Luận án Tang thức của người việt công giáo ở thành phố Hồ Chí Minh sau công đồng Vatican II (nghiên cứu trường hợp giáo xứ tân lập và giáo xứ Tân định)

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH TẠ DUY LINH TANG THỨC CỦA NGƯỜI VIỆT CÔNG GIÁO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP GIÁO XỨ TÂN LẬP VÀ GIÁO XỨ TÂN ĐỊNH) LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC TRÀ VINH, NĂM 2020 ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH TẠ DUY LINH TANG THỨC CỦA NGƯỜI VIỆT CÔNG GIÁO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP GIÁO XỨ TÂN LẬP VÀ GIÁO XỨ TÂN ĐỊNH) N

pdf256 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Tang thức của người việt công giáo ở thành phố Hồ Chí Minh sau công đồng Vatican II (nghiên cứu trường hợp giáo xứ tân lập và giáo xứ Tân định), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành: Văn hóa học Mã ngành: 9229040 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Phan An 2. TS. Nguyễn Đệ TRÀ VINH, NĂM 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Trà Vinh, tháng 12 năm 2020 Tác giả luận án Tạ Duy Linh LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận án, ngoài những nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của gia đình, tôi xin hết lòng biết ơn đến Quý Thầy Cô giảng dạy chương trình đào tạo Tiến sĩ ngành Văn hóa học đã truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho bản thân tôi. Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tập thể người hướng dẫn khoa học, Quý Thầy đã tận tâm, tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt cho tôi hoàn thành luận án này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Phòng Đào tạo Sau đại học - Trường Đại học Trà Vinh, Quý vị Chức sắc Công giáo ở Việt Nam và ở tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh đã cung cấp tư liệu và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình tìm hiểu thực tế tại địa bàn nghiên cứu. Trân trọng. NCS. Tạ Duy Linh MỤC LỤC Lời cam đoan ..........................................................................................................i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục................................................................................................................ iii Danh mục các bảng ..............................................................................................vi Danh mục các sơ đồ ........................................................................................... vii PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................ 3 Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 3 Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ....................................................... 6 Quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 8 Điểm mới của luận án ......................................................................................... 13 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ................................................................ 13 Bố cục của luận án .............................................................................................. 14 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................................. 15 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................. 15 1.1.1. Nghi lễ và biểu tượng nghi lễ được đề cập trong các công trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam ............................................................................. 15 1.1.2. Tang thức của người Việt được đề cập trong các công trình bàn về tang ma truyền thống .................................................................................................. 16 1.1.3. Tang thức của tín đồ Công giáo trước và sau Công đồng Vatican II ở Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh........................................................................ 24 1.1.4. Những nghiên cứu liên quan đến Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh và điểm nghiên cứu (giáo xứ Tân Lập và giáo xứ Tân Định) ................................. 33 1.2. Cơ sở lý luận ................................................................................................ 39 1.2.1. Một số khái niệm ....................................................................................... 39 1.2.1.1. Khái niệm phong tục .............................................................................. 39 1.2.1.2. Khái niệm cộng sinh văn hóa ................................................................. 40 1.2.1.3. Khái niệm tiếp biến văn hóa .................................................................. 44 1.2.1.4. Khái niệm hội nhập văn hóa .................................................................. 46 1.2.1.5. Khái niệm tang thức ............................................................................... 49 1.2.2. Hướng tiếp cận lý thuyết nghiên cứu ........................................................ 52 1.2.2.1. Lý thuyết hậu cấu trúc (poststructuralism) ............................................ 52 1.2.2.2. Lý thuyết tương đối văn hóa (cultural relativism) ................................. 56 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 60 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ CÔNG ĐỒNG VATICAN II .......... 61 2.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu ..................................................................... 61 2.1.1. Lược sử tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh .................................... 61 2.1.2. Khái quát hai điểm nghiên cứu ................................................................. 64 2.1.2.1. Cộng đồng giáo xứ Tân Lập .................................................................. 64 2.1.2.2. Cộng đồng giáo xứ Tân Định ................................................................. 66 2.1.2.3. Mô tả đặc điểm cộng đồng giáo xứ Tân Lập và giáo xứ Tân Định ....... 69 2.2. Khái quát Công đồng Vatican II .................................................................. 74 2.2.1. Tìm hiểu thuật ngữ Công đồng ................................................................. 74 2.2.2. Những tiền đề ra đời của Công đồng Vatican II ....................................... 77 2.2.3. Nội dung của Công đồng Vatican II ......................................................... 82 2.3. Tang thức Công giáo trước Công đồng Vatican II ở Việt Nam ................... 86 Tiểu kết chương 2 ............................................................................................... 90 CHƯƠNG 3 DIỄN TRÌNH TANG THỨC TÍN ĐỒ CÔNG GIÁO NGƯỜI VIỆT Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: TỪ TẬP QUÁN ĐẾN TÍN LÝ .. 91 3.1. Từ tập quán người Việt đến tín lý Công giáo .............................................. 91 3.1.1. Quan niệm của người Việt về cái chết ...................................................... 91 3.1.2. Quan niệm của Công giáo về cái chết ....................................................... 94 3.1.3. Quan niệm của người Việt về linh hồn ..................................................... 97 3.1.4. Quan niệm của Công giáo về linh hồn và chiêu hồn (nhập hồn) .............. 99 3.2. Tang thức của người Việt Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh ............. 102 3.2.1. Vài nét về tập quán mai táng của người Việt trong lịch sử .................... 102 3.2.1.1. Tục lệ và ứng xử trước tang lễ ............................................................. 104 3.2.1.2. Tục lệ và ứng xử trong tang lễ ............................................................. 105 3.2.1.3. Tục lệ và lễ thức sau chôn cất .............................................................. 105 3.2.2. Những nghi lễ trong tang thức tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................................................... 108 3.2.2.1. Những nghi lễ diễn ra trong không gian gia đình ................................ 108 3.2.2.2. Những nghi lễ diễn ra trong không gian nhà thờ ................................. 118 3.2.2.3. Những nghi lễ diễn ra ở không gian nghĩa trang (đất thánh) ............... 125 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 130 CHƯƠNG 4 ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRONG TANG THỨC CỦA NGƯỜI VIỆT CÔNG GIÁO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...... 131 4.1. Đặc điểm văn hóa trong tang thức Công giáo ............................................ 131 4.1.1. Tang thức thể hiện tính dung hợp ........................................................... 131 4.1.2. Tang thức thể hiện tính chuẩn mực ......................................................... 138 4.1.3. Tang thức thể hiện tính linh hoạt ............................................................ 143 4.2. Giá trị văn hóa hóa trong tang thức Công giáo .......................................... 149 4.2.1. Tang thức thể hiện sự gắn kết cộng đồng ............................................... 149 4.2.2. Tang thức thể hiện nhu cầu tâm linh ....................................................... 158 4.2.3. Tang thức thể hiện nếp sống đạo ............................................................ 164 Tiểu kết chương 4 ............................................................................................. 170 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 171 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 176 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ................................................. 1 PHỤ LỤC 1. KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ AN TỬ VÀ TRỢ TỬ THEO THẦN HỌC CÔNG GIÁO ............................................................................................. 1 PHỤ LỤC 2. DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN ................... 7 PHỤ LỤC 3. BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU ................................................ 10 PHỤ LỤC 4. NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ ................................................................. 21 PHỤ LỤC 5. CÁC CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU ........................................ 27 PHỤ LỤC 6. BẢN ĐỒ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM .................... 32 PHỤ LỤC 7. BẢN ĐỒ GIÁO PHẬN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ......... 34 PHỤ LỤC 8. DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH MINH HỌA .......................... 35 vi DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số liệu tín đồ tại tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh ......................... 63 Bảng 3.1: Quy định lễ thức trong tang chế người Việt qua một số mốc thời gian .... 105 vii DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức giáo xứ Tân Lập ................................................................ 72 Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức giáo xứ Tân Định .............................................................. 74 viii 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử loài người, bản thân tôn giáo cũng đổi thay cùng với những bước thăng trầm lịch sử. Cho đến nay, ở Việt Nam có 42 tổ chức thuộc 1 tôn giáo được nhà nước chính thức công nhận1. Trong đó có đạo Công giáo, được xem là một tôn giáo chứa đựng nhiều nét văn hóa phương Tây. Ngoài các hệ giá trị chân lý, luân lý thuộc về hệ tư tưởng, Công giáo còn là một tôn giáo có những hoạt động mang tính nhập thế qua các hình thức tổ chức và con người rất cụ thể. Công giáo khi đến Việt Nam2, đã mang theo tư tưởng sẽ giữ được những đặc điểm văn hóa tôn giáo nguyên thủy của giáo hội. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu truyền vào Việt Nam, nghi lễ thờ cúng tổ tiên được đặt ra gay gắt và mang tính loại bỏ bởi tín lý nhất thần giáo. Việc này đã gây ra sự xung đột nghiêm trọng giữa Công giáo với văn hóa Việt Nam. Thực vậy, sự xung đột giữa Công giáo với văn hóa truyền thống người Việt không chỉ trên bình diện văn hóa phương Tây với phương Đông, mà còn là sự xung đột giữa niềm tin tôn giáo độc thần với niềm tin tín ngưỡng đa thần qua việc thực hành nghi lễ. Trải qua bao tháng năm thăng trầm, cuối cùng giáo hội Công giáo Rôma đã nhận ra rằng, muốn công cuộc truyền bá niềm tin Công giáo đến được với các vùng đất Á Đông, phải tháp nhập vào nền văn hóa của các cư dân địa phương. Trước hết phải kể đến Công đồng Vatican II, một Công đồng của “canh tân và hội nhập”. Với Công đồng này, giáo hội tự nhìn nhận về mình, đó là Công đồng đối thoại với xã hội trần thế, tôn trọng và hợp tác với các cộng đồng chính trị, tôn trọng những giá trị của các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo, đối thoại với các nền văn minh nhân loại, cổ vũ sự hội nhập văn hóa Công giáo với văn hóa các dân tộc. Trong số đó 1 Căn cứ khoản 12, điều 2 Giải thích từ ngữ của Luật tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì “Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo”. Số liệu được cập nhật từ cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 và đối chiếu với số liệu của Ban Tôn giáo Chính phủ. 2 Dựa vào ghi chép, nhiều công trình nghiên cứu lịch sử Công giáo đã lấy năm 1533 dưới đời vua Lê Anh Tông, là cột mốc đánh dấu việc truyền bá đạo Công giáo vào Việt Nam. 2 có nền văn hóa của Việt Nam. Hiệp định Genève3 chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17, do điều kiện hoàn cảnh lịch sử, tinh thần “canh tân và hội nhập” của Công đồng Vatican II chỉ đến được với giáo hội Công giáo ở miền Nam Việt Nam. Thực vậy, kết quả lớn nhất từ Công đồng Vatican II đối với giáo hội Công giáo ở Việt Nam, là vấn đề hội nhập văn hóa trong đời sống lễ nghi đối với phong tục thờ cúng tổ tiên mà Công giáo gọi là “tôn kính tổ tiên”. Việc thực hành tôn kính tổ tiên, tín đồ ở Thành phố Hồ Chí Minh được xem là một trong những cộng đồng Công giáo đi đầu trong cả nước. Cụ thể là nghi lễ tang, ở đó tín đồ thực hành một cách linh hoạt giữa nghi thức tôn giáo kết hợp với lễ thức truyền thống người Việt. Qua đó, cho thấy Công giáo đã thể hiện tinh thần hội nhập với văn hóa Việt Nam một cách rõ nét. Quá trình hội nhập văn hóa được thể hiện trong đời sống lễ nghi của tín đồ Công giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra theo hướng: vừa bồi đắp thêm các giá trị mới văn hóa mới cho văn hóa dân tộc; vừa vay mượn lồng ghép các hình thức văn hóa dân tộc trong việc thực hành đời sống đạo. Nghiên cứu về Công giáo ở Việt Nam đã có rất nhiều đề tài được tiếp cận nghiên cứu bởi các chuyên ngành như: tôn giáo học, lịch học, xã hội học, nhân học, dân tộc học Nhìn chung, các đề tài đều tập trung vào một số vấn đề như cấu trúc cộng đồng Công giáo; các giai đoạn lịch sử hình thành, phát triển và tổ chức giáo hội; các vấn đề liên quan đến chính trị; các hoạt động mang tính đạo - đời; giải thích hệ thống giáo lý và giáo luật; nghi lễ Công giáo Rô ma; Công giáo với phong tục thờ cúng tổ tiên,Tuy vậy, hiện có rất ít công trình nghiên cứu về tang thức của tín đồ Công giáo người Việt, thực tế cho tới nay chỉ có một vài luận văn cao học hoặc bài báo khoa học đề cập đến vấn đề thờ cúng (tôn kính) tổ tiên của tín đồ Công giáo. Các đề tài này cũng chỉ bước đầu trình bày vấn đề tôn kính tổ tiên theo giáo lý Công giáo hay một vài biểu hiện gọi là đem “tin mừng vào các thực tại trần thế”. Sở dĩ như vậy, bởi nhiều tác giả ngần ngại nghiên cứu các vấn đề liên quan đến một tôn giáo khá “nhạy cảm”, mặt khác nghiên cứu Công giáo đòi hỏi người nghiên cứu phải có những hiểu biết nhất định về đạo Công giáo. 3 Sau khi bại trận ở Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký Hiệp định vào năm 1954, dành quyền tự do cư trú cho đồng bào hai miền. Người miền Nam ra miền Bắc gọi là “tập kết”, miền Bắc vào Nam gọi là “di cư”. 3 Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Tang thức của người Việt Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh sau Công đồng Vatican II - Nghiên cứu trường hợp giáo xứ Tân Lập và giáo xứ Tân Định” với mong muốn đem lại sự hiểu biết tương đối đầy đủ về tang thức Công giáo: tiếp cận từ việc thực hành văn hóa, dựa trên cơ sở của khoa học. Qua đó, thấy được những đặc điểm cũng như giá trị văn hóa tạo lên tính bản sắc trong nghi lễ tang của tín đồ Công giáo người Việt. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mang lại sự hiểu biết tương đối toàn diện, có hệ thống về tang thức Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh từ sau Công đồng Vatican II đến nay. Đồng thời, thông qua việc thực hành tang thức thấy được nghi lễ, chuẩn mực và tính linh hoạt giữa hệ giá trị Công giáo với hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu đã xác định, chúng tôi sẽ tập trung vào các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu đã có, đề tài đã cố gắng kế thừa các bài học kinh nghiệm, nhất là phát hiện các khoảng trống để làm rõ trong nghiên cứu mới của mình. - Xây dựng cơ sở lý thuyết, trong đó xác định rõ các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu; cùng với việc thao tác hóa các khái niệm liên quan đến nội dung nghiên cứu. - Khái quát về Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh và điểm nghiên cứu để thấy được một số đặc điểm văn hóa của cộng đồng giáo xứ Tân Lập và giáo xứ Tân Định. - Điều tra khảo sát và điền dã dân tộc học để nhận diện mức độ của việc thực thi tinh thần “canh tân và hội nhập” mà Công giáo đã chủ trương bởi Công đồng Vatican II. Đồng thời, chỉ ra một số đặc điểm cũng như giá trị văn hóa trong việc thực hành tang thức của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là việc thực hành tang thức của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trong đó, bao gồm cả việc mô tả diễn trình 4 nghi lễ, cũng như mối quan hệ giữa nghi lễ Công giáo với lễ thức truyền thống Việt Nam trong tang thức Công giáo. 3.2. Khách thể nghiên cứu Với đối tượng nghiên cứu đã được khu biệt, chúng tôi xác định khách thể nghiên cứu là: (i) nhóm các chức sắc Công giáo; (ii) nhóm các chuyên gia văn hóa - tôn giáo; (iii) nhóm các tín đồ trong và ngoài Công giáo; (iv) nhóm cán bộ quản lý nhà nước tại địa bàn nghiên cứu. Đây là những nhóm khách thể được xác định trong mẫu khảo sát với các thuộc tính như: tôn giáo, phẩm trật chức sắc, giới tính, nhóm tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn và khả năng hiểu biết liên quan đến vấn đề nghiên cứu. 3.1. Phạm vi nghiên cứu 3.1.1. Về không gian nghiên cứu Địa bàn nghiên cứu được thực hiện tại tổng giáo phận4 Thành phố Hồ Chí Minh, một cộng đồng Công giáo với thành phần tín đồ có nguồn gốc đa dạng, đã được hình thành trong quá trình lịch sử, cùng với những đặc điểm về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Do vậy, chúng tôi xác định và lựa chọn địa điểm nghiên cứu mang tính đại diện cho cộng đồng Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh ở hai khu vực với những đặc trưng như sau: a) Điểm nghiên cứu nội thành: giáo xứ Tân Định (được gọi là giáo xứ Nam); được hình thành năm 1861; là một trong những giáo xứ đầu tiên của giáo phận Tây Đàng Trong nay là tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh; địa bàn của giáo xứ rộng (quận 1, 3 và Phú Nhuận); số lượng tín đồ đông và thành phần tín đồ có nguồn gốc đa dạng và thể hiện tính hiện đại rõ nét của đô thị phát triển. b) Điểm nghiên cứu ngoại thành: giáo xứ Tân Lập (được gọi là giáo xứ Bắc di cư); được hình thành năm 1955 gắn liền với Hiệp định Genève, cùng với sự kiện 1954 của cộng đồng tín đồ Công giáo miền Bắc di cư vào miền Nam. Địa bàn giáo xứ hẹp 4 Trong giáo hội Công giáo Rôma, tổng giáo phận, còn gọi là giáo tỉnh: là một cấp bậc quản trị trong giáo hội bao gồm các giáo phận liền kề có mối quan hệ gần gũi về địa lý, lịch sử và văn hóa dưới quyền một tổng giám mục. Vì vậy, tổng giáo phận (giáo tỉnh) Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay bao gồm 09 giáo phận Công giáo, đó là các giáo phận: Bà Rịa (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Cần Thơ (thành phố Cần Thơ, tỉnh Bạc Liêu, tỉnh Cà Mau), Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng), Long Xuyên (tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang và quận Thốt Nốt thành phố Cần Thơ), Mỹ Tho (tỉnh Long An, tỉnh Tiền Giang và tỉnh Đồng Tháp), Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận), Phú Cường (tỉnh Bình Dương và Bình Phước và huyện Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh), Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai và một phần của huyện Dĩ An tỉnh Bình Dương), Vĩnh Long (tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Bến Tre và tỉnh Trà Vinh). 5 (phường Bình Trưng Đông, quận 2); số lượng tín đồ đông và thành phần tín đồ là Công giáo toàn tòng; đang chịu sự tác động mạnh mẽ bởi quá trình đô thị hóa tại bán đảo Thủ Thiêm, khu Đông Sài Gòn. 3.1.2. Về thời gian nghiên cứu Chúng tôi tiến hành nghiên cứu sâu trên cả hai chiều kích. Đó là, “chiều kích lịch đại và chiều kích đồng đại”. a) Chiều kích lịch đại Giai đoạn trước khi tinh thần “canh tân và hội nhập” của Công đồng Vatican II (1962-19 5) được áp dụng, thông qua việc tiếp cận nguồn tư liệu bao gồm các thư tịch, văn bản, cụ thể là qua các thư chung Công giáo ở Việt Nam, các chỉ thị của giáo hội phải tuân thủ các quy tắc trong việc thực hành các nghi lễ an táng theo tín lý, giáo lý Công giáo. Thư: văn bản; Công: phổ quát; Giáo: đạo. Như vậy, thư chung Công giáo là một loại văn bản mang tính phổ quát của hàng giáo phẩm (giáo hoàng, hồng y, giám mục) gửi cho cộng đồng tín đồ. Thư chung Công giáo đã xuất hiện từ thời giáo hội Công giáo sơ khai. Cụm từ “thư Công giáo” được sử dụng lần đầu tiên bởi thánh Eusebius5. Sau này trở thành văn kiện chính của các giám mục và từ Công đồng Vatican II, là thư của hội đồng giám mục các quốc gia (hội đồng giám mục Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Hoa Kỳ,). Thư chung Công giáo bao gồm: các thư luân lưu, thư chung, thư mục vụ6. Nội dung các lá thư đề cập đến một hay nhiều vấn đề nói lên lập trường, đường hướng, hoặc những công việc tôn giáo hoặc liên quan đến giáo hội Công giáo ở các quốc gia, trong đó có giáo hội Công giáo Việt Nam. Những thư Công giáo trước Công đồng Vatican II mà luận án đã tiếp cận được có nội dung đề cập đến việc cấm tín đồ thực hành các niềm tin tôn giáo tín ngưỡng, các lễ thức trong phong tục, tập quán văn hóa người Việt. Trong đó, có lễ thức tang ma như việc cấm lạy xác kẻ chết, cấm dâng hương - đốt đèn cho kẻ chết, cấm đọc văn tế trước xác kẻ chết, cấm đánh trống, cờ phướn, động lệnh khi chôn xác kẻ chết, cấm cúng giỗ và các hình thức khác liên quan đến người chết. Trong số đó, nổi bật là thư chung của các thừa sai dòng Đa Minh về “sự rối nước Annam” làm tại Trà Lũ (Nam 5 Ông sinh năm 283 ở đảo Sardinia, là một thành viên của đoàn giáo sĩ Vatican và là giám mục đầu tiên của tổng giáo phận Vercelli thuộc nước Ý. Ông mất năm 371 tại miền Bắc Italia. Theo giáo sử, thánh Eusebius là một trong những người bảo vệ giáo hội trong thời kỳ gặp nhiều thử thách bởi các thuyết chống đối. 6 Mục vụ được dịch từ “pastoralis” (pastoral) nghĩa là hoạt động thường xuyên của các chức sắc phục vụ con người, thuật ngữ này được sử dụng thịnh hành từ sau Công đồng Vatican II, cụ thể là từ năm 19 5. 6 Định ngày nay) ngày 07 tháng 5 năm 1759 và thư chung với tựa đề “Về các việc dối trá” làm tại Hà Nội ngày 08 tháng 5 năm 1905. Như vậy, ngay từ rất sớm các đoàn truyền giáo thừa sai ở Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề nghi lễ tang ma của tín đồ. Nhìn một cách toát yếu, các thư chung mà chúng tôi đã tiếp cận được ở chiều kích lịch đại (trước Công đồng Vatican II) đều yêu cầu chức sắc (giám mục, linh mục) và tín đồ phải thực hành nghi lễ tang theo đúng quy tắc đã ấn định của Công giáo Rôma và tuyệt đối trung thành với các giáo huấn của giáo hội. b) Chiều kích đồng đại Chúng tôi tiến hành nghiên cứu sâu theo lát cắt đồng đại giai đoạn từ tháng 6/2016 - tháng 4/2020 để tìm hiểu việc vận dụng các hình thức lễ nghi trong văn hóa truyền thống dân tộc vào việc diễn tả niềm tin Công giáo thông qua việc thực hành tang thức tín đồ. Qua đó, thấy được tính chân thực những biểu hiện, cũng như đặc điểm văn hóa truyền thống người Việt trong việc thực hành nghi lễ vòng đời (tang ma) của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nghiên cứu trường hợp cộng đồng Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể hai điểm nghiên cứu ở khu vực nội thành (giáo xứ Tân Định) và khu vực ngoại thành (giáo xứ Tân Lập). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này có giá trị tham chiếu cho 26 cộng đồng Công giáo khác tại Việt Nam, là các giáo phận Công giáo7 có tín đồ người Việt về “tính bản địa” trong việc thực hành tôn giáo qua tinh thần “canh tân và hội nhập” mà Công đồng Vatican II đã chủ trương đối với các lễ thức theo phong tục của cư dân tại chỗ. Trong đó, có nghi lễ tang ma của người Việt. 4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 4.1. Câu hỏi nghiên cứu Có thể nói, Công giáo là tôn giáo có nguồn cội văn hóa rất xa lạ với những truyền thống cổ Á Đông, vốn được xem là tôn giáo có một nền thần học hoàn chỉnh, với hệ thống và cơ cấu tổ chức giáo hội mang tính toàn cầu. Tuy nhiên, từ sau Công đồng Vatican II, vấn đề thờ cúng tổ tiên mới được thực hiện công khai và sâu rộng trong các cộng đồng Công giáo ở vùng Á Đông. Theo đó, cộng đồng tín đồ Công giáo 7 Theo số liệu thống kê năm 2019 của hội đồng giám mục Việt Nam, giáo hội Công giáo tại Việt Nam có 3 giáo tỉnh (Hà Nội - Huế - Thành phố Hồ Chí Minh). Trong đó, có 27 giáo phận, với khoảng 07 triệu tín đồ, và 4.000 linh mục đang làm việc tại 4.500 giáo xứ và tu viện, với 22.000 tu sĩ nam nữ đang sống trong 240 dòng tu - tu viện. 7 ở Việt Nam đã được phép vận dụng văn hóa địa phương (văn hóa bản địa) vào đời sống nghi lễ, nhằm để diễn tả niềm tin Công giáo sao cho phù hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc. Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất được đặt ra là: - Việc thực hành nghi lễ tang của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam diễn ra như thế nào từ sau Công đồng Vatican II? Giáo hội Công giáo ở Việt Nam đã nhận thấy, muốn sứ vụ truyền giáo đạt hiệu quả, muốn thực hiện tính truyền thống dân tộc và hội nhập văn hóa, tất yếu phải tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Qua đó có thể nhận thấy, quá trình hội nhập không chỉ giúp các tín đồ giữ vững niềm tin, cũng như bảo vệ căn tính Công giáo và hội nhập cũng không làm tổn thương đến các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc. Thực vậy, từ chiều kích phi quan phương, văn hóa Công giáo từng bước hội nhập với văn hóa truyền thống Việt Nam, nhìn ở góc độ văn hóa những sắc thái mới nảy nở đã góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy, câu hỏi nghiên cứu thứ hai đã được đặt ra là: - Văn hóa truyền thống dân tộc trong tang thức của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có những biểu hiện và đặc điểm cụ thể nào? 4.2. Giả thuyết nghiên cứu Liên quan đến câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: trước sự chuyển biến lớn lao của thế giới, giáo hội Công giáo Rôma8 đã sa sút và khủng hoảng trên tất cả các phương diện mà trước kia tưởng chừng khó có thể thay đổi. Trước bối cảnh đó, giáo hội không thể bàng quan, giáo hoàng (người đứng đầu Công giáo toàn cầu) quyết định triệu tập thượng hội đồng giám mục trên toàn thế giới (có sự tham dự của các giám mục miền Nam, Việt Nam)9 để khai mở Công đồng thứ XXI, công nghị được tổ chức tại thành Vatican lần thứ II10 từ năm 19 2-1965 để quyết định các vấn đề của giáo hội. 8 Giáo hội Công giáo (cụ thể hơn gọi là giáo hội Công giáo Rôma) là vì các giáo hội Công giáo tại mỗi quốc gia trên khắp thế giới phải tuân phục vô điều kiện quyền lãnh đạo của giám mục giáo phận Rôma. Vì là giám mục giáo phận Rôma nên được gọi là giáo hoàng. 9 Do điều kiện lịch sử, cũng như bối cảnh xã hội tại Việt Nam vào thời điểm 1954 và sau hiệp định Genève. Vì vậy, Công đồng Vatican II chỉ đến được với Công giáo miền Nam Việt Nam. 10 Công đồng Vatican I được triệu tập và hội họp trong hai năm (18 9 -1870), dưới thời giáo hoàng Piô IX. Công đồng kết thúc với việc minh định “tính bất khả ngộ” (không sai lầm) của người đứng đầu giáo hội (giáo hoàng) khi nhân danh giáo hội tuyên bố tín điều về giáo lý và mạnh mẽ lên án chủ thuyết duy lý. Có gần 800 chức sắc (hồng y, tổng giảm mục, giám mục và một số linh mục cao cấp) tham dự kỳ họp. 8 Đó là Công đồng đối thoại với xã hội trần thế, tôn trọng và hòa hợp với các tôn giáo, đối thoại với các nền văn minh nhân loại và hội nhập Công giáo với nền văn hóa của các dân tộc trong đời sống tôn giáo qua việc thực hiện tinh thần “canh tân và hội nhập”. Từ cách tiếp cận phân tích diễn ngôn qua các văn kiện của Công đồng Vatican II, chúng tôi đưa ra giả thuyết thứ nhất cho rằng: - Do áp lực từ chính đặc thù văn hóa, buộc Công giáo phải tiếp nhận những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam vào đời sống tôn giáo. Tuy nhiên, phải từ sau Công đồng Vatican II, việc thực hành nghi lễ Công giáo cho phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc mới thực sự có chuyển biến về chất. Liên quan đến câu hỏi thứ hai: dưới góc nhìn văn hóa học, chúng tôi cho rằng tinh thần hội nhập của Công giáo vào các nền văn hóa khác nhau được xem là hoạt động mang tính hai chiều, theo hướng: vừa bồi đắp thêm các giá trị văn hóa mới cho văn hóa dân tộc; vừa vay mượn, lồng ghép các hình thức văn hóa dân tộc vào trong thực hành lối sống đạo. Qua đó cho thấy, Công giáo truyền thông cho các dân tộc những giá trị riêng có của mình; đồng thời Công giáo cũng tiếp nhận những gì tốt đẹp trong các nền văn hóa các dân tộc vào hệ thống các nghi lễ của mình. Vì vậy, chúng tôi đưa ra giả thuyết thứ hai cho rằng: - Đặc điểm văn hóa truyền thống được biểu hiện trong tang thức của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh được thực hành dưới dạng nghi lễ kép: có sự đan xen nghi lễ Công giáo với lễ thức văn hóa truyền thống của người Việt. Vì là, nếp sống đạo và lối diễn tả niềm tin gắn với truyền thống dân tộc theo hai con đường: quan phương và phi quan phương, được thể hiện qua việc tích hợp giữa hệ thống giáo l - giáo luật và việc dung hợp văn hóa của mỗi cộng đồng Công giáo trong việc thực hành nghi lễ tang. 5. Quan điểm tiếp cận và phương pháp...Phan Hoa Lý (2004) theo tác giả, tang ma là một lễ nghi lớn trong nghi lễ vòng đời người. Mỗi dân tộc, mỗi vùng - miền sẽ có cách thức riêng trong việc thực hành văn hóa tang ma. Từ cách lập luận đó, bằng nghiên cứu trường hợp người Việt ở một làng châu thổ Bắc Bộ đó là làng Ngọc Quế, tác giả cho biết hầu hết lễ thức theo tập quán tang ma truyền thống trong Thọ Mai gia lễ vẫn được thực hành rộng rãi trong cộng đồng người Việt. Ngoài ra, tác giả có sự so sánh giữa tang ma người lớn và trẻ nhỏ để thấy sự khác biệt song vẫn nhận ra quan niệm của người Việt về sự sống và cái chết, lối sống đậm đà tình làng nghĩa xóm. Tác giả kết luận như sau: “Trong làng có người mất thì nhà nào cũng có người đi đưa ma, đám tang nào cũng kéo thành đoàn dài, đông nghịt cả cánh đồng. Đó là thuần phong mỹ tục, là lối sống ân tình, là đạo lý dân tộc, xứng đáng được trân trọng và gìn giữ” (Phan Hoa Lý, 2004, trang 29). Nhìn chung, nội dung bài viết chỉ dừng lại ở việc khảo tả là chính, chưa chỉ ra được một số vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ và hành vi của các cá nhân khi tham gia vào việc thực hành văn hóa. Quyển sách Phong tục lễ nghi của người Việt của Võ Thanh Bằng (2005), nội dung cho thấy trải qua quá trình dựng nước và giữ nước của người Việt, xuất hiện những quy ước trong đối nhân xử thế, trong giao tiếp xã hội giữa cá nhân với cộng đồng, với ông bà tổ tiên và với thần linh. Những quy ước đó đã trở thành quy tắc chuẩn mực đối với với nghi lễ vòng đời người Việt Nam. Ở mục lễ tục trong tang ma, tác giả đã giải thích ý nghĩa các lễ thức sẽ thực hành cho người chết. Tác giả đã phát biểu về lễ mộc dục như sau: “Lễ mộc dục phải được thực hiện bởi những người con, trai thì vào tắm cha, gái thì vào tắm mẹ. Khi tắm cần vây màn cho kín, tang chủ quỳ xuống khóc, người hộ việc cũng quỳ rồi cáo từ rằng: nay xin tắm gội để sạch bụi trần, 22 xong phục xuống, đứng dậy”16. Thông qua nội dung sách, có thể thấy rằng trong xã hội hiện đại, những phong tục lễ nghi truyền thống vẫn luôn được các thế hệ người Việt trân trọng và gìn giữ, nó đã vượt qua mọi khoảng cách về không gian, thời gian để trở thành nét văn hóa truyền thống của người Việt. Có thể nói, đây là công trình đề cập đến rõ nét những quy ước trong việc đối nhân xử thế trong mối quan hệ cá nhân với cộng đồng, với ông bà tổ tiên và với thần thánh đã trở thành phong tục, lễ thức (lễ nghi) truyền thống đối với sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Việt. Quyển sách Nghi lễ mộ phần người Việt của Trương Thìn (2010), tác giả cho rằng trong văn hóa của người Việt Nam, tang thức là một nghi lễ rất được coi trọng. Các vấn đề khác liên quan đến thôi nôi, cưới hỏi, chúc thọ và các lễ kỷ niệm phải dừng lại chờ sau tang. Theo tác giả khi gia đình có tang, con cháu phải quy tụ đầy đủ để chịu tang. Có thể nói, quyển sách chỉ đơn thuần là bàn đến tang lễ của người Việt nói chung mà chưa nhắc đến tang lễ của tín đồ Công giáo người Việt. Công trình Văn hóa tang ma của người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Thành Đạo (2010), tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa học, tác giả cho thấy tiến trình tổ chức nghi lễ tang ma của người Việt được đặt trong bối cảnh không gian văn hóa Nam Bộ và xu hướng hiện đại đã làm xuất hiện những đặc trưng văn hóa tang lễ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả có sự so sánh để chỉ ra nét tương đồng và khác biệt trong việc tổ chức và thực hành nghi lễ tang của cộng đồng người Việt tại Trung bộ. Tuy tiếp cận văn hóa học nhưng công trình này mới chỉ mô tả những biến đổi trong việc tổ chức tang ma tại một đô thị, tác giả chưa có sự phân tích để làm nổi bật sắc thái văn hóa tang ma người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Quyển sách Tang sự xưa và nay của Đức Quang (2012), tác giả đã đề cập đến tập tục ma chay của người Việt trong lịch sử cùng với các bước tiến hành một đám tang theo quan niệm dân gian và văn hóa truyền thống người Việt. Đồng thời, nội dung có đối chiếu với tập tục tang ma của một số dân tộc thiểu số đang sinh sống tại Việt Nam như Khmer, Chăm, J’rai để làm sáng tỏ quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và cái chết dẫn đến sự khác biệt trong việc thực hành tang thức. Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một vài nhận xét về tục lệ tang ma của người Việt hiện nay và một số biến đổi trên tinh thần thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang ma trong bối cảnh xã hội hiện đại. Nhìn chung, công trình chỉ dừng lại ở nội dung hướng dẫn tổ chức đám tang 16 Võ Thanh Bằng (2005), Phong tục lễ nghi của người Việt, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, trang 79. 23 theo lễ thức truyền thống, tuy tác giả có đề cập đến tang ma của một số dân tộc nhưng cũng mang tính khảo tả sơ nét, chưa đi sâu vào việc trình bày nét tương đồng và khác biệt trong việc thực hành văn hóa. Công trình Tang ma của người Việt ở miền Tây Nam Bộ của Huỳnh Thị Yến Thanh (2014), tác giả trình bày diễn trình nghi lễ tang ma truyền thống của người Việt trong bối cảnh văn hóa mở Nam Bộ, có sự so sánh để chỉ ra nét tương đồng và sự khác biệt so với nghi lễ tang ma của cộng đồng các dân tộc thiểu số khác trong khu vực là người Khmer và người Hoa. Tuy đề cập đến tang ma của người Việt có sự so sánh với một số dân tộc khác trong vùng, nhưng cũng chỉ ở mức độ khảo tả mang tính tổng hợp, ngoài ra không đề cập người Việt là tín đồ các tôn giáo nói chung, trong đó có người Việt Công giáo. Công trình chủ yếu mang tính tham khảo trong nghiên cứu việc nghiên cứu của chúng tôi. Quyển sách Nghi lễ thờ cúng cổ truyền của người Việt của Nguyễn Quốc Thái (2016), xuất phát từ các nghi lễ trong phong tục thờ cúng tổ tiên. Đối với nghi lễ tang ma, tác giả đã trình bày khái lược các nghi lễ cần thiết cần phải thực hiện trong một đám tang cổ truyền của người Việt. Nội dung chưa đi sâu vào việc phân tích bản chất và ý nghĩa của việc thực hành các nghi lễ trong tang ma truyền thống, chủ yếu trình bày hình thức lễ thức của người Việt đối với việc thờ cúng tổ tiên mà chưa đề cập đến tôn kính tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt. Chúng tôi kế thừa chọn lọc một số vấn đề trong việc đối chiếu với lễ nghi tôn kính tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt, trong đó có việc thực hành tang thức Công giáo. Nhìn chung, nội dung nguồn tư liệu đã tổng hợp và hệ thống hóa được những vấn đề cơ bản của trong nghi lễ tang, từ quy trình tổ chức tang thức bắt đầu khi con người chết đến cách cúng giỗ, tưởng nhớ và hoài niệm về sau. Có thể nói, nguồn tài liệu trên là sách tham khảo, công trình nghiên cứu và bài báo khoa học đều bàn luận đến phong tục tập quán tang ma của người Việt tương đối phong phú trong mỗi giai đoạn, quá trình thực hành cụ thể. Bên cạnh đó, nội dung các tài liệu không chỉ trình bày việc thực hiện các nghi lễ, mà còn còn cho thấy trình tự các nghi lễ, cũng như việc thực hành các lễ thức trong phong tục, tập quán và các quan niệm kiêng kỵ đi kèm đối với đời sống tinh thần của cộng đồng người Việt. Chúng tôi kế thừa có chọn lọc nguồn tư liệu để thấy được tính tích cực đối với việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống 24 dân tộc trong việc thực hành văn hóa tang ma người Việt, trong đó tín đồ Công giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh. 1.1.3. Tang thức của tín đồ Công giáo trước và sau Công đồng Vatican II ở Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh 1.1.2.1.Tang thức trước Công đồng Vatican II Tác giả Nguyễn Đình Ái (2007) với công trình Nhìn lại tang lễ trước Công đồng Vatican II ở Việt Nam, đã cho thấy việc thực hành các nghi lễ liên quan đến tang thức tín đồ là một bầu không khí u buồn và ảm đạm bao quanh đám tang. Tác giả kết luận rằng: “Đây là hệ quả của một viễn tượng thần học quá nhấn mạnh đến lỗi lầm của con người và sự xét xử của Thiên Chúa hơn là sự thiện hảo nơi con người và lòng thương xót của Thiên Chúa” (Nguyễn Đình Ái, 2007, trang 47). Qua đó, có thể nhận ra rằng: tang thức Công giáo trước Công đồng Vatican II ở Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc áp đặt (quan phương) tư tưởng thần học Kitô giáo, đó là một tín điều “bất di dịch”, từ đó làm tâm trí của tín đồ đi kèm nỗi sợ hãi bởi sự trừng phạt của Thiên Chúa sau cái chết. Nhìn chung, nội dung không đề cập đến việc thực hành nghi lễ tang của tín đồ người Việt Nam, mà chỉ tập trung vào tư tưởng thần học Công giáo về bản chất của cái chết từ chiều kích cánh chung luận. Quyển sách Việc ma chay, giỗ chạp với người Công giáo Việt Nam của Đỗ Đình Ánh (2008), tác giả cho rằng đại đa số người Việt Nam đều tin rằng con người có linh hồn bất tử và khi con người người tắt thở là bước vào một thế giới khác. Vì vậy, chết được xem là bước qua ngưỡng cửa của cõi nhân sinh sang cõi khác, nên phải có cuộc tiễn đưa cho thật trang trọng. Trong phần nghi lễ tang, tác giả đã cho thấy trước Công đồng Vatican II, tín đồ Công giáo ở Việt Nam đã không được thực hành nghi lễ tang ma theo tập quán truyền thống như: nghiêm cấm việc bái lạy trước thi hài người chết, không được thắp nhang (hương), cấm các hình thức mang màu sắc mê tín dị đoan bên thi hài người chết như: bày biện mâm quả, hoa nến màu đỏ, màu sắc tang phục và ăn uống liên quan đến việc chôn cất người chếtCó thể nói, đây là một tài liệu rất có giá trị trong việc kế thừa mà luận án nghiên cứu để chứng minh sự hồi sinh văn hóa truyền thống trong tang thức tín đồ Công giáo người Việt sau Công đồng Vatican II ở Thành phố Hồ Chí Minh. Quyển sách Thánh nhạc Công giáo ở Việt Nam trước Công đồng Vatican II của Kim Long (2009), trong phần thánh nhạc dành cho nghi thức lễ tang ở Việt Nam, tác 25 giả cho thấy trước Công đồng Vatican II, lời nhạc được hát xướng bằng ngôn ngữ Latinh, là ngôn ngữ phần lớn tín đồ và ngay những người trong ca đoàn cũng không hiểu ý nghĩa của nó. Tác giả kết luận rằng: “Nghi thức thánh lễ an táng giáo dân ở Việt Nam trước Công đồng Vatican II được cử hành rập khuôn theo khuôn mẫu của văn hóa Châu Âu, loại trừ tất cả những gì liên hệ đến ngôn ngữ dân ca Việt Nam” (Kim Long, 2009, trang 48). Sách không bàn đến việc thực hành nghi lễ tang, nhưng cũng cho thấy đời sống lễ nghi của tín đồ Công giáo hoàn toàn bị động và lệ thuộc vào hệ quy chiếu của văn hóa Châu Âu. Quyển sách Phụng tự tại Việt Nam trong 50 năm qua: 1960 - 2010 của Hội đồng giám mục Việt Nam (2010), đề cập đến sự kiện thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 19 0. Qua đó, nhìn lại việc thực thi văn kiện của Công đồng Vatican II, trong đó có việc cử hành và sống phụng vụ (lễ nghi) tại Việt Nam, nhất là từ sau khi ban hành hiến chế về phụng vụ17. Sách trình bày lại đời sống lễ nghi của Công giáo ở Việt Nam trước và sau Công đồng Vatican II nhằm chỉ ra tinh thần “canh tân và hội nhập” mà Công đồng chủ trương trong là hoàn toàn đúng đắn. Đối với việc nghi lễ tang trước Công đồng có đoạn như sau: Giáo dân Việt Nam đi xem lễ, và cha (linh mục) thì làm lễ. Đó là những kiểu nói rất thông thường. Giáo dân đọc những phần kinh được soạn theo các lời giải thích theo nghĩa bóng về các nghi lễ vị linh mục làm hay đọc trên bàn thờ, như trước đây, khi linh mục làm 5 dấu thánh giá trong thánh lễ, thì được hiểu là 5 dấu thương khó của Chúa. Giáo dân không đối đáp với chủ tế. Họ được đưa vào trong mầu nhiệm cử hành qua đức tin, qua bài giảng và các bài giáo lý về thánh lễ, các bí tích và phải hát những bài thánh ca trong phụng vụ bằng tiếng Latinh. Lời Chúa cũng được công bố bằng tiếng La tinh (Hội đồng giám mục Việt Nam, 2010, trang 3). Nhìn một cách toát yếu, lễ thức tang ma theo tập quán cư dân tại chỗ (bản địa) đã bị loại bỏ hoàn toàn trong việc thực hành tang thức của tín đồ Công giáo ở Việt Nam, từ đó dẫn đến sự xung đột văn hóa được biểu hiện qua việc ứng xử với phong tục, tập quán truyền thống trong một thời gian dài. Luận án kế thừa nội dung này để 17 Được dịch từ tiếng Anh - Sacrosanctum Concilium, hiến pháp về phụng vụ thiêng liêng, là một trong những hiến pháp của Công đồng Vatican II đề cập đến nghi lễ Công giáo với văn hóa bản địa các dân tộc. 26 làm sáng tỏ sự hồi sinh các tập quán truyền thống trong tang thức tín đồ Công giáo người Việt từ sau Công đồng Vatican II. Quyển sách Những nẻo đường Phúc âm hóa Công giáo ở Việt Nam của Nguyễn Hồng Dương (201 ), đề cập đến công cuộc truyền giáo của Công giáo ở Việt Nam ngay từ buổi đầu cho đến Công đồng Vatican II, ở đó nổi lên hai vấn đề nan giải đó là: Công giáo với dân tộc Việt Nam và Công giáo với văn hóa Việt Nam luôn được đặt ra, nhiều khi mang tính cực đoan gay gắt và loại trừ. Trong phần những nẻo đường hội nhập văn hóa Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, tác giả cho biết thời kỳ trước Công đồng Vatican II, theo chiều kích quan phương giáo hội Công giáo không chấp nhận các lễ thức trong văn hóa truyền thống dân tộc dành cho người chết (thờ cúng tổ tiên). Tuy nhiên, đối với con đường phi quan phương, tín đồ người Việt đã vượt ra khỏi sự cấm đoán ngặt nghèo của giáo hội để thực hành nghi lễ dành cho người chết theo tập quán truyền thống. Tác giả đã minh chứng như sau: “Tín đồ đã bí mật giữ bài vị, bát hương, hằng năm giỗ chạp vẫn lén lút thờ cúng. Có người theo đạo đã được bầu lên chức trùm họ vẫn thắp hương thờ cúng tổ tiên trong chum” (Nguyễn Hồng Dương, 2016, trang 517). Tựu trung lại, các công trình cho thấy giai đoạn trước Công đồng Vatican II vấn đề nghi lễ tang của tín đồ Công giáo ở Việt Nam đối với giáo hội Công giáo Rôma là mang tính bảo thủ, cứng nhắc, độc đoán và mang tính loại trừ các nghi lễ liên quan đến việc thờ cúng tổ tiên của người Việt, không chấp nhận việc thực hành các lễ thức theo tập quán truyền thống dành cho người chết. Qua đó, có thể tóm tắt ngắn gọn như sau: Công giáo với văn hóa Việt Nam (phong tục, tập quán) trước Công đồng Vatican II là biểu hiện của những xung đột gay gắt mang tính loại trừ. 1.1.2.2.Tang thức sau Công đồng Vatican II Bài viết Phong tục tang ma của người Việt xã Yên Phương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc của Hoàng Hữu Bình, Nguyễn Xuân Nam (2003), đề cập đến tang ma của tín đồ Công giáo người Việt tại giáo xứ Dân Trù và giáo xứ Phương Trù thuộc giáo phận Bắc Ninh. Từ kết quả khảo sát thực địa, nhóm tác giả kết luận rằng từ sau Công đồng Vatican II, tín đồ Công giáo ở Việt Nam mới thật sự được thực hành nghi lễ tang kết hợp với tập tục truyền thống dân tộc như “cỗ hậu sự” còn được gọi là áo quan, lễ mộc dục, lễ thành phục, lễ hạ huyệt, lễ giỗ,ngoài ra, nhóm tác giả cũng so sánh đối chiếu với tang thức Phật giáo để thấy được sự khác biệt trong việc thực hành tang thức 27 của người Việt theo tôn giáo. Bài viết này chỉ dừng lại ở mức độ khảo tả, chưa đi sâu vào việc phân tích lễ thức truyền thống và nghi lễ Công giáo được vận hành như thế nào tang thức Công giáo ở Việt Nam. Chúng tôi sẽ kế thừa và tiếp tục làm sáng tỏ trong nghiên cứu tang thức của tín đồ Công giáo người Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết Tang thức người Việt theo Công giáo, Phật giáo và theo phong tục, tín ngưỡng truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc bộ của Nguyễn Tấn Đạt (2008), tác giả cho rằng tùy theo quan niệm về cái chết mà người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ theo tôn giáo nào đó hay theo phong tục, tín ngưỡng truyền thống có cách thức tổ chức lễ tang. Tuy nhiên, quan điểm nhân sinh của Công giáo, Phật giáo và người Việt có điểm chung là chết không phải là hết mà nó sẽ được chuyển tiếp vào một thế giới khác (Niết bàn, thiên đường, Ngoài ra, điểm nổi bật của bài viết đã được tác giả chỉ ra đó là, “thực tế hiện nay việc tổ chức tang thức phụ thuộc rất lớn vào địa vị xã hội, địa vị tôn giáo của người chết” (Nguyễn Tấn Đạt, 2008, trang 42). Khi đề cập đến tang thức Công giáo, tác giả cho rằng tang thức của tín đồ Công giáo người Việt tại Bắc Bộ chuyển biến mạnh từ sau Công đồng Vatican II, trước đó tín đồ Công giáo Việt Nam bị cấm tổ chức theo phong tập tập quán địa phương liên quan đến phong tục thờ cúng tổ tiên, trong đó có nghi lễ tang ma. Nhìn chung, bài viết đã nêu lên được tính mới trong việc nghiên cứu đó là “mô quy” tang lễ lớn hay nhỏ đều do địa vị xã hội của người chết hay thân nhân người chết mang tính quyết định. Chúng tôi kế thừa tính mới này để làm sáng tỏ trong tang thức của tín đồ Công giáo có liên quan đến người chết như chức sắc, cha mẹ chức sắc, nhà tu hành và những người có ảnh hưởng khác tại một cộng đồng Công giáo. Bài viết Nghi lễ, chuẩn mực và tính linh hoạt trong đời sống đạo ở vùng Công giáo Hố Nai - Đồng Nai của Nguyễn Đức Lộc (2008), tác giả đã trình bày đời sống nghi lễ của tín đồ liên quan đến việc “hiếu - hỉ” (tang lễ và hôn lễ) tại một địa phương cụ thể. Thông qua nghiên cứu điền dã, kết quả cho thấy cộng đồng tín đồ Công giáo tại đây thực hành đời sống lễ nghi dưới dạng “nghi lễ kép” giữa tinh thần Công giáo (giáo lý) và quan niệm tín ngưỡng dân gian (lễ thức) người Việt đã được vận hành một cách nhuần nhuyễn. Tính mới trong bài viết này chính là việc “thương thảo” giữa các bên liên quan phía hậu cảnh để “thỏa thuận, bàn bạc đi đến thống nhất” sao cho phù hợp với bối cảnh hiện tại của cộng đồng Công giáo trong việc tổ chức nghi lễ. Chúng tôi kế 28 thừa tinh thần của nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ tác động qua lại giữa hệ giá trị Công giáo với hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam mà nội dung luận án hướng đến. Nguyễn Thị Thúy (2012), với công trình nghiên cứu Tìm hiểu nghi lễ tang ma của người Việt Công giáo đô thị hiện nay, tác giả chứng minh nghi lễ tang ma của người Việt nói chung và người Việt Công giáo tại các đô thị nói riêng, đang có một số xu hướng biến đổi như hình thức mai táng (từ thổ táng sang hình thức hỏa táng), không gian tổ chức tang lễ,là do tác động của quá trình đô thị hóa và hiện đại hóa. Nhìn chung, công trình này chưa đề cập đến việc thực hành văn hóa trong tang thức Công giáo có yếu tố bản địa, mà chỉ đề cập đến xã hội học để chỉ ra những biến đổi trong việc tổ chức tang lễ của một cộng đồng Công giáo đã bị tác động bởi bối cảnh xã hội nhất định trong tiến trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không đồng ý với quan điểm của tác giả khi cho rằng việc thổ táng sang hỏa táng là do tác động của quá trình đô thị hóa, bởi lẽ nếu không có tinh thần cởi mở của Công đồng Vatican II thì chắc chắn việc này sẽ không được thực hiện. Vì, Công giáo đã định tín rằng “tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Lê Thị Cúc (2014), với nghiên cứu Tang thức của người Việt Bắc Bộ là tín đồ Công giáo và Phật giáo, đề cập đến tang thức của tín đồ Phật giáo và Công giáo của người Việt ở khu vực Bắc Bộ. Tác giả tiếp cận theo quan điểm tôn giáo học để chỉ ra điểm tương đồng và điểm khác biệt trong việc thực hành tang thức của tín đồ người Việt theo nghi lễ Phật giáo với nghi lễ Công giáo dưới chiều kích quan niệm trong nghi lễ tôn giáo hơn là thích nghi với văn hóa địa phương. Một số khuyến nghị được gợi ý cho việc tổ chức tang thức hiện nay được tác giả đề xuất nhằm bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và khu vực Bắc Bộ nói riêng, cũng như cần thiết loại bỏ những hủ tục cho phù hợp với xu thế phát triển xã hội hiện đại. Kết quả nghiên cứu này chỉ mới dừng lại ở việc tiếp cận từ thực hành nghi lễ tang theo quan điểm của tôn giáo, tác giả chưa làm rõ những biến đổi trong việc thực hành tang thức của tín đồ tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng bởi tinh thần canh tân của Công đồng Vatican II dưới chiều kích hội nhập văn hóa mà Công giáo đã chủ trương. Quyển sách Cấu hình xã hội Cộng đồng Công giáo Bắc di cư tại Nam Bộ của Nguyễn Đức Lộc (2015), nội dung sách là kết quả của quá trình nghiên cứu trong khoảng thời gian 10 năm của tác giả về vấn đề người Công giáo Bắc di cư 1954. Công 29 trình được tiếp cận theo hướng nhân học để trình bày quá trình định cư và lập nghiệp của những cộng đồng làng xã người Công giáo miền Bắc ở Nam Bộ xét trên hai phương diện: phương diện cấu trúc cộng đồng làng xã và phương diện ứng xử của cá nhân. Ở phần chiến lược ứng xử của người Công giáo di cư trong bối cảnh xã hội đương đại, tác giả đã trình bày thái độ ứng xử trong đời sống nghi lễ Công giáo liên quan đến nghi tang lễ như sau: Đối với người Công giáo Bắc di cư ở Hố Nai và Cái Sắn, người ta chưa chấp nhận được việc sau khi người thân qua đời thi đem thi hài đi thiêu mà họ chỉ an táng người thân xuống lòng đất, vì mỗi xứ đạo đều có nghĩa trang riêng nên người ta chôn cất người thân tại nghĩa trang giáo xứ (Nguyễn Đức Lộc, 2015, trang 222). Ngoài ra, tác giả cũng cho biết thêm, đám tang người Việt Công giáo ở đây không chỉ là nghi thức tiễn đưa người quá cố về thế giới bên kia mà nó còn là dịp để người sống gắn bó giúp đỡ nhau, an ủi lẫn nhau, thể hiện tính cố kết cộng đồng rất cao. Nhìn chung, công trình này tiếp cận một vấn đề mang tính lịch sử hơn là văn hóa, bởi lẽ tác giả chỉ nghiên cứu một cộng đồng Công giáo di cư dưới chiều kích “tổ chức sinh hoạt” tại vùng đất mới cho phù hợp với hoàn cảnh thời cuộc. Chúng tôi kế thừa nội dung này để hiểu rõ hơn về cấu trúc và lịch sử của giáo xứ Tân Lập là một cộng đồng Công giáo Bắc di cư khi chọn và định cư tại Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh phân chia đất nước. Công trình Phong tục tang ma của người Công giáo: nghiên cứu trường hợp giáo xứ Trung Đồng - tỉnh Ninh Bình của Trần Thị Loan (2015), tác giả trình bày các lễ thức trong phong tục tang ma truyền thống và nghi lễ tang của tín đồ Công giáo ở giáo xứ Trung Đồng, giáo phận Phát Diệm được thực hành một cách nhất quán kể từ sau Công đồng Vatican II. Điểm mới của nghiên cứu là đã chỉ ra được những hủ tục, nghi thức rườm rà trong lễ tang dần được xóa bỏ, thay thế bằng những hình thức phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội; đồng thời cũng nêu được những điểm chưa tích cực cần phải hạn chế trong nghi thức tang ma của người Công giáo ở Bắc Bộ. Qua đó, có thể rút ra những đặc điểm riêng trong phong tục tang ma của người Công giáo nói chung và những biến đổi của nghi lễ Công giáo trong giai đoạn hiện nay. Chúng tôi kế thừa tính mới của nghiên cứu trong việc xác định những hình thức không phù hợp trong tang thức tín đồ Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. 30 Bài viết Bức tranh về sự tham dự thánh lễ của các tín hữu tại Việt Nam của Phạm Đình Ái (201 ), đề cập đến sự thay đổi trong đời sống nghi lễ của Công giáo ở Việt Nam từ sau Công đồng Vatican II. Tuy nhiên, vẫn còn những bước thụt lùi, cản trở công cuộc canh tân và hội nhập đích thực của giáo hội. Tác giả gọi những điều đó là những “bóng râm” hay những “lạm dụng” làm lu mờ đi tính chân thực của nghi lễ. Bên cạnh đó, trong phần nghi lễ tang theo tập quán dân tộc, bài viết đã đưa ra câu hỏi: các tín đồ Việt Nam đã tiếp nhận và thực hành nghi lễ Công giáo với lễ nghi truyền thống như thế nào? Tác giả đã nhận định rằng: Năm 19 8, Hội đồng giám mục miền Nam - Việt Nam đã có câu trả lời rõ ràng đó là, việc áp dụng các chỉ thị liên hệ tới việc canh tân và hội nhập lễ nghi không gặp phải khó khăn cản trở nào. Trái lại, qua việc thay đổi một số nghi thức theo tập quán dân tộc và nhất là nhờ việc đem tiếng Việt vào trong các buổi cử hành nghi lễ và các bí tích, các tín hữu tham dự cách trọn vẹn, ý thức, thành kính và sống động (Phạm Đình Ái, 2016, trang 53). Qua đó, có thể thấy rằng nghi lễ Công giáo đan xen với lễ thức văn hóa truyền thống trong tang thức sẽ làm cho việc thực hành nghi lễ tôn giáo của tín đồ Công giáo ở Việt Nam thêm năng động. Kế thừa nội dung này trong luận án để làm sáng tỏ tính hội nhập văn hóa của Công giáo tại Việt Nam thông qua nghi lễ tang sẽ biểu hiện qua những đặc điểm văn hóa cụ thể như thế nào. Công trình Biến đổi nghi lễ Công giáo ở giáo xứ Đại ơn, Chương Mỹ, Hà Nội hiện nay của Mai Thúy Phương (2017), tác giả cho rằng sau Công đồng Vatican II, những nghi thức trong tang lễ của người Công giáo Việt Nam nói chung và của tín đồ giáo xứ Đại Ơn thuộc Thành phố Hà Nội nói riêng đó là việc tuân thủ nghiêm ngặt các nghi thức đã được giáo hội quy định trong việc thực hành đời sống đạo. Bên cạnh đó, tác giả có đề cập đến việc tín đồ Công giáo người Việt vẫn thực hành tập quán chôn cất, sau đó là cải táng theo phong tục địa phương như sau: “Người Công giáo ở giáo xứ Đại Ơn vẫn duy trì phong tục chôn cất phổ biến của địa phương là cải táng. Người chết được chôn khoảng ba đến năm năm, sau đó được gia đình bốc mộ về một vị trí khác và xây mộ kiên cố” (Mai Thúy Phương, 2017, trang 50). Qua đó, có thể nhận thấy việc thực hành phong tục tập quán trong nghi lễ dành cho người chết đối với tín đồ Công giáo ở Hà Nội vừa tuân thủ lễ nghi tôn giáo vừa lưu giữ tập tục, tâm lý của người Việt khu vực Bắc Bộ. Nhìn chung, công trình chỉ dừng lại ở thực hành đời sống 31 đạo hơn là tính hội nhập văn hóa trong nghi lễ Công giáo. Chúng tôi kế thừa trong việc tham khảo để thấy được sự khác biệt của tín đồ Công giáo người Việt tại Nam Bộ trong việc thực hành lễ thức truyền thống là đào sâu chôn chặt, không thực hiện tập tục cải táng như tín đồ khu vực Bắc Bộ mà công trình đã đề cập. Nguyễn Khánh Diệp (2018), với công trình Tính bản địa trong nghi lễ kính nhớ tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt: nghiên cứu trường hợp: giáo xứ Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, tác giả cho thấy vấn thờ cúng tổ tiên của tín đồ Công giáo ở vùng Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đã trải qua rất nhiều thăng trầm trong lịch sử ngay từ những ngày đầu truyền giáo và đến năm 19 5 vấn đề thờ cúng tổ tiên đã được giải quyết hoàn toàn bởi tinh thần “canh thân và hội nhập” của Công đồng Vatican II. Thông qua nghiên cứu điền dã, tác giả cho thấy tín đồ Công giáo người Việt ở giáo xứ Lộc Hòa có cách thức thực hành nghi lễ tôn kính tổ tiên xuất phát từ tinh thần đạo hiếu trong văn hóa truyền thống của người Việt. Khi bàn về chữ hiếu trong việc thực hành nghi lễ tôn kính tổ tiên, Nguyễn Khánh Diệp (2018) cho biết: “Nhiều gia đình tín đồ Công giáo gốc Bắc di cư ở Lộc Hòa vẫn còn giữ tập tục nếu người qua đời vẫn còn cha mẹ chưa mất sẽ vắt một hoặc hai khăn tang trên quan tài, thể hiện rằng người chết vẫn phải giữ chữ Hiếu, để tang cho cha mẹ dù cha mẹ vẫn còn sống”18. Điểm nổi bật nhất trong công trình này cho thấy thái độ và lối ứng xử của tín đồ Công giáo ở Việt Nam nói chung và ở giáo xứ Lộc Hòa nói riêng khi bị tòa thánh Vatican cấm đoán việc thờ cúng tổ tiên, những căng thẳng đó chỉ được giải tỏa từ Công đồng Vatican II. Tuy nhiên, tác giả chưa chỉ ra được tầm quan trọng của các văn kiện Công đồng đã tác động như thế nào đến việc thực hành nghi lễ tôn kính tổ tiên của người Việt mà tác giả gọi là tính bản địa. Chúng tôi kế thừa công trình này của tác giả nhằm chỉ ra vai trò quan trọng của Công đồng Vatican II đã tác động như thế nào trong tiến trình hội nhập văn hóa cư dân tại chỗ (bản địa) vào đời sống nghi lễ của Công giáo ở Việt Nam nói chung và trong tang thức nói riêng. Quyển sách Văn kiện hướng dẫn việc tôn kính tổ tiên của Hội đồng giám mục Việt Nam (2019), nhắc lại huấn thị Plane compertum est19 của tòa thánh Vatican công 18 Nguyễn Khánh Diệp (2018), Tính bản địa trong nghi lễ kính nhớ tổ tiên của tín đồ Công giáo người Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, trang 101. 19 Được dịch là “điều đã rõ”, nội dung đề cập đến việc người Công giáo ở Trung Hoa từ nay được phép tham dự các nghi lễ kính Đức Khổng, trước hình ảnh hoặc bài vị mang tên Ngài trong các văn miếu hay trường 32 bố ngày 08 tháng 12 năm 1939 đối với Công giáo tại Trung Hoa là một đường hướng mới mẻ, nhất quán và đã thực sự được khai mở cho cuộc hội nhập văn hóa về việc tôn kính tổ tiên đối với tín đồ Công giáo tại các nước Á Đông. Tuy nhiên, phải đợi đến 1965 tức là thời điểm bế mạc Công đồng Vatican II, giáo hội Công giáo tại Việt Nam mới thực sự có biến chuyển về chất. Nhìn từ chiều kích quan phương, nội dung trọng tâm của quyển sách hướng dẫn thực hành nghi lễ tôn kính tổ tiên trong hôn lễ và tang lễ đối với tín đồ Công giáo. Trong phần nghi lễ tang, giáo hội đã giải tỏa một vấn đề gây ra sự xung đột đối với tâm thức của mọi tín đồ Công giáo từ nhiều năm qua trong mối quan hệ ứng xử với tang lễ theo nghi thức Phật giáo có đoạn như sau: Với tang lễ theo nghi thức Phật giáo, khách viếng thường được mời thắp hương (nhang) trước bàn thờ Đức Phật trước khi viếng thi hài người quá cố. Trường hợp này đốt hương và niệm hương trước Đức Phật như một Đấng đáng tôn kính không mang ý nghĩa như thờ phượng Thiên Chúa (Hội đồng giám mục Việt Nam, 2019, trang 19-20). Như vậy, kể từ sau Công đồng Vatican II, đây là văn kiện chính thức của giáo hội Công giáo ở Việt Nam hướng dẫn trực tiếp việc thực hành nghi lễ tôn giáo với phong tục thờ cúng tổ tiên, cũng như việc ứng xử để củng cố mạng lưới xã hội đối với tín đồ không cùng niềm tin Công giáo. Đây là một tư liệu tham khảo rất có giá trị trong vấn đề nghiên cứu nhằm chỉ ra tính linh hoạt giữa nghi lễ tôn giáo và lễ thức truyền thống Việt Nam. Tựu trung lại, các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy đời sống lễ nghi của tín đồ Công giáo người Việt nói chung, cũng như trong việc thực hành tang thức của tín đồ Công giáo đã cho thấy tính thủ cựu và canh tân qua một số nội dung chủ yếu đề cập đến tang thức của Công giáo trước và sau Công đồng Vatican II ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Qua đó, chúng tôi sẽ kế thừa có chọn lọc để xây dựng cơ sở bổ sung, cũng như tham chiếu nhằm nghiên cứu hoàn thiện nội dung luận án. học”; và “phải coi là được phép và xứng hợp tất cả những (cử chỉ) cúi đầu và những biểu lộ khác có tính cách tôn trọng dân sự trước những người quá cố hay hình ảnh và bài vị mang tên họ”. 33 1.1.4. Những nghiên cứu liên quan đến Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh và điểm nghiên cứu (giáo xứ Tân Lập và giáo xứ Tân Định) Bài viết Đời sống đạo c...Sỹ, xóm 25, họ thánh Giuse, khu thánh Tịnh vừa qua đời vào lúc 13g30 ngày 31 22 tháng 10 năm 2017, tại gia đình, hưởng dương 58 tuổi. Thánh lễ an táng Cha xứ sẽ thông báo sau. Xin cộng đoàn cầu nguyện, thăm viếng và giúp đỡ gia đình tang quyến theo truyền thống của giáo xứ. Thông báo vừa dứt thì nghe tiếng đọc kinh phát trên loa âm thanh ấy như sau: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho linh hồn Giuse được lên chốn nghỉ ngơi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời, sáng láng vui vẻ vô cùng amen. Khoảng 15 phút sau thì người ta kéo đến rất đông, tôi tính sơ bộ khoảng 100 người đi lại trong ngôi nhà ấy. Lúc này có một người đàn ông khiêng một bình 5 lít màu trắng, tôi được biết là rượu đế dùng để tắm rửa cho người chết. Tôi cố gắng lân la và làm quen với người khiêng bình rượu đó để được vào quan sát việc tắm rửa, rất may người chết là đàn ông nên sự hiện diện của tôi không đáng ngại. Tôi nói với anh con trai người chết là em có thể quan sát được không, anh trầm ngâm một lát rồi nói được ạ, nếu anh không kiêng kị gì thì mời anh quan sát. Lúc này, tôi nhìn thấy khuôn mặt người chết trắng bạch và đã đổi sắc. Người con trai ấy vừa đỡ xác chết lên cùng với 3 người thân khác (2 người em trai người chết và 1 người quen) lột quần áo người chết ra, lúc này có 1 cái thau trắng chứa đầy rượu được nhúng khăn trắng rồi lau mặt cho người chết. Người con trai vừa tắm vừa khóc như muốn kể lể rằng Ba ơi, sao ba đi nhanh quá vậy, vừa mới ăn trưa thôi mà. Tôi cũng phụ một tay đỡ phần chân người chết, mọi người làm việc này rất trân trọng, 1 người em trai cũng khóc và nói anh Hai ơi, anh đi sớm quá vậy. Mẹ còn mà anh. Sau khi tắm rửa và mặc quần áo xong thì cánh cửa được mở ra và lúc này mọi người tụ lại rất đông, khóc lóc thảm thiết, tiếng đọc kinh và tiếng khóc quyện lẫn nhau làm cho bầu không khí thật ảm đạm. Tôi để ý thấy mọi người trong gia đình hỏi người phụ nữ là chị định chôn cất anh ngày nào? Người phụ nữa ấy đưa tay gạt nước mắt và nói các anh hỏi thằng lớn giúp em với, do nó quyết định đi chứ em chẳng biết sao bây giờ, mới ngồi ăn trưa với nhau mà giờ lại bàn chuyện chôn cất đau lòng lắm. Người con trai trưởng trả lời cháu muốn để ba đến ngày 3.11 được không? Mọi người thống nhất và sau đó bắt đầu tính đến thời gian nhập quan là 20g00 hôm nay luôn. Lúc này, một người đàn ông được biết là con rể hỏi rằng Anh Hai tính mua hòm cho Ba như thế nào? Người đàn ông ấy trả lời mua cho ba cái hòm đẹp nhất đi, bao nhiêu cũng được sau đó là nghe tiếng khóc Bên ngoài người ta dựng rạp và treo cờ tang, cờ tang màu trắng và tím treo xung quanh nhà, bàn ghế được đưa đến và bố trí đâu vào đó. Có một người đàn ông trung niên nói rằng Các chị đem việc nấu nướng qua nhà em cho nó rộng rãi, bên này chỉ để tiếp khách thôi, chứ nấu nướng nó bốc mùi lên cũng bất tiện, em dọn dẹp sân rồi,. Tôi cũng ở đó, ngồi quan sát khoảng 18g00 thấy một chiếu xe bán tải chờ chiếc hòm màu nâu đen xuống, công ty mai táng họ khiêng hòm vào trong nhà, lúc này tôi thấy có một số phụ kiện kèm theo là trà khô và đá giữ lạnh. Mọi người sửa soạn trong nhà để chuẩn bị cho việc nhập quan. 20g00 đúng thì nghi thức nhập quan bắt đầu, khoảng 200 người trong ngoài, một người đàn ông đứng tuổi bắt đầu nghi thức. Lúc này, tất cả con cháu trong gia đình quây quần xung quanh chiếc hòm, đứng theo thứ tự từ lớn đến nhỏ và nam một 23 bên nữ một bên. Người ta đọc kinh nguyện và hát thánh ca, sau đó là nghi thức làm phép xác, làm phép quan tài và làm phép khăn tang. Khăn tang được làm phép xong thì người vợ lên trao tang cho các con và những người khác, khi thực hiện mặc áo tang xong là bắt đầu việc nhập quan. Tôi thấy người con trai trưởng bợ phần đầu của xác, người con út bợ phần chân, còn những người thân khác thì hỗ trợ công việc bỏ xác vào quan tài. Sau khi nhập quan xong, công ty mai táng lấy tấm kiếng đậy lên nắp quan và để lộ nguyên người chết để mọi người có thể quan sát khi đến viếng xác. Lúc này là 21g00, tôi chào anh con trai trưởng và trở về Phú Nhuận. Ngày 01 tháng 11 năm 2017 [.] Ngày 02 tháng 11 năm 2017 [.] Ngày 03 tháng 11 năm 2017 02g30 sáng tôi có mặt tại nhà tang, lúc này bầu không gian tĩnh mịch, có khoảng 20 người đa số là thanh niên đang quây quần hút thuốc và uống trà. Tôi cùng vào ngồi với họ, họ nói anh nghiên cứu cái gì lạ quá, đám tang có gì vui đâu mà nghiên cứu, nghiên cứu cái gì ra tiền chứ cái này mất tiền, mất người buồn thấy bà. Tôi cười và trả lời họ rằng, dạ để sau này em nghiên cứu cái gì ra tiền cho cuộc sống bớt khổ. Trong câu chuyện tôi được biết những người này không có họ hàng, chủ yếu hàng xóm và người quen của gia đình, còn những người thân gia đình có lẽ quá mệt mỏi nên họ nghỉ ngơi. Khoảng 03g30 tôi thấy một người đàn ông lớn tuổi tay cầm cái lệnh bắt đầu gióng hồi lệnh, tiếng âm thanh phát ra rất lớn, gióng liên tục cũng 3 hồi 7 tiếng. Trong lúc này, chuông nhà thờ đổ liên hồi báo hiệu giờ lễ an táng. Mọi người bắt đầu quy tụ lại, khoảng 100 người đầu thắt khăn tang trắng xóa một không gian, lúc này tôi nghe thấy tiếng khóc của nhiều người, mọi đang quần quần bên quan tài, các con thì quỳ gối tay cầm nhang và người con trai trưởng đọc một bài tiễn đưa ba với những lời lẽ đậm chất đạo đức gia đình, sau khi đọc xong thì xụp lạy 3 lần. Có 1 chi tiết khiến tôi ấn tượng nhất là người con trai trưởng quay về một người phụ nữ lớn tuổi, quỳ xuống chân người phụ nữ ấy và nói, con xin thay mặt ba con lạy bà nội 1 lạy vì công ơn sinh thành dưỡng dục mà ba con chưa báo hiếu nội được. Thú thực, giây phút đó tôi thật sự xúc động, người phụ nữ lớn tuổi kia chống gậy đứng lên lại gần quan tài nhìn mặt người chết và nói “sao bỏ mẹ vậy con”. Mọi người ai cũng khóc, có lẽ vì xúc động với cảnh chia ly hoặc cũng có thể vì thân thuộc gia đình, khuôn mặt ai cũng thắm đượm buồn. Mọi người cầu nguyện và hát thánh ca vừa kết thúc, đội mai táng tiến đến đóng nắp quan tài bằng ốc vít, tiếng khóc một lần nữa lại cất lên rất buồn, ..sau khi đóng nắp quan xong, người ta làm lễ bái quan với một nhóm người thuộc công ty mai táng, tay cầm đèn cầy và nhang, kết thúc bái quan người ta tiến hành di quan ra nhà thờ để tổ chức lễ an táng. Tôi để ý thấy có chi tiết lạ, đó là khi quan tài vừa nhấc lên thì 1 thanh niên trong nhà đập bể cái đèn phía dưới quan tài thật mạnh, những mảnh vụn bắn tung tóe. Quan tài được đưa ra khỏi ngôi, tất cả mọi người xếp thành hàng dài đi từ nhà tang đến nhà 24 thờ khoảng 500m. Người ta dùng sức người để di quan, không dùng xe tang, quan tài được gánh trên đôi vai khoảng hơn 10 người của đội mai táng. Đến cửa nhà thờ, linh mục chánh xứ mặc áo tu màu đen đứng đón quan tài người chết và sau đó di chuyển lên gần với lễ đài đặt ở đó. Nhà thờ dành một không gian trang trọng cho gia đình và thân nhân ngồi ở những băng ghế đầu tiên ngay bên quan tài người chết. Sau khi đã ổn định, cả nhà thờ đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn Giuse, tín đồ chia 2 bè để đối đáp kinh với cung giọng ca vãn, bài kinh hướng về người chết là chủ yếu, tôi lắng nghe toàn bài kinh với lời như sau: Lạy ơn Thiên Chúa cao sang Chín tầng ngự trị thiên đàng liên liên Loài người mọn mạy phàm hèn Cùng chung muôn vật ở trên địa cầu. Tính thiêng soi tới khắp thâu, Suốt thông mọi sự làu làu không sai. Rất công chẳng chút riêng ai, Khắp hòa che chở chẳng ngoài kiền khôn. Chúng tôi chút phận dân con, Trộm đem tấc dạ ngụ hôn nghĩ rằng: Chúa Cha phép tắc khôn chừng, Linh thông rất mực toàn năng vô cùng. Bởi không rẽ đám hồng mông, Máy huyền tạo hóa phép thông diệu thần. Sinh nên trời đất thần nhân, Cùng chung muôn vật mọi phần tốt xinh, Chúa Con lòng rất nhân lành, Vì thương thiên hạ giáng sinh chữa đời. Để tòa cao trọng trên trời, Liều mình chịu chết thay loài người ta. Thánh Thần Thiên Chúa Ngôi Ba Uy linh hiện hóa thiết tha ôn tồn. Cho ta mạnh sức linh hồn, Đầy lòng đức nghĩa cao tôn khác vời. Ba Ngôi cũng một Chúa Trời, Một tính một phép Ba Ngôi một giềng. Trí năng một thể cao sang, Tốt lành nhân đức vẻ vang rất là. Bây giờ trộm dám suy ra, Hồn nay đã phải nghiêm tra trước tòa. Xét từ hồn mới sinh ra, Chưng nay hồn đã phải qua đời rồi. Chịu ơn Thiên Chúa vô hồi. Lo hồn hoặc lại luống côi vô tình. Ở đời những thuở bình sinh, Chẳng suy chẳng nghĩ việc lành phải chăm. Lòng lo miệng nói mình làm. Chan chan lỗi phạm sai lầm lắm thôi, 25 Linh hồn ba phép chẳng noi, Dùng về nẻo khác lôi thôi nhiều chiều, Từ bề xác thịt ngã xiêu, Đi càn lối vạy chẳng theo đàng lành, Kính dâng chẳng vẹn tâm thành. Phượng thờ chẳng trọn bậc mình sớm trưa. Gặp cơn nguy ách chẳng ngờ, Ăn năn chưa trọn ngày giờ đã qua. Than ôi! Giờ chết chẳng xa, Khí thiêng mong thở hắt ra còn gì. Bồi hồi hoi hóp đang khi, Cậy trông Chúa cả phù trì ủi an. Phương chi ngày trước lo toan, Ích riêng theo thói thế gian chiều lòng. Lỗi nay con kể cho cùng, Ai hay cứu thoát khỏi vòng hồng lô. Hỡi ơi! Lạy Chúa Giêsu, Chuộc đền ơn cả thương cho lúc này. Cậy trông Đức Mẹ nhân thay, Cầu cùng Chúa cả lỗi rày thứ cho. Lại xin Đức Thánh Angiô, Bấy lâu gìn giữ hộ phù tính linh, Hằng ngày dạy dỗ đinh ninh, Đã trông coi sóc thần hình bấy thu. Rày xin giúp đỡ cần cù, Để cho thắng được kẻ thù thiêng nay. Cùng xin đấng thánh quan thầy Vốn từng thân thiết thuở ngày bình sinh. Hằng hằng đỡ vực che bênh, Xin Người thương đoái đinh ninh thay lời. Lại xin các Thánh trên trời, Đang chầu chực Chúa ở nơi vui vầy, Vì tình thương đến hồn nay, Cầu cho chóng được thấy ngày hiển vinh. Như Lời Chúa phán rành rành. Xin thì sẽ được ơn lành đoái thương. Sấp mình trông Chúa cao sang, Ba Ngôi một tính rõ ràng uy nghi. Trời cao đất rộng cực kỳ, Trong tay quyền phép tóm về kỷ cương. Cao xa Chúa ngự thiên đàng, Thấu nghe suốt hết trần gian mọi vùng. Khuyên răn thưởng phạt rất công, Lưới trời lồng lộng ai hòng trốn thâu Chúng con cả dám khấu đầu, Hết lòng van thiết âu sầu kêu xin. Rộng tha phần phạt luyện đền, Cho linh hồn Giuse được lên thiên đàng. 26 Sống lâu hưởng phúc vinh quang, Đền xuân cõi thọ vẻ vang đời đời. Kinh văn cầu khẩn một bài, Mọi người xin hết hợp lời. Amen. Sau lời kinh này, ca đoàn bắt đầu hát thánh ca nhập lễ, linh mục mặc lễ phục màu tím tiến ra lễ bàn thờ bắt đầu chủ tọa nghi lễ an táng cầu cho người chết. Trong bài giảng lễ, ông nói đến màu nhiệm sự chết con người không thể hiểu được, nhưng hãy vững tin vào Thiên Chúa, niềm tin Công giáo là hướng đến sự phục sinh của từng cá nhân, ông giuse đi trước và chúng ta cũng sẽ như vậy. Cả buổi lễ là cầu nguyện cho người chết, phần kết thúc là nghi thức chia tay và tiễn biệt người chết của cộng đồng giáo xứ. Linh mục tiến đến quan tài đọc một số bài kinh rồi dùng một ít nước gọi là nước thánh rẩy trên nắp quan tài, sau đó dùng bình trầm hương để xông khói hương vòng quanh quan tài, lúc này ca đoàn hát bài ca tiễn biệt, tôi nghe có đoạn như sau: Xin vĩnh biệt mọi người. Tôi ra đi lần cuối... không bao giờ trở lại. Hẹn nhau trong Nước Trời. Kết thúc bài hát là 05g30, bắt đầu diễn ra cuộc đưa tang về đất thánh để chôn cất, khoảng hơn 1.000 người tham gia đưa tang. Cuộc đưa tang diễn ra rất trật tự, hai người đi một hàng, đoàn người vừa đưa tang vừa hát thánh ca, thỉnh thoảng lại nghe tiếng kèn, tiếng trống và tiếng lệnh, vì thế làm cho tính chất đưa tang như một cuộc diễu hành với cờ phướn đầy đủ. Quan tài được đặt trong xe tang và sau xe tang là gia đình người thân. Đoạn đường từ nhà thờ đến nghĩa trang chôn cất khoảng 2 km, tất cả đoàn người cùng đi nhau bộ để đưa tang, thành phần đưa tang có đầy đủ đại diện các hội đoàn và những người thân quen của gia đình nhà tang. Khi đã đến nghĩa trang, mọi người lại tề tựu chung quanh lễ đài, người ta để xe tang ngoài cổng và khiêng quan tài vào đặt ngay chính giữa lễ đài. Lúc này linh mục tiếp tục cử hành nghi thức tại phần mộ gọi là nghi thức tiễn biệt, các bài kinh cũng là lời cầu nguyện cho linh hồn người chết. Tại đây, đại diện cộng đồng giáo xứ nói lời cảm ơn người chết vì đã sống giữa cộng đồng để xây dựng giáo xứ phát triển như hôm nay. Sau khi kết thúc, linh mục nói mấy lời chia buồn với gia đình và căn dặn tiếp tục cầu nguyện cho người chết. Sau đó cả cộng đồng lại hát thánh ca, trong lúc đó tiếng lệnh gióng lên là lúc bắt đầu tiến hành di quan ra phần mộ để mai táng. Tại phần mộ, chỉ có những người thân trong gia đình thực hiện chôn cất có sự hỗ trợ của một số thanh niên trong giáo xứ, khi bỏ quan tài xuống huyệt là lúc đau buồn nhất, con cái và người thân khóc lóc thảm thiết, tiếng kèn, tiếng trống và tiếng lệnh đổ liên hồi, làm cho việc chôn cất diễn ra thật trang trọng. Sau khi đã hạ huyệt xong, thứ tự mỗi người một nắm đất ném xuống huyệt như thể tiễn biệt lần cuối. Có một chi tiết khá đặc biệt, một số người họ hàng gỡ khăn tang đang chít trên đầu bỏ xuống huyệt mộ như một hình thức xả tang, còn những người con thì vẫn mặc bộ tang phục quỳ lạy phần mộ, người ta cài cắm một số nén nhang cho các phần mộ kế bên, nghĩa trang rất rộng nên việc cài cắm cũng chỉ mang tính chất đại diện theo kiểu “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Trong lúc đó, các người con thắp hương và cắm hoa xung quanh phần mộ rồi lặng lẽ cầu nguyện và ra về và lúc này là 07g45 phút. Cánh cổng nghĩa trang khép lại và chúng tôi cũng kết thúc quá trình điền dã một đám tang. 27 PHỤ LỤC 5 CÁC CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU102 1. Nhóm các chức sắc Công giáo - Quan điểm của giáo hội Công giáo về con người như thế nào? - Lịch sử các Công đồng chung trong giáo hội Công giáo diễn ra như thế nào? - Vì sao giáo hoàng lại khai mở Công đồng Vatican II? thành phần tham dự Công đồng có gì khác biệt so với các Cồng đồng trước đó? Công giáo ở Việt Nam có được nói lên tiếng nói của mình trong các cuộc hội họp hay không? - Giáo hội Công giáo ở Việt Nam đã gặp những khó khăn gì trong tiến trình hội nhập với văn hóa Việt Nam từ khi đạo Công giáo truyền vào Việt Nam? - Thời gian nào Giáo hội Công giáo ở Việt Nam mới thực sự triển khai tinh thần của Công đồng Vatican II? - Đường hướng hoạt động của giáo hội Công giáo ở Việt Nam từ sau ngày thống nhất đất nước như thế nào? - Giáo hội Công giáo Rô ma có quy định về nghi lễ thờ cúng tổ tiên đối với các nước Á Đông nói chung và nước Việt Nam nói riêng hay không? - Nghi lễ an táng của giáo hội Công giáo ở Việt Nam có gì khác biệt với nghi lễ an táng của các nước khác hay không? - Tại sao trước đây lại cấm phương thức hỏa táng? Giáo hội xóa bỏ điều cấm đó vì những lý do gì? Hỏa táng có mâu thuẫn với tín điều xác loài người sống lại trong Công giáo hay không? - Nghi lễ vòng đời có trong giáo hội Công giáo không? Các bí tích với nghi lễ vòng đời có liên quan gì với nhau hay không? Bí tích nào là cần thiết cho giáo dân? - Vấn đề cầu cơ, gọi hồn quan điểm của giáo hội Công giáo như thế nào? - Vấn đề an tử và trợ tử giáo hội Công giáo ở Việt Nam nhìn nhận như thế nào? - Giáo hội có những quy định gì với những trường hợp tự tử ? - Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh có bị phân hóa bởi tập quán của các miền trong các nghi lễ hay không? - Tại sao bắt buộc phải chôn cất giáo dân ở nghĩa trang giáo xứ? Có được chôn cất tại đất nhà hay không? Có được chôn cất tại nghĩa trang nhân dân trong vùng hay không? 102 Căn cứ Quyết định 2 7/QĐ-ĐHTV ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Hiệu trưởng Trường Đại học Trà Vinh về việc hướng dẫn trình bày luận án tiến sĩ. Trong đó, có quy định việc phải giới hạn phần nội dung phụ lục cho cân đối với chính văn. Vì vậy, chúng tôi không có điều kiện trình bày toàn văn phỏng vấn sâu và nhật ký điền dã trong trong quá trình thực hiện luận án. Tuy nhiên, để tiện theo dõi, chúng tôi tóm tắt nội dung các câu hỏi liên quan đến phỏng vấn sâu để tiện theo dõi. 28 - Giáo hội công giáo có quy định những nội dung gì được coi là mê tín dị đoan hay không? - Quyền và nghĩa vụ của linh mục chánh xứ là gì? Những ai có quyền phạt vạ tuyệt thông một giáo dân? Vạ tuyệt thông có được xóa không? Điều kiện cần và đủ để được tha vạ tuyệt thông là gì? - Vì sao lễ an táng không được cử hành vào các ngày lễ trọng của giáo hội? Thế nào mới được coi là lễ trọng? - Hội nhập văn hóa bao gồm những lĩnh vực gì tại Việt Nam? - Một người được gọi là giáo sĩ phải thỏa mãn những điều kiện gì? Có phân biệt gì trong phẩm trật giáo sĩ không? - Vai trò của giáo hoàng ảnh hưởng như thế nào với Công giáo Việt Nam nói riêng? - Tiếng chuông báo tử thật sự có quan trọng hay không? Bài vị có được thực hiện trong tang lễ không? Cáo phó ai viết? nội dung là gì? - Tại sao cấm coi ngày giờ tổ chức lễ? có tin trùng tang không? kị tuổi hạp tuổi? - Giáo hội Công giáo có nghị quyết nào đến nghi lễ tang không? Nếu có, thì có từ khi nào và do ai ban hành? - Tại sao không gọi là thờ cúng tổ tiên mà gọi là tôn kính tổ tiên? - Vì sao tang lễ của thân phụ mẫu linh mục luôn khác biệt với giáo dân bình thường? - Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh có quy định việc tổ chức tang lễ chung của cộng đồng hay không? Nếu có thì bao gồm những nội dung gì? Và tại sao phải ban hành quy định đó? - Cơ cấu tổ chức của cộng đồng Công giáo ở thành phồ Hồ Chí Minh như thế nào? Tại sao lại có sự phân chia như vậy? - Màu tím có ý nghĩa gì với tang lễ Công giáo? Sao không phải là màu khác? - Có quy định nào về việc hát thánh ca trong đám tang hay không? Những bài thánh ca nào thì được hát trong đám tang? Có phải kiểm duyệt gì không? - Tiếng chuông nhà thờ có ý nghĩa gì? Chuông báo tử có từ khi nào? và có những quy định gì liên quan đến việc kéo chuông báo tử không? 2. Nhóm các chuyên gia tôn giáo và văn hóa - Vấn đề văn hóa và tôn giáo ở Việt Nam là gì? - Tôn giáo có phải là một hiện tượng của văn hóa hay không? - Ảnh hưởng và tác động của đạo Công giáo đối với đời sống xã hội như thế nào? - Vì sao Công giáo không được chấp nhận ở Việt Nam như đã từng chấp nhận tam giáo đồng nguyên? - Ảnh hưởng của Công giáo đến đời sống văn hóa như thế nào? - Tinh thần dung hợp của Công giáo ở Việt Nam? 29 - Con đường quan phương và phi quan phương của Công giáo ở Việt Nam như thế nào? - Đường hướng của Vatican tác động đến Công giáo ở Việt Nam như thế nào? - Vì sao Công giáo lại triển khai rầm rộ tinh thần hội nhập của Công đồng Vatican II từ năm 1980? - Công giáo ở Việt Nam có tính đa hệ hay không? - Mối quan hệ giữa Công giáo và dân tộc ở Việt Nam như thế nào? - Tín ngưỡng dân gian thể hiện trong đời sống đạo của tín đồ ở mức độ như thế nào? - Thế nào mới được coi là hội nhập với dân tộc? - Thế tục hóa với Công giáo sẽ có những biểu hiện gì? - Ở Việt Nam, Công giáo đã có những đóng góp gì cho bản sắc văn hóa Việt Nam? - Tập tục tang ma của người Việt trong lịch sử? - Tại sao ngày nay người ta lại đơn giản nghi lễ tang? 3. Nhóm tín đồ tại giáo xứ Tân Lập và giáo xứ Tân Định - Biết tin một người sắp qua đời sẽ làm gì? Ai báo tin? Nếu người sắp chết bệnh đau lâu ngày thì có đến thăm không? - Tại sao lại quan trọng việc phải mời được cha xứ đến xức dầu? sức dầu như thế có làm cho người bệnh hết bệnh không? Khi nào thì mới phải xin cha xứ ban bí tích xức dầu? - Lúc hấp hối đọc kinh gì? Và ai sẽ đọc? tại sao gia đình không được phó linh hồn cho người hấp hối? - Trong lúc hấp hối có kiêng kị điều gì không? Những người thân của người hấp hối phải làm gì trong lúc đó? - Vì sao trong lúc hấp hối không hát những bài thánh ca khác, mà chủ yếu hát về đức mẹ Maria? Đức mẹ Maria giúp gì cho người hấp hối không? - Có khi nào người hấp hối nhờ bí tích xức dầu mà tỉnh và khỏe lại không? Với những người như vậy có được coi là phép lạ không? - Chuông báo tử có cần thiết không? Nghe chuông báo tử thì sẽ làm gì? Và tại sao phải kéo chuông báo tử? việc kéo chuông báo tử có từ khi nào? Ai là người kéo chuông báo tử? - Người chết bao lâu mới được phép tắm và thay quần áo cho họ? Ai sẽ là người tắm rửa và thay quần áo cho người chết? - Có tin vào giờ tốt giờ xấu khi người thân mất không? - Tại sao lại mặc chiếc áo màu trắng tím cho người chết? quần áo bên trong không được đẹp hay sao? 30 - Người chết để bao lâu thì sẽ tiến hành khâm liệm và nhập quan? Khi nhập quan thì phải tiến hành những nghi thức nào? Ai là người thực hiện những nghi thức đó? - Tại sao lại bỏ người chết xuống đất trước khi cho vào quan tài? Có ý nghĩa như thế nào? - Vì sao nam đứng 1 bên, nữ đứng 1 bên khi nhập quan? Tại sao các người con lại khiêng thi hài người chết vào hòm? Có khi nào nữ khiêng không? - Ai sẽ là người chuẩn bị đồ tang cho gia đình? Có quy định như thế nào về mặc áo tang của cha của mẹ và của những người khác hay không? Những ai sẽ mặc đồ tang? Những ai sẽ phải chít khăn tang? Tại sao cha xứ lại rẩy nước lên đống khăn tang? Những chiếc khăn tang trên nắp quan tài kia dành cho ai? Khi nào lấy xuống? Ai sẽ là người lấy xuống? Bà con đội tang xong lễ thì làm gì với khăn tang đó? - Vì sao cha xứ lại quàng khăn tang lên vai như vậy? linh mục nào có quan hệ với người chết cũng làm như vậy hay sao? Bố mẹ của linh mục chết thì linh mục cũng để tang như vậy hay sao? - Tại sao lại mặc áo đen và chít khăn tang như vậy? lý do là gì? Có học tập theo ai hay không? Hay thích thì làm vậy thôi? Cha xứ có ý kiến gì không? Bao lâu thì xả tang? - Tại sao lại chít khăn tang cho cây trong nhà như vậy? quệt vôi lên kiếng trong nhà và cửa như thế này để làm gì? Có kiêng gì không? ở đây đám nào cũng làm như vậy hay sao? - Vì sao quan tài người chết luôn để đầu quay ra ngoài cửa chính? Có quy định gì không? Có trường hợp nào quay mặt ra cửa chính không? - Tại sao có cái niêu đất đốt lửa cháy ở phía dưới quan tài? Nếu ngọn lửa tắt đi có sao không? Khi đưa người chết đi chôn thì làm gì với cái niêu đó? - Có tin người chết linh thiêng không? vì sao lại tin? Đã có trường hợp nào người chết làm hại ai chưa? Người chết có giúp gì cho mình không? chẳng hạn trúng số? - Vì sao thánh an táng là quan trọng nhất của một đám tang? Có trường hợp nào bị cấm làm lễ chưa? Nếu có thì lý do gì? - Nhà đám có được thuê ban kèn đến thổi không? thổi bao lâu? Thổi những bài gì? Và trong quá trình biểu diễn như vậy có nghi lễ gì diễn ra không? ngày đưa tang có ban kèn đi cùng không? - Việc thắp nhang cho người chết có quy định mấy cây không? hay muốn thắp bao nhiêu tùy ý? Tại sao anh con trai kia lại phải cúi đầu với mọi người thắp nhang như vậy? Có vái lạy không? giáo hội có cấm không? - Cây thập giá này để làm gì? ai làm nó? Tại sao nó màu đen? Có khi nào màu khác không? ai sẽ cầm thập giá đó? - Trước khi tiến hành di quan thì làm gì? có đọc bài điếu văn hay không? những người thân sẽ làm gì trong lúc chuẩn bị di quan? - Động quan là gì? lấy cái gì động? động bao nhiêu lần? ai sẽ là người đồng quan? 31 - Ai sẽ chuẩn bị huyệt? có phải mua huyệt hay không? có được chọn huyệt không? - Việc đưa tang có phải xin phép ai không? - Vì sao gọi nghĩa trang là đất thánh? Đất thánh khác đất nhà như thế nào? ai được chôn trong đất thánh? - Việc thiêu xác như vậy diễn ra từ khi nào? thiêu xong bao lâu sẽ đem đến nhà chờ phục sinh? Giữa chôn cất và hỏa thiêu thì sẽ chọn hình thức nào? - Điều kiện để được quàn tro cốt ở nhà chờ phục sinh? Có quy định gì không? bao lâu thì sẽ dọn dẹp một lần? - Ca đoàn hát trong thời gian bao lâu? Có đến nhà đám để hát không? hay chỉ hát ở nhà thờ và chỗ hỏa táng thôi? Điều kiện để được ca đoàn hát là gì? - Sau khi chôn cất xong gia đình sẽ làm gì tiếp cho người chết? Đọc kinh bao lâu? Đọc những kinh gì? - Có làm giỗ không? giỗ tổ chức như thế nào? thành phần tham dự đám giỗ là ai? - Có quy định gì trong việc lập bàn thờ người chết không? bàn thờ thường có những gì? có được trang trí gì không? - Bao lâu thì đi thăm mộ? ai sẽ thăm mộ? Xây mộ khi nào? có quy định gì không? - Có cải táng không? Khi nào thì phải cải táng? Có kiêng cữ gì không? 4. Nhóm tín đồ Công giáo là người ngoại quốc - Lễ an táng ở Việt Nam thấy như thế nào? - Tại sao lại đội khăn trắng đó? Anh hiểu ý nghĩa của nó không? - Nghi lễ dành cho người chết ở Việt Nam có gì khác so với đất nước của anh? - Vì sao lại dự lễ này? 5. Nhóm người ngoài Công giáo - Suy nghĩ gì về các nghi lễ tang của Công giáo? Có điểm nào giống với tôn giáo mình không? - Có gặp khó khăn nào từ phía gia đình Công giáo khi đến viếng tang không? - Đạo Tin lành có cử hành các nghi lễ tang giống như người Công giáo không? - Đạo Tin lành có cấm tín đồ đến viếng tang người ngoài đạo không? Đến viếng tang người ngoại đạo có được lễ bái và thắp nhang không? Vì sao? - Suy nghĩ gì khi người Công giáo không sắm lễ như giấy tiền vàng bạc cho người chết? Không cúng cơm nước cho người chết? Liệu như vậy người chết có được no đủ không? 6. Nhóm quản lý nhà nước - Phương thức hỏa táng có phải là giải pháp tốt cho xã hội không? Địa phương có chính sách gì cho việc hỏa táng không? 32 - Tang lễ Công giáo có được coi là thực hiện nếp sống văn minh trong việc tang chưa? PHỤ LỤC 6 BẢN ĐỒ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM 33 Nguồn: Ủy ban mục vụ truyền thông xã hội - Hội đồng giám mục Việt Nam 34 PHỤ LỤC 7 BẢN ĐỒ TỔNG GIÁO PHẬN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguồn: https://tgpsaigon.net/ Ban biên tập Website Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15/12/2019 Nhà thờ giáo xứ Tân Định - Quận 3 Nhà thờ giáo xứ Tân Lập - Quận 2 Nguồn: Tạ Duy Linh, chụp tháng 01/2020 35 PHỤ LỤC 8 DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH MINH HỌA Hình 3.1: Nghi thức phó linh hồn Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 7/2017 Hình 3.2: Nghi thức mộc dục và tẩm liệm Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 8/2017 Hình 3.3: Nghi thức nhập quan 36 Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 9/2017 Hình 3.4: Nghi thức làm phép khăn tang và phát tang Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 3/2018, chụp tại Tòa tổng giám mục, quận 3, TP. HCM Hình 3.5: Hình thức chịu tang theo vai vế truyền thống và tang phục Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 4/2018 Hình 3.6: Quàn thi hài Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 5/2018, 37 Hình 3.7: Nến phục sinh và 7 cây đèn (thất tinh) Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 6/2018, Hình 3.8: Đồng đạo viếng xác và cầu nguyện cho người chết Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 8/2018 Hình 3.9: Nghi thức dập mạch (đóng nắp quan tài) và nghi thức hạ huyệt 38 Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 9/2018 Hình 3.10: Nghi lễ báo hiếu trước di quan Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 9/2018 Hình 3.11: Cờ tang và đoàn di quan đến nhà thờ cử hành thánh lễ an táng Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 10/2018 Hình 3.11: Kéo chuông báo tử 39 Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 10/2018 Hình 3.12: Bản tin giáo xứ Tân Định Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 7/2020, chụp tại lại từ tờ tin và trang website của giáo xứ Tân Định, quận 3, TP. HCM Hình 3.13: Thánh lễ an táng thân mẫu linh mục chánh xứ Tân Định Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 11/2018, Hình 3.14: Xông hương trong thánh lễ an táng Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 11/2018, 40 Hình 3.15: Linh mục vái hương phong tục người Việt trong tang thức Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 01/2019, Hình 3.16: Thánh lễ an táng: nghi thức phó dâng và từ biệt tại nhà thờ Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 3/2019, Hình 3.17: Nghi thức đưa tang đến nghĩa trang Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 4/2019, 41 Hình 3.18: Thánh lễ an táng tại nhà thờ giáo xứ Tân Định Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 5/2019, Hình 3.19: Nghĩa trang (đất thánh) giáo xứ Tân Lập Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 8/2019, Hình 3.20: Nghi lễ cuối cùng trước khi chôn cất và hỏa táng tín đồ Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 9/2019 42 Hình 3.21: Hạ huyệt chôn cất và hỏa táng Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 10/2019 Hình 3.22. Những nghi lễ sau tang (lễ giỗ) Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 11/2019 43 Hình 3.23. Tâm linh sùng kính dân gian trong tang thức Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 12/2019 Hình 3.24. Thắp hương và vái lạy theo tập quán truyền thống Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 02/2019 44 Hình 3.25. Tính dung hợp trong nghi thức làm phép khăn tang và phát tang Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 09/2019, Bàn thờ bài vị tổ tiên Bàn thờ hình ảnh tổ tiên Hình 3.26. Bàn thờ tổ tiên trong gia đình tín đồ Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 02/2019 Hình 4.1: Hình thức cáo phó trong tang thức Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 4/2017 và tháng 3/2019 45 Hình 4.2: Tấm phướn trong tang lễ Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 4/2019 Hình 4.3: Nghi thức bái quan trong tang thức Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 06/2019 Hình 4.4: Động lệnh di quan Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 5/2019 46 Hình 4.5: Thánh giá người chết Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 12/2017, Hình 4.6: Nơi quàn tro cốt (nhà chờ Phục sinh) tại nhà thờ Tân Định Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 12/2019 47 Hình 4.7: Nghi thức thăm bệnh và xức dầu bệnh nhân Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 3/2017 Hình 4.8: Cha mẹ đỡ đầu trong ngày rửa tội trẻ em và người lớn Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 12/2019 Hình 4.9: Gia đình linh tông Công giáo Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 11/2019 48 Các nhà thờ Công giáo ở TP.HCM đổ chuông báo tử để tưởng nhớ Cha tinh thần Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc Cộng đồng tín đồ và chức sắc chịu tang Cha tinh thần Tổng giám mục Bùi Văn Đọc Hồng y Phạm Minh Mẫn chịu tang Cha tinh thần Tổng giám mục Bùi Văn Đọc Đoàn thể Công giáo tại chịu tang Tổng giám mục Bùi Văn Đọc Hình 4.10: Các nhà thờ đổ chuông báo tử và chịu tang người cha tinh thần Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 3/2018 49 Hình 4.11: Lễ dâng hương tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 3/2017 Hình 4.12: Tổ chức lễ giỗ ở nhà thờ và quà tặng trong ngày giỗ Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 10/2019 Hình 4.13: Tín đồ Công giáo thực hành đạo hiếu theo truyền thống người Việt Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 01/2020 50 Hình 4.14: Tưởng niệm người chết vào mùng 2 tết nguyên đán tại nghĩa trang Nguồn: Tạ Duy Linh, tháng 01/2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tang_thuc_cua_nguoi_viet_cong_giao_o_thanh_pho_ho_ch.pdf
  • pdfNHUNG DIEM MOI VE MAT HOC THUAT_BAN DICH.pdf
  • pdfNHUNG DIEM MOI VE MAT HOC THUAT_TIENG VIET.pdf
  • pdfTOM TAT LUAN AN _TA DUY LINH_ MA SO 101011602.pdf
  • pdfTOM TAT LUAN AN_TA DUY LINH_BAN DICH.pdf
Tài liệu liên quan