Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Báo chí cách mạng Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy phong trào hành động cách mạng, đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc đến thắng lợi. Hiện nay, Đảng và nhân dân ta đang thực hiện sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, chủ động và tích cực h

doc179 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội nhập quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là sự nghiệp cách mạng vĩ đại, nhưng đầy khó khăn, thử thách. Trong sự nghiệp đó, Đảng cần phát huy vai trò của báo chí để báo chí tham gia, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao tính tự giác cách mạng của các tầng lớp nhân dân, tranh thủ thời cơ, khắc phục các nguy cơ, thật sự xứng đáng là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân. Báo chí nước ta hiện nay đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Báo chí phải không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt động báo chí, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Để đáp ứng yêu cầu đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa X “về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới” yêu cầu phải đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Báo điện tử là loại hình báo chí mới, truyền tải thông tin trên các trang thông tin điện tử. Báo điện tử ra đời từ sự kết hợp của ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Báo điện tử có tác dụng và tiện ích hơn hẳn các loại hình báo chí truyền thống, với dung lượng thông tin rất lớn, tương tác thông tin nhanh, phát hành không bị trở ngại về không gian, thời gian, biên giới quốc gia. Đặc điểm nội bật nhất của báo điện tử là thông tin luôn được cập nhật và độc giả có thể đọc mọi lúc, mọi nơi, rất tiện lợi. Một đặc điểm quan trọng nữa của báo điện tử là tính tương tác rất cao với người viết, có thể tạo ra giao lưu với người đọc bằng nhiều hình thức khác nhau. Với những ưu điểm đó, báo điện tử ngày càng trở nên gần gũi với cộng đồng, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội. Kể từ khi xuất hiện đến nay, hệ thống báo điện tử ở Việt Nam phát triển khá nhanh và mạnh. Báo điện tử đã bám sát thực tiễn đời sống xã hội, thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, thông tin nhanh nhạy, toàn diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. Ngày 22-7-2005, Ban Bí thư (BBT) Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 52-CT/TW “về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay”. Thực hiện Chỉ thị của BBT, Ban Tư tưởng - Văn hóa (TT-VH) Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) đã có các văn bản hướng dẫn, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ban hành các văn bản quản lý đối với báo điện tử. Các cơ quan lãnh đạo và quản lý đã hình thành cơ chế lãnh đạo, quản lý đối với các báo điện tử, kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh. Cấp ủy, thủ trưởng cơ quan chủ quản báo điện tử đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với cơ quan báo điện tử của mình. Tuy nhiên, lãnh đạo báo điện tử vẫn là vấn đề mới, còn có sự lúng túng nhất định. Một số cấp ủy đảng, thủ trưởng cơ quan chủ quản và một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của báo điện tử, cả mặt tích cực cũng như tác hại của nó, dẫn đến tình trạng khắt khe hoặc dễ dãi, buông lỏng lãnh đạo, quản lý. Sự lãnh đạo, quản lý báo điện tử của Đảng và Nhà nước chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng, có phần phức tạp của loại hình báo chí này; thiếu các văn bản cần thiết để lãnh đạo, quản lý mạng internet nói chung, đối với báo điện tử nói riêng; nhiều điều khoản trong Luật Báo chí đã tỏ ra lạc hậu, không theo kịp với sự phát triển của báo chí, nhất là với báo điện tử. Thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan liên quan trong chỉ đạo, quản lý về lĩnh vực này. Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo điện tử trong giai đoạn hiện nay”, làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống báo điện tử ở nước ta, thúc đẩy phát triển và phát huy mạnh mẽ vai trò, tác dụng của loại hình báo chí tiện ích này có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp khả thi nhằm góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. - Làm rõ vai trò, đặc điểm của báo điện tử và những vấn đề lý luận liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam. - Đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam, xác định rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận án chủ yếu khảo sát sự lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương (Ban Chấp hành Trung ương (BCHTƯ), Bộ Chính trị (BCT), (BBT), ban, bộ, ngành Trung ương và các cấp ủy lãnh đạo báo điện tử có số lượt người truy cập lớn) đối với báo điện tử ở Việt Nam từ năm 1998 (từ khi có báo điện tử ở Việt Nam) đến nay. Các giải pháp luận án đề xuất có giá trị đến năm 2020. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác tư tưởng, báo chí; về sự lãnh đạo, quản lý báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng. Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài. 4.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng hoạt động báo điện tử và sự lãnh đạo đối với báo điện tử của cấp ủy, tổ chức đảng ở Trung ương. Luận án tham khảo các báo cáo, thống kê, tư liệu có liên quan. 4.3. Phương pháp nghiên cứu - Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng kết thực tiễn; khảo sát, thống kê; lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; chuyên gia; so sánh 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Làm rõ đặc điểm của báo điện tử ở Việt Nam và quan niệm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam. - Rút ra 5 bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể là tài liệu các cấp ủy, tổ chức đảng tham khảo trong lãnh đạo báo điện tử, góp phần nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo và xây dựng báo điện tử ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. - Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC 1.1.1. Đề tài khoa học và sách - Đề tài khoa học cấp cơ sở “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp” của Ban Tuyên giáo Trung ương [12] đã làm rõ một số vấn đề lý luận chung về chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn báo chí chủ lực ở nước ta với những thành tựu, hạn chế, những vấn đề đặt ra; nêu vị trí, vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực ở nước ta. Đề tài chỉ rõ, trong các loại hình báo chí, báo điện tử có thuận lợi hơn cả trong việc đánh giá chất lượng, hiệu quả báo chí đối ngoại. Thông qua việc phân tích dữ liệu chứa trong phai mã hóa (logfile) có thể biết được số lượng người truy cập hằng ngày, nước nào truy cập nhiều nhất, thời gian truy cập dài hay ngắn, chuyên mục nào được độc giả quan tâm. Báo điện tử nắm bắt được sự phản hồi của người xem một cách nhanh nhất. Thông qua địa chỉ (IP) truy cập có thể biết được phạm vi truy cập. Bên cạnh phạm vi của thông tin, tần suất thông tin cũng là một tiêu chí quan trọng đóng góp vào hiệu quả của thông tin đối ngoại. Tiêu chí này có thể được thể hiện qua các kỳ phát hành của báo in, thời lượng các chương trình trên phát thanh và truyền hình, việc cập nhật thông tin trên báo mạng Thông tin phải được duy trì, bảo đảm sự ổn định, liên tục, không bị ngắt quãng. Mặt khác, đề tài đề cập vai trò của báo chí trong việc đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực chống đối. Trong cả hai chiều thông tin đi và thông tin trở lại cho người Việt Nam, báo chí cung cấp những thông tin chọn lọc, đúng định hướng, giúp công chúng tin tưởng vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, không bị dao động trước những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Đề tài chỉ ra phương hướng và các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực thời gian tới, nhất là giai đoạn từ nay đến năm 2020: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; mở rộng và nâng cao hiệu quả sự phối hợp hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; đa dạng hóa nội dung, hình thức hoạt động của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; đổi mới cơ chế thông tin, bảo đảm tính nhanh nhạy, tính sắc bén, tính thuyết phục trong hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin; nâng cao bản lĩnh chính trị, chất lượng chuyên môn của cán bộ, phóng viên. - Sách “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản” do Ban TT-VH Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà báo (HNB) Việt Nam phối hợp phát hành [19] đã khẳng định, báo chí là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng - văn hóa (TT-VH) của Đảng; là một trong những công cụ sắc bén, hiệu quả để xây dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng; tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cổ vũ, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là chiếc cầu hữu nghị để Việt Nam mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới. Cuốn sách cũng nêu, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo đối với báo chí, Đảng phải không ngừng đổi mới tư duy, phong cách, phương thức lãnh đạo đối với công tác báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí và định hướng nội dung thông tin, tuyên truyền của báo chí; lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan báo chí; lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội trong cơ quan báo chí. Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng về báo chí bằng chính sách, pháp luật trong quản lý hoạt động báo chí. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng trong việc đổi mới tư duy, phong cách và phương thức lãnh đạo đối với công tác báo chí. - Sách “Cơ sở lý luận báo chí” do PGS, TS Tạ Ngọc Tấn và TS Đinh Thế Huynh đồng chủ biên [113] đã đề cập các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí (tính đảng, tính quần chúng, tính chân thật); những quy định, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác báo chí. Cuốn sách đề cập báo chí là sản phẩm thuộc kiến trúc thượng tầng, nó ra đời và phát triển do nhu cầu thông tin của xã hội. Một mặt, báo chí được sử dụng như một phương tiện tuyên truyền, giáo dục, cổ động nhân dân; mặt khác, nó trở thành diễn đàn của mọi người về các lĩnh vực của đời sống. Không có một đảng phái, tổ chức kinh tế, xã hội nào không sử dụng báo chí với tư cách một phương tiện thông tin để phục vụ các mục tiêu của mình. Các tác giả chỉ ra phương pháp nghiên cứu lý luận báo chí, đặc biệt là phương pháp luận khoa học, sáng tạo dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm hiểu các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về vấn đề báo chí. Ngoài ra, các tác giả cũng sơ bộ xem xét hệ thống tư liệu mang tính pháp lý của Việt Nam về báo chí. - Sách “Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới” do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn [13] đã đề cập vấn đề có tính quy luật đối với báo chí cách mạng nước ta là báo chí luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân; báo chí luôn cần có sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường công tác xây dựng Đảng và nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, ý thức trách nhiệm của đảng viên trong các cơ quan báo chí. Các cấp ủy đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng và lãnh đạo các cơ quan báo chí chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan báo chí hoạt động theo đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật của Nhà nước. Cuốn sách nêu một số yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm của một số cơ quan báo chí, như thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; xa rời tôn chỉ, mục đích; thông tin không trung thực, suy diễn chủ quan, áp đặt vô lối, sa đà vào những tiêu cực, yếu kém, mặt trái xã hội mà xem nhẹ việc phát hiện, biểu dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến; khuynh hướng tư nhân hóa báo chí, tư nhân núp bóng Nhà nước để ra báo; một số báo có vị trí quan trọng, nhưng chậm đổi mới và chưa đủ sức làm chủ, chi phối thông tin. Đồng thời, cuốn sách đề ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu có tính trước mắt và lâu dài nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí. - Sách “Báo chí và dư luận xã hội” do PGS, TS Nguyễn Văn Dững chủ biên [53] đã đề cập đến tính chất tương tác, đa phương tiện của báo điện tử, loại hình báo chí gắn với nhóm công chúng - đối tượng trẻ và giới trí thức - cũng như những người có trình độ văn hóa cao, nhóm cư dân mạng. Những đặc điểm của báo điện tử đã và đang đặt ra cho nhà báo - chủ thể hoạt động báo chí - nhiều yêu cầu không chỉ về nhận thức, quan điểm và thái độ hành nghề, mà còn về phong cách sống, phong cách tác nghiệp và tích hợp đa kỹ năng cũng như tính trung thực, trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp. Mặt khác, sách nêu vai trò của báo chí trong việc nâng cao năng lực và hiệu quả tác động tới công chúng. Cuốn sách cũng nêu các đặc điểm nhận diện báo chí hiện đại; vấn đề công chúng - nhóm đối tượng của báo chí và cuối cùng là cơ chế tác động của báo chí. - Sách “Báo mạng điện tử: những vấn đề cơ bản” do TS Nguyễn Thị Trường Giang chủ biên [65] đã nêu và làm rõ lịch sử ra đời, khái niệm báo điện tử, sự khác nhau giữa báo điện tử với trang thông tin điện tử; vai trò của báo điện tử trong đời sống xã hội. Báo điện tử là kết quả của sự tích hợp giữa công nghệ và truyền thông, dựa trên nền của internet và sự tích hợp ưu thế của các loại hình báo chí truyền thống, đã đem lại những giá trị rất lớn cho xã hội, cho người dân. Báo điện tử đã tạo ra bước ngoặt, làm thay đổi cách truyền tin và tiếp nhận thông tin. Sách cũng nêu đặc điểm của báo điện tử, trong đó có đề cập đến tính đa phương tiện của báo điện tử hiện nay - đây là ưu điểm vượt trội của báo điện tử so với các loại hình báo chí khác. Những thông tin bằng văn bản, hình ảnh, âm thanh cùng xuất hiện trên trang chủ của báo điện tử luôn tạo ra sự hấp dẫn, sống động đặc biệt đối với công chúng. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập về mô hình tòa soạn và quy trình sản xuất thông tin của báo điện tử, những phẩm chất của nhà báo điện tử; nêu cách viết, trình bày nội dung báo điện tử, đề xuất cách thiết kế, trình bày nội dung và cách viết cho báo điện tử. - Sách “Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới” do TS Nguyễn Thế Kỷ chủ biên [75] đã nêu quan niệm về Đảng lãnh đạo công tác báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về báo chí, nội dung và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; mặt khác, sách nêu những thành tựu, ưu điểm, chỉ ra hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Cuốn sách đề cập đến vai trò của báo điện tử, mạng xã hội, các phương tiện truyền thông qua internet trên thế giới và ở Việt Nam, thực trạng báo điện tử ở nước ta hiện nay, bên cạnh thế mạnh và ưu điểm cơ bản, một số báo điện tử còn thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng TT-VH, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ. Tác giả cuốn sách cũng nêu hạn chế của báo điện tử và mạng xã hội ở Việt Nam: thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ. Cùng với những báo, tạp chí điện tử đã được cấp phép đúng luật, xuất hiện nhiều trang điện tử (Website) không phải là cơ quan báo chí, nhưng hoạt động và đăng tải thông tin như một cơ quan báo chí, vi phạm Luật Báo chí và các quy định pháp luật khác... Từ thực trạng báo chí Việt Nam, tác giả nêu một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Các tác giả nhấn mạnh công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, nhất là báo chí điện tử, trang tin điện tử và mạng xã hội trên internet, thúc đẩy đầu tư hạ tầng dịch vụ công nghệ thông tin, tạo ra những đơn vị tiên phong đủ mạnh để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Từ thực trạng báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng, tác giả nêu một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nâng cao công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước đối với báo chí trong tình hình mới. 1.1.2. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ - Luận án “Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới”, của Nguyễn Vũ Tiến [122] đã nêu về mặt lý luận, tác giả đã làm sáng tỏ các quan niệm báo chí, quản lý báo chí, sự lãnh đạo, vị trí tầm quan trọng của công tác quản lý báo chí, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về báo chí Việt Nam. Về thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng báo chí và sự lãnh đạo báo chí của Đảng ở Việt Nam, nêu ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những kết quả, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm, nêu lên những vấn đề đặt ra đối với việc lãnh đạo, quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, tác giả nêu phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở xác định rõ nội dung định hướng chính trị của Đảng đối với báo chí, cần xúc tiến xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia với quan điểm và phương hướng chủ yếu, các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là các tổ chức đảng trong cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản phải bảo đảm cơ quan báo chí của mình hoạt động đúng định hướng chính trị của Đảng. Trên cơ sở sắp xếp lại hệ thống báo chí, tổ chức tốt sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân trong việc lãnh đạo, quản lý và hỗ trợ báo chí; kiện toàn tổ chức đảng trong cơ quan báo chí, tăng cường quản lý, đào tạo, bồi dưỡng các nhà báo và cán bộ quản lý báo chí; tăng cường công tác kiểm tra của Đảng đối với hoạt động báo chí và công tác lãnh đạo, quản lý báo chí. - Luận án “Tính hấp dẫn của báo đảng nước ta trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Văn Sinh [106] đã nêu khái niệm và làm sáng tỏ hấp dẫn và tính hấp dẫn của báo chí nói chung và của báo đảng, chỉ rõ quan điểm báo đảng, tính hấp dẫn của báo Đảng và vai trò của báo đảng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam; đưa ra tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn của cả tờ báo đảng và tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn của một tác phẩm báo chí. Đồng thời, các tác giả nêu rõ vai trò của tập thể và cá nhân những người làm báo để nâng cao tính hấp dẫn của tờ báo và tác phẩm báo chí; khái quát thực trạng của báo đảng, đặc biệt là chỉ ra những hạn chế, những bất cập của tính hấp dẫn ở các tờ báo đảng hiện nay, làm cho bạn đọc chưa gắn bó, yêu thích các tờ báo đảng. Luận án đã làm rõ những vấn đề mới về nhu cầu thông tin của công chúng bạn đọc đối với báo đảng; những vấn đề đặt ra đối với tính hấp dẫn của báo đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng và sự cạnh tranh thông tin của báo đảng hiện nay. Luận án đưa ra những giải pháp mang tính khả thi để nâng cao tính hấp dẫn của báo đảng trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn “Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay” của Dương Thanh Tân [111] đã làm sáng tỏ khái niệm về báo chí, sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, vị trí, vai trò, chức năng của báo chí. Ngoài ra, tác giả đề cập phải làm gì để đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo báo chí, những tiêu chí để lựa chọn con người làm báo đúng tôn chỉ, mục đích, đúng quy ước đạo đức nhà báo, công tác quản lý hoạt động báo chí sao cho đúng luật pháp. Tác giả nêu rõ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về báo chí và sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Trong phần thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí của tỉnh, nêu lên những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém, chỉ ra các nguyên nhân của hạn chế yếu kém, rút ra một số kinh nghiệm và nêu lên một số vấn đề đặt ra trong quá trình lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí. Từ đó, tác giả nêu phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn “Phản biện xã hội của báo chí góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng” của Nguyễn Văn Minh [92] đã làm sáng tỏ khái niệm phản biện xã hội của báo chí, công tác tư tưởng; các chức năng, nhiệm vụ, tính chất phản biện của báo chí. Về thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng phản biện xã hội của báo chí ở nước ta hiện nay, những kết quả đạt được và các hạn chế, yếu kém, chỉ ra những nguyên nhân của kết quả, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém và rút ra một số kinh nghiệm trong thực hiện phản biện xã hội báo chí hiện nay, từ đó tác giả nêu phương hướng và các pháp giải pháp nhằm cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của phản biện báo chí đối với xã hội. - Luận văn “Nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử” của Phạm Thị Hằng [69] đã nêu vai trò, vị trí, tầm quan trọng của báo điện tử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong phần lý luận, tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm về báo điện tử, chất lượng thông tin, làm sáng tỏ về thông tin báo chí nói chung và báo điện tử nói riêng. Trong phần thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng của việc thông tin trên báo điện tử hiện nay, nêu lên những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế cần khắc phục, tìm ra các nguyên nhân của các hạn chế, yếu kém, rút ra một số kinh nghiệm của báo điện tử trong thời đại thông tin toàn cầu. Tác giả đã nêu ra phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin trên báo điện tử: tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về báo điện tử để tạo môi trường pháp lý thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận trên báo điện tử, nâng cao hiệu quả hoạt động; tiếp tục rà soát, điều chỉnh hợp lý quy hoạch hệ thống báo điện tử và phát triển báo điện tử; xác định tính hợp pháp, sự phù hợp về tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của các tờ báo điện tử; đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý điện tử để thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, đội ngũ cán bộ phóng viên báo điện tử. Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng cán bộ, phóng viên ở các toà soạn báo điện tử có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng thông tin của báo. Các cơ quan báo điện tử cần xây dựng quy chế tuyển dụng, đào tạo, bố trí, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, phóng viên, nhân viên trong cơ quan mình; nâng cấp hạ tầng kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động của các cơ quan báo điện tử. - Luận văn “Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay” của Phí Thị Thanh Tâm [110], phần lý luận tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm báo chí, quản lý nhà nước về báo chí, vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí; quan niệm về quản lý nhà nước đối với báo chí và vị trí, vai trò và đặc điểm của quản lý nhà nước đối với báo chí. Trong phần thực tiễn, tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay; những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những mặt còn hạn chế và những vấn đề đang đặt ra đối với báo chí hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ hàng đầu là phải thường xuyên rà soát, kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về báo chí nhằm loại bỏ những quy định pháp luật bị chồng chéo, mâu thuẫn nhau và lạc hậu, đồng thời ban hành mới các văn bản pháp luật có chất lượng pháp lý cao có sức sống dài hơn. Đẩy mạnh cải cách bộ máy, cơ chế quản lý, đội ngũ cán bộ công chức để thực hiện tốt pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm pháp luật trong hoạt động báo chí. - Luận văn “Tính chủ động, kịp thời trong công tác chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí” của Nguyễn Thị Mỹ Linh [82], phần lý luận của luận văn, tác giả đã làm sáng tỏ các khái niệm lãnh đạo, báo chí, Đảng lãnh đạo báo chí, quản lý, nhà nước quản lý báo chí. Luận văn đề cập các nội dung Đảng lãnh đạo báo chí: Đảng định hướng chính trị tư tưởng cho báo chí; Đảng chủ động, kịp thời cung cấp thông tin và định hướng thông tin cho báo chí, coi đây là cách tốt nhất để định hướng và thông tin cho toàn Đảng và toàn xã hội; Đảng lãnh đạo, tổ chức sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến việc Đảng chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí trên các lĩnh vực của đất nước, Nhà nước quản lý hoạt động của báo chí. Trong phần thực tiễn, luận văn đã nêu và phân tích, đánh giá tình trạng công tác lãnh đạo, quản lý thông tin báo chí; những vấn đề đặt ra cho báo chí nước ta hiện nay trong việc nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, tăng cường tính chủ động, kịp thời trong chỉ đạo, định hướng thông tin báo chí. Luận văn nêu một số giải pháp chủ yếu: nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí; tăng cường các nguồn lực, phương tiện phục vụ công tác chỉ đạo; định hướng thông tin báo chí. 1.1.3. Các bài báo khoa học trên tạp chí, báo, kỷ yếu hội thảo 1.1.3.1. Các bài báo khoa học trên tạp chí, báo - TS Lưu Văn Kiền trong bài viết: “Báo chí - công cụ sắc bén của công tác tư tưởng” [74] đã đề cập vị trí, vai trò của báo chí trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đồng thời cũng chỉ ra phương hướng, mục tiêu cần thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu, mục tiêu phát triển của báo chí trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ công tác tư tưởng và dựa trên những căn cứ lý luận và thực tiễn. Theo tác giả, định hướng tuyên truyền trong hoạt động báo chí là một khâu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, một yếu tố trong nội hàm Đảng lãnh đạo báo chí. Tác giả nêu một số giải pháp nhằm thực hiện việc định hướng thông tin, định hướng tuyên truyền trong hoạt động báo chí đạt hiệu quả cao. - Nông Đức Mạnh trong bài viết: “Phát triển nền báo chí cách mạng có chất lượng cao, đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc” [88] đã đánh giá, trong những năm đổi mới, báo chí đã đóng góp to lớn và tích cực vào những thành tựu phát triển chung của đất nước. Đồng thời, tác giả nêu nhiệm vụ trước mắt của báo chí là cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm chỉ đạo là phát triển đi đôi với quản lý để nâng cao chất lượng và hiệu quả của báo chí đối với xã hội. Phát triển báo chí cần bảo đảm cả số lượng, chất lượng nội dung, công nghệ, sự hợp lý về loại hình trong hệ thống, đáp ứng tốt nhất những yêu cầu, nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, giải trí của nhân dân, phục vụ tích cực việc thực hiện đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Báo chí phải tác động tích cực và có hiệu quả vào việc hình thành bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn, khí phách con người Việt Nam trong thời kỳ mới, hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp phần cổ vũ sức mạnh toàn dân tộc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng - Trương Tấn Sang trong bài viết: Tiếp tục phát triển nền báo chí cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [105] đã đánh giá cao vai trò của báo chí, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò của báo chí, coi trọng đội ngũ cán bộ báo chí, quan tâm tới công tác lãnh đạo, quản lý báo chí để báo chí đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước. Báo chí đã hoạt động đúng định hướng chính trị, đúng pháp luật, thực hiện tốt chức năng vừa là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, ...hưng đã có một số chuyên đề tổng kết thực trạng một số vụ việc đưa tin bài sai lệch, thiếu định hướng, chỉ rõ nguyên nhân và đề xuất những giải pháp tăng cường quản lý, trong đó tập trung nhiều cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế tài quản lý, nhất là các chế tài xử phạt. Các đề tài khoa học, các công trình nghiên cứu, bài viết được công bố nêu trên đã nghiên cứu về báo chí và sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí ở nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau, đạt được nhiều kết quả lý luận và thực tiễn quan trọng. Tuy nhiên, đến nay chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo điện tử. Tác giả luận án kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan để tiếp tục đi sâu nghiên cứu Đảng lãnh đạo đối với báo điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chương 2 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO BÁO ĐIỆN TỬ - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. KHÁI NIỆM, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM CỦA BÁO ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 2.1.1. Khái niệm báo điện tử Trên thế giới và ở Việt Nam đang tồn tại nhiều cách gọi khác nhau đối với loại hình báo chí này. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt, báo điện tử là loại báo mà độc giả có thể đọc trên máy tính khi kết nối với đường truyền internet qua bộ chia (modem) (dial-up hoặc ADSL) có dây hoặc không dây (Wi-Fi và WiMax). Ngoài đọc báo với máy tính, người đọc có thể đọc tin với điện thoại di động, máy tính bảng (iPad), điện thoại máy tính (iphone)... Báo điện tử là loại báo được xuất bản bởi tòa soạn điện tử mà người ta đọc nó trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng... khi có kết nối internet. Cũng theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt, internet (thuật ngữ được sử dụng từ năm 1974) là một hệ thống thông tin liên quốc gia có thể được truy cập công cộng gồm các máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo phương thức nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP) qua mạng truyền dẫn như cáp, cáp quang, sóng phát thanh. Mạng internet mang lại rất nhiều tiện ích cho người sử dụng ở mọi lĩnh vực, thông dụng nhất là hệ thống thư điện tử (Email), trò chuyện trực tuyến (Chat), truy tìm dữ liệu (Seach engine). Nhờ hệ thống các trang Web liên kết với nhau (Wordl Wide Web - viết tắt là WWW), internet chứa và dịch chuyển một lượng thông tin khổng lồ, hầu như không bị bất kỳ rào cản nào về không gian và thời gian trên trái đất. Vì lý do đó, trên thế giới hiện có hàng tỷ người sử dụng internet hoặc các sản phẩm của internet. Tiện ích của internet đã khiến nó nhanh chóng được sử dụng phổ biến khắp thế giới. Một số nhà nghiên cứu đã định nghĩa, thời đại ngày nay là thời đại internet và đề nghị dùng khái niệm này thay thế khái niệm toàn cầu hóa. Internet ngày nay được sử dụng phổ biến qua đường điện thoại, băng rộng, không dây, điện thoại di động. Trên thế giới có nhiều tên gọi như: “online newspaper” (báo chí trên mạng, trực tuyến), e-journal (electronic journal - báo chí điện tử), “e-zine” (electronic magazine - tạp chí điện tử) Ở Việt Nam, báo điện tử gắn liền với tên gọi của nhiều tờ báo mạng điện tử thuộc cơ quan báo in, như Nhân Dân điện tử, Lao động điện tử, Quê hương điện tử... Trong các bản pháp quy của Nhà nước cũng sử dụng thuật ngữ “báo điện tử”. Trong Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23-8-2001 của Chính phủ về quản lý và cung cấp dịch vụ internet, Điều 12 ghi: “Dịch vụ thông tin trên internet là một loại hình dịch vụ ứng dụng internet, bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo in, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên internet và dịch vụ cung cấp các loại hình điện tử khác trên Internet” [41, tr.2]. Thuật ngữ “báo điện tử” được sử dụng trong Điều 3 Luật Báo chí năm 1999. Theo định nghĩa tại Luật này, “báo điện tử là loại hình báo chí được thực hiện trên hệ thống máy tính” [84, tr.2]. Thuật ngữ báo điện tử đang được sử dụng được dịch từ các thuật ngữ “Online newspaper” (báo trực tuyến), “Internet Newspaper” (báo internet) hoặc “Electronic Newspaper” (báo điện tử). Phổ biến nhất hiện nay là tên gọi “báo điện tử”, “trang thông tin điện tử”, “báo mạng điện tử”, “báo mạng” (trong tương quan với cách gọi báo in, báo nói, báo hình); ít phổ biến hơn là cách gọi “báo internet”, “báo online” hay “báo trực tuyến”. Cách gọi “báo điện tử” đã được sử dụng trong nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước và đã gần như được thừa nhận trong thực tế. Báo điện tử là loại hình báo chí một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức của một trang web và phát hành trên mạng internet. Báo điện tử là tờ báo của một tổ chức chính trị, chính trị - xã hội nhất định, phải đăng ký và được chấp thuận của các cơ quan quản lý nhà nước trước khi hoạt động; là hoạt động chính trị, phục vụ công tác tư tưởng, lợi ích của Tổ quốc, nhân dân; hoạt động theo Luật Báo chí. Báo điện tử cung cấp nguồn thông tin chính thống, mang tính định hướng, được kiểm duyệt, kiểm tra chặt chẽ trước khi đăng, góp phần quản lý xã hội. Đội ngũ sản xuất thông tin trên báo điện tử là các nhà báo chuyên nghiệp. Báo điện tử khác với mạng xã hội. Mạng xã hội của tổ chức xã hội, công ty, đơn vị kinh tế, cá nhân; có thể được phép hoạt động hoặc không. Mạng xã hội - còn gọi là mạng xã hội ảo - là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau (chủ yếu vì mục đích riêng), không phân biệt không gian và thời gian. Mạng xã hội có những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ tệp, blog và xã hội. Mạng xã hội đề cập tới một tập hợp kết nối các thành viên với nhau trong một cộng đồng, còn báo điện tử đề cập đến hình thức sản xuất và phân phối nội dung. Mạng xã hội là một xã hội ảo với hai thành tố chính tạo là các thành viên và liên kết giữa các thành viên đó. Thông tin trên mạng xã hội không được xem là nguồn thông tin chính thống như báo điện tử, vì có thể có thông tin có động cơ, mục đích không lành mạnh, thậm chí không có lợi cho Đảng và Nhà nước. Đội ngũ sản xuất thông tin trên mạng xã hội là tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu thông tin về mình. Khi mới ra đời, hầu hết các báo điện tử là trang điện tử của báo in, chỉ đưa tin bài từ báo in sang trang điện tử, tức là cánh tay nối dài của báo in. Gần đây, những trang điện tử của báo in đã có sự thay đổi, không những đưa tin bài từ báo in sang, mà còn tổ chức khai thác, viết mới để đăng trên trang điện tử, được độc giả đón đọc nhiều hơn báo in. Những báo điện tử độc lập hoàn toàn không phải là trang điện tử của báo in. Các báo điện tử này hoàn toàn độc lập, tự chủ về việc tổ chức thực hiện tin bài để đăng trên báo. Báo điện tử là loại hình báo chí mà thông tin được truyền tải bởi sự kết hợp của hai giải pháp là giải pháp công nghệ thông tin và giải pháp truyền thông. Có thể hiểu một cách đơn giản nhất, báo điện tử là loại hình truyền tải thông tin - gồm: tin tức, thông tin và quảng cáo (theo Wikipedia) trên mạng thông tin điện tử. Cũng giống như các loại hình báo chí khác, báo điện tử cũng được chia làm nhiều chuyên mục với ý nghĩa định hướng thu thập thông tin cho độc giả. Số lượng chuyên mục phản ánh quy mô của trang báo; nội dung và hình thức phản ảnh tính chất đặc thù của trang báo. 2.1.2. Sự ra đời và phát triển của báo điện tử ở Việt Nam Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin là tiền đề khoa học – công nghệ cho sự ra đời của báo điện tử. Đến lượt mình, báo điện tử thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin, làm thay đổi diện mạo báo chí ở nhiều quốc gia. Tuy sự phát triển báo điện tử ở Việt Nam mới đạt mức trung bình khá của khu vực Đông Nam Á và còn ở mức thấp của thế giới, nhưng sự phát triển của nó đã mở ra những thuận lợi lớn cho quá trình hội nhập và phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất lớn. Tháng 10-1993, khoa Báo chí Trường đại học Florida (Mỹ) cho xuất bản một trang tin điện tử đặc biệt trên mạng internet và coi đó là tờ báo điện tử đầu tiên trên thế giới. Tiếp theo, phiên bản điện tử của tạp chí Hotwired chạy banner quảng cáo đầu tiên thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng, mở đầu cho sự bùng nổ báo điện tử ở Mỹ và trên thế giới như thời báo Lốt Ăngdơlét, báo Hoa Kỳ ngày nay, báo mới Niu Oóc Năm 1995, nhiều tờ báo ở châu Á cũng xuất hiện trên mạng internet như báo Trung Quốc hằng ngày, Utusan (Malaixia), Asahi Simbun (Nhật Bản), Kompát (Inđônêxia) Đến giữa năm 1996, Mỹ đã có khoảng 768 tờ báo điện tử, châu Âu có 169 tờ, châu Á có 54 tờ, Nam Mỹ có 25 tờ, Ốxtrâylia có 20 tờ, châu Phi có 6 tờ. Kể từ năm 2000 các hãng thông tấn lớn như AFP, Roitơ, các đài truyền hình như CNN, NBC, các tờ báo như NewYork Newday, Bưu điện Oasinhtơn đều có tờ báo điện tử của mình và coi đó là phương tiện để phát triển thêm công chúng báo chí. Số báo điện tử tăng lên một cách nhanh chóng. Thời kỳ đầu báo điện tử còn gặp một số rào cản như số lượng người có máy tính còn ít, sự hạn chế trong khâu kỹ thuật, tâm lý người đọc còn e ngại trong việc sử dụng máy móc Nhưng, với sự phát triển nhanh chóng của internet và những ưu điểm vượt trội của mình, báo điện tử đã trở thành một tiện ích quan trọng, là một bộ phận không thể tách rời của internet và xã hội hiện đại. Hiện nay, hầu hết các tờ báo in, đài phát thanh, truyền hình lớn đều có mặt trên internet. Ở Việt Nam, năm 1997, tờ báo trực tuyến đầu tiên của Việt Nam ra đời là tờ Tạp chí Quê hương điện tử. Đây là tờ tạp chí của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài trực thuộc Bộ Ngoại giao, phát hành số đầu tiên vào ngày 06-02-1997, chính thức khai trương ngày 03-12-1997. Đối tượng phục vụ chủ yếu của tạp chí này lúc đó là cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài muốn có thông tin về Việt Nam và những người quan tâm ở trong nước. Sau tạp chí Quê hương điện tử, vào năm 1999, hai tờ báo lớn của Việt Nam là Nhân Dân và Lao động cũng đưa trang điện tử lên mạng. Những tờ báo điện tử ngay từ thuở sơ khai đã sớm khẳng định được vị thế, ưu điểm của mình. Từ thời điểm đó, cùng với các loại hình báo chí đã có như báo in, báo nói (đài phát thanh), báo hình (đài truyền hình), làng báo Việt Nam có thêm một loại hình báo chí hiện đại khác - báo điện tử trên mạng internet, tích hợp được cả ba loại hình báo chí đã có với rất nhiều tiện ích. Nhận thấy thế mạnh của báo điện tử, ngay sau khi tạp chí Quê hương điện tử ra đời, hàng loạt các cơ quan báo chí đã tiến hành thử nghiệm và lần lượt xuất bản ấn phẩm của mình trên mạng internet. Năm 1998, báo điện tử Vietnamnet ra đời; năm 1999, báo Nhân Dân điện tử ra đời, Đài Tiếng nói Việt Nam hòa mạng với tên miền năm 2000, Đài Truyền hình Việt Nam phát hành trang tin điện tử. Hai năm 2003, 2004 là thời điểm “bùng nổ” các tờ báo, trang tin điện tử ở Việt Nam. Những tờ báo in vốn đã rất có tiếng trong làng báo Việt Nam như Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh niên, Tiền phong, Công an nhân dân... cũng cho ra đời trang tin điện tử trên mạng internet. Tiếp đó là Website Đảng Cộng sản Việt Nam, ở dạng web tĩnh, đã đưa lên mạng một kho dữ liệu chính thống về Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đó là toàn bộ văn kiện của Trung ương Đảng (nghị quyết, chỉ thị, kết luận, thông báo của BCT, BBT), văn bản của các ban Đảng qua các thời kỳ. Cho đến nay, phần lớn các báo, tạp chí lớn của Trung ương, các bộ, ngành, đoàn thể, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có thêm trang tin điện tử hoặc báo, tạp chí điện tử. Đặc biệt, sự ra đời của các tờ báo điện tử độc lập đã tạo ra luồng gió mới thúc đẩy báo điện tử Việt Nam phát triển. Theo báo cáo của Bộ TT-TT, tính đến tháng 12-2013 cả nước có 92 báo, tạp chí điện tử (trong đó có 20 báo, tạp chí điện tử độc lập), số lượng trang tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí là 265. Căn cứ tính chất, đặc trưng riêng, có thể chia báo điện tử ở nước ta ra làm hai loại. Loại thứ nhất là các báo, tạp chí điện tử - cánh tay nối dài của báo in, tạp chí in, nằm trong một tòa soạn như: nhandan.org.vn (báo Nhân Dân), quandoinhandan.org.vn (báo Quân đội nhân dân), tienphong.vn (báo Tiền phong), anninhthudo.vn (báo An ninh Thủ đô), Vnagency.com.vn (Thông tấn xã Việt Nam), vov.org.vn (Đài Tiếng nói Việt Nam)... Loại thứ hai là các báo điện tử được cấp phép hoạt động độc lập như Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, VnMedia, VnExpress, Vietnamnet, VTC News... Cũng có thể chia báo điện tử theo hình thức tiếp cận của độc giả như: các báo điện tử thông dụng (Vietnamnet, VnExpress, tienphong.vn, thanhnien.com.vn) và các báo điện tử tự động cập nhật, tổng hợp tin tức từ các báo điện tử trực tuyến nổi tiếng của Việt Nam (mà không cần người biên tập như Baongay.com, Thegioitin.com, Baomoi.com). Qua gần 15 năm hình thành và phát triển, báo điện tử ở Việt Nam đã khẳng định vị thế của mình trong hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng; các báo có nội dung đa dạng, phong phú, hình thức “bắt mắt”, thu hút hàng triệu lượt người truy cập mỗi ngày, chứng tỏ đây là một phương tiện thông tin hiệu quả, hữu ích, đồng thời thực hiện tốt chức năng thông tin, tuyên truyền, giáo dục. 2.1.3. Vị trí, vai trò của báo điện tử hiện nay ở Việt Nam Một là, là một loại hình báo chí, nhưng là loại hình báo chí mới, báo điện tử có vị trí, vai trò của báo chí nói chung và một số nét đặc thù. Nhiều ưu việt của các loại hình báo chí đang hội tụ ở báo điện tử. Một số báo điện tử không chỉ có tác động xã hội lớn ở trong nước, mà còn có tầm ảnh hưởng quốc tế. Báo điện tử có chức năng, nhiệm vụ của báo chí nói chung và một số chức năng riêng. Báo điện tử đã trở thành một loại hình báo chí phát triển nhanh và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống thông tin đại chúng ở Việt Nam. Hai là, báo điện tử đóng vai trò tích cực trong việc phổ biến, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, mở rộng hiệu quả thông tin đối ngoại, nâng cao dân trí và đáp ứng nhu cầu thông tin, hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Tuy là một loại hình báo chí còn mới mẻ trên mạng internet, thông tin tốt và thông tin xấu đan xen, đối tượng đọc báo có nhiều thay đổi, nhưng báo điện tử vẫn là một lực lượng trong đội quân xung kích trên lĩnh vực TT-VH của Đảng, cùng với báo in, phát thanh, truyền hình làm tốt nhiệm vụ là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và là diễn đàn tin cậy của nhân dân; đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới; góp phần hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ chính trị đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước; cổ vũ những điển hình tốt, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận, chống âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thể lực thù địch; nâng cao dân trí, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới; góp phần tăng cường ổn định chính trị, tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội; mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với bạn bè trên thế giới. Ba là, báo điện tử giữ vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nâng cao dân trí, giáo dục thẩm mỹ, nhất là cho thế hệ trẻ, góp phần vào việc phát hiện, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hóa mới, xây dựng con người Việt Nam hiện đại theo yêu cầu của Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII về phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển và xã hội hóa giáo dục, đồng thời phục vụ đời sống bình thường của một bộ phận dân cư khá đông đảo của nước ta. Bốn là, các báo điện tử cũng góp phần quan trọng trong thông tin đối ngoại. Phát huy thế mạnh có thể nhanh chóng tới mọi nơi trên thế giới với thời gian nhanh nhất, không bị ngăn cản bởi các mục đích chính trị của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam, các báo điện tử, nhất là các trang báo tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng; kịp thời vạch trần những luận điệu xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch bên ngoài và của những kẻ bất mãn, cơ hội trong nước. Báo điện tử đang trở thành phương tiện thông tin đối ngoại quan trọng, có hiệu quả nhất so với các phương tiện thông tin khác và - trong tương lai không xa - sẽ trở thành kênh thông tin chính trị đối nội, đối ngoại có vị trí hàng đầu. Năm là, một số đối tượng khác như sinh viên, cán bộ, các nhà nghiên cứu thường xuyên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên báo điện tử để phục vụ cho công việc học tập, nghiên cứu, sản xuất của mình. Nhờ có báo điện tử - với các công cụ tìm kiếm hữu ích, nhanh, chính xác - người ta tiết kiệm được rất nhiều thời gian tra cứu, tìm kiếm qua sách, báo in, nâng cao năng suất lao động trí óc cho người lao động. Các báo điện tử cũng thực hiện có hiệu quả các dịch vụ điện tử, dịch vụ thương mại đi kèm, đóng vai trò giao lưu thương mại quan trọng trong đời sống hiện đại. Từ những lợi thế này, riêng về mặt thông tin chính trị - xã hội, các tờ báo điện tử trở thành một trong những phương tiện hữu hiệu trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là món ăn tinh thần không thể thiếu cho các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên..., trong đó có hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống, học tập ở xa Tổ quốc và người Việt Nam định cư ở nước ngoài vốn rất thiếu thông tin về tình hình trong nước, mong muốn được giao lưu tình cảm với quê hương, người thân; những người nước ngoài muốn theo dõi tình hình đổi mới ở nước ta qua báo chí. Các báo điện tử từng bước xây dựng các trang thông tin tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh như các báo: Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam, Vietnamnet, VnExpress, Quê hương 2.1.4. Đặc điểm của báo điện tử ở Việt Nam 2.1.4.1. Đặc điểm chung của báo điện tử Ra đời sau các loại hình báo chí khác, báo điện tử có đầy đủ những đặc trưng cơ bản của báo in, báo nói, báo hình (đọc, nghe, nhìn hoặc thực hiện đồng thời ba loại hình thông tin). Thêm vào đó, với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, báo điện tử có những đặc trưng hoàn toàn mới, nâng trình độ thông tin lên một bước cao hơn rất nhiều. Do đặc điểm của loại hình thông tin trên báo điện tử có khả năng truy cập bất cứ lúc nào, bằng nhiều loại phương tiện như chữ, hình ảnh tĩnh, hình ảnh động, âm thanh hoặc kết hợp các phương tiện đó, nên tin trên báo điện tử thường nhanh, sinh động, phong phú, được bạn đọc hoan nghênh. Hiện nay, bạn đọc, nhất là giới trẻ, thường theo dõi thông tin qua báo điện tử nhiều hơn qua báo in hoặc truyền hình, nhất là với các tin nóng (hot news) như tai nạn, bóng đá, ca nhạc, sự kiện nổi bật Với những ưu thế trên, báo điện tử có sự phát triển nhanh và mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chính sự phát triển của báo điện tử cũng đã và đang thúc đẩy sự chuyển đổi trong văn hóa đọc, nhất là đối với giới công chức, hằng ngày lên mạng đọc báo đã trở thành thói quen của một bộ phận không nhỏ dân cư và số lượng bạn đọc ngày một tăng. Thậm chí, đã có ý kiến cho rằng, sự gia tăng này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự “khủng hoảng” của báo in. Báo điện tử đã không những thu hút độc giả, mà còn thu hút cả các dịch vụ như quảng cáo, nhắn tin... vốn là nguồn thu lớn của báo in, đồng thời còn cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích khác đang là thế mạnh của báo điện tử. Khác với báo điện tử, báo in, báo hình, báo nói cần có sự chứng kiến tại hiện trường, viết bài, biên tập, lên trang, in ấn và gửi tới các cơ quan phát hành báo chí... Sự kiện trong báo in, báo hình, báo nói thường là sự kiện đã xảy ra, đã nguội hoặc thông báo dự kiến sự kiện sẽ xảy ra. Tính định kỳ đã chi phối rất nhiều tính thời sự, nóng của thông tin. Hình thức chuyển tải của báo điện tử đa dạng, phong phú và sinh động hơn các loại hình báo chí khác. Báo in chỉ chỉ đơn thuần truyền tải bằng chữ và hình ảnh được tin trên giấy, báo hình chỉ có hình ảnh và vai trò của lời nói, còn báo nói chỉ thông tin bằng lời nói. Mặt khác, khả năng lưu trữ và dung lượng lưu trữ của báo in, báo hình, báo nói chỉ có mức độ và bị khống chế bởi không gian và thời gian. Một là, về tính đa phương tiện Tính đa phương tiện của báo điện tử thể hiện qua văn bản (text), hình ảnh (still image), hình ảnh động (animation), đồ họa (graphic), âm thanh (audio), băng hình (video) và các chương trình tương tác (interactive programs). Hiện tại, tùy thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực mà khái niệm đa phương tiện được định nghĩa có điểm khác nhau. Văn bản (text) là thành phần không thể thiếu của báo điện tử, mặc dù những thành phần khác trong tính đa phương tiện có sức hấp dẫn và ưu điểm hơn. Nhìn vào tổng thể của một tờ báo điện tử thì văn bản vẫn chiếm phần lớn diện tích. Bản thân văn bản có khả năng truyền tải những nội dung thông tin, nó thường được dùng để thể hiện nội dung chính, dẫn dắt bài viết và được kết hợp với hình ảnh tĩnh, đồ họa để tăng tính hấp dẫn, chân thực của thông tin. Ngoài ra, văn bản còn được dùng để chú thích, bổ trợ, cung cấp, làm rõ nội dung thông tin cho các đoạn video, hình ảnh, đồ họa... Bên cạnh đó, kích cỡ, màu sắc chữ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng tính hấp dẫn của văn bản. Video là một yếu tố quan trọng giúp báo điện tử vượt qua những loại báo chí hiện có. Bản thân những đoạn video đã mang tính đa phương tiện, gồm cả hình ảnh và âm thanh, được kết hợp cả hình ảnh tĩnh và văn bản. Có thể nói, báo điện tử đã thể hiện được toàn bộ những phương tiện ưu việt nhất của các loại hình báo chí. Thế mạnh của video trên báo điện tử là đem lại hình ảnh sống động và chân thực, bởi đó là phương tiện tốt nhất để miêu tả hình ảnh động. Sự sinh động qua các hình ảnh được ghi lại với màu sắc chân thực có tác động mạnh đến người tiếp nhận. Do đó, thông tin truyền tải đến công chúng hấp dẫn và có tính thuyết phục cao. Hình ảnh động (animation) trên báo điện tử thường được thể hiện qua hai hình thức là trình diễn ảnh (slideshow) và hình ảnh động (animation). Hình thức trình diễn ảnh gồm nhiều hình ảnh khác nhau được sắp xếp theo một ý đồ nhất định. Tùy theo thiết kế của từng báo điện tử mà các trình diễn ảnh có tốc độ chuyển ảnh, giao diện khác nhau. Bên cạnh ảnh động được thể hiện dưới hình thức trình diễn, báo điện tử còn có khả năng tích hợp một sản phẩm ảnh động khác. Đây là những hình ảnh động được tạo ra từ sự kết hợp nhiều hình ảnh tĩnh, gần giống với nguyên lý làm phim hoạt hình. Những hình ảnh động có thể không sánh bằng một đoạn video, nhưng lại là điều mà báo in không có được. Ngoài việc truyền tải nội dung các tác phẩm báo chí, hình ảnh động còn được sử dụng rất phổ biến cho các quảng cáo dạng bảng, khung trên các báo điện tử hiện nay. Hình ảnh tĩnh (still image) bao gồm ảnh chụp và hình họa. Nó là thành phần được dùng nhiều và đóng vai trò quan trọng vào thành công của tác phẩm cũng như sản phẩm báo điện tử. Một bức ảnh được chụp đúng khoảnh khắc gắn liền với sự việc, sự kiện sẽ làm nổi bật cảm xúc, nhấn mạnh những thông tin quan trọng, có giá trị đôi khi gấp nhiều lần hình thức khác. Mặt khác, thông qua hình ảnh, độc giả sẽ nhanh chóng tiếp nhận thông tin. Số lượng, kích cỡ, sắp xếp vị trí ảnh tùy thuộc vào từng bài báo, từng tờ báo và nó có ảnh hưởng đến độ nặng của của trang báo. Nó làm tốn thời gian truy cập và giảm tốc độ tải về máy tính cá nhân của độc giả. Đồ họa (graphic) là những hình được vẽ, thiết kế bằng các chương trình, phần mềm đồ họa ứng dụng trên máy tính để mô tả, minh họa cho những chi tiết, ý tưởng nào đó. Thông tin đồ họa thực chất là hình thức diễn đạt thông tin bằng đồ thị, biểu đồ, bảng, bản đồ, lược đồ... Nhờ ngôn ngữ tạo hình riêng biệt, thông tin đồ họa còn có khả năng diễn đạt chi tiết sắp xếp hài hòa có ý đồ về nội dung và hình thức... Thông tin đồ họa giúp người tiếp nhận thông tin nhanh, dễ hiểu, dễ nhớ, ấn tượng. Dù trong bài báo có thể đưa ra các số liệu cụ thể, song việc sử dụng đồ họa sẽ giúp cho độc giả thấy được sự biến thiên của số liệu và dễ dàng nhận biết vấn đề mà tác giả bài viết đưa ra. Âm thanh (audio) là một loại hình báo chí đã được sử dụng từ lâu, nhưng đến năm 1993, khi đài phát thanh trực tuyến đầu tiên ra mắt trên thế giới, khả năng đưa âm thanh đến với độc giả thông qua những tờ báo điện tử mới chính thức được công nhận. Âm thanh là một trong những yếu tố đa phương tiện trên báo điện tử có tác dụng tạo nên sự gần gũi hơn với người tiếp nhận thông tin bởi có sự xuất hiện của tiếng nói trong các sản phẩm báo chí. Các tập tin âm thanh còn làm tăng sức thuyết phục, tính chính xác của các sản phẩm báo điện tử, nhất là trong các trường hợp phỏng vấn nhân vật hay ghi âm lời nhân chứng. Đôi khi chỉ cần một đoạn audio dài vài phút cũng có tác dụng và hiệu quả thông tin hơn những bài viết bằng văn bản mà ở đó chưa thể diễn đạt hết những điều nhà báo muốn truyền tải đến công chúng. Những chương trình tương tác (interactive programs) chính là phương tiện duy nhất chỉ có trên báo điện tử và thể hiện sự vượt trội của báo điện tử so với tất cả các loại hình báo chí khác. Các chương trình tương tác trên báo điện tử ngày càng đa dạng, phong phú và thu hút được sự quan tâm của độc giả bởi tính mới lạ và thú vị. Có thể kể đến những chương trình tương tác đang được các báo điện tử áp dụng ngày càng nhiều như giao lưu trực tuyến, trả lời trắc nghiệm... Trên một sản phẩm báo điện tử - theo nội dung và yêu cầu của từng tòa soạn - việc sử dụng các yếu tố đa phương tiện cũng khác nhau. Trong nhiều trường hợp một thông tin có thể được truyền tải bằng nhiều phương tiện để người đọc tiếp cận và lựa chọn, nhưng trong nhiều trường hợp khác nhà báo sẽ quyết định hình thức truyền tải nào là phù hợp với nội dung thông điệp. Qua đó mà các sản phẩm báo điện tử ngày càng hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của bạn đọc. Có thể nói, đa phương tiện là một trong những ưu điểm vượt trội của báo điện tử so với các loại hình báo chí khác. Những thông tin bằng văn bản, hình ảnh, âm thanh cùng xuất hiện trên trang chủ của báo điện tử luôn tạo ra sự hấp dẫn, sống động đặc biệt đối với công chúng. Các báo điện tử ở Việt Nam sẽ chú ý nhiều hơn tới khả năng đa phương tiện. Đó không phải là sự xuất hiện rời rạc, mà phải là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố văn bản, hình ảnh (động, tĩnh), âm thanh, đồ họa trong một sản phẩm báo chí. Gần như ngay lập tức cùng với những mẩu tin ngắn bằng văn bản là những đoạn hình ảnh, âm thanh được truyền trực tiếp trên trang chủ của báo mạng điện tử sẽ tạo ra sự hấp dẫn, sống động đặc biệt cho công chúng. Bên cạnh việc biên tập, sưu tầm, phát lại các chương trình của nhiều kênh truyền hình, các trang web chia sẻ video, các tờ báo điện tử sẽ đầu tư để tự sản xuất ra các sản phẩm đa phương tiện của riêng mình. Khá nhiều trong số đó là những chương trình tin tức, phóng sự mang tính chính trị, xã hội, chứ không chỉ đơn thuần là những thông tin giải trí (âm nhạc, phim truyện, giải trí...). Hai là, tính tức thời và phi định kỳ Đối với những người làm báo điện tử, áp lực về thời gian mạng và nhu cầu tin tức của bạn đọc trên khắp toàn cầu thực sự là một thách thức, bởi người đọc lúc nào cũng có mặt trên internet, nơi này là ngày thì nơi khác lại là đêm và ngược lại. Hơn nữa, bạn đọc luôn đòi hỏi thông tin phải nhanh, mới và nóng. Vì vậy, tính thời sự là một trong những tiêu chí mà bất kỳ tờ báo nào cũng mong đạt tới. Các báo in muốn thông tin cho bạn đọc phải chờ tới số sau, nhật báo hoặc tuần báo. Còn đài phát thanh và truyền hình bị phụ thuộc vào khung giờ, thời lượng phát sóng và kỹ thuật. Trong khi đó, trên báo điện tử, bạn đọc gần như không phải chờ đợi. Bất kể thông tin diễn ra ở đâu, vào thời gian nào, chỉ cần máy tính xách tay hoặc điện thoại di động nối mạng, các phần mềm phụ trợ thì khi sự kiện xảy ra phóng viên đều có thể cập nhật tin bài tức thì. Tính tức thời và phi định kỳ tiếp tục được các báo điện tử khai thác tối đa nhằm đáp ứng nhu cầu cập nhật thông tin của công chúng. Điều này không chỉ những tờ báo điện tử độc lập như: VnExpress, Vietnamnet, Dân trí, VnMedia, điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam mà các báo điện tử thuộc cơ quan báo in, báo nói, báo hình cũng ngày càng quan tâm.  Báo điện tử vượt qua được các rào cản mà các loại hình báo chí khác gặp phải, nội dung thông tin không bị giới hạn bởi khuôn khổ của trang báo, thời lượng phát sóng hay thời gian tuyến tính, quy trình sản xuất thông tin lại đơn giản, dễ dàng, nên có thể cập nhật, bổ sung bất kỳ lúc nào với số lượng là bao nhiêu. Chính vì vậy, trên báo điện tử, giới hạn cuối cùng của một bài hoặc một tin chỉ là tạm thời và tương đối. Ba là, tính tương tác cao Trước khi báo điện tử ra đời, tính tương tác trong hoạt động báo chí chỉ đơn giản là sự tác động qua lại giữa cơ quan báo chí, nhà báo với người tiếp nhận thông tin. Nhưng, sự xuất hiện của báo điện tử đã làm cho tương tác trong hoạt động báo chí được mở rộng, có nhiều hình thức và giảm đi những hạn chế của các hình thức tương tác cũ. Đối với báo điện tử, nhờ sự hỗ trợ của công nghệ cao, bạn đọc có thể gửi thư điện tử (email) phản hồi ngay tới từng tin, bài báo, từng tác giả và tòa soạn bằng những thao tác hết sức đơn giản, thuận tiện. Tòa soạn gần như nhận được tức thời những ý kiến phản hồi và quá trình xử lý, sàng lọc, lưu trữ, đăng tải phản hồi cũng nhanh hơn nhờ có sự hỗ trợ của máy tính và mạng internet. Cũng nhờ vào khả năng tương tác, báo điện tử thiết lập các diễn đàn hay thực hiện các cuộc bỏ phiếu giúp cho công tác điều tra xã hội học trở nên rất đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng. Báo điện tử còn cho phép những đoạn video cũng có tính tương tác hai chiều, kèm dữ liệu, có thể tra cứu. Độc giả báo điện tử xem lại, tra cứu những nội dung tiếp theo và gửi sang điện thoại di động. Một trong những ưu điểm của tính tương tác trên báo điện tử là nhận sự phản hồi rất nhanh qua hệ thống thư điện tử. Cùng với sự phát triển của công nghệ đa phương tiện, tương tác trên báo điện tử không chỉ dừng ở những dòng văn bản, mà còn có cả hình ảnh, âm thanh, đồ họa..., tạo cho hình thức tương tác này có tính hấp dẫn cao. Các đặc điểm tương tác trên báo điện tử sẽ được tập trung khai thác vừa nhằm giữ các độc giả trung thành, vừa kéo theo sự quan tâm của các độc giả mới. Các yếu tố như siêu liên kết, công cụ tìm kiếm... trong các trang báo, tờ báo sẽ được tăng thêm để tạo sự liên kết, di chuyển bên trong giữa các khối tin tức và tăng khả...c cơ quan báo điện tử, tới tư tưởng của chính những người làm công tác báo chí. Về phần mình, các cơ quan báo điện tử phải luôn cầu thị, phương châm “hoan nghênh bạn đọc góp ý phê bình báo” phải luôn được thực hiện trong thực tế, không hình thức. Tự phê bình và tiếp nhận phê bình vừa đúng với bản chất của Đảng, vừa đúng với bản thân báo điện tử - phương tiện truyền thông đại chúng. Báo điện tử phải đặt nhu cầu, đòi hỏi và ý kiến của đại đa số quần chúng nhân dân lên trên hết. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, kịp thời nêu gương cán bộ và tổ chức đảng làm tốt, giúp đỡ cán bộ, phóng viên, biên tập và tổ chức đảng gặp khó khăn, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên, phóng viên, biên tập viên, nhân viên báo điện tử về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện nhiệm vụ được giao. Mọi vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý báo điện tử đều có nguyên nhân là do thiếu sự kiểm tra, giám sát và đều có đánh giá chung là nếu được kiểm tra, giám sát sớm hơn, thường xuyên hơn thì hậu quả vi phạm sẽ ít nghiêm trọng hơn và có thể sẽ không để xảy ra vi phạm. Ba là, công tác kiểm tra, giám sát đối với báo điện tử không chỉ là việc riêng của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, mà còn là công việc của các cấp ủy đảng, của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ TT-TT và Đảng đoàn HNB Việt Nam. Trong điều kiện kinh tế thị trường, đội ngũ cán bộ báo chí hằng ngày, hằng giờ chịu sự tác động từ các tiêu cực xã hội. Đã có một số nhà báo xa rời quy ước đạo đức báo chí, gây tác hại xấu đến uy tín báo chí, làm cho xã hội bất bình. Để kịp thời ngăn chặn sự “xuống cấp”, suy thoái về đạo đức của một số nhà báo đó, các cấp ủy đảng, các cơ quan chức năng phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, nhất là đối với các nhà báo là đảng viên. Khi phát hiện dấu hiệu vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy ước về đạo đức báo chí thì cần có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời để tránh cho họ rơi vào kết cục đáng tiếc. Kiểm tra, giám sát của Đảng phải gắn với thanh tra của Nhà nước và kiểm tra của HNB Việt Nam, theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nêu cao tính chủ động của tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Sự phối hợp chặt chẽ đó tạo nên sự đồng bộ trong hệ thống kiểm tra của Đảng đối với báo điện tử, giúp cho báo điện tử ở Việt Nam vừa chủ động, sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, vừa đi đúng hướng, từ đó làm tốt hơn vai trò công tác tư tưởng của mình, đồng thời nó cũng tạo ra sự thống nhất giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng chính trị và việc chấp hành các quy định cụ thể. Bốn là, các cơ quan chức năng của Đảng giúp cấp ủy kiểm tra báo điện tử thông qua sinh hoạt, làm việc định kỳ với các đảng viên phụ trách ở cơ quan báo điện tử để nắm tình hình, kịp thời uốn nắn, xử lý các sai phạm. Nâng cao vai trò, trách nhiệm, năng lực, hiệu lực của các cơ quan chủ quản và lãnh đạo các cơ quan báo điện tử; có chế tài xử lý nghiêm trách nhiệm người đứng đầu cơ quan báo điện tử khi để xảy ra sai phạm về nội dung thông tin, nhất là những sai phạm nghiêm trọng. Rà soát, củng cố, nâng cao hệ thống báo điện tử đã có; tạm đình chỉ, hoặc chấm dứt hoạt động đối với báo điện tử yếu kém, có nhiều sai phạm về chính trị, chuyên môn. Cần đổi mới nhận thức và cách thức triển khai công tác kiểm tra, giám sát nhằm góp phần kịp thời phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha; phải đổi mới từ kiểm tra, giám sát các vụ việc tiêu cực đã xảy ra hoặc có dấu hiệu vi phạm là chủ yếu sang chủ yếu là kiểm tra, giám sát nhằm ngăn ngừa vi phạm. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đi đôi với động viên, khen thưởng kịp thời đối với cơ quan báo điện tử và nhà báo có thành tích, có đóng góp xứng đáng cho hoạt động báo điện tử, đồng thời, xử lý kịp thời các sai phạm, vi phạm trong hoạt động báo điện tử. Coi trọng kiểm tra, giám sát hoạt động của các văn phòng đại diện, phóng viên thường trú của cơ quan báo điện tử tại các địa phương. KẾT LUẬN Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin tạo tiền đề khoa học – công nghệ cho sự ra đời của internet, trong đó có báo điện tử. Đến lượt mình, internet và báo điện tử đã thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin, làm thay đổi diện mạo báo chí ở nhiều quốc gia. Sự phát triển báo điện tử ở Việt Nam mới đạt mức khá của khu vực Đông Nam Á và còn ở mức trung bình của thế giới, nhưng sự phát triển của nó đã mở ra những thuận lợi cho quá trình hội nhập, phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn. Tuy ra đời muộn, nhưng báo điện tử ở Việt Nam được quan tâm và phát triển nhanh, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều của công chúng và vì vậy ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống báo chí ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần thấy rằng, tuy được sự quan tâm chỉ đạo, quản lý, nhưng do đặc thù của loại hình thông tin này, nên công tác lãnh đạo, quản lý đối với báo điện tử cũng đang đứng trước không ít thách thức. Vấn đề đặt ra là, cần chủ động nghiên cứu ban hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng và tiến hành sửa đổi Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với tình hình mới, đồng thời nâng cao trình độ, bản lĩnh của người làm báo và người quản lý báo điện tử cho ngang tầm với đòi hỏi của cuộc sống hiện đại. Từ nhu cầu phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, thông tin là sức mạnh, rõ ràng phải phát triển mạnh hơn nữa báo điện tử. Thực tế gần 30 năm đổi mới đã chứng minh, tuy có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng hệ thống báo điện tử ở nước ta đã có bước phát triển đúng hướng, ngày càng nhiều về số lượng, chất lượng nội dung và hình thức ngày càng phong phú, có thêm báo điện tử để phát triển, đồng thời nâng cao trình độ quản lý báo điện tử là hướng đi để báo chí tiếp tục đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự CNH, HĐH đất nước. Sự phát triển nhanh, mạnh của báo điện tử ở Việt Nam cho thấy sự nhanh nhạy của BCHTƯ Đảng, trực tiếp là BCT, BBT và các cơ quan hữu quan trong việc quyết định cho ra đời báo điện tử, một loại hình báo chí mới đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, vừa là diễn đàn của nhân dân; tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hầu hết báo điện tử giữ vững tính đảng, tính tư tưởng, tính nhân dân, tính chiến đấu, tính văn hóa; vừa kiên trì bản chất của nền báo chí cách mạng, vừa nỗ lực vươn lên để theo kịp trình độ phát triển của báo chí khu vực và thế giới, hiện đại về mô hình, tổ chức, phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ. Cần tiếp tục phát triển sự nghiệp báo chí đi đôi với tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác báo chí đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới. Các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo điện tử, cơ quan chủ quản và các cơ quan báo điện tử cần bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của công tác báo chí; tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu công cuộc đổi mới; phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tham gia đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu, phát huy tinh hoa văn hóa nhân loại. Không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực, bản lĩnh, chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với báo điện tử; đổi mới nội dung, phương pháp, tư duy và phong cách lãnh đạo, quản lý báo điện tử, với phương châm “lãnh đạo, quản lý để báo điện tử phát triển”. Về nội dung, các cấp ủy và các cơ quan tham mưu đã chủ động trong việc định hướng chính trị, nhất là đối với những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm đối với lợi ích đất nước, cộng đồng và toàn xã hội; cung cấp kịp thời, toàn diện, đầy đủ quá trình vận động, phát triển của công cuộc đổi mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho báo điện tử triển khai hoạt động tuyên truyền. Về mặt phương châm lãnh đạo, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý báo điện tử cần kịp thời nhưng phải bảo đảm tính thuyết phục, tránh áp đặt, mệnh lệnh nhằm đạt tới sự tuân thủ một cách tự giác, triệt để của các cơ quan báo điện tử. Về phương thức, bên cạnh nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định quan trọng mà Trung ương Đảng, trực tiếp là BCT, BBT đã ban hành, Đảng cần tiếp tục quan tâm, bổ sung, điều chỉnh để có được hệ thống văn bản nghị quyết, chỉ thị, quy định có tính đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở chính trị cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo báo điện tử. Coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo điện tử vững mạnh về mọi mặt; đề cao vai trò đảng viên của người làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo; trên cơ sở đó nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo điện tử và quy ước đạo đức nhà báo. Nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hóa, khoa học của từng cơ quan báo điện tử, để báo điện tử thực sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, diễn đàn tin cậy của nhân dân. Hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển báo điện tử. Khẩn trương lập đề án đổi mới, sắp xếp lại các cơ quan báo điện tử cả nước, của từng bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, đơn vị theo hướng hợp lý, thiết thực, hiệu quả. Không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý báo điện tử; đào tạo phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo điện tử. Mở rộng nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm quản lý, đào tạo báo điện tử với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo điện tử và cơ quan chủ quản của báo điện tử; sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản với cơ quan báo điện tử. Nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, khả năng chi phối thông tin của các báo điện tử chủ lực. Đầu tư thỏa đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại. Kiên quyết đấu tranh chống thông tin, quan điểm sai trái, thù địch bằng việc xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ nhà báo và chuyên gia giàu tâm huyết, có kiến thức và kinh nghiệm, sử dụng các hình thức và phương tiện phù hợp. Ngăn chặn có hiệu quả hoạt động xâm nhập báo điện tử nước ta của các thế lực thù địch, phản động từ bên ngoài. Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, điều kiện hoạt động cho các cơ quan báo điện tử. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyễn Huy Ngọc (2007), “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 7, tr. 49-50. 2. Nguyễn Huy Ngọc (2011), “Mấy suy nghĩ góp phần nâng cao vai trò của báo chí với sự nghiệp cách mạng”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6, tr. 13-15. 3. Nguyễn Huy Ngọc (2011), “Một số kinh nghiệm về việc học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 12, tr. 12-14. 4. Nguyễn Huy Ngọc (2012), “Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ báo chí”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10, tr. 42-44. 5. Nguyễn Huy Ngọc (2012), “Vai trò lịch sử của báo chí cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10, tr. 74-78. 6. Nguyễn Huy Ngọc (2012), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng trong phát triển báo chí ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, tr. 27-31. 7. Nguyễn Huy Ngọc (2012), “Để báo điện tử ngày càng phát huy hiệu quả”, Tạp chí Tuyên giáo, số 12, tr. 43-46. 8. Nguyễn Huy Ngọc (2013), “Kinh nghiệm Đảng lãnh đạo báo chí trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10, tr. 72-76. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Víchto Aphanaxép (1995), Quyền lực thứ tư và bốn đời Tổng bí thư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Lý Diệu Bác (2009), Công tác tư tưởng cần tăng cường đổi mới và tính thời đại, Tạp chí Pháp chế Chính phủ (Trung Quốc), số 31. 3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1990), Chỉ thị số 63-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản, ngày 25-7. 4. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1992), Chỉ thị số 08-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản, ngày 31-3. 5. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2004), Chỉ thị số 37-CT/TW về tiếp tục nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, ngày 18-3. 6. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2005), Chỉ thị số 52-CT/TW về phát triển và quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay, ngày 22-7. 7. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2007), Kế hoạch số 03-KH/TW một số biện pháp cụ thể nhằm thực hiện Thông báo Kết luận số 68-TB/TW, ngày 09-5. 8. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2007), Quyết định số 75-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí, ngày 21-8. 9. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Quyết định số 155-QĐ/TW ban hành Quy định về sự phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, Đảng đoàn Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, ngày 23-4. 10. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Chỉ thị số 25-CT/TW về tăng cường công tác xây dựng đảng trong các cơ quan báo chí, ngày 31-7. 11. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Quyết định số 202-QĐ/TW quy định chế độ phối hợp và gắn kết công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí, ngày 11-12. 12. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của một số cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp”, Đề tài khoa học cấp cơ sở. 13. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 14. Ban Tuyên giáo Trung ương (2006), Văn bản pháp quy về báo chí - xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Ban Tuyên giáo Trung ương (2013), Báo cáo tổng hợp đề án báo chí điện tử và các mạng xã hội. 16. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TT-TT, HNB Việt Nam (2014), Báo cáo tổng kết công tác báo chí toàn quốc năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014. 17. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Hướng dẫn số 932-HD/TTVH Hướng dẫn việc quán triệt và thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác báo chí, xuất bản, ngày 27-10. 18. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2001), Tình hình báo chí, xuất bản sau 4 năm thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW và một số phương hướng, giải pháp thực hiện chủ yếu (Báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương), ngày 29-10. 19. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội Nhà báo Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Mô hình mạng Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 22. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Mạng nội bộ và bố trí phân nhiệm các máy chủ. 23. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Bộ Bưu chính - Viễn thông (2007), Quyết định số 823-QĐ/BBCVT về ban hành Quy chế quản lý báo điện tử theo hướng tăng cường công tác quản lý báo điện tử nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế, nhược điểm của báo điện tử, ngày 02-8. 26. Bộ Chính trị (1997), Chỉ thị số 22-CT/TW Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, ngày 17-10. 27. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 17-10. 28. Bộ Chính trị (2004), Thông báo Kết luận số 162/TB-TW về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay, ngày 01-12. 29. Bộ Chính trị (2006), Thông báo số 41-TB/TW Tiến hành sơ kết, đánh giá nghiêm túc hai năm thực hiện Thông báo Kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị, ngày 11-10. 30. Bộ Chính trị (2007), Thông báo số 68-TB/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí, ngày 30-3. 31. Bộ Thông tin và Truyền thông (2007), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Báo chí; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí. 32. Bộ Thông tin và Truyền thông (2008), Quyết định số 52/2008/QĐ-BTTTT ban hành Quy chế xác định nguồn tin trên báo chí, ngày 02-12. 33. Bộ Thông tin và Truyền thông (2008), Thông tư số 13/2008/TT-BTTTT hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú ở trong nước của các cơ quan báo chí, ngày 31-12. 34. Bộ Thông tin và Truyền thông (2011), Thông tư số 21/2011/TT-BTTTT về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 13/2008/TT-BTTTT, ngày 31-12-2008 hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú ở trong nước của các cơ quan báo chí, ngày 13-7. 35. Bộ Thông tin và Truyền thông (2011), Thông tư số 33/2011/TT-BTTTT quy định chi tiết việc cấp Giấy phép hoạt động báo chí điện tử, Giấy phép chuyên trang báo chí điện tử, ngày 01-11. 36. Bộ Văn hóa - Thông tin (2001), Báo cáo công tác quản lý nhà nước về báo chí - xuất bản qua 4 năm thực hiện Chỉ thị số 22-CT/TW của Bộ Chính trị, ngày 31-10. 37. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Thông báo Kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay, Hà Nội. 38. Bộ Văn hóa - Thông tin (2002), Quyết định số 28/2002/QĐ-BVHTT ban hành Quy chế xuất bản bản tin, tài liệu, tờ rơi; phát hành thông cáo báo chí; đăng, phát bản tin trên màn hình điện tử của cơ quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố nước ngoài, ngày 21-11. 39. A.A. Chertưchơnưi (2004), Các thể loại báo chí, Nxb Thông tấn, Mátxcơva. 40. Chính phủ (1992), Nghị định số 133-NĐ/HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí 1989, ngày 20-4. 41. Chính phủ (2001), Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, ngày 23-8. 42. Chính phủ (2002), Nghị định số 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Báo chí, ngày 26-4. 43. Chính phủ (2008), Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet, ngày 28-8. 44. Chính phủ (2011), Nghị định số 02/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản, ngày 06-01. 45. Phạm Văn Chúc (2009), Góp phần quản lý và phát huy tốt vai trò, tác dụng của truyền thông mạng, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Hà Nội. 46. Phan Diễn (2001), “Hãy xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 8. 47. Đỗ Quý Doãn (2009), Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước thúc đẩy báo chí xuất bản không ngừng phát triển, xứng đáng là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Hà Nội. 48. Đỗ Quý Doãn (2010), “Thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về báo chí, xuất bản thành chính sách, pháp luật của Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 17-6. 49. Nguyễn Công Dũng (2010), “Vì sao cần tăng cường quản lý báo điện tử?”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 07-7. 50. Nguyễn Công Dũng (2009), Nâng cao tính định hướng tư tưởng của hệ thống báo điện tử hiện nay, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Hà Nội. 51. Nguyễn Tấn Dũng (2007), “Đội ngũ nhà báo phải cố gắng hơn nữa, sáng tạo hơn nữa để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc”, Báo Nhân Dân, ngày 28-8. 52. Bùi Phương Dung (Trung Quốc) (2005), Công tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 53. Nguyễn Văn Dững (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động. 54. Nguyễn Văn Dững (2009), “Cảnh giác với tự do báo chí”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 6. 55. Nguyễn Văn Dững (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phê bình và tự phê bình công khai trên báo chí, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21-6. 56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Hà Đăng (2012), “Báo chí là mặt trận, nhà báo là chiến sĩ”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 21-6. 61. Hà Đăng (2003), “Nâng cao công tác báo chí của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 6. 62. Nguyễn Khoa Điềm (2001), “Quán triệt sâu sắc hơn nữa các nội dung Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đưa sự nghiệp báo chí, xuất bản tiến lên một bước mới, một trình độ mới”, Tạp chí Cộng sản, số 6. 63. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 64. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Báo mạng điện tử: những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 66. Nguyễn Thị Trường Giang (2010), “Xu hướng phát triển của báo mạng điện tử Việt Nam”, Báo điện tử Sóng Trẻ, ngày 16-6. 67. A.A. Grabennhicốp (2003), Báo chí trong kinh tế thị trường, Nxb Thông tấn, Mátxcơva. 68. Đoàn Thế Hanh (2012), “Bác Hồ căn dặn những người làm báo cách mạng”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 20-6. 69. Phạm Thị Hằng (2008), Nâng cao chất lượng thông tin trên báo điện tử, Luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 70. Vũ Đình Hòe (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 71. Nguyễn Minh Huế (2012), “Một số vấn đề đặt ra từ sự tương tác giữa mạng xã hội và báo chí”, Tạp chí Tuyên giáo, số 8. 72. Nguyễn Minh Huế (2012), “Nâng cao hiệu quả hoạt động tương tác trên báo mạng điện tử”, Tạp chí Tuyên giáo, số 6. 73. Đinh Văn Hường (2009), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác báo chí truyền thông hiện nay - thực trạng và giải pháp, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Hà Nội. 74. Lưu Văn Kiền (2001), “Báo chí - công cụ sắc bén của công tác tư tưởng”, Tạp chí Cộng sản, số 16. 75. Nguyễn Thế Kỷ (2012), Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trong 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 76. Nguyễn Thế Kỷ (2012), “Quản lý, phát huy tốt vai trò của báo điện tử, trang thông tin điện tử và mạng xã hội trước yêu cầu mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử, ngày 7-6. 77. Nguyễn Thế Kỷ (2006), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước yêu cầu mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử, ngày 20-6. 78. Huy Lân (2012), “Cái tâm của người làm báo - niềm mong mỏi của độc giả”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 18-6. 79. V.I. Lênin (1970), Toàn tập, tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 80. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 81. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 82. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2013), Tính chủ động, kịp thời trong công tác chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin báo chí, Luận văn thạc sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 83. Luật Báo chí (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 84. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 85. Hải Lý (2012), “Đề cao trách nhiệm, đạo đức người làm báo”, Báo Pháp luật và xã hội điện tử, ngày 13-6. 86. C. Mác - Ph. Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Thông tấn, Mátxcơva. 87. C. Mác - Ph. Ăngghen (1978), Toàn tập, tập 33, Nxb Thông tấn, Mátxcơva. 88. Nông Đức Mạnh (2005), “Phát triển nền báo chí cách mạng có chất lượng cao, đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 13-8. 89. Điền Trung Mẫn (2007), “Bàn về đổi mới công tác tư tưởng thời kỳ mới”, Tạp chí Học tập và nghiên cứu lý luận (Trung Quốc), số 8. 90. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 91. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 92. Nguyễn Văn Minh (2007), Phản biện xã hội của báo chí góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 93. Đỗ Chí Nghĩa (2012), Vai trò của báo chí trong định hướng dư luận xã hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật. 94. Minh Ngọc (2010), “Báo chí cách mạng Việt Nam năm 2010: chủ động, tích cực, nhạnh bén, trách nhiệm”, Báo Hà Nội mới, ngày 06-5. 95. Lê Phúc Nguyên (2009), Nâng tầm trí tuệ, tăng cường sức mạnh công tác tư tưởng, lý luận, báo chí, kỷ yếu Hội thảo khoa học Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Hà Nội. 96. Minh Nhật (2012), “Vai trò phản biện của báo chí là rất quan trọng”, Báo mới điện tử, ngày 20-6. 97. Tô Phán (2012), “Đảng lãnh đạo báo chí trong giai đoạn hiện nay”, Báo Hà Nội mới điện tử, ngày 22-10. 98. Deborah Potter (2007), Hướng dẫn nghề làm báo độc lập, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 99. E.P. Prôkhôrốp (2004), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 100. Phan Quang (2001), Về diện mạo báo chí Việt Nam - tiểu luận và chân dung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 101. Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học báo chí, Nxb Tuổi trẻ, số 6, Hà Nội. 102. Tô Huy Rứa, (2007), “Để đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới vào cuộc sống”, Báo Nhân Dân, ngày 04-9. 103. Tô Huy Rứa (2007), “Phấn đấu để báo chí nước ta phát triển đúng định hướng, mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15-01. 104. Tô Huy Rứa (2007), “Tiếp tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báo chí cách mạng nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 6. 105. Trương Tấn Sang (2007), “Tiếp tục phát triển nền báo chí cách mạng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Báo Nhân Dân, ngày 21-6. 106. Nguyễn Văn Sinh (2012), Tính hấp dẫn của báo Đảng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Báo chí học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 107. M.I. Sotak (2003), Phóng sự - tính chuyên nghiệp và đạo đức, Nxb Thông tấn (Cộng hòa Liên bang Nga). 108. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 109. Makcxim Kudnhexốp Irop Suvkunốp (2003), Cách điều khiển cuộc phỏng vấn, Nxb Thông tấn, Mátxcơva. 110. Phí Thị Thanh Tâm (2009), Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Nhà nước và pháp luật, Đại học quốc gia Hà Nội. 111. Dương Thanh Tân (2000), Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Đồng Nai đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 112. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 113. Tạ Ngọc Tấn và Đinh Thế Huynh (2007), Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 114. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 115. Tạ Ngọc Tấn (2000), “70 năm Đảng lãnh đạo báo chí, những vấn đề nóng hổi tính thời sự”, Tạp chí Cộng sản, số 6. 116. Hữu Thọ (2006), Mắt sáng, lòng trong, bút sắc, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 117. Hữu Thọ (2012), “Ngòi bút trách nhiệm”, Tạp chí Tuyên giáo, số 6. 118. Vũ Duy Thông (2007), “Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam (21-6) xã hội hóa hơn nữa để phát triển”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20-6. 119. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị 38/98/CT-TTg về tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện để các Hội Nhà báo Việt Nam hoạt động có hiệu quả, ngày 24-9. 120. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 77/2007/QĐ-TTg ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, ngày 28-5. 121. Doãn Thị Thuận (2012), “Thực trạng phát triển báo điện tử, mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 30-9. 122. Nguyễn Vũ Tiến (2003), “Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới”, Luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 123. Nguyễn Phú Trọng (2010), “Báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp và hiện đại”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-6. 124. Nguyễn Phú Trọng (2012), “Sức hấp dẫn của báo chí chính là nói đúng sự thật một cách thuyết phục”, Báo Sài Gòn giải phóng điện tử, ngày 10-6. 125. Văn phòng Chính phủ (2011), Công văn số 7568/VPCP-TH về việc ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường cung cấp thông tin chính thống cho báo chí, ngày 27-10. 126. Lưu Hoàng Vân (2011), “Báo điện tử xu hướng của thời đại”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 03-3. 127. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 128. Hồng Vinh (2006), “Một số vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trước yêu cầu mới”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 21-6. 129. VNNIC (2013), Số người và tỷ lệ dân số Việt Nam sử dụng internet. 130. Michel Voirol (2003), Hướng dẫn cách biên tập, Nxb Thông tấn, Mátxcơva. 131. Dương Vũ (2004), “Báo chí tham gia quản lý xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số 5. 132. Vụ Báo chí – Xuất bản (Ban Tuyên giáo Trung ương) (2013), Báo cáo tổng hợp báo chí một số nước trên thế giới. 133. Vụ Báo chí – Xuất bản (Ban Tuyên giáo Trung ương) (2014), Báo cáo tổng hợp chất lượng báo điện tử năm 2013.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_dang_cong_san_viet_nam_lanh_dao_bao_dien_tu_trong_gi.doc
  • docNhung diem moi - tieng Anh.doc
  • docNhung diem moi - tieng Viet.doc
  • docTom tat luan an - tieng ANH.doc
  • docTom tat luan an - tieng Viet.doc
Tài liệu liên quan