ĐỀ TÀI : KHỔNG GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM
Phần 1 : Lời giới thiệu đầu .
Một trong những tư tưởng triết học thời cổ đại của Trung Quốc có ảnh hướng sâu rộng đến đời sống của con người không những ở thời đó mà đền tận ngày nay chúng ta phải kể đến tư tưởng Nho gia và triết học của Khổng Tử. Đã có rất nhiều người đi tìm hiểu và nghiên cứu tư tưởng đó, để có thể thấy được vị trí ảnh hưởng của nó cả về mọi mặt :chính trị-xã hội, đời sống tinh thần , đạo đức …Do vậy việc nghiên cứu
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Khổng giáo & ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và tìm hiểu vấn đề này là rất quan trọng hiện nay.Chính tầm quan trọng của nó nên em đã chọn đề tài : “ Khổng giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam “.
Phần 2 :Nội dung tư tưởng của Khổng giáo :
I,Khổng Tử người sáng lập Đạo Nho (Đạo Khổng):
Khổng Tử ( Còn gọi là Khổng Phu Tử ; 28 tháng 9, 551 – 479 TCN) là một nhà tư tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng người Trung Quốc, các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn trên cuộc sống và tư tưởng Đông Á.
Triết học của ông nhấn mạnh trên cá nhân và cai trị bằng đạo đức, sự chính xác của những mối quan hệ xã hội, sự công bằng và sự ngay thẳng. Các giá trị đó đã có được tầm ảnh hưởng lớn trên mọi học thuyết khác ở Trung Quốc như Pháp gia hay Lão giáo ở thời nhà Hán. Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo được Matteo Ricci đưa vào Châu Âu, ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử thành "Confucius". Tư tưởng của ông còn được xem là một đạo giáo của loài người, nhất là dân tộc Trung Quốc.
Các bài giảng của Khổng Tử được nghiên cứu chủ yếu qua cuốn Lụân Ngữ , một tập hợp những "mẩu chuyện cách ngôn ngắn", được biên soạn nhiều năm sau khi ông qua đời. Các nhà sử học hiện đại cho rằng bất kỳ một tài liệu nào cũng không thể được coi là do ông viết ra, nhưng trong gần 2,000 năm ông từng được cho là tác giả của Ngũ Kinh, Lễ Ký, và Biên niên sử Xuân Thu.
II,Quá trình hình thành và phát triển của Khổng giáo ( Nho giáo nguyên thuỷ - Nho giáo tiền Tần ):
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định , hiệu đính và giải thích bộ Lục Kinh gồm có Kinh Thi , Kinh Thư , Kinh Lễ , Kinh Dịch , Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc . Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh . Sau khi Khổng Tử mất , học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ . Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm , còn gọi là Tăng Tử , dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học . Sau đó , cháu của Khổng Tử là Khổng Cấp , còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung . Đến thời Chiến Quốc , Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử .Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thuỷ , còn gọi là Nho giáo tiền Tần ( trước đời Tần ),Khổng giáo hay “ tư tưởng Khổng Mạnh “.
III,Sách kinh điển của Khổng giáo :
Các sách kinh điển của Khổng giáo đều hình thành dựa trên học thuyết của Khổng tử do ông soạn thảo , hiệu đính và do học trò ghi lại những lời dạy của ông . Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Khổng giáo .
Ngũ Kinh còn chỉ đến Torah, năm quyển đầu tiên của Kinh Thánh Hebrew.
Ngũ Kinh là năm quyển kinh điển trong văn học Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu đính. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Năm quyển Ngũ Kinh gồm có:
Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
Kinh Dịch : nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói: "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.
Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy Lục kinh chỉ còn có ngũ kinh.
Tứ Thư
Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại sau khi ông mất (Luận ngữ = các lời bình luận).
Đại học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).
Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách này do người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra (Trung dung = ở giữa, dung hòa).
Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).
IV,Quan điểm về thế giới :
1,Về tự nhiên:
Khổng Tử chịu ảnh hưởng quan niệm về vũ trụ của người Trung Hoa thượng cổ.Cho rằng vạn vật đều có chung nguồn gốc và vận động không ngừng theo” đạo “của nó
Khổng Tử cũng không phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần nên theo ông quỷ thần là việc cao xa.u uẩn con người cần kính trọng song chẳng cần gần gũi làm gì
2,Về con người - quan hệ giữa trời và người
Với tư tưởng cơ bản là duy tâm muốn ru ngủ quần chúng bằng niềm tin vào mệnh trời và số phận. Ông đã thể hiện rõ thái độ của mình trong việc ủng hộ giai cấp chủ nô
Khổng tử nhấn mạnh hoạt động của con người và coi nó giữ địa vị quan trọng nhất trong đời sống của con người
V.Quan điểm chính trị xã hội :
1,Thuyết chính danh
Khổng Tử cho rằng mỗi người,mỗi vật trong xã hội đều có một công dụng, địa vị,bổn phận nhất định và gọi đó là “danh”.Vật,người nào mang danh nào phải thực hiện những tiêu chuẩn của danh đó,nếu không sẽ phải gọi bằng danh khác. Đó là chính danh
Học thuyết này phản ánh tôn ti trật tự,phép tắc của Khổng Tử đó là quan hệ giữa người với người , được gọi là “Luân”.Nho xác định có 5 mối quan hệ giữa người với người gọi là “Ngũ luân”bao gồm:Vua-tôi ,Cha – con , chồng - vợ , anh – em , bè - bạn .Nhưng ông coi trọng hơn cả là quan hệ vua – tôi và cha – con
Trong quan hệ vua tôi ông đề cập đến phạm trù “Trung”
Trong quan hệ cha con ông đề cập đến phạm trù “Hiếu”
Nhưng ông không chủ trương ngu “trung” ,ngu “hiếu”.
2.Quan điểm về phương cách trị nước:
Theo Khổng Tử , ổn định xã hội hữu hiệu nhất phải bằng đức hạnh,lễ nghĩa.Không nên lạm dụng luật pháp để ép dân đi vào tôn ti trật tự .Vì đức hạnh có khả năng cảm hoá con người và nó làm cho con người biết hổ thẹn với mình khi có hành vi sai phạm.
Phương thức trị nước của Khổng Tử là dùng “lễ trị “cùng với “đức trị”
VI.Quan điểm về lí luận đạo đức :
Theo Khổng Tử một con người có đạo đức phải bao gồm cả 3 yếu tố : Nhân , Trí , Dũng .
1.Nhân:
“ Nhân” không chỉ riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính nên theo nghĩa rộng nhất “nhân” là đạo làm người .có thể hiểu đó là cách cư xử với mình và cách cư xử với người
Chữ “ nhân” trong việc hình thành đạo đức con người có:
+ Cách cư xử đối với mình, người có “Nhân” trước hết phải làm những việc khó sau đó mới hưởng thành quả thì luôn vui vẻ sống trong bất cứ hoàn cảnh dù vinh hoa phú quý hay đói nghéo túng thiếu. Người có nhân cao cả nhất là đức nhân của mình. Đó là người sẽ tự kiềm chế được mình tuân theo lễ tiết của xã hội trước mọi cán dỗ, luôn luôn vững vàng trầm tư như núi trước mọi thử thách, luôn rộng lượng, bao dung và biết thi ân bố đúc. Nhưng đức nhân đó phải được hiểu là có thể vì nhân mà sát thân chứ không phải vì thân mà hại nhân.
+ Cách xư sự đối với người, Nguyên tắc suốt đời của người có nhân là “ yêu thương người khác”. Giải thích điều này Khổng tử dạy “ người nhân muốn tự lập lấy mình thì phải lo lập người, muốn thành đạt cho mình thì phải lo cho người thành đạt”. Phải lấy cách ứng xử của người nhân với mình như thế nào dể ứng xử với mọi người. Có một chữ mà trọn đời người nhân phải theo đó là chữ thứ, có nghĩa là thứ mình không muốn đừng làm cho người khác. Kẻ có nhân là người tình cảm chân thực hết lòng vì nghĩa, cho nên có nhân thì bao giờ cũng hiếu đễ, lễ nghĩa trung thư kỷ bất nhân thì dầy những trí thuật khôn khéo, dối trá gian ác, phản loạn lừa gạt.
Chữ “nhân” trong cung cách trị nước : Khổng tử cho rằng nếu tâm của con người luôn hướng về nhân thì không bao giờ con người nghĩ đến chuyện phản loạn do đó miệng không nói bậy và thân không dấn vào việc ác tà. Đối với dân đức nhân cần thiết hơn tất cả những thứ gì khác. Đối với bậc đế vương cầm quyền thì chữ đức “nhân” lại càng cực kì quan trọng như một thành trì để gìn giữ và bảo vệ những gì họ đã dạt được. Khổng tử chia người có đức nhân thành bậc thánh và bậc nhân. Bậc thánh : Nghiêu, Thuấn … còn những người như Bá Di, Thúc Tề, Vi Tử Quảng Trọng … vào bậc nhân. Phạm trù nhân khá phong phú và thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực cuộc sống. Thông qua việc hướng con người vào đức nhân để tự khẳng định được mình của các thành viên trong xã hội; giáo dục ý thức cộng đồng trong cuộc sống và đặc biệt xác định được nguyên tắc hội_đó là các quan hệ trong học thuyết “ Ngũ luân “. Nhưng nếu đức nhân đòi hỏi con người phải quên mình để quay về với đạo lý đương thời phải chấp nhận bất kì hoàn cảnh nào chỉ dể vui với cái cao cả nhất của đức nhân. Thì không dem lại được cuộc sống thái bình mà trái lại đó là môt sợi xích khoá chặt thần dân dưới ách thống trị của giai cấp cầm quyền như thời Nghiêu, Thuấn là ví dụ.
2, Phạm trù về “ Trí” .
“Trí” hiểu là biết người, là sự minh mẫn nói chung để phân biệt, đánh giá con người và tình huống qua đó tự xác định cho mình cách cư xử cho phải đạo. Phải có trí con người mới vươn lên tới được chữ “ nhân “. “Trí” được xếp vào một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của con người hoàn thiện .Khổng Tử quan niệm trí bao gồm trí thức thượng thặng hay tri thức bẩm sinh và trí thức do kết quả của quá trình học hỏi. Đi sâu vào tri thức do học tập đó là loại tri thức không ngẫu nhiên mà có mà nó là cả một quá trình “học tức là đến gần với trí “.Nếu không học thì dù tâm thiện đến đâu cũng bị cái mông muội , phóng đãng , lầm lạc , phản loạn làm biến chất. cho nên việc học tập là mục đích hoàn thiện hàng đầu trong hoàn thiện con người. Ngay từ đây ông đã có tư tưởng rất tiên bộ đó là để đứng ra gánh vác việc nước nhà phải là người có tri thức.Vì vậy việc giáo dục được ông rất coi trọng mặc dù nó chưa thật toàn diện nhưng giáo trình có bản Khổng Tử để khai sang là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch , Xuân thu. Ông có quan niệm nêu dân ôn nhu , đôn hậu thì là theo tinh thần của Thư, nếu dân khiêm nhường trang trọng thì theo tinh thần của Lễ , nếu dân cởi mở , sinh hoạt nhẹ nhàng thì theo tinh thần Nhạc , nếu dân sống thuận theo đạo trời theo Dịch , còn nếu biết phán xét việc đời là theo Xuân Thu. Theo tư tưởng của ông Thi sẽ khai thong được những bế tắc mở ra được cái sống động mênh mang của cuộc sống , còn lễ giúp con người nắm được các quy tắc cư xử . Vì vậy để cảm hoá thiên hạ theo đức nhân tức là phải khắc kỉ và phục lễ.
Là một nhà giáo dục lớn Khổng tử với chủ trương giáo dục xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân cách không phải bẩm sinh bởi bản chất ban đầu mà ban đầu bản chất của mọi người đều giống nhau song do tác động của môi trường điều kiện sống giáo dục hình thành nên người tính lành , kẻ ác tính_giáo dục có thể cải hoá tất cả . Do vậy không được oán trời , không được trách người mà phải nghe nhiều học nhiều để đạt được “ trí “ từ thấp đến cao. Ông tìm cách chỉ dạy cách học, xoá bỏ sự thụ động của người tiếp thu tri thức.
Tư tưởng trí tuệ bộc lộ khá rõ nhiều quan điểm của Khổng Tử, đặc biệt là nhận thức về giáo dục. Về lí luận nhận thức đánh giá ông khi giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học có lí khi nhìn nhận rằng từ chỗ cho tri thức bẩm sinh là tri thức cao hơn tất cả, chuyển sang khẳng định tri thức bắt nguồn từ học tập, quan sát vừa thể hiện quan điểm của chủ nghĩa duy tâm vừa thể hiện quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm thường nhưng lại rơi vào chủ nghĩa nhị nguyên khi cho chúng song song cùng tồn tại. Ông đã đem quá trình nhận thức của con người đóng vào một cái khung bất biến và chân lí không còn là trin thức về thế giới khách quan phù hợp với bản thân thế giới khách quan, thực tiễn không còn là mục đích cơ sở động lực của quá trình nhận thức không còn là tiêu chuẩn của chân lí nữa, mà thay vào đấy là vai trò của sách vở và của sự tự biện.
Cuộc đời và kinh nghiệm dạy học của Khổng Tử cho thấy vai trò giáo dục với xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi lẽ công bằng đến tôn ti trật tự, đến cuộc sống hồ hởi của mỗi cộng đồng.
Với cá nhân giáo dục là sức mạnh trong việc cảm hoá.
Đối với chủ thể giáo dục coi trọng nguyên tắc làm gương mà chính ông cũng là một tấm gương về tri thức và nhân đức. Ông cũng rất coi trọng nguyên tắc “ Thuyết giáo tuỳ nghi “ coi trọng việc xác định đối tượng giáo dục qua ngôn ngữ và hành vi của họ để xác định nội dung giáo dục cho phù hợp.
Đối với khách thể giáo dục: từ chung chung đến cụ thể tuỳ theo sự hiểu biết của người học.
Ngoài ra ông còn đòi hỏi sự kết hợp giữa học và hành, giữa tri thức và cuộc sống như lời đòi hỏi việc vận dụng ba trăm thiên trong kinh thi với việc hành chính và việc của người đi sứ.
Khổng Tử xứng đáng là nhà giáo dục lớn, quan điểm giáo dục của ông dừng lại ở giao tiếp lễ nghi là chủ yếu chứ không hẳn mở mang dân trí nói chung.
3, Phạm trù “ Dũng” .
“ Dũng” là lòng can đảm , sức mạnh để làm chủ tình thế của con người. Ông nói rằng “ Bậc trí giả chẳng mê, hoặc bậc nhân chẳng lo rầu, bậc dũng chẳng sợ sệt “.Đối với ai đủ phân biệt phải trái thì chính “dũng” giúp họ thực hiện được lẽ công bằng. Ông nói “Bậc trí chẳng mê hoặc nghi lầm, bậc nhân chẳng lo rầu, bậc dũng chẳng sợ sệt “ và nếu “ thấy việc nghĩa mà chẳng làm, người ấy là không có khí dũng.”
Ba phạm trù nhân trí dũng luôn thống nhất không hề tách rời nhau nó là nội dung chủ yếu nhất trong tư tưởng đạo đức con người. Đó là việc sử dụng đạo đức để ổn định trật tự xã hội chứ không phải là những nguyên tắc những đạo luật khắt khe. sự bình ổn xã hội trên cơ sở đạo đức chính là dựa vào ý thức tự “ trừng trị “ của từng cá nhân trước những hành vi hậu quả mà mình gây ra nhưng để có được ý thức đó thì phải kể đến vai trò rất to lớn của giáo dục . Điều này càng thấy được sự thống nhất chặt chẽ của ba phạm trù trên.
V.Quan điểm về đời sống con người:
Khổng giáo học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội . Để tổ chức xã hội có hiệu quả , điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lí tưởng này gọi là quân tử ( quân = kẻ làm vua , quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội .phân biệt với tiểu nhân , những người thấp kém về địa vị xã hội ; sau “ quân tử còn chỉ cả phẩm chất đạo đức : những người cao thượng , phẩm chất tốt đẹp , phân biệt với tiểu nhân là những thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện . Điều nàycó thể được lí giải bởi đối tượng mà Khổng giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền )
1.Quan điểm về người quân tử :
Khái niệm người quân tử không hề xa lạ với người Trung Hoa cổ đại . Nó có từ thời Chu nhằm chỉ những người nắm quyền
Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Khổng giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
Tam Cương: Tam là ba;Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.
Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
Công: khéo léo trong việc làm.
Dung: hòa nhã trong sắc diện.
Ngôn: mềm mại trong lời nói.
Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Khổng giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền.
2.Quan điểm về người “ tiểu nhân “:
Những người có quyền mà không có đạo đức được gọi là “ tiểu nhân” ( như dân thường . Những người nhân dân lao động . Nhưng theo Khổng Tử tiểu nhân là những người có phẩm chất đạo đức kém .
Khổng tử cho rằng tiểu nhân và cái học của tiểu nhân là để phục dịch và tuân lệnh kẻ cầm quyền .
=>Xét một người là quân tử hay tiểu nhân , Khổng Tử đòi hỏi phải quan sát hành động của người ấy có phù hợp với lời nói của họ hay không và để đánh giá con người , ông khuyên phải nhìn vào công việc của họ , phải xét lí do làm việc của họ và phải xem xét thái độ của họ nữa.
Với mẫu hình con người lí tưởng và việc phân đẳng cấp xã hội thành quân tử và tiểu nhân phản ánh đậm nét thái độ của Khổng Tử đối với nhân dân lao động. Sự đói rét , bệnh tật và trăm ngàn thiếu thốn trong cuộc sống không cho phép nhân dân lao động “ không u sầu lo lắng “. Tuy không chỉ rõ nhân dân lao động thuộc loại tiểu nhân , nhưng Khổng Tử đã gạt họ khỏi lớp người quân tử . Khi quan niệm “ dân không có chỗ cậy , nhờ vả thì dân không tin ở nhà cầm quyền , khi đó xã tắ sẽ trở nên hỗn loạn” và khi trả lời Tử Cống về ngôi thứ của “ thực túc , binh cường , dân tín “, thì dường như Khổng Tử lấy dân làm gốc . Song xếp dân vào loại tiểu nhân thì dân không còn ở địa vị tiên quyết nữa mà dưới con mắt Khổng Tử , họ là “hạ ngu “ với những khát vọng thấp hèn , cuồng loạn
Phần 3:Khổng giáo đối với sự phát triển đất nước Việt Nam:
Nho học ở Việt nam phát triển với nội dung “kinh học” ,không có ảnh hưởng nhiều và cũng không phát triển mạnh mẽ, nhưng lại được tôn trọng như những tín điều không đổi.”Kinh học nho giáo Việt nam “có tính thời sự lớn. Được thể hiện trong 3 điểm sau:
1.Xây dựng gia đình , họ hàng , cộng đồng Việt Nam:
Được ví như cái nước nhỏ, Khổng giáo cho rằng, gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Khổng giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào danh phận mỗi người. Những quy định này, nếu loại bỏ những yếu tô bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến nay, vẫn còn có giá trị. Do đó, kế thừa những tư tưởng tích cực của Khổng giáo về gia đình trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện thành công xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là việc làm cần thiết.
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông nói chung và đặc biệt là Khổng giáo nói riêng, luôn xem xét con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Ở Khổng giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội đã giúp Khổng giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.
Khổng giáo cho rằng, gia đình chính là một cái nước nhỏ. Vì thế, nếu "một nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn" (Đại học, chương IX). Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng.
Khổng giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia đình hoà thuận, con cái biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa thuận. Vì thế, làm chính trị không cứ là phải ra làm quan.
Những tư tưởng trên của Khổng giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Chúng ta cũng coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách". Vì thế, Đảng ta đòi hỏi "Các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người"(1). Với tính cách tế bào xã hội, vườn ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới cho tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang tiến hành.
Việc xây dựng thành công gia đình mới có một ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Bởi gia đình mới chính là nền tảng của sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả nhất mọi tệ nạn xã hội đang làm phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia đình mới còn là nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những công dân mới có đức, có tài cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị trường cùng với sự mở cửa hội nhập với thế giới thì gia đình mới càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự xâm hại những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay mà không cần biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ những tư tưởng bảo thủ, mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Khổng giáo về gia đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được sự phát triển đất nước là điều nên làm. Gia đình mới chính là nơi kế thừa những tinh hoa của gia đình cũ kết hợp với những chuẩn mực đạo đức mới của xã hội mới. Những tinh hoa đó, trước hết, là tư tưởng vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau… của Khổng giáo.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Khổng giáo cũng là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử, song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Khổng giáo đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Cũng giống như Khổng giáo, hiện nay chúng ta đã và đang ra sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình, cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ chiến tranh, chống lại được nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa các tư tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Khổng giáo là một việc làm hết sức cần thiết.
2.Khổng giáo và giáo dục
Hàng nghìn năm qua,Việt nam đều lấy nho giáo làm nền tảng lí luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục.
Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo và nó đã trở thành truyền thống văn hoá Á Đông ,trong đó có Việt nam
3.Tư tưởng khoan dung
Xã hội hiện đại có bao nhiêu là sự khác biệt, thậm chí là mâu thuẫn với nhau đã làm cho xã hội mất ổn định . Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử đã làm dịu đi xung đột đó và mọi người giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển
Phần 4 : Kết luận chung
Trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động như thời Xuân Thu khiến cho tư tưởng của Khổng Tử không tránh khỏi các giằng co dẫn đến sự đụng đầu của hai nền văn hóa trong nho giáo, khiến cho Nho giáo nguyên thủy chứa đầy mâu thuẫn.
Mâu thuẫn đầu tiên là mâu thuẫn về thái độ đối với người dân. Văn hóa du mục trọng sức mạnh, trọng người quân tử, lấy người quân tử để đối lập với kẻ tiểu nhân - người dân thường, "Người quân tử giúp người làm điều thiện, chứ không làm điều ác; kẻ tiểu nhân thì ngược lại" (sách Luận ngữ). Trong khi văn hóa nông nghiệp lại coi trọng dân, lấy dân làm chủ, "dân là chủ của thần".
Mâu thuẫn tiếp theo là mâu thuẫn giữa "lễ trị" (pháp trị) của văn hóa du mục với "nhân trị" của văn hóa nông nghiệp. Khổng Tử nói nhiều đến "lễ trị", ông vận động các nước chư hầu duy trì cái "lễ" của nhà Tây Chu: "Ta học lễ nhà Chu, hiện đang ứng dụng; ta theo nhà Chu" (sách Trung Dung). Học trò thường được ông kể rằng: "Nằm mộng thấy Chu Công". Nhưng dần dần, Khổng Tử chuyển từ "lễ" sang "nhân", nhập "nhân" vào với "lễ" và còn đi xa hơn, coi "nhân" làm gốc của "lễ nhạc": "Không có nhân thì lễ để làm gì? Không có nhân thì nhạc để làm gì?" (sách Luận Ngữ).
Chính sự mâu ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0455.doc