Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay

Tài liệu Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay: ... Ebook Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay

doc151 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2841 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Häc viÖn chÝnh trÞ - hµnh chÝnh quèc gia hå chÝ minh ---------------- b¸o c¸o tæng hîp kÕt qu¶ nghiªn cøu khoa häc §Ò tµi khoa häc cÊp bé n¨m 2008 §Ò tµi : Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay (dưới góc độ phân tích các nguồn lực) HÀ NỘI - 2008 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm ở mọi quốc gia trên thế giới. Với hầu hết các nước, tăng trưởng kinh tế luôn là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, nâng cao hơn nữa đời sống người dân, giảm thất nghiệp và thực hiện nhiều mục tiêu vĩ mô khác. Đối với các nước đang phát triển thì tăng trưởng kinh tế lại càng có ý nghĩa cấp thiết hơn vì tăng trưởng kinh tế là điều kiện số một để gia nhập nhóm các nước phát triển, tăng trưởng kinh tế là nhân tố quyết định để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, là điều kiện để phát triển kinh tế, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao đời sống người dân… Ở Việt Nam, tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm trong các Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn đề cập đến vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế với mục tiêu: “…dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…” mà điều kiện tiên quyết để thực hiện là phải phấn đấu tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và vững chắc theo hướng bền vững. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh: “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện công bằng xã hội, … mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (Khóa X) tiếp tục khẳng định: “Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội… gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực, phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo thành sức mạnh quốc gia. Tích cực tạo ra và sử dụng có hiệu quả cao các lợi thế so sánh của đất nước”. Cũng từ mục tiêu này, dưới góc nhìn của các nhà kinh tế, để đạt được từ nay đến 2020, mỗi năm Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình ít nhất 7,5%. Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục, trong giai đoạn 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng là 8,18%; giai đoạn 1996 - 2000 là 6,94%; 2001 - 2005 là 7,5%, tính chung cả thời kỳ 1998 - 2005 tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,5%. Năm 2006, tốc độ tăng GDP đạt 8,24% ; năm 2007 đạt 8,4%, năm 2008, do sự biến động của kinh tế thế giới nên tăng trưởng kinh tế của chúng ta chỉ đạt 6,23%. Từ những con số trên cho thấy tăng trưởng kinh tế của nước ta chưa thực sự ổn định và vững chắc. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa theo chiều rộng: dựa vào tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn vốn từ bên ngoài... Như vậy, chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao. Đây là thách thức to lớn cho những năm sắp tới, đặc biệt là từ năm 2010 trở đi, khi mà công nghiệp hóa đất nước đòi hỏi ở trình độ cao hơn, cạnh tranh và hội nhập kinh tế sâu sắc hơn, các nguồn lực kinh tế hữu hạn trở nên khan hiếm hơn, giá cao hơn. Một trong những nghịch lý hiện nay, là hầu hết các nước đang và chậm phát triển có những lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn lao động dồi dào thì lại là những quốc gia nghèo, lạc hậu. Ở Việt Nam, trong những năm vừa qua, tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào lao động, còn sự đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn ở mức thấp và thay đổi chậm. trong lúc đó, vốn, đặc biệt là vốn nước ngoài ngày càng “đắt”, khan hiếm thì lại được sử dụng nhiều, còn nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ không còn là lợi thế lâu dài…. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho việc chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chất lượng tăng trưởng thấp và không vững chắc, đó là: điều kiện kinh tế thế giới và khu vực không thuận lợi, tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, chất lượng nguồn nhân lực còn chưa tương xứng tiềm năng và lợi thế, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là chưa xác định rõ các nguồn lực tăng trưởng kinh tế (có bao nhiêu?, giá thế nào?) và sử dụng chúng thế nào cho có hiệu quả? Như Đại X đã nhận định: “Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác triệt để”. Tháng 11/2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng thì việc huy động và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước như thế nào cho có hiệu quả là vấn đề không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa lớn về thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu và phân tích các nguồn lực đóng góp cho tăng trưởng kinh tế là một đòi hỏi cấp bách cần được nghiên cứu. Đó là lý do mà chúng tôi lựa chọn đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Trong giai đoạn hiện nay, nguồn gốc tăng trưởng kinh tế, các nguồn lực kinh tế đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà kinh tế với rất nhiều bài viết trên các báo, tạp chí, nhiều luận án tiến sỹ kinh tế, luận văn thạc sỹ kinh tế, các chương trình khoa học cấp Nhà nước, các đề tài khoa học của các cấp quản lý khác nhau, cùng nhiều công trình khoa học khác dưới dạng sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu hội thảo. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dưới cách tiếp cận khác nhau đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu đã được công bố trong những năm gần đây: 1. S. S. Pack (1992), “Tăng trưởng và phát triển”, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. 2. Vũ Đình Bách (1995), “Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (1995), “Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. GS.TS Vũ Ngọc Phùng chủ biên (2003), “Giáo trình Kinh tế phát triển”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 5. GS.TS Nguyễn Văn Thường chủ biên (2004), “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 6. PGS.TS. Nguyễn Khắc Minh, (2005): “Nhìn lại kinh tế Việt Nam trong hai thập kỷ qua một vài dự báo và đề xuất”, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 7. Đinh Văn Ân (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb. Thống kê. 8. GS.TS Trần Văn Chử chủ biên (2006), “Kinh tế học phát triển”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 9. Lê Xuân Bá - Nguyễn Thị Tuệ Anh (2005) “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991- 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất”, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 10. GS.TS Nguyễn Văn Nam và PGS.TS Trần Thọ Đạt (2006), “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 11. GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên (2006), “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 12. PGS.TS Võ Văn Đức chủ biên (2006), “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua mô hình tăng trưởng kinh tế của R. SoLow”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13. Vũ Thành Tự Anh “Tăng trưởng dưới mức tiềm năng”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 29/12/2006. 14. TS. Nguyễn Từ (2007), Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đối với tăng trưởng kinh tế ở nước ta, Đề tài cấp Bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 15. Thu Oanh “Vị thế kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Con số và Sự kiện, tháng 10/2006. 16. PGS.TS Trần Đình Thiên “Kinh tế Việt Nam: Chất lượng mới cho giai đoạn phát triển mới”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 9/2005. 17. Vũ Quang Việt “Tăng trưởng tốt nhưng vẫn còn yếu kém”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 9/2/2006. 18. GS.TS Nguyễn Văn Thường, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (2008), Kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới, Nxb. Đại học KTQD, Hà Nội. 19. Kinh tế Việt Nam sau hơn một năm gia nhập WTO. Những tác động, bài học quan trọng và một số kinh nghiệm, Tạp chí Ngân hàng 6/2008. Hầu hết trong các công trình khoa học này, các tác giả đã sử dụng nhiều mô hình, lý thuyết và thuật toán để đánh giá tình hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam qua các giai đoạn khác nhau và hệ thống hoá những vấn đề lý luận có liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Trong đó, phải nhấn mạnh một số công trình: Như cuốn sách “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” do GS.TS Nguyễn Văn Nam và PGS.TS Trần Thọ Đạt chủ biên đã hệ thống hóa những vấn đề có liên quan đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Hoặc sách “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua” do GS.TS Nguyễn Văn Thường chủ biên, đã tìm ra những hạn chế của tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cuốn sách của PGS.TS Nguyễn Khắc Minh lại đánh giá tác động của tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Còn trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 15 năm (1991 - 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất” của tác giả Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh lại phân tích sự đóng góp của 3 nhân tố: vốn, lao động và năng suất nhân tố tổng hợp đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hoặc PGS.TS Võ Văn Đức chủ biên cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam qua mô hình tăng trưởng kinh tế của R. Solow” đã phân tích tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ mô hình cơ bản của R.Solow, chủ yếu là dưới tác động của năng suất nhân tố tổng hợp. Cuốn sách được xuất bản năm 2008 của GS.TS Nguyễn Văn Thường, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn đã đánh giá kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập WTO, đưa ra những khó khăn, thách thức cho nền kinh tế Việt Nam. Ở các bài báo và các tài liệu khác, nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có thể cao hơn nếu sử dụng tốt các nguồn lực và có những chính sách kinh tế hiệu lực và kịp thời. Các tác giả đã đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam, phân tích những nỗ lực, cố gắng và các thành tựu đạt được, cũng như phân tích những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến tình hình đó. 2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 1. Karl John trong bài “Vietnam’s WTO hopes and dreams”, Asia times online (2007) cho rằng tăng trưởng của Việt Nam năm 2006 khoảng 8,2%, mức tăng trưởng này là rất cao và chỉ sau mức tăng trưởng của Trung Quốc. Nhưng theo tác giả, trong những năm tới, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO thì mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn, thậm chí mức tăng trưởng này còn có khả năng vượt qua mức tăng trưởng của Trung Quốc. Tác giả đã đề cập đến môi trường đầu tư thuận lợi của Việt Nam. Theo đó, rất nhiều nhà đầu tư đang chờ đợi cho Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO thì họ mới đặt chân đến Việt Nam. Tác giả đi đến kết luận rằng sự kiện gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam có được cơ hội ngàn vàng trong việc gia tăng mức tăng trưởng trong những thập kỷ tới. 2. Kei Stuart (2006) trong bài “Vietnam as an Emerging Economy”, cho rằng nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành tích đầy ngoạn mục là do những thay đổi của Chính phủ trong chính sách kinh tế vĩ mô. Tác giả cho rằng nguyên nhân bên trong của sự tăng trưởng này là do sự thay đổi trong quá trình ra quyết định “new blood” (thay máu - chú thích tác giả). Kei Stuart cho rằng chính sự điều chỉnh cần thiết về hành chính, kinh tế, đối ngoại và việc áp dụng các công cụ của nền kinh tế thị trường đã giúp Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao và vững chắc trong khi vẫn duy trì mối quan hệ rất tốt với các nước trong khu vực và các nước láng giềng. 3. Ngoài ra còn có các bài viết của James Riedel (2005); Finfact Team; và một số tác giả khác đã đề cập đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả đều đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc duy trì một nền kinh tế ổn định, một môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam. 4. Lant. Pri Chet: “50 năm lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại và cuộc tìm kiếm vẫn còn tiếp tục”, Tạp chí Ngân hàng số 23, tr.12, 2006. Tác giả nhấn mạnh đến vai trò của tăng trưởng kinh tế, các lý thuyết khác nhau về tăng trưởng kinh tế và vai trò của tăng trưởng kinh tế đối với kinh tế quốc gia và toàn cầu. Có thể nói, các tác giả trong và ngoài nước đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau đến thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và sự đóng góp của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế. Nhiều nhà khoa học cũng đã chỉ ra những nhân tố tích cực góp phần tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua. Nhưng đa số các tác giả đã tiếp cận định tính và cả định lượng hoặc tiếp cận dưới dạng chính sách, có nghĩa là xem xét từng nguồn lực một cách riêng rẽ, đánh giá chủ yếu trên các con số tăng trưởng mà chưa thực sự đi vào chiều sâu đánh giá một cách tổng hợp thực trạng thu hút, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi cũng đồng tình với tác giả Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh: “Ở Việt Nam, nghiên cứu nguồn lực tăng trưởng kinh tế trong dài hạn bằng phương pháp ước lượng đánh giá trực tiếp của các nhân tố sản xuất có rất ít”. Một số nghiên cứu gần đây (như các tác giả Trần Thọ Đạt, 2006; Tổng cục Thống kê, 2003; Trần Kim Chung, 2002; Lê Đăng Doanh, GS.TSKH Lê Du Phong 2002, 2003, 2004) cũng phân tích nguồn lực tăng trưởng, nhưng không đánh giá theo các nguồn lực kinh tế mà theo phương pháp bóc tách tốc độ tăng trưởng để ước lượng xem các nhân tố sản xuất và TFP đóng góp bao nhiêu điểm phần trăm vào tăng năng suất lao động trong giai đoạn khảo sát, đặc biệt là sự đóng góp của các nguồn lực trong nước và quốc tế vào tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta thời gian qua, nhưng chưa đánh giá tổng hợp về các nguồn lực kinh tế. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tổng thể dưới góc độ tiếp cận phân tích các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì đến nay chưa có một công trình khoa học nào. Như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhận định: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển. Đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững”. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài: 3.1. Mục tiêu: phân tích sự đóng góp các nguồn lực kinh tế cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời gian qua, đề xuất một số quan điểm và giải pháp để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế. - Phân tích thực trạng huy động và sử dụng các nguồn lực kinh tế ở Việt Nam góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm đảm bảo chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 4. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp truyền thống: duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, quan điểm của Đảng và Nhà nước, đề tài chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế thông dụng như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, kinh tế lượng, toán kinh tế, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển là rất rộng và phức tạp, do vậy chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu các nguồn lực kinh tế chủ yếu: tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động và khoa học công nghệ, còn các nguồn lực phi vật thể chỉ nghiên cứu dưới góc độ là các nhân tố tác động. - Thời gian nghiên cứu: chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 5. Nội dung nghiên cứu: Chương I: Những vấn đề lý luận về nguồn lực kinh tế 1.1. Một số khái niệm cơ bản về tăng trưởng, phát triển kinh tế và nguồn lực 1.2. Vai trò của nguồn lực tác động đến tăng trưởng kinh tế 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia và vùng lãnh thổ về huy động và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Chương II: Phân tích thực trạng huy động và sử dụng các nguồn lực kinh tế đóng góp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2.1. Phân tích sự đóng góp của các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế 2.2. Đánh giá tổng quát sự đóng góp của các nguồn lực chủ yếu đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam Chương III: Quan điểm và những giải pháp để huy động và sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 3.1. Quan điểm về phát huy các nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế hiệu quả và bền vững. 3.2. Định hướng và mục tiêu, cơ hội và thách thức đối với tăng trưởng kinh tế nước ta 3.3. Những giải pháp chủ yếu để huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN LỰC KINH TẾ 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ NGUỒN LỰC 1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế Ngày nay, trên thế giới mặc dù có những quan điểm khác nhau trong đường lối chính trị, xã hội, nhưng nhìn chung có sự nhìn nhận tương đối thống nhất về sự tiến bộ của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: đó là tăng trưởng về kinh tế và sự tiến bộ về mặt xã hội - môi trường. Trước đây, người ta thường dùng hai thuật ngữ “tăng trưởng” và “phát triển” để phản ánh sự tiến bộ đó, vào những năm cuối của thế kỷ XX, đã bổ sung thêm một thuật ngữ đánh dấu sự phát triển đó là “phát triển bền vững”. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về TTKT, nhưng đa số đều thống nhất: "Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một thời kỳ nhất định, là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế tạo ra, không kể việc sản xuất được thực hiện trong nước hay nước ngoài". Như vậy có thể hiểu: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về mặt quy mô, sản lượng sản phẩm vật chất và dịch vụ được sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) và không phân biệt chủ sở hữu. Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, trước đây, người ta đo lường tổng của cải xã hội tạo ra trong thời kỳ nhất định bằng hai đại lượng chính: GNP (Tổng sản phẩm quốc dân), GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) và GDP là tổng giá trị sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng về kết quả hoạt động kinh tế được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), không phân biệt nguồn vốn và chủ sở hữu ở trong nước hay nước ngoài. Ngày nay để đánh giá đầy đủ và chính xác hơn người ta thường dùng GNI (Tổng thu nhập quốc gia) thay cho GNP. GNI là tổng giá trị thu nhập do công dân của một nước tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) không kể tạo ra trong nước hay nước ngoài. Cách tính GNP và GNI là tương đối giống nhau. GNI là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh trình độ kinh tế ở tầm vĩ mô. Tổng thu nhập quốc gia phản ánh toàn bộ thu nhập cuối cùng của sản xuất và các yếu tố sản xuất của quốc gia từ sản xuất trong nước (GDP) với chênh lệch thu nhập về lợi tức sở hữu, về nhân tố sản xuất như: lao động, vốn tài nguyên và quyền sở hữu tài sản khác với nước ngoài. Ở đây, nội dung của GNI đã bao gồm yếu tố sở hữu trong nước và từ bên ngoài. Tổng thu nhập quốc gia được tính theo phương pháp sau: GNI = Tổng sản phẩm quốc nội + Thu lợi tức sở hữu về các nhân tố sản xuất - Chi trả lợi tức sở hữu về các nhân tố sản xuất Tổng sản phẩm quốc nội là: Tổng giá trị tăng thêm của toàn bộ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trên lãnh thổ một nước trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), không phân biệt nguồn vốn và chủ sở hữu trong nước hay nước ngoài. Sự tăng trưởng của một nước được thể hiện qua chỉ số GNI và GDP, có GNI, GDP danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. Do đó có mức tăng trưởng danh nghĩa và mức tăng trưởng thực tế. Tăng trưởng kinh tế là một nội dung cơ bản của phát triển kinh tế, của tiến bộ kinh tế - xã hội. Song nếu tăng trưởng kinh tế với bất kỳ giá nào thì có thể làm chệch hướng đường lối chính trị, khai thác kiệt quệ tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, tăng tệ nạn xã hội... Phát triển là sự đi lên, sự tiến bộ của toàn xã hội một cách toàn diện, bao gồm sự tổng hợp rất nhiều nhân tố: tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng liên tục, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, mức sống của đại đa số dân cư được cải thiện, các giá trị văn hoá, tinh thần được đề cao. Như vậy, khái niệm phát triển có nội dung phong phú và toàn diện hơn khái niệm tăng trưởng. Phát triển bao hàm sự vận động của một hệ thống, sự tương hợp của các động lực, sự thống nhất cao của toàn xã hội và tính mục đích cụ thể. Đồng thời phát triển cũng là sự gạt bỏ, loại trừ, hạn chế các cản trở, tác động ngược của tăng trưởng. Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế là tăng trưởng kinh tế bền vững, vừa đảm bảo tăng trưởng trước mắt vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Ngay từ năm 1992, trong Báo cáo phát triển về thế giới của Liên Hợp Quốc đã khẳng định: "Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn. Tăng trưởng kinh tế là cách cơ bản để có thể được phát triển, nhưng bản thân nó chưa hoàn toàn phản ánh cho sự tiến bộ" GS.TS Vũ Đình Bách (chủ biên), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, tr.9. . Cụ thể mức độ gia tăng của sản phẩm quốc dân tính theo đầu người phản ánh mức độ tăng trưởng của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định. Mức độ gia tăng của thu nhập thực tế mà mỗi người dân được hưởng phản ánh mức độ công bằng, dân chủ. Tăng thu nhập thực tế và sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn là những yếu tố cơ bản để tăng chất lượng cuộc sống. Sự gia tăng kinh tế phải lớn hơn mức tăng dân số, đi liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội, đi đôi với tăng thu nhập thực tế nhờ phân phối hợp lý kết quả của tăng trưởng và ổn định được lạm phát, bảo vệ và tái tạo môi trường tự nhiên, nâng cao dân trí và sự chăm sóc y tế mới gọi là phát triển kinh tế. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở một số nước có sự tăng trưởng kinh tế mà không có sự phát triển kinh tế. Bởi phát triển đòi hỏi sự tiến bộ toàn diện, sự đánh giá tổng hợp nhiều mặt của sự tiến bộ xã hội. Các nước có chế độ chính trị khác nhau có trình độ phát triển xã hội khác nhau về nhiều mặt tạo nên sự đa dạng khi đánh giá trình độ phát triển ở mỗi nước. Trên cơ sở đó Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) là chỉ số đánh giá sự phát triển của một quốc gia, gọi là sự phát triển con người. HDI đo lường sự tiến bộ kinh tế kết hợp với tiến bộ xã hội dựa trên 3 chỉ tiêu thể hiện sự phát triển: Tuổi thọ bình quân, tỷ lệ người biết chữ, mức thu nhập bình quân theo đầu người. HDI là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá sự phát triển của xã hội, phản ánh ba mặt quan trọng của chất lượng cuộc sống của người dân mà sự tăng trưởng kinh tế thuần tuý không thể tạo ra được. Nếu phát triển đồng bộ, cân đối hài hoà về ba chỉ tiêu này sẽ có HDI cao, ngược lại nếu phát triển không cân đối thì HDI bị hạ xuống. Ngày nay tiêu chí phát triển kinh tế được bổ sung thêm về chất lượng sản phẩm cao, an toàn, thân thiện với môi trường…, phù hợp với sự biến đổi của nhu cầu xã hội, nhu cầu con người, môi trường xã hội và công bằng xã hội. Như vậy ở một khía cạnh nào đó phát triển kinh tế cũng là sự phản ánh sự vận động nền kinh tế của một quốc gia từ trạng thái thấp lên trạng thái cao cả về chất lượng và số lượng bằng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Ngày nay, để xem xét trình độ phát triển của một quốc gia, người ta thường dùng khái niệm phát triển bền vững. Khái niệm này được xem như đỉnh cao của tư tưởng phát triển hiện nay. Phát triển bền vững là một thuật ngữ được các chính trị gia, các nhà khoa học trên toàn thế giới sử dụng rộng rãi, mặc dù quan niệm này còn mới mẻ và chưa có sự thống nhất trong cách diễn giải. Có rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về phát triển bền vững. Các nhà thống kê đã tính có khoảng 70 định nghĩa về phát triển bền vững, nhưng có lẽ một định nghĩa được nhiều quốc gia, nhiều nhà chính trị, khoa học đồng tình ủng hộ, đó là định nghĩa của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển WCED (World Commission on Environment and Development) đưa ra vào năm 1987. "Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau" Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21), Hà Nội, tháng 8/ 2004. tr.4. . Phát triển bền vững là sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao, liên tục trong một thời gian dài. Tại các Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio De Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội: xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, an sinh xã hội) và bảo vệ môi trường (nhất là bảo vệ, khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác tràn lan tài nguyên thiên nhiên). Quan điểm phát triển bền vững đã được Đảng ta khẳng định qua các kỳ Đại hội đó là "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường". Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của Nhà nước. Về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, Chính phủ đã có Quyết định 153/2004/QĐ-TTg để cụ thể hoá những chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.2. Quan niệm về nguồn lực kinh tế Tăng trưởng và phát triển kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố kinh tế và phi kinh tế khác nhau. Trong số các nhân tố kinh tế bao gồm các loại nhân tố kinh tế tác động đến khả năng sản xuất (tổng cung) và các nhân tố tác động đến sự thay đổi quy mô và cơ cấu tổng cầu của nền kinh tế. Với các điều kiện khác không đổi sự cân bằng cung cầu do giá cả thị trường điều tiết sẽ tác động đến quy mô và cơ cấu sản lượng của nền kinh tế, nhờ đó mà tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các nhân tố kinh tế tác động đến khả năng sản xuất (hay các nhân tố đầu vào của sản xuất) là: tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, vốn, khoa học và công nghệ, được quan niệm là các nguồn lực kinh tế. Các nhân tố kinh tế có nguồn gốc hình thành khác nhau: Tài nguyên thiên nhiên được hình thành một cách khách quan do tự nhiên ban tặng; nguồn lao động gắn với bản thân con người; trong khi đó vốn, khoa học và công nghệ là do con người sáng tạo ra. Các nguồn lực kinh tế tham gia vào các quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế với những vai trò khác nhau. Tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động là lực lượng vật chất cơ bản, ban đầu của các sản phẩm hoặc là nguồn “năng lượng”, hay lực lượng trợ giúp cho hoạt động sản xuất các sản phẩm và dịch vụ. Các loại vốn, khoa học và công nghệ là các loại công cụ , phương tiện và phương thức khác nhau để lao động của con người tác động vào các yếu tố để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. Lao động của con người với tư cách là chủ thể sáng tạo có vị trí trung tâm trong việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn lực kinh tế. Quy mô, cơ cấu, chất lượng và khả năng sử dụng các nguồn lực kinh tế bị tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả những yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội, trong đó trình độ phát triển kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định. Chính vì vậy, sự khác nhau về sự giàu có của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và trình độ phát triển kinh tế, xã hội giữa các quốc gia làm cho quy mô, cơ cấu, chất lượng và trình độ sử dụng các nguồn lực kinh tế khác nhau. Từ đó tác động của chúng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế là khác nhau. Ngày nay, đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, để tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là con đường duy nhất để thoát khỏi một nền nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún. Để tăng trưởng kinh tế, thì phải khai thác và sử dụng các nguồn lực kinh tế khác nhau. Có rất nhiều nguồn lực, nhân tố tác động đến tăng tưởng kinh tế và cũng có rất nhiều cách phân loại các nguồn lực phát triển. Dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể hiểu, nguồn lực là lực lượng vật chất để thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo nhiều nhà khoa học thì nguồn lực là bao gồm cả nguồn lực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội... Cho đến nay, có thể nói rằng chưa có một tài liệu chính thức nào đưa ra định nghĩa và khái niệm nguồn lực, mà chỉ đưa ra quan niệm dưới dạng tổng quát, dễ hiểu nguồn lực là toàn bộ các yếu tố cả vật chất và tinh thần đã và đang góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội và chính trị của quốc gia đó. Gần đây trong cuốn sách "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” do GS. TSKH Lê Du Phong làm chủ biên thì "Nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát triển" GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên, Nguồn lực và động lực phát triển trong nền ki._.nh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, 2005, tr.12. . Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã đưa ra thuật ngữ cụ thể và chi tiết hơn về nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế về nguồn lực phát triển đó là "Điều kiện vật chất được sử dụng cho phát triển (các nguồn tài nguyên thiên nhiên cơ sở vật chất, nguồn vốn, nguồn nhân lực...) Viện Chiến lược phát triển "Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb Chính trị quốc gia. H. 2004, tr.70. . TS. Chu Tiến Quang, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: “Theo nghĩa hẹp, nguồn lực được hiểu là các nguồn lực vật chất cho phát triển, ví dụ như tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng tiền… Theo nghĩa rộng, nguồn lực hiểu gồm tất cả các lợi thế, tiềm năng vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định nào đó… Nguồn lực phát triển của một quốc gia được hiểu là khả năng cung cấp các yếu tố cần thiết cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Chu Tiến Quang (chủ biên) Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005. . Các Mác đóng góp lớn vào lý thuyết tăng trưởng với công trình nổi tiếng “Tư bản”. Theo Mác, “Nguồn lực của tăng trưởng kinh tế là sự tích lũy tư bản, trong đó là các yếu tố tác động đến quá trình này là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Xét trên quy mô toàn xã hội, nguồn gốc của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra” Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Tuệ Anh (chủ biên), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991 - 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, H. 2006, tr. 55. . Theo chúng tôi quan niệm về nguồn lực có phạm vi, quy mô rất rộng, nó không chỉ chứa đựng những yếu tố, nhân tố sẵn có, đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế mà cả các nhân tố, tiềm năng có thể góp phần và tạo ra sức mạnh trong tương lai. Như vậy, nguồn lực đóng góp cho tăng trưởng và phát triển kinh tế không phải chỉ có các yếu tố vật chất như các quan niệm cổ đại, mà nó còn có các yếu tố phi vật thể. Đặc biệt trong xu thế hội nhập và mở cửa, do đó nguồn lực bên ngoài, nguồn lực phi vật thể lại có khi còn có tác động nhiều hơn. Cơ cấu quy mô, tỷ trọng của nguồn lực kinh tế không cố định, mà có sự thay đổi tỷ trọng, vai trò và vị trí của từng nguồn lực cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và định hướng của từng quốc gia đó. Từ đó, theo quan niệm của chúng tôi: Nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bao gồm toàn bộ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản, con người trong nước và từ nước ngoài và các yếu tố phi vật thể khác đã, đang và sẽ được khai thác, sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Như vậy, khái niệm nguồn lực là rất rộng và phức tạp. Sự tác động đến quá trình phát triển nền kinh tế do nhiều nhân tố, trong đó có cả nhân tố kinh tế và phi kinh tế. Song chúng ta không thể liệt kê và nghiên cứu tất cả, chỉ nghiên cứu các nguồn lực phát triển cơ bản nhất, bao quát nhất. Nguồn lực phát triển kinh tế là tổng thể các tài nguyên thiên nhiên; hệ thống tài sản quốc gia; nguồn nhân lực, vốn, tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nó không chỉ có trong hiện thực, mà ở cả dạng tiềm năng; không chỉ có ở trong nước, mà còn tính đến khả năng khai thác từ nước ngoài, nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có rất nhiều cách tiếp cận phân loại nguồn lực: Theo chúng tôi, có ba cách phân loại chủ yếu về nguồn lực kinh tế phục vụ cho TTKT và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: Nhóm thứ nhất: - Phân loại theo nhóm nguồn lực mang tính sản xuất vật chất. Đó là các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ. Công thức thường được sử dụng để phân tích trong kinh tế học nói chung và kinh tế học phát triển nói riêng là: Y = f(Xi) Trong đó: Xi: là các yếu tố đầu vào cụ thể: K: Vốn L: Lao động R: Tài nguyên thiên nhiên T: Tiến bộ khoa học và công nghệ - Nhóm thứ hai: là phân loại mang tính chính trị - xã hội. Đó là quan điểm, đường lối, cơ chế, chính sách, các thành phần kinh tế, các loại hình kinh doanh. Đây là nhóm mang tính định tính nhiều hơn là định lượng. - Nhóm thứ ba: là phân loại theo nhóm nguồn nhân lực trong nước và nguồn lực nước ngoài. Cách phân loại này nhằm phân biệt được nguồn nội lực và nguồn ngoại lực,vai trò và tác động của chúng đối với phát triển đất nước. Hoặc có cách phân loại khác là theo nhóm: + Nguồn lực vật thể và phi vật thể. + Nguồn lực trong nước và nước ngoài. + Trực tiếp các nhân tố tác động. + Nguồn lực kinh tế và phi kinh tế. Đối chiếu với mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiếp cận cách phân loại theo nguồn lực kinh tế: tài nguyên thiên nhiên (bao gồm cả đất đai), nguồn vốn, lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ và nguồn lực phi kinh tế. Phân tích nguồn lực phi kinh tế chỉ dưới góc độ tác động gián tiếp, định tính là chính còn chủ yếu là phân tính sự đóng góp của 4 nguồn lực kinh tế chủ yếu dưới đây: a. Nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên nhiên Đây là nguồn lực kinh tế mà tất cả các quá trình sản xuất xét trên phạm vi toàn thế giới đều không thể thiếu được. Có thể nói không có đất đai, tài nguyên thì con người không tồn tại và không có bất kỳ quá trình sản xuất nào, đặc biệt trong giai đoạn đầu của sự phát triển. b. Nguồn lực lao động trong quá trình phát triển Lao động là bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, mà sự vận động và phát triển của xã hội, do lực lượng sản xuất quyết định. Xét cho cùng thì con người giữ vai trò quyết định mọi quá trình sản xuất và sự phát triển kinh tế - xã hội. c. Vốn và nguồn lực vốn trong quá trình phát triển Vốn theo nghĩa rộng bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên đã, đang và sẽ được khai thác và sức lao động của con người, nhất là lao động chất xám; còn theo nghĩa hẹp, vốn là tiền, tài chính và tài sản đã và đang được sử dụng. Vốn quan trọng với quá trình sản xuất và mọi hoạt động của nền kinh tế. d. Khoa học - công nghệ là nguồn lực phát triển Khoa học - công nghệ là nguồn lực quan trọng làm thay đổi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm bớt tiêu hao nguyên, nhiên liệu và giải phóng lao động khỏi độc hại, nặng nhọc và bảo vệ môi trường sinh thái. Khoa học - công nghệ là nguồn lực phát triển cơ bản, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hiện đại. 1.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1.2.1. Nguồn lực con người Nguồn lực con người là nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Nguồn lực con người được hiểu là tổng hoà của các mối quan hệ thống nhất giữa năng lực, thể lực, trí lực, văn hoá và tính năng động, nhạy bén của con người trong một xã hội. Đối với nguồn nhân lực của một quốc gia, vấn đề quan trọng không chỉ là số lượng, quy mô mà là cả chất lượng. Nguồn nhân lực biểu hiện rõ nét nhất là nguồn lao động, chính họ là nguyên nhân là động lực của mọi sự tăng trưởng và phát triển, đồng thời cũng là sản phẩm của phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào trình độ giáo dục, trình độ dân trí, sức khoẻ, số lượng, chất lượng những máy móc, thiết bị sản xuất được trang bị cho người lao động và môi trường sống và làm việc của người lao động đó. Do đó muốn phát triển nguồn nhân lực phải có hệ thống: giáo dục, y tế, văn hoá, môi trường tốt để có được những con người có sức khoẻ tốt, có đủ năng lực làm việc. Như vậy, nguồn lực con người có vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, bản thân nguồn lực con người không chỉ là một nguồn lực đối với tăng trưởng và phát triển, mà nó còn sử dụng các nguồn lực khác nữa. Ở bất kỳ nền kinh tế - xã hội nào, nguồn nhân lực luôn được coi là nhân tố quyết định sự phát triển. Nhất là trong thời đại ngày nay, khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì vai trò của nguồn nhân lực sẽ khẳng định vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt trong xu thế phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, hội nhập sâu của nền kinh tế thế giới và khu vực, nền kinh tế thế giới đã chuyển dần sang nền kinh tế hậu công nghiệp, kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo và nguồn thông tin có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống và làm thay đổi sâu sắc mọi mặt của xã hội, thì vai trò của nguồn lực con người ngày càng được rõ nét và quan trọng hơn. Liên quan trực tiếp đến phát triển nguồn nhân lực là vấn đề quản lý, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực. Tất cả những yếu tố này đều có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực, đến sự phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế nhanh tạo công ăn việc làm, giảm thất nghiệp và ngược lại, người lao động có việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng sẽ góp phần cho tăng trưởng kinh tế. Điều kiện để tạo thêm việc làm là mức tăng trưởng kinh tế phải lớn hơn mức tăng năng suất lao động thì mới thu hút được thêm lao động. Thực tế chứng minh rằng, nguồn lực con người là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển. Tất cả các quốc gia, muốn có tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, đều phải trải qua một quá trình chuyển dịch lao động, trong đó có một lực lượng lớn chuyển từ lao động nông nghiệp sang các khu công nghiệp, khu chế xuất, đô thị. Mặc dù lao động giản đơn, nhưng khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì nguồn lao động thủ công, giản đơn cũng là phải có trình độ kiến thức đủ mức cần thiết để biết và sử dụng khoa học - công nghệ có hiệu quả. Trình độ khoa học ngày càng cao, nhiều thành tựu công nghệ, kỹ thuật mới, tiên tiến được áp dụng vào sản xuất - đời sống ngày càng nhiều, thì vai trò tri thức, hay nói cách khác người lao động có kiến thức chuyên môn sâu, cao ngày càng được đòi hỏi hơn. Không phải ngẫu nhiên, ngày nay, nhiều nước đã xác định trong chiến lược phát triển phải coi phát triển nguồn nhân lực chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia đó trên thị trường quốc tế. Vai trò của nguồn lực con người không chỉ là nhận thức về lý luận, mà phải luôn được khẳng định trong quan điểm, đường lối và cụ thể hóa bằng những cơ chế, chính sách trong thực tế. Do đó, để tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận với những tri thức và công nghệ mới của thời đại, trước hết là phải có nguồn lực lao động có chất lượng cao để thực hiện và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, tạo ra sự chuyển biến trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế khác nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với giá trị gia tăng ngày càng cao và từng bước hình thành kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là cấu thành chất xám, hàm lượng tri thức trong kết quả sản xuất - kinh doanh ngày càng cao. Vì vậy, nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao, luôn là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế và của toàn xã hội. Theo báo cáo Phát triển con người 1996 do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc xuất bản đã nhấn mạnh: “Phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện”. Trong các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ đều khẳng định: “Con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa , mọi nền văn minh của các quốc gia” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Khóa VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1993, tr.5 , “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy to lớn nguồn lực của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Như trên, tr.21 . Năng lực, thể lực và sức mạnh của một quốc gia thể hiện không chỉ ở chỗ quy mô GDP, GNI, tốc độ TTKT… mà đặc biệt phải được biểu hiện ở chất lượng nguồn lực lao động của quốc gia đó. Vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực có một vai trò hết sức quan trọng, có thể nói là quyết định tới tăng trưởng kinh tế. 1.2.2. Nguồn lực vốn Vốn là một nguồn lực cơ bản tạo ra tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại và những của cải tự nhiên như đất đai, khoáng sản đã được khai thác, chế biến... Vốn có thể biểu hiện dưới hình thức vật chất và tiền tệ, giá trị vật chất và ở dưới dạng vô hình. Vốn là yếu tố đầu vào của sản xuất. Vốn của một quốc gia trong thời kỳ nhất định được đo bằng tiền. Nguồn lực tài chính, có thể hiểu đó là lượng vốn thực tế được biểu hiện dưới dạng tiền tệ đã được huy động và sử dụng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo tính toán của các nhà kinh tế, một quốc gia muốn đạt mức tăng trưởng 6-7% thì tổng số vốn đầu tư của xã hội phải tương đối cao chiếm 20-30% GDP. Mối liên hệ giữa tăng trưởng và đầu tư được biết đến nhiều nhất qua công thức Harrod-Domar. Mô hình này chỉ ra rằng, có mối liên hệ bằng công thức toán học giữa tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư trong nền kinh tế thông qua một chỉ số hệ số gia tăng tư bản được viết tắt bằng tiếng Anh là ICOR (Incremental Capital Output Ratio): g = s/k Trong đó, g là tốc độ tăng trưởng GDP, (%) s là tỷ lệ tiết kiệm trong GDP, ở đây luôn giả thiết là tiết kiệm bằng đầu tư (%). ICOR là hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (). Nghiên cứu về ICOR đã được đề cập đến trong rất nhiều nghiên cứu định lượng, đặc biệt là trong các nghiên cứu về chiến lược, để tính toán đầu tư trong tương lai. Chẳng hạn, Viện Chiến lược đã nghiên cứu chỉ số ICOR cho nền kinh tế Việt Nam để sử dụng trong việc tính toán dự báo nguồn vốn cần có cho Chiến lược đến 2010 và tầm nhìn đến 2020. Về cơ bản, ICOR của các nền kinh tế đang phát triển dao động trong khoảng từ 2 - 5 có nghĩa là muốn có một đồng sản lượng đầu ra thì cần từ 2 đến 5 đồng đầu vào. Tuy nhiên, chỉ số này sẽ tăng lên nhanh chóng cùng với việc tăng cường đầu tư, cùng với việc sử dụng không hiệu quả nó. Vốn có được từ 2 nguồn: trong nước và ngoài nước. Nguồn vốn trong nước bao gồm: đầu tư từ ngân sách Nhà nước, tín dụng trong nước, vốn trong dân, đầu tư của doanh nghiệp trong nước... Vốn ngoài nước bao gồm vốn: Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp (FDI và FPI), kiều hối, vốn của các Tổ chức phi chính phủ (NGOs)... Hiệu quả của nhân tố vốn không chỉ bao gồm mức vốn đầu tư mà cả hiệu suất sử dụng vốn để tăng trưởng thông qua nhiều chỉ số khác nhau, mà một trong các chỉ số là hệ số ICOR. Hiệu suất sử dụng vốn tuỳ thuộc vào khả năng kết hợp vốn với các nguồn lực khác cũng như chiến lược sử dụng nguồn vốn đã vay, đặc biệt là chiến lược và quy hoạch đầu tư. 1.2.3. Nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên nhiên Nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm: nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn có trên mặt đất, trong lòng đất và tài nguyên thiên nhiên vô hạn. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực cơ bản của tăng trưởng và phát triển bền vững. Con người muốn tồn tại phải biết khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, biến nó thành sản phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Mặt khác con người vẫn phải duy trì sống và phải khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với tự nhiên để tồn tại và phát triển, chứ thiên nhiên không lệ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Nói cách khác, không có tài nguyên thiên nhiên và môi trường tự nhiên thì không có bất kỳ quá trình sản xuất xã hội nào và cũng không có sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Khi nói về vai trò của tài nguyên thiên nhiên, trong đó có đất đai, William Petty đã khái quát bằng một câu "Lao động là cha, còn đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất". Nghĩa là con người và tài nguyên thiên nhiên là hai yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất xã hội. Điều đó khẳng định vai trò của tài nguyên thiên nhiên rất cần thiết cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai lại càng có vai trò quan trọng, bởi vì con người muốn tồn tại và phát triển thì phải ăn, mặc, ở... Mà muốn có ăn, mặc, ở... thì phải sản xuất nông nghịêp, trước hết là trồng trọt và chăn nuôi... Điều kiện tiên quyết để sản xuất chăn nuôi hay trồng trọt thì phải có đất đai. Trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ và các ngành khác, đất đai là điều kiện để xây dựng nhà xưởng, đường xá, cầu, cống, các công trình văn hoá - nghệ thuật... nếu không có đất đai thì không thể thực hiện được. Cách tiếp cận thì đơn giản như vậy, nhưng hàm ý là tài nguyên thiên nhiên trong đó có đất đai có một vai trò hết sức to lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cùng với đất đai, rừng biển, tài nguyên khoáng sản cũng là nguồn tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng. Đây là những lợi thế trời cho: đất đai rộng lớn, phì nhiêu, biển rộng, tài nguyên khoáng sản dồi dào, trữ lượng lớn, khai thác đơn giản. Đây là một nguồn lực kinh tế hết sức quan trọng, là đầu vào của tất cả mọi nền sản xuất. Nhưng vấn đề là ở chỗ, không chỉ có nhiều tài nguyên mà vấn đề là khai thác và sử dụng chúng thế nào cho có hiệu quả. Bởi vì, tài nguyên thiên nhiên vẫn là yếu tố đầu vào cho mọi quá trình sản xuất và nguồn lực tự nhiên, có vai trò rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần, chứ không phải là điều kiện đủ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh kinh tế, khi con người biết khai thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, nhiều loại tài nguyên thiên nhiên có trữ lượng lớn, song vẫn là nước nghèo hoặc kém phát triển. Ngược lại, có nhiều nước nguồn lực tự nhiên khan hiếm, mật độ dân số cao, nhưng lại là nước phát triển. Trước đây, việc thiếu hoặc giàu tài nguyên thiên nhiên tạo ra sự khác biệt lớn trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, nhưng ngày nay, giàu tài nguyên không còn là yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công trong phát triển. Nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay Cộng hòa liên bang Đức và một số nước khác có trình độ phát triển kinh tế cao, nhưng lại có ít hoặc rất nghèo tài nguyên thiên nhiên. Nhưng họ lại sử dụng tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp của mình và biết cách khai thác, sử dụng tài nguyên từ các nước khác một cách hợp lý và có hiệu quả. Còn ngược lại, nhiều nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng khai thác, sử dụng không hợp lý, xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế là chủ yếu thì vẫn là nước nghèo hoặc đang phát triển. Như vậy, nếu biết khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý thì sẽ giúp chúng ta có môi trường sống thích hợp bền vững, thân thiện và đặc biệt là sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên (vốn trời cho) có hiệu quả thì sẽ giúp đất nước tăng trưởng và phát triển bền vững. 1.2.4. Nguồn lực khoa học - công nghệ Khoa học - công nghệ luôn là một nguồn lực cơ bản, nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế: Khả năng nghiên cứu, sáng tạo ra các công nghệ mới và năng lực tổ chức chuyển giao các kết quả nghiên cứu đó vào ứng dụng trong các hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ, nhằm tạo cho nền kinh tế phát triển nhanh, vững chắc, đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Nghiên cứu khoa học sẽ tạo ra các công nghệ mới. Nghiên cứu khoa học giúp cho con người hiểu được bản chất của thế giới tự nhiên, nắm được các quy luật vận động tự thân của nó, trên cơ sở đó tìm tòi, sáng tạo ra các công nghệ mới ngày càng hiện đại để chinh phục thế giới tự nhiên, bắt nó phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống của con người và sự phát triển không ngừng của xã hội loài người. Tổ chức chuyển giao các kết quả nghiên cứu được vào sản xuất và đời sống. Nghiên cứu đã là vấn đề khó khăn, phức tạp, song việc đưa được kết quả nghiên cứu vào cuộc sống càng không phải là chuyện dễ. Thực tiễn phát triển của xã hội loài người đã cho chúng ta thấy không ít những nghiên cứu, phát minh làm ra bị bỏ trong các ngăn kéo của các nhà khoa học, hoặc phải đến hàng chục, thậm chí vài chục năm sau mới được đưa ra ứng dụng. Nếu áp dụng công nghệ mới vào sản xuất thì sẽ góp phần cho tăng trưởng theo chiều sâu, quyết định chất lượng của sự tăng trưởng, tạo năng suất lao động cao, gia tăng tích luỹ, từ đó đầu tư lớn cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Công nghệ mới góp phần mở rộng quy mô sản xuất, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, giúp con người khai thác có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên thiên nhiên để đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Trên thế giới, Nhật Bản chính là một ví dụ điển hình cho chúng ta học tập việc sử dụng thành quả của khoa học tiên tiến thế giới. Nhờ việc mua kỹ thuật tiên tiến của Mỹ và áp dụng chế độ quản lý tốt mà Nhật Bản đã tạo ra được sự phát triển kinh tế thần kỳ, nhanh chóng vượt qua các nước tư bản phát triển khác trong một thời gian tương đối ngắn (khoảng 10 năm). Ngày nay, thế giới đang trong quá trình chuyển nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức - nền kinh tế mà hàm lượng trí tuệ chiếm trong giá trị hàng hoá và dịch vụ tới 60-70%, thì nguồn lực khoa học - công nghệ trở nên vô cùng quan trọng, ngày càng dần dần chiếm vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở xã hội hiện đại. Một trong những lợi thế hiện nay là: Các nền kinh tế đi sau thường thông qua mua, sử dụng các công nghệ mới mà không cần phát minh lại từ đầu, từ đó nhằm giảm chi phí và rút ngắn quá trình phát triển. Tuy vậy, cũng cần cân nhắc là không phải lúc nào cũng mua được công nghệ thượng nguồn và nếu mua được thì giá rất cao. Những nước kém phát triển thì không đủ tiền mua mà nhà phát minh cũng không muốn bán. Vì vậy, ngoài việc mua công nghệ thì vẫn phải tiếp tục tự nghiên cứu và ứng dụng, thêm vào đó phải có lực lượng lao động có chuyên môn, kỹ thuật để sử dụng công nghệ mới đó. 1.2.5. Nguồn lực phi vật thể Nguồn lực phi vật thể (nguồn lực vô hình) là nguồn lực văn hoá biểu hiện như là bình diện tinh thần, là linh hồn của mỗi nền văn minh. Nguồn lực phi vật thể chứa đựng ba yếu tố: văn hoá, bảng giá trị văn hoá của một dân tộc và văn hoá truyền thống quật cường của dân tộc, thể chế chính trị. - Văn hoá Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hoá, song nhiều người đồng tình với định nghĩa do ông Federico Mayor, nguyên Tổng Giám đốc UNESCO đưa ra nhân dịp phát động "Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá" 1988-1997 là: "Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc". Văn hoá, văn minh đều là thành tựu của loài người, đạt được trong quá trình hoạt động thực tiễn. Văn minh thể hiện những thành tựu về vật chất - kỹ thuật, còn văn hoá biểu hiện trong những tập quá tinh thần, mà thành tựu của nó thể hiện trong các lĩnh vực tư tưởng, triết học, tôn giáo và nghệ thuật. - Truyền thống dân tộc, tôn giáo Truyền thống của dân tộc là một nguồn lực đặc biệt quan trọng, người dân có truyền thống trong đấu tranh giữ nước thì chắc chắn cũng sẽ phát huy truyền thống này trong làm kinh tế, nếu như biết khai thác và sử dụng đúng truyền thống này. Mỗi một dân tộc đều có những tín ngưỡng khác nhau, Nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của họ và nếu có chính sách đúng đắn thì sẽ tạo ra sự hoà hợp giữa các giáo dân khác nhau, các tôn giáo và khi đó nó sẽ góp phần ổn định và sẽ trở thành nhân tố tác động tích cực đến tăng trưởng và phát triển. - Thể chế chính trị và đường lối phát triển kinh tế - xã hội: Mối quan hệ giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở đã trở thành chân lý cho mọi thời đại, mọi quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Sự tác động của ý chí, thể chế thông qua hệ thống pháp luật do thượng tầng kiến trúc đặt ra sẽ có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển. 1.2.6. Mối quan hệ giữa các nguồn lực Năm nguồn lực nêu ở trên, đặc biệt là các nguồn lực vật chất: nguồn lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên và tiến bộ khoa học - công nghệ đều có vị trí, vai trò tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nói như vậy không có nghĩa nguồn lực phi vật thể không quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với phát triển bền vững, nhưng với điều kiện và năng lực có hạn và phạm vi nghiên cứu của vấn đề chúng tôi chỉ xem xét nó dưới góc độ tác động. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào để huy động, khai thác, đặc biệt là sử dụng có hiệu quả hài hòa các nguồn lực đó? Theo các nhà kinh tế để có thể tăng trưởng kinh tế thì phải sử dụng các nguồn lực, hay nói cách khác các nguồn lực vật chất này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau trong một hàm sản xuất và có 6 bước để phân tích các nguồn lực của tăng trưởng từ hàm sản xuất tổng thể. Để đơn giản chúng tôi giả sử rằng các nguồn lực này được thể hiện vào hai yếu tố đầu vào của sản xuất là lao động và vốn. Hàm sản xuất tổng thể có dạng: Y(t) = F (K, L, t) Là hàm liên tục và đồng nhất bậc 1 Y là thu nhập quốc dân hay tổng sản phẩm K là vốn L là lực lượng lao động t là thời gian tăng trưởng của thu nhập tăng trưởng của vốn tăng trưởng của lao động tỷ trọng thu nhập của vốn trên tổng thu nhập quốc dân Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, lương và lãi suất cân bằng với sản phẩm biên của lao động và vốn. Nếu như: mức lương thì tỷ trọng của lương trong tổng thu nhập. Tương tự như vậy, nếu như: i (lãi suất) thì tỷ trọng thu nhập của vốn trong tổng thu nhập. và TFP = phần tăng năng suất nhân tố tổng hợp đem lại và được tính: TFP = phần dư = gY - wKgK - wlgl Ngoài ra, tất cả các nhân tố khác như thể chế kinh tế, yếu tố thị trường, trình độ khoa học công nghệ, nguồn lực tự nhiên, lợi thế so sánh được xem xét chung và gọi là năng suất nhân tố tổng hợp. Đó là những thành tựu khoa học và công nghệ được vật chất hoá và được chuyển giao ứng dụng vào các lĩnh vực sản xuất, trở thành bộ phận lực lượng sản xuất quan trọng có tính quyết định tới kết quả và hiệu quả trong sản xuất. Nguồn lực tài nguyên các loại, là nguồn cung cấp điều kiện và nguyên liệu cho phát triển sản xuất. Trong chừng mực nào đó cũng là nguồn đóng góp quan trọng vào tích luỹ vốn cần thiết cho thực hiện công cuộc phát triển ngay từ những bước đầu. Những khả năng, lợi thế của đất nước sẽ trở thành nguồn lực tác động tích cực đến xu thế và mức độ phát triển, nếu được khai thác hợp lý. Quá trình tăng trưởng kinh tế có thể được mô tả một cách chính thức là kết quả của sự mở rộng các nguồn lực sản xuất và sự gia tăng hiệu quả sử dụng chúng. Trong quá trình chuyển đổi (hoặc trong kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế hiện đại), sự tăng lên của đầu vào - lao động và vốn - cũng gia tăng, nhưng thành phần quan trọng nhất đóng góp cho tăng trưởng sản lượng ở các nước phát triển cho đến nay lại là sự gia tăng của năng suất nhân tố tổng hợp. Việc tính toán TFP phụ thuộc rất nhiều vào nguồn số liệu, đặc biệt là số liệu về vốn (K). Phần nhiều, các nghiên cứu về K chỉ là giả định và độ tốt của việc tính toán phụ thuộc rất nhiều vào độ tốt của việc tính toán, ước lượng giả định của các số liệu về K. Các nước có hệ thống thống kê tương đối tốt thường công bố tỷ lệ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân (gy) và tỷ lệ tăng trưởng lao động (gL). Số liệu cho tính toán tăng trưởng của vốn thường khó hơn và thường chỉ được ước lượng ở các nước công nghiệp. Các nhà kinh tế khi tính toán số liệu ở các nước đang phát triển thường không đưa K vào phương trình vì vậy một phần của phương trình này trở thành: i = là lãi suất = d = tỷ trọng của tổng đầu tư quốc nội trên tổng sản phẩm quốc nội. Tỷ trọng d thường được tính toán ở hầu hết các nước. Số liệu về tỷ trọng của thu nhập lao động trong tổng thu nhập quốc dân (wL) là tổng của lương và tiền công trả cho người lao động cộng với thu nhập hỗn hợp của nông dân. Tỷ trọng của thu nhập vốn trên tổng thu nhập bao gồm lãi suất và lợi nhuận. Trong mô hình gồm hai yếu tố đầu vào wK bao hàm thu nhập từ tài sản trong đó bao gồm cả thu nhập từ cho thuê đất. Như vậy, cuối cùng chúng ta có công thức thể hiện tăng trưởng thông qua các nguồn lực như sau: gY = i.d + wL.gL + TFP Việc đưa được về công thức tính tăng trưởng thông qua TFP, lãi suất, tỷ trọng đầu tư trong GDP, thu nhập của lao động trong GDP, tỷ lệ tăng trưởng lao động đã làm cho việc tính TFP chỉ thông qua các yếu tố thay thế yếu tố vốn là một giải pháp thuận lợi cho việc tính TFP ở các nước chưa thống kê được vốn Trần Kim Chung, 2003, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam dưới góc độ phân tích các nguồn lực kinh tế. Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 30, 31, 32. . Do đó, giải thích vì sao khi chúng ta nói các nguồn lực có vai trò rất quan trọng tới tăng trưởng và phát triển của một quốc gia. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng các nguồn lực và sử dụng tốt có hiệu quả sẽ tác động trở lại tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, nói đến các nguồn lực chúng ta mới dừng ở chỗ tiềm năng, lợi thế, mà chưa phân tích và đánh giá sâu (do nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau) bằng các chỉ số định lượng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều tài liệu, nhiều nhà khoa học đã tính toán việc sử dụng các nguồn lực đó để trở thành các nhân tố tác động trực tiếp tới tăng trưởng và phát triển kinh tế cả lý thuyết lẫn thực tiễn, mà cụ thể là các công trình của các tác giả: TS. Tăng Văn Khiên, PGS.TS Lê Xuân Bá, TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh, TS. Trần Kim Chung, PGS.TS Trần Thọ Đạt, PGS.TS Nguyễn Khắc Minh và nhiều nhà khoa học khác như đã nói ở phần tình hình nghiên cứu. 1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Hơn 40 năm kể từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đặc biệt là vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều nước đã giành được độc lập, nhưng chỉ có một số nước châu Á, hay châu Mỹ la tinh đã phát triển và trở thành những nước công nghiệp hóa, hay công nghiệp hóa mới. Điển hình là Nhật Bản, tiếp theo đó là các nước hay những con rồng mới nổi dậy: Hàn Quốc, Singapore, Braxin và vùng lãnh thổ Hồng Kông, Đài Loan… Vậy tại sao và bằng cách nào các nước hay các vùng lãnh thổ đã._.ộc coi đây là một nguồn lực vô giá và quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, đặc điểm dân tộc, phong tục, tập quán tốt đó là góp phần trực tiếp vào phát triển bền vững của nước ta. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Tăng trưởng kinh tế của nước ta thời gian qua là đáng khích lệ, ở chỗ không chỉ là tốc độ, thời gian mà cả chất lượng tăng trưởng cũng được nâng cao. Những nguồn lực sẵn có của đất nước đã và đang sử dụng tương đối có hiệu quả. Nhiều nguồn lực ngoài nước đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đề tài nghiên cứu đã hệ thống hóa và làm rõ được một số khái niệm cơ bản về nguồn lực, đặc biệt là các nguồn lực kinh tế cơ bản và sự đóng góp của chúng vào tăng trưởng kinh tế. Các tác giả cũng đã cố gắng rút ra những kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam từ những nước như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc biết khai thác và sử dụng có hiệu quả đóng góp của các nguồn lực. Các nhà khoa học đã khái quát tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các thời kỳ: về tốc độ tăng trưởng, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế… Đặc biệt, các tác giả đã đánh giá sự đóng góp của nguồn lực chủ yếu vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đó là sự đóng góp của 4 nguồn lực vật chất cơ bản: tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và tiến bộ khoa học - công nghệ. Phải nhận thấy rằng, trong những năm gần đây tiến bộ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là nhân tố năng suất tổng hợp đã ngày càng đóng góp với tốc độ và tỷ trọng cao vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việc huy động và sử dụng sẵn có các nguồn lực sẵn có cũng như các nguồn lực từ bên ngoài ngày càng nhiều và có những đóng góp nhất định cho tăng trưởng kinh tế nước ta. Sự đóng góp của các nguồn lực kinh tế vào tăng trưởng kinh tế đã góp phần cho phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ an ninh, chủ quyền kinh tế quốc gia và từ đó nâng cao vị trí kinh tế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy vậy, chúng ta cũng thấy rõ rằng, nền kinh tế của Việt Nam vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và thế mạnh của mình. Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn sẽ còn dựa vào chiều rộng: tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động đông đảo, giá rẻ, còn dựa vào nguồn vốn không phải là thế mạnh của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt là hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn thấp, thể hiện bằng các chỉ tiêu và con số cụ thể, đó là hệ số ICOR, TFP, hiệu quả kinh tế, tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, tỷ lệ lao động quy đổi không qua đào tạo trong tổng số lao động, nhập siêu… Trong đó, phải kể đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế không cao trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt của xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Các tác giả cũng đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế của quốc tế và khu vực. Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của đề tài có một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, Cần phải có một chuỗi số liệu dài qua các năm, chính xác, thống nhất và khách quan. Có thể do khách quan, các nghiên cứu của Việt Nam thường gặp khó khăn về số liệu và độ chính xác của các con số đã được công bố. Vì vậy, trước hết theo chúng tôi phải có số liệu và chuỗi số liệu thống nhất và tương đối chính xác theo thời gian, không được phụ thuộc vào các lý do nào khác. Có như vậy mới có thể đánh giá đầy đủ và tương đối chính xác thực trạng huy động và sử dụng các nguồn lực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hạ tầng thông tin cần phải đảm bảo tính chính xác, minh bạch, khách quan, kịp thời, liên tục và có hệ thống (chuỗi số liệu). Hiện tại, chúng ta có một hệ thống thông tin chính thống (Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí của Văn phòng Chính phủ…) nhưng chưa đầy đủ, mà chủ yếu còn chồng chéo, không kịp thời, thậm chí còn nhiều thông tin sai lệch. Nội dung thông tin nghèo nàn, tập trung chủ yếu vào truyền thống, tiềm năng mà chưa đánh giá được đầy đủ, chính xác trữ lượng tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực vốn, huy động, sử dụng và trả nợ, chất lượng đội ngũ lao động, trình độ khoa học - công nghệ đã và đang được khai thác hiệu quả như thế nào? Do vậy, để có chất lượng thông tin, cụ thể là Tổng cục Thống kê thay mặt cho Nhà nước công bố các số liệu và các cơ quan khác có liên quan đến nguồn lực phát triển cần phải thiết lập một quy trình thu thập (thông tin sơ cấp phải chính xác và đầy đủ) và từ đó để có đủ căn cứ khoa học xử lý thông tin (thông tin thứ cấp: công khai minh bạch, rõ ràng, chính xác, đầy đủ…). Tổ chức khai thác thông tin (cả thông tin trả tiền và thông tin miễn phí) tùy theo từng đối tượng cho tất cả những người dùng tin. Sử dụng các chuyên gia để phản biện thông tin, giúp cho các nhà lãnh đạo, quản lý hiểu được đúng thực chất của vấn đề. Và quan trọng hơn là từ đó có những dự báo trước mắt cũng như lâu dài khả năng, điều kiện khai thác và sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như việc huy động nguồn lực từ bên ngoài. Thứ hai, Đánh giá đầy đủ và chính xác khả năng, tiềm năng và đặc biệt là trữ lượng, quy mô của các nguồn tài nguyên nước ta như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, biển. Mặc dù có nhiều tiến bộ trong việc quản lý đất đai, tài nguyên, trong đó phải nói đến đất đai, rừng, giao quyền cho người nông dân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong Luật pháp và việc thực thi những cơ chế, chính sách, không những gây khó khăn cho phát triển sản xuất mà còn tạo điều kiện cho tham nhũng, đầu cơ, làm giàu bất chính, khiến nhân dân không đồng tình, khiếu kiện gia tăng như: thu hồi đất nông nghiệp, giao quyền khai thác tài nguyên khoáng sản, mặt nước… Vì vậy theo chúng tôi phải tiến hành quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản ở từng địa phương, ngành theo yêu cầu mới, vừa có quy hoạch cứng, vừa có quy hoạch mềm trong một tổng thể quy hoạch đất của cả nước, trước hết, các địa phương phải quy hoạch lại các mục đích sử dụng, xác định lại kế hoạch sử dụng đất. Các Bộ, ngành phối hợp với địa phương trong việc khai thác, sử dụng các loại tài nguyên khoáng sản. Kế hoạch sử dụng đất phải được công khai hóa. Tài nguyên thiên nhiên phải được khảo sát và đánh giá lại trữ lượng, quy mô, khả năng khai thác, từ đó mới có quy hoạch khai thác và sử dụng nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của hiện tại mà không gây tổn thất cho thế hệ mai sau. Tránh tình trạng “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Gắn việc quy hoạch sử dụng đất với việc bảo vệ nguồn lực tự nhiên trong lòng đất: nước ngầm, tài nguyên khoáng sản và các sinh vật tự nhiên dưới mặt nước. Trong chính sách đất đai, thuế tài nguyên, sự phối hợp giữa các cơ quan không đồng bộ nên dẫn đến hiệu quả sử dụng tài nguyên không như mong muốn. Chưa chú ý đến người lao động, đến năng lực và khả năng của họ. Thứ ba, Cần thống nhất và đánh giá tổng hợp, chính xác, khách quan và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đã có, đã huy động được, từ đó có những dự báo dài hạn về khả năng huy động các nguồn lực từ bên trong và bên ngoài. Cần xác định rõ và công khai hóa những quy định cụ thể về các chế độ sử dụng, trách nhiệm của người sử dụng các nguồn lực: đất đai, vốn, tài nguyên thiên nhiên, lao động. Bởi vì việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực này phụ thuộc rất nhiều vào thái độ và sự hiểu biết của người sử dụng. Do vậy, cần có những bước tiếp theo là không chỉ hoàn thiện luật pháp mà còn nâng cao sự nhận thức và vận dụng luật kể cả phẩm chất, năng lực và bản lĩnh chính trị của người sử dụng các nguồn lực vào cuộc sống. Đối với các nguồn vốn, cần phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã được huy động. Trước hết, phải lấy các chỉ tiêu kinh tế: hệ số ICOR, tỷ suất lợi nhuận/vốn sở hữu, vốn NSNN, vốn vay, thời hạn trả nợ…, mối tương quan giữa vốn đầu tư trong nước với vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng đầu tư phát triển trong các nguồn vốn… Đặc biệt phải quan tâm đến hiệu quả vốn từ NSNN. Thất thoát, tham nhũng bắt đầu chủ yếu là từ NSNN hoặc có tính NSNN. Cần phải công khai các chế độ, chính sách, số liệu, tài liệu liên quan đến dự toán, quyết toán, tiến độ các công trình đầu tư từ NSNN hoặc liên quan đến NSNN (vay ODA, viện trợ không hoàn lại, vay bù đắp thiếu hụt NSNN…). Huy động nhiều hơn và sử dụng tốt vốn tín dụng thương mại. NSNN chỉ giành đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, các lĩnh vực xã hội… Tiến tới xóa bỏ bao cấp của Nhà nước cho DNNN dưới các hình thức trợ giúp, ưu đãi, hỗ trợ (chỉ trừ DNNN hoạt động trong một số lĩnh vực công ích và an ninh quốc phòng). Sử dụng đúng hướng các nguồn vốn vay ưu đãi, viện trợ không hoàn lại. Xử lý thích đáng những tổ chức, cá nhân vi phạm trong việc sử dụng vốn từ NSNN. Thứ tư, Xác định mối quan hệ giữa vốn vật chất và vốn phi vật chất. Tăng trưởng và phát triển kinh tế, như đã nói ở trên cần phải có nhiều nguồn lực vật thể và phi vật thể khác nhau. Vấn đề là trong từng thời điểm, từng hoàn cảnh cụ thể cần phải khai thác và sử dụng chúng như thế nào cho có hiệu quả. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta quá chú trọng vào một nguồn lực nào mà phải sử dụng chúng trong mối quan hệ tương quan tổng thể và biện chứng. Tránh tình trạng chỉ quan tâm đến mục đích của nguồn lực này mà cản trở mục đích huy động và sử dụng nguồn vốn khác. Thứ năm, Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và môi trường kinh doanh. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thì vấn đề cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh là một trong những yếu tố không thể thiếu được. Vì vậy để có môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng là một trong những điều kiện tiên quyết để phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất. Cải cách hành chính, môi trường kinh doanh ở đây cần được thể hiện bằng sự công khai, minh bạch, rõ ràng, dài hạn và bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế, các loại hình kinh doanh và không có phân biệt, đối xử. cải thiên môi trường đầu tư chính là điểm nhấn để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Như cải cách hành chính làm cho người tham gia đầu tư được thuận lợi và nhanh chóng hơn. Một tài liệu nghiên cứu cho thấy, ở nước ta công tác chuẩn bị đầu tư kéo dài từ 2 - 3 năm, trong khi đó ở Thái Lan chỉ mất 5 tháng; dự án được phê duyệt rồi thì việc giải phóng mặt bằng có khi mất 5 - 6 năm mới được triển khai. Do vậy cần phải tiến hành rà soát và bổ sung những văn bản, các quy định nội bộ không còn phù hợp cho việc tiếp nhận và xử lý công việc cho người dân và doanh nghiệp, kiên quyết loại bỏ những khâu trung gian, những thủ tục rườm rà, chồng chéo, những giấy tờ không cần thiết. Sớm hình thành và phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường tài nguyên thiên nhiên… để cho nhà đầu tư, người dân tiếp cận được thông tin kịp thời và đầy đủ. Đặc biệt, giá cả của các nguồn lực được phản ánh theo giá cả thị trường và có sự điều tiết của Nhà nước. Phải thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên và có những hình thức xử lý thích đáng để khắc phục tình trạng không công khai, minh bạch trong việc phân bố, sử dụng các nguồn lực (đặc biệt là trong quy hoạch đất đai, vốn NSNN, vốn ODA, các dự án…). Kiên quyết khắc phục tình trạng sách nhiễu, cửa quyền, “một cửa mà thêm một cửa” và “một cửa thêm nhiều khóa”, “phép vua thua lệ làng”, tham nhũng, thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước, kể cả sai lầm trong quy hoạch, kế hoạch, chiến lược đầu tư và sử dụng các nguồn lực. Thứ sáu, Cần phải có cách nhìn nhận mới về các nguồn lực viện trợ từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ODA. Cho đến nay, chưa có một đánh giá, phân tích, đầy đủ, đúng đắn tổng thể tác động nhiều mặt của các nguồn viện trợ rót vào Việt Nam trong thời gian qua. Mặc dù gần đây Quốc hội và Chính phủ đã nhiều lần yêu cầu các cơ quan chức năng, các bộ, ban, ngành địa phương báo cáo tổng kết về vốn nước ngoài, trong đó có ODA. Đã có nhiều hội nghị, công trình nghiên cứu, song các báo cáo này chủ yếu mang tính chất ngắn hạn, tập trung vào việc quản lý ODA và phân tích hiệu quả ở cấp độ vi mô của các dự án và chương trình viện trợ. Nghiên cứu tổng thể viện trợ ở cấp độ tác động vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế và thể chế của đất nước cả ngắn hạn và trong dài hạn chưa được thực hiện. Ai cũng biết và hiểu vốn ODA là vốn vay, vay ưu đãi, dài hạn, lãi suất thấp, có những ân hạn nhất định nhưng phải trả (mặc dù có tỷ lệ không nhỏ là viện trợ cho không). Tuy vậy, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả cao nhất và có kế hoạch trả nợ thì chưa được bàn nhiều. Giá đắt phải trả là nếu coi những ưu đãi này hoặc sử dụng không hiệu quả (như các vụ án đã được đưa trên các phương tiện thông tin đại chúng gần đây và đã được đưa ra xét xử) thì sẽ dẫn đến lãng phí, lệ thuộc và trở thành gánh nợ cho con cháu chúng ta sau này. Thêm vào đó, vốn ODA sẽ giảm dần khi đất nước có mức tăng trưởng cao, ổn định và nếu có thì các điều kiện vay, trả nợ cũng sẽ khắt khe và khó khăn hơn trước. Để nâng cao chất lượng chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài nói chung thì cần phải có phương pháp phân tích nợ bền vững để xác định loại nợ, tầm quan trọng của các loại nợ, mức trần tổng thể cho việc vay nợ nước ngoài của cả nước và các hạn mức… Vì các nước và các tổ chức tài chính quốc tế đều có những quy định khác nhau về vay ODA. Vay ưu đãi ODA là hình thức vay nợ cần được điều tiết một cách thích đáng trong chiến lược này. Theo ý kiến của chúng tôi cần xây dựng các tiêu chí để những chương trình, dự án nào thì sử dụng vốn ODA và chương trình, dự án nào sử dụng nguồn vốn trong nước. Vốn đối ứng bao nhiêu? thể hiện cụ thể ở những mục nào: tiền mặt, đất đai, nhân công, nhà xưởng… Tương tự, cần có tiêu chí cụ thể hơn để lựa chọn giữa các dự án có yêu cầu sử dụng nguồn ODA cũng như giữa các đề xuất tài trợ của các nhà tài trợ quốc tế. Thực ra, cho đến nay việc lựa chọn các dự án đầu tư một cách duy ý chí vẫn còn tồn tại không chỉ với một số các dự án sử dụng nguồn vốn ODA mà còn với một số các dự án sử dụng vốn công cộng. Việc xây dựng các tiêu chí cụ thể cho các dự án đầu tư bằng nguồn vốn công cộng nói chung, bao gồm cả nguồn vốn ODA, là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Cần đẩy nhanh quá trình hài hòa thủ tục và hài hòa các định mức chi phí giữa các nhà tài trợ ODA với định mức ngân sách để giải ngân nhanh vốn ODA, chống lãng phí. Việc áp dụng các thủ tục và các định mức chi phí khác nhau đối với các chương trình, dự án được tài trợ bằng ODA và các hoạt động được tài trợ bằng nguồn vốn trong nước có thể dẫn đến những khuyến khích cho sự lãng phí trong các dự án ODA. Quá trình hài hòa không những nhằm mục đích chống lãng phí mà hơn thế nữa, có thể có tác động cải thiện hơn nữa thủ tục và định mức chi phí của Chính phủ. Cần có sự phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa các cơ quan được Chính phủ phân công trong việc lập kế hoạch, điều phối vay, trả nợ và sử dụng vốn ODA. Cụ thể giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương… Trong xu hướng cải cách hành chính và phân cấp chung, rất nhiều các dự án có sử dụng nguồn vốn ODA đã và đang được giao cho các tỉnh và các địa phương quản lý. Cần tăng cường hơn nữa năng lực theo dõi, giám sát này của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để đánh giá với đầy đủ chi tiết về hiệu quả của các dự án các loại. Công khai hóa thông tin về các dự án đầu tư công cộng là một điều kiện tiên quyết để chống tham nhũng, chống thất thoát, tăng cường trách nhiệm và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các chương trình, dự án có đầu tư bằng nguồn vốn ODA cũng không nằm ngoài mục tiêu này. Việc công khai hóa thông tin tài chính hiện nay đặc biệt còn yếu và đòi hỏi những cố gắng lớn của Chính phủ, các Bộ, Ban, ngành và địa phương. Thứ bảy, Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của các nguồn lực kinh tế Nhà nước, đặc biệt là hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp Nhà nước. Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì vậy, nếu Nhà nước không giữ một lực lượng kinh tế hùng hậu, đặc biệt là các nguồn lực kinh tế cơ bản: đất đai, tài nguyên, vùng trời, vùng biển, NSNN, DNNN lớn, then chốt, quỹ dự trữ quốc gia,… thì hệ thống kinh tế đất nước không thể vận hành một cách hài hòa và đối phó với những biến động của nền kinh tế thế giới, giữ vững độc lập, tự chủ được. Nhưng nếu giữ bằng mọi giá thì không thể được và không phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, trước hết phải xác định rõ kinh tế Nhà nước nắm giữ đến đâu, hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị - xã hội như thế nào? Cần có những chỉ tiêu, quy định tương đối cụ thể. Đặc biệt là vấn đề lý luận sở hữu Nhà nước, công hữu, quản lý Nhà nước về tài sản công cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung. Đối với DNNN, cần quyết tâm thực hiện cải cách, trên cơ sở sắp xếp, đổi mới DNNN thời gian qua, làm rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng và trách nhiệm của người lãnh đạo và người lao động tại DNNN. Từ đó, xác định rõ ai là chủ sở hữu đích thực tại doanh nghiệp. Chính phủ cần tập trung chỉ đạo, giúp các DNNN xử lý những vấn đề tồn tại do lịch sử để lại (nợ xấu, lao động dôi dư trong việc sắp xếp lại, lao động thiếu chuyên môn, lao động quản lý…). Như Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX) đã khẳng định “Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của DNNN phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích” Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, Nxb. CTQG, H. 2001, tr. 7. . Cần có tổng kết các mô hình thí điểm Tập đoàn kinh tế để nâng cao hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả kinh tế của loại hình doanh nghiệp này, tránh tình trạng “lớn mà không mạnh”, “to mà yếu”… Cho đến nay, các Tổng công ty thí điểm hình thành Tập đoàn kinh tế nhưng chưa hình thành được các đặc trưng, đặc điểm của Tập đoàn kinh tế, chưa xây dựng được biểu tượng chung, thương hiệu chung và gắn kết các doanh nghiệp thành viên bằng thương hiệu chung, biểu tượng chung của Tập đoàn kinh tế. Thực trạng quản trị các doanh nghiệp trong Tập đoàn kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu mới, việc điều hành, quản lý của công ty mẹ, quyền, động lực, trách nhiệm của bộ máy quản lý tập đoàn chưa rõ; trình độ quản trị của cán bộ các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn kinh tế chưa đồng đều nhưng chưa được các Tổng công ty thí điểm và cơ quan chỉ đạo thí điểm quan tâm nhiều Kinh tế Việt Nam 2007, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, H. 2008, tr. 65. Làm rõ mối quan hệ, chức năng, nhiệm vụ Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc, quan hệ Đảng lãnh đạo trong DNNN, Nhà nước với DNNN, DNNN với người lao động… Xây dựng quy chế dân chủ trong doanh nghiệp, mối quan hệ giữa DNNN đóng tại địa bàn… Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNN bằng công nghệ, bằng nguồn lao động chất lượng cao, năng suất lao động và khả năng chiếm lĩnh thị trường và tạo mối liên kết chặt chẽ giữa DNNN với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vì lợi ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp. Có chế độ đãi ngộ thích đáng, tôn vinh những Giám đốc, DNNN giỏi, nhưng có chế tài phù hợp để quản lý. Kiên quyết xử lý những cán bộ lãnh đạo, quản lý DNNN làm ăn không hiệu quả, thua lỗ, tham nhũng, làm thất thoát tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Thành Tự Anh “Tăng trưởng dưới mức tiềm năng”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 29/12/2006. 2. Đinh Văn Ân, Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ nhanh, bền vững và chất lượng cao ở Việt Nam, Nxb. Thống kê, 2005. 3. Lê Xuân Bá - Nguyễn Thị Tuệ Anh (2005) “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm (1991- 2005) từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất”, Nxb. Khoa học và kỹ thuật. 4. S. Pack: “Tăng trưởng và phát triển” Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương 1992. 5. GS.TS Vũ Đình Bách (chủ biên), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. 6. William H. Branson, Priceton University, Macroeconomics theory and policy, Harper & Row Publisher, NewYork 7. Báo Đất Việt, ngày 18.7.2008. 8. Báo Lao động, ngày 11/7/2007. 9. Báo cáo về việc làm giai đoạn 2001 - 2006 và mục tiêu giải pháp 2007, Cục hợp tác lao động với nước ngoài, 2007. 10. Báo cáo phát triển Việt Nam, Hướng tới tầm cao mới, Hà Nội, 12/2006. 11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bàn về Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời kỳ mới, H. 2007. 12. GS.TS Trần Văn Chử (chủ biên) “Kinh tế học phát triển”, Nxb. Lý luận chính trị, H. 2006. 13. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú, 1995 “Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay, Nxb. Chính trị. 14. Trần Kim Chung, 2003, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam dưới góc độ phân tích các nguồn lực kinh tế. Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 153. Nguyễn Tiến Cơ, TS. Nguyễn Minh Phong, Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước châu Á, Tạp chí Ngân hàng, số 13 tháng 7 năm 2008. 16. PGS.TS Nguyễn Cúc, PGS.TS Kim Văn Chính chủ biên, Sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb. Lý luận Chính trị, H. 2006. 17. Mai Ngọc Cường, Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, 1995. 18. Diễn đàn việc làm bền vững, tăng trưởng và hội nhập Do Bộ Lao động - Thương binh tổ chức, 16, 17, 18/12/2007. Hà Nội. 19. PGS.TS Nguyễn Thị Doan, Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam 20. Ngô Văn Dụ, Hồng Hà, Trần Xuân Gia (Đồng chủ biên), Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb. CTQG, H. 2006. 21. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21), Hà Nội, tháng 8/ 2004. 22. Dự báo của IMF tháng 4/2007. 23. Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Kinh tế phát triển, Tập 1, 2, Nxb. Thống kê, 1999, Hà Nội. 24. PGS.TS Võ Văn Đức chủ biên: “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam qua mô hình tăng trưởng kinh tế của R. SoLow”, Nxb. Chính trị Quốc gia 2006. 25. TS. Trần Kim Đồng, Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội năm 2007, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Tháng 1/2008. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Khóa VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 1993. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX, NXb. Chính trị quốc gia, H. 200. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2006. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghi lần thứ 4,5,6,7, Ban chấp hành Trung ương khóa X, NXb. Chính trị quốc gia, H. 2006, 2007, 2008. 33. PGS.TS Đỗ Đức Định, Kinh tế học phát triển về công nghiệp hóa và cải cách nền kinh tế (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2004. 34. David W. Pearce, Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb. CTQG, H. 1999. 35. Geledan, Lịch sử tư tưởng kinh tế, Nxb. KHXH, H. 1996. 36. TS. Nguyễn Thị Hường chủ biên, Phát triển thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (Sách chuyên khảo), Nxb. Lý luận chính trị, H. 2007 37. GS.TS Hoàng Ngọc Hòa chủ biên, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb. CTQG, H. 2007. 38. ThS. Nguyễn Trí Hùng, Chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc, Tạp chí Phát triển kinh tế, 2001. 39. Hội đồng Lý luận Trung ương, Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đang đặt ra trong tình hình hiện nay, Tập 1, Lưu hành nội bộ, Nxb. CTQG, H. 2008. 40. Hội nghị diễn đàn việc làm ở Việt Nam, Bộ Lao động thương binh xã hội. 41. Kinh tế Việt Nam sau hơn một năm gia nhập WTO. Những tác động, bài học quan trọng và một số kinh nghiệm, Tạp chí Ngân hàng 6/2008. 42. www.gso.gov.vn, Kinh tế Việt Nam 2007 - 2008, Thời báo kinh tế Việt Nam 2008. 43. TS. Phạm Thị Khanh chủ biên, Phát triển thị trường tín dụng nông thôn góp phần đẩy nhanh công nghiệp, hiện đại hóa nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng (Sách chuyên khảo), Nxb. CTQG, H. 2007. 44. TS. Tăng Văn Khiên, Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp thời kỳ 1996 - 2005 trong toàn nền kinh tế quốc dân, Tạp chí Quản lý kinh tế và Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Số 14 - 2007. 45. PGS.TS. Nguyễn Khắc Minh, (2005): “Nhìn lại kinh tế Việt Nam trong hai thập kỷ qua một vài dự báo và đề xuất”, Nxb. Khoa học kỹ thuật. 46. PGS.TS Nguyễn Khắc Minh, Looking back and gazing forward: Vietnamese economy in the last two decades, Faculty of Economics, NEU. 47. Các Mác, Tư bản, Quyển 1, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1992. 48. N. Gregory Mankiw, Kinh tế vĩ mô (bản dịch), Nxb. Thống kê. 49. TS. Trần Thị Nhung, Tăng trưởng kinh tế và phúc lợi Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Nxb. Khoa học xã hội, H. 2002. 50. GS.TS Lê Hữu Nghĩa, TS Đinh Văn Ân (đồng chủ biên), Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam Lý luận và thực tiễn (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb. CTQG, H. 2001. 51. GS.TS Nguyễn Văn Nam và PGS.TS Trần Thọ Đạt (2006), “Tốc độ và chất lương tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân. 52. Niên giám Thống kê Việt Nam (các năm 2001, 2002, 2005), Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002, 2003, 2006. 3. Thu Oanh “Vị thế kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Con số và sự kiện, tháng 10/2006. 54. GS.TS Vũ Ngọc Phùng (chủ biên) “Giáo trình Kinh tế phát triển”, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. 55. GS. TSKH Lê Du Phong chủ biên “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2006. 56. TS. Chu Tiến Quang (chủ biên), Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2005. 57. Phạm Thái Quốc, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc, Thông tin Lý luận, số 4. 2000. 58. TS. Phạm Thái Quốc, Tiềm lực kinh tế của Trung Quốc, Thông tin Lý luận tháng 11/2007. 59. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, H. 2006. 60. Vũ Ngọc Uyên, Tác động của ODA đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, H. 2007. 61. Vũ Quang Việt “Tăng trưởng tốt nhưng vẫn còn yếu kém”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 9/2/2006. 62. Viện Chiến lược phát triển, "Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia. H. 2004. 63. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Kinh tế Việt Nam 2006, (Sách tham khảo), Nxb. Tài chính, H. 2007. 64. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Kinh tế Việt Nam 2007 (Sách tham khảo), Nxb. Tài chính, 2008. 65. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương, Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2007 - 2008. 66. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Kinh tế Việt Nam 2001 đến 2008. 67. Số liệu thống kê việc làm ở Việt Nam 2005, NXb. Lao động - xã hội, H. 2006 68. Paul A. Samuelson, William D. Nordhaus, Kinh tế học, Tập 2, Nxb. CTQG. 69. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Tài nguyên khoáng sản Việt Nam, Hà Nội, 2000. 70. Tạp chí Cộng sản, số 783, tháng 1/2008. 71. PGS.TS Trần Đình Thiên “Kinh tế Việt Nam: Chất lượng mới cho giai đoạn phát triển mới”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, tháng 9/2005. 72. GS.TS Nguyễn Văn Thường (chủ biên) 2004 “Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Những rào cản cần phải vượt qua”, Nxb. Lý luận chính trị. 73. GS.TS Nguyễn Văn Thường, GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên), Kinh tế Việt Nam năm 2007, Năm đầu tiên gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Nxb. Đại học KTQD, H. 2008. 74. Tiềm năng Việt Nam thế kỷ XXI, Nxb. Thế giới, Hà Nội 2001; và Niên giám Thống kê năm 2005, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2006. 75. TS. Nguyễn Từ (2007), Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đối với tăng trưởng kinh tế ở nước ta, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 76. Tổng cục Thống kê, Kinh tế Việt Nam 1996 -2000 77. Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2005 và IMF, 2004. 78. TS. Bùi Tất Thắng (chủ biên), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, H. 1997 79. TS. Nguyễn Thị Thơm chủ biên, Thị trường lao động Việt Nam Thực trạng và giải pháp, Nxb. CTQG, H. 2006. 80. TS. Nguyễn Từ chủ biên, Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb. CTQG, H. 2008. 81. GS.TS Nguyễn Văn Thường, PGS.TS Nguyễn Thọ Đạt, Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. 82. GS.TS Nguyễn Văn Thường, GS.TSKH Lê Du Phong, Tổng kết kinh tế Việt Nam 2001 - 2005, Lý luận và thực tiễn, Nxb. KTQD, H. 2006. 83. Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam và thế giới, 2001- 2005. 84. Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam và thế giới 2007 - 2008. 85. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 18/11/2004. 86. Thời báo kinh tế Việt Nam, thứ tư ngày 3/5/2006. 87. Trần Văn Tùng, Mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 88. Trần Quang Tùng, Cạnh tranh kinh tế, Nxb Thế giới, H. 2004. 89. UNDP và MPI, Việt Nam hướng tới 2010, Tập 1, 2, Nxb. CTQG, H. 2001. 90. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Kinh tế học phát triển những vấn đề đương đại, Nxb. KHXH, H. 2003. 91. PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên): Một số xu hướng phát triển chủ yếu hiện nay của nền kinh tế nước ta, Nxb. KHXH, H. 2003. 92. PGS.TS Nguyễn Hữu Thắng, Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước nước ta hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, 8/2008. 93. Nguyễn Ngọc Tuân, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới phát triển kinh tế nước ta, Nxb. KHXH Chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh, 2002. 94. Tổng cục Thống kê, Kinh tế Việt Nam năm 2002-2003. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDTKH023.doc
Tài liệu liên quan