồn: Phòng kế toán tài vụ Công ty TMDV Thời trang Hà Nội Nhìn vào biểu cơ cấu nguồn vốn của công ty ta thấy vì là một doanh nghiệp Nhà nước nên công ty có nguồn vốn chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp (chiếm tỷ trọng trên 90%). 5.2 Lao động. Do đặc thù là ngành công nghiệp nhẹ nên đòi hỏi đội ngũ công nhân sản xuất phải nhiệt tình làm việc, khéo léo, có khả năng bán hàng và giới thiệu sản phẩm nên công ty thu hút phần đông lao động là nữ (trên 400 người). Số lượng lao động nam không nhiều, chủ yếu nắm giữ những vị trí như công nhân kỹ thuật hoặc những công việc đòi hỏi sức khoẻ như lái xe, bảo vệ... Số lượng và chất lượng lao động toàn công ty được tập hợp qua bảng sau: Bảng 2 : Tình hình biến động cơ cấu và trình độ lao động Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 *Về số lượng: - Tổng số lao động bình quân - Số cán bộ quản lý - CNV và mậu dịch viên 501 87 414 501 87 414 501 87 414 720 87 633 824 87 737 *Về chất lượng: - Trình độ ĐH – CĐ - Trung cấp dạy nghề 40 461 40 461 40 461 40 680 40 784 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Công ty TMDV Thời trang Hà Nội, 2005 5.3 Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Thương mại Dịch vụ Thời trang Hà Nội. Kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước nên là một quốc gia ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hợp lý, hệ thống pháp luật tác động đến quyền lợi của doanh nghiệp và của người tiêu dùng. Đó là một môi trường vĩ mô tác động trực tiếp tạo điều kiện cho kinh tế phát triển. Tuy nhiên mặt trái của kinh tế thị trường là xuất hiện của nhiều khó khăn mà công ty hiện đang phải đối mặt: có nhiều mặt hàng nhập từ Trung Quốc với hình thức đẹp, mẫu mã phong phú và đặc biệt là giá rẻ, cạnh tranh với hàng sản xuất trên dây chuyền lạc hậu của công ty, chất lượng chưa tốt mà giá cả lại cao nên nhiều phố chuyên doanh vải sợi, các nhà may tư nhân, trung tâm mốt... đã tạo sức ép đối với công ty. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo công ty đã có nhiều quyết sách đúng đắn trong đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh như: chỉ đạo phòng kế hoạch kinh doanh triển khai tìm hiểu và kinh doanh xe máy, kinh doanh hàng may mặc cao cấp nên đã tạo ra doanh số trên 20% của toàn công ty. Trung tâm Thương mại Dịch vụ Thời trang Tràng Tiền đã áp dụng những biện pháp phối hợp và phân công giữa hai khâu thương mại và sản xuất nên thu được kết quả cao. Cửa hàng Thương mại Dịch vụ Thời trang Hàng Đào đã biết khai thác các thế mạnh tham gia vào nhiều hội trợ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Những yếu tố này đã góp phần làm cho tổng doanh thu của công ty tăng lên đáng kể qua các năm cụ thể như sau: Bảng 3 : Kết quả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8437.doc
Tài liệu liên quan