BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ PHƯƠNG THU
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)
HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
ĐINH THỊ PHƯƠNG THU
TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành Văn học Việt
256 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Lã Nhâm Thìn
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đinh Thị Phương Thu
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy GS.TS. Lã Nhâm Thìn đã luôn tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo rất nhiều để tôi hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin cảm ơn những nhận xét, góp ý của các nhà khoa học, của các thầy cô trong Bộ môn Văn học trung đại Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập và thực hiện luận án.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè cũng như các thầy cô, đồng nghiệp, Bộ môn Khoa học Xã hội, Ban Giám hiệu trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội nơi tôi đang công tác vì đã luôn động viên và ủng hộ tôi để tôi hoàn thành công trình này.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đinh Thị Phương Thu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Tư tưởng thân dân là một tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hướng thân dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tư tưởng “Thân dân”, “Lấy dân làm gốc” cũng là một bài học chính trị và lời dặn dò quý báu của ông cha ta thể hiện ở các triều đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc đồng thời không ngừng được kế thừa, phát triển và biến đổi phù hợp với thực tiễn đất nước ta. Tư tưởng thân dân chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến đường lối chính trị của mỗi triều đại, mỗi chế độ, trong qua khứ cũng như trong hiện tại.
Tư tưởng thân dân được phản ánh trong văn học trở thành nội dung lớn của văn học Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Nền văn học Việt Nam, do hoàn lịch sử đặc biệt, đã luôn gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nước, với số phận con người Việt Nam. Từng bước đi của lịch sử dân tộc, từng niềm vui, nỗi buồn đau của đất nước, từng giọt nước mắt hay nụ cười trong mỗi số phận nhân dân,... đều trở thành cảm hứng sáng tác của nhiều tác giả. Vận mệnh dân tộc và vận mệnh nhân dân là những nhân tố được quan tâm phản ánh trong sáng tác văn chương. Ở từng thời kì lịch sử, nước và dân luôn gắn bó mật thiết với nhau: có dân, dựng nước, giữ nước thắng lợi, không dân nước suy, nước mất; dân là công dân trong quan hệ dân nước, dân còn là con người trong quan hệ dân - cộng đồng người. Tư tưởng thân dân do đó là đạo lí và cũng là thành phần của lí tưởng thẩm mĩ dân tộc - một trong những thành phần cao đẹp có vị trí lớn đối với văn học muôn đời.
Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam có những đặc điểm riêng so với văn học hiện đại. Trải qua quá trình phát triển thăng trầm của các triều đại phong kiến, các thế hệ Nho sĩ trí thức trung đại đã tiếp thu nguồn ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho, Phật, Đạo đồng thời kết hợp với tinh thần dân tộc, tinh thần thời đại để đem đến cho văn học những màu sắc phong phú của tư tưởng thân dân. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử tư tưởng Việt Nam, văn học Việt Nam. Tìm hiểu tư tưởng thân dân góp phần tìm hiểu sâu hơn những vấn đề về tác giả, tác phẩm, những qui luật phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
Với những ý nghĩa đó, luận án lựa chọn đề tài Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Đề tài của chúng tôi vừa kế thừa thành quả từ những công trình đi trước vừa hứa hẹn mang đến một cái nhìn hệ thống về đặc điểm diện mạo, sự tiếp nối và mở rộng, sự tiếp nhận tinh hoa văn hóa nước ngoài và yếu tố nội sinh trong tư tưởng thân dân ở các thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.
1.2. Về thực tiễn
Văn học trung đại được giảng dạy với số lượng lớn ở nhà trường từ phổ thông đến đại học, đặc biệt là nhóm tác phẩm văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII liên quan đến vấn đề tư tưởng thân dân. Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng vào thực tiễn dạy - học và tiếp cận văn bản tác phẩm văn học trung đại.
Với xã hội, người dân là vấn đề lớn của lịch sử, đồng thời là vấn đề quan trọng được quan tâm trong đời sống của đất nước, đời sống xã hội hiện nay. Đề tài từ góc độ văn học góp phần lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhân dân vừa là chủ thể lịch sử, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, bất cứ một giai cấp cầm quyền nào muốn duy trì được sự ổn định của mình thì phải gắn bó với dân, phải có chính sách dưỡng dân, giáo dân phù hợp. Điều này đã được chứng minh qua hàng ngàn năm lịch sử, nếu được dân tin, dân theo, thì chính quyền sẽ bền vững, quốc gia được củng cố, hưng thịnh.
Quan điểm tích cực của Nho gia “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” luôn có giá trị đối với mọi thời đại. Hiện nay, quan điểm “Lấy dân làm gốc” càng được cụ thể hóa trong đời sống xã hội thành những phương châm, mục tiêu có ý nghĩa thực tiễn, tiến bộ như “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “dân hưởng”. Điều đó cho thấy, việc đánh giá đúng đắn vị trí và vai trò của dân trong lịch sử có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn vong của mỗi hình thái xã hội trong lịch sử, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Với những lý do trên, đề tài có tính cần thiết, thời sự, khoa học và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nghiên cứu là làm nổi bật tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII với sự vận động mang tính lịch sử qua các giai đoạn với những khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, luận án tập trung phân tích, lý giải căn rễ của tư tưởng thân dân, những nội dung cơ bản của tư tưởng thân dân, xác định đặc trưng cũng như khả năng tiếp nối, phát triển trong quá trình vận động của tư tưởng này qua các giai đoạn. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam gợi những bài học về tư tưởng thân dân trong thời hiện đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án tập trung vào những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu:
- Khái niệm dân và tư tưởng thân dân. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong tác phẩm văn học.
- Nghiên cứu những nội dung biểu hiện của tư tưởng thân dân trong từng giai đoạn văn học với các khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Đánh giá về đặc điểm của tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn X - XVII, sự vận động phát triển của tư tưởng thân dân trong tiến trình lịch sử.
- Nghiên cứu những phương diện nghệ thuật thể hiện tư tưởng thân dân khi cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tìm hiểu tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam theo giai đoạn văn học với những khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu của văn học trung đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Ở bốn thế kỷ đầu, chủ yếu tập trung khảo sát các tác giả thời Lí - Trần (từ sáng tác của các thiền sư, vua chúa, tướng lĩnh cho tới sáng tác của các nhà nho, trong đó đi sâu vào hai tác giả Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh). Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỷ XV thể hiện qua sáng tác của các nhà văn thời kì khởi nghĩa Lam Sơn, thời Hồng Đức, trong đó tập trung vào hai tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông. Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỷ XVI - XVII biểu hiện ở các tác phẩm thơ, phú thời Lê trung hưng, thời Mạc, tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm; Phùng Khắc Khoan; hai tác phẩm khuyết danh Thiên Nam minh giám, Thiên Nam ngữ lục,...
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Tác giả luận án sẽ khảo sát tập trung những sáng tác của các tác giả thể hiện tư tưởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Các nguồn tư liệu chính mà chúng tôi lấy làm căn cứ để sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: Thơ văn Lí - Trần [12,13,16]; Tổng tập văn học Việt Nam [116,134]; Nguyễn Trãi toàn tập [94]; Nguyễn Trãi toàn tập. Tân biên [95,96,97]; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông [52]; Hồng Đức quốc âm thi tập [42]; Tuyển tập thơ phú thời Mạc [184]; Toàn Việt thi lục [45]; Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (Tổng tập) [164]; Phùng Khắc Khoan, Hợp tuyển thơ văn [129]; Thiên Nam ngữ lục - Diễn ca lịch sử [117]; Thiên Nam minh giám [47]. Ngoài văn học viết luận án còn khảo sát thêm cả văn học dân gian.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp lịch sử
Sự phát triển của tư tưởng thân dân là hiện tượng mang tính lịch sử. Để tìm hiểu thấu đáo tư tưởng thân dân trong văn học nhiều thế kỉ, chúng tôi vận dụng phương pháp lịch sử. Đặt văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII trong bối cảnh chính trị, lịch sử Việt Nam thời trung đại để tìm hiểu cách nhìn, cách đánh giá của các tác giả qua những tác phẩm tiêu biểu đề cập đến tư tưởng thân dân. Phương pháp lịch sử cũng cho phép chúng tôi nghiên cứu đối tượng trong sự phát triển mang tính lịch sử. Vận dụng phương pháp lịch sử, luận án nghiên cứu tư tưởng thân dân phát triển qua các giai đoạn với đặc điểm riêng của từng giai đoạn. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV là giai đoạn đầu tiên định hình tư tưởng thân dân với thành tựu chủ yếu tập trung ở văn học thời Lí - Trần. Tiếp đến, tư tưởng thân dân phát triển sang thế kỉ XV với khuynh hướng thể hiện mới, đầu thế kỉ tư tưởng thân dân mang âm hưởng hào hùng với những tác giả thời khởi nghĩa Lam Sơn, tiêu biểu là Nguyễn Trãi. Nửa sau thế kỉ XV, tư tưởng thân dân gắn với âm hưởng ngợi ca về triều đại hưng thịnh Lê Thánh Tông. Khi lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những bước chuyển mới ở thế kỉ XVI - XVII theo chiều hướng đi xuống, tư tưởng thân dân vì thế cũng chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang phê phán hiện thực xã hội gắn liền với cách nhìn, quan niệm của nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Tư tưởng thân dân trong văn học có mối quan hệ tới lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hóa, triết học... Vì thế, để đưa ra được những đánh giá có tính tổng hợp, chúng tôi cần đến phương pháp nghiên cứu liên ngành. Những tri thức này rất có ý nghĩa khi chúng tôi tìm hiểu và lý giải nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng, điểm khác biệt về tư tưởng thân dân trong từng giai đoạn văn học hay ở các tác giả, khuynh hướng văn học.
4.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu về tư tưởng thân dân. Trong luận án, người viết sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu lịch sử với văn học; so sánh các giai đoạn văn học; so sánh các tác gia văn học và chủ đề, thể loại văn học. Từ đó, chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của tư tưởng thân dân qua các giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.
4.4. Phương pháp hệ thống
Luận án vận dụng phương pháp hệ thống để xác định tư tưởng thân dân: thứ nhất, xem xét vận động của tư tưởng thân dân không chỉ qua văn học mà qua các yếu tố khác như triết học, lịch sử, văn hóa, từ đó thấy tư tưởng thân dân là vấn đề có tính lịch sử chịu chi phối, tác động của nhiều yếu tố khác nhau; thứ hai là nghiên cứu hệ thống hóa các tác giả, tác phẩm, thể loại - quá trình tiếp thu, tiếp nối, tương tác lẫn nhau và mở rộng tư tưởng thân dân ở các bình diện. Với quan điểm hệ thống, hướng nghiên cứu của luận án là khai thác nội dung tư tưởng và khi cần có thể chú ý tới khía cạnh thẩm mỹ, hình ảnh, biểu tượng, hệ thống, điển tích, điển cố, văn liệu liên quan đến các cấp độ Dân - Thân dân và “Tư tưởng thân dân”.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án được hoàn thành sẽ có những đóng góp sau:
- Xác lập và phân tích những tiền đề của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII
- Làm sáng rõ sự vận động mang tính lịch sử của tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ thứ X - hết thế kỉ XVII, sự kế thừa, tiếp nối và phát triển của tư tưởng thân dân qua các giai đoạn thế kỉ X - thế kỉ XIV; thế kỉ XV; thế kỉ XVI - thế kỉ XVII. Phân tích nội dung tư tưởng thân dân ở từng giai đoạn, ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Từ tư tưởng thân dân, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề mang tính quy luật trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Luận án là tài liệu tham khảo có ý nghĩa và thiết thực đối với công việc nghiên cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam, đồng thời có thể hữu ích với những người làm công tác xã hội quan tâm tới tư tưởng thân dân.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề liên quan đến đề tài
Chương 2: Những tiền đề của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII
Chương 3: Tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Chương 4: Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ XV
Chương 5: Tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tư tưởng thân dân
1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân
Dân là một khái niệm rất cơ bản trong lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội. Chữ dân民 trong lịch sử Hán ngữ đã có một quá trình chuyển biến lâu dài qua các thời kỳ. Theo giáp cốt văn: chữ này phần trên là hình một con mắt, phần dưới là một vật nhọn như kim đâm mù mắt. Dân là người bị đâm mù một mắt, nghi là gốc từ chữ Manh盲cũng nghĩa là người mù. Vì sao Dân lại mù một mắt ? Họ hoặc là kẻ có tội, hoặc là tù binh chiến tranh, hoặc là nô lệ của giai cấp thống trị. Bọn thống trị chọc mù một mắt đề phòng họ bỏ trốn. Theo Quách Mạt Nhược, thời cổ, chữ Dân 民 và chữ Thần 臣đều là con mắt nhưng hình tượng Thần là con mắt đứng, còn hình tượng chữ Dân là con mắt nằm ngang bị đâm thủng (vì người cổ xưa hết sức coi trọng mắt). Mắt đứng (thần) biểu thị sự cúi đầu nghe lệnh, thần phục; còn mắt ngang biểu thị sự chống lại mệnh lệnh, nên phải chọc mù mắt, Sang thời Tây Chu, chữ Dân chuyển nghĩa thành người dân bị thống trị, có nghĩa “nhân dân”, “bách tính”. Nghĩa Dân bị mù một mắt dần mất đi.
Trong các sách từ điển tiếng Việt, cách nêu khái niệm dân của mỗi cuốn từ điển có sự khác nhau. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (1942) nghĩa của từ dân được chiết tự như sau: dân có nghĩa là người, dân, loài người thuộc ở dưới quyền chính trị gọi là dân như: quốc dân - dân nước. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 1976) có nêu khái niệm dân với năm nghĩa như sau: Từ dùng để gọi chung người trong một nước: như Dân Việt Nam; Quần chúng đông đảo gồm có: công nhân, nông dân, nhân dân lao động trong một nước có bóc lột; Quần chúng đông đảo nói chung; Công dân trong một địa phương: Dân Hà Nội; Những người thuộc một tầng lớp xã hội;
Trong Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên - 1994) nêu khái niệm dân với ba nghĩa: Người sống trong một khu vực địa lý hành chính, trong quan hệ với khu vực ấy (Ví dụ: Dân giàu nước mạnh; Làm dân một nước độc lập; Thành phố đông dân); Người dân thuộc tầng lớp đông đảo nhất, trong quan hệ với bộ phận cầm quyền, bộ phận lãnh đạo hoặc quân đội. Ví dụ: Người dân thường; tình quân dân; Người cùng nghề nghiệp, hoàn cảnh... làm thành một lớp người riêng (Ví dụ: Dân thợ, dân buôn, dân ngụ cư).
Để làm rõ khái niệm dân một cách thấu đáo hơn, chúng tôi trở về với quan niệm của Nho giáo. Trong quan niệm của các nhà nho, dân bao gồm nhiều giai tầng khác nhau, và về cơ bản, họ có cùng địa vị kinh tế, vai trò xã hội, là bộ phận nhiều nhất trong dân cư, đối lập với tầng lớp khác - tầng lớp trị dân (gồm vua, quan). Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử luôn khẳng định địa vị xã hội của người dân là những người nô lệ, bị trị, họ luôn chịu sự sai khiến, cai trị của tầng lớp thống trị. "Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi" (Luận ngữ, Thái Bá) - (Dân, có thể khiến họ đi theo con đường của chúng ta, chứ không thể khiến họ biết đó là vì sao) [27, tr.56] là mang ý nghĩa như vậy.
Dân có khi được gọi là kẻ “lao lực”, tức là những người lao động chân tay, lực lượng sản xuất ra của cải để duy trì tồn tại của xã hội, của mỗi người và của cả tầng lớp thống trị. Có khi là kẻ “thứ dân”, “hạ dân”, “dã dân” - những người dân lao động thuộc tứ dân bách tính bình thường trong xã hội. Tuy nhiên, cũng trong quan điểm của Mạnh Tử, ông lại gọi người bị điều khiển, bị sai khiến, dân là “lê dân” (dân đen), “xích tử” (con đỏ) để nói về người dân nghèo khổ. Khái niệm dân dần được mở rộng hơn để chỉ bề tôi, tức thần dân trong thiên hạ, đối lập với nhà vua. Họ còn được gọi là “bá tính”, “thiên hạ”, tức là tất muôn dân, trăm họ sống trong cõi trời đất này: “Chư hầu chi bảo tam: Thổ địa, nhân dân, chính sự. Bảo châu ngọc giả, ương tất cập thân” (Một vị vua chư hầu nên quý trọng ba việc này: Thổ địa, nhân dân và chính sự. Nếu chê ba điều ấy mà quý trọng châu ngọc, ắt thân mình phải vướng lấy tai ương” [27,tr.270].
Từ khái niệm dân theo nghĩa gốc Hán và Nho giáo, ta thấy chữ dân và Nhân Dân ngày nay đã được mở rộng nội hàm khái niệm, tương đương với chữ People trong tiếng Anh, dùng để chỉ một tập hợp những người sống trong một nước. Nó là số nhiều không xác định của chữ Person (cá nhân). Bản Hiến pháp Mỹ mở đầu là 3 từ “We The People”. Dù People vẫn là khái niệm chưa rõ ràng, song 3 chữ đặt ở vị trí đặc biệt này cho thấy một hàm ý trang trọng, đề cao.
Ở thời kì hiện đại, dân là một khái niệm có tính chất chính trị, không phải là thực thể. Dân bao gồm mọi tầng lớp trong xã hội, đối tượng chiếm số đông nhất vẫn là tầng lớp nhân dân lao động - những người tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống xã hội, họ có sức mạnh to lớn trong mọi lĩnh vực của quốc gia dân tộc. Tư tưởng về dân cũng có bước tiến mới gắn liền với tư tưởng dân chủ; phương châm xây dựng một xã hội công bằng, đất nước do dân làm chủ, vì dân, lấy dân làm gốc. Tư tưởng về dân gắn liền với việc duy trì và bảo vệ Tổ quốc, gắn bó và hòa quyện với tư tưởng yêu nước, với thực tiễn của công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển quốc gia về mọi mặt.
Từ những điều đã trình bày ở trên, tác giả luận án xin rút ra mấy điểm chung về khái niệm dân (ở đây là trong thời trung đại, bởi tư tưởng “thân dân” mà luận án nghiên cứu gắn với thời này) với ý nghĩa khoa học sau: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại khi xã hội có giai cấp, có nhà nước, dùng để chỉ những người lao động bình thường, đông đảo, không có chức quyền và tương phản với những người cầm quyền ở các địa bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh được các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, tuy không còn bị xem là những công cụ lao động biết nói nhưng dân vẫn nằm trong điạ vị phụ thuộc mà chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Nghĩa đen của từ này chỉ người bề tôi, phải chịu sự khuất phục, chịu sự chi phối và phụ thuộc của nhà vua và dĩ nhiên, theo trật tự xã hội, thần dân vẫn phải xếp dưới tầng lớp quan lại. Điều này không phải ở phương Đông mà dưới chế độ phong kiến ở các nước phương Tây, tình hình này cũng diễn ra tương tự. Thần dân, tiếng Pháp là Sujets (nghĩa đen là thuộc, là phải phục tùng), tiếng Anh là Subjet (là khuất phục, là bắt phải chịu). Theo tiếng Nga là люди (nghĩa là chịu, bị, ngả theo). Trong xã hội hiện đại, vai trò của người dân mới được nhận thức đầy đủ hơn. Người dân được đặt trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với nhà nước. Người dân có quyền bầu cử, bầu ra những người xứng đáng vào bộ máy nhà nước, có thể đại diện cho quyền lợi của mình thì khi đó dân mới có tư cách là công dân.
1.1.2. Giới thuyết khái niệm tư tưởng thân dân
Xuyên suốt hệ thống tư tưởng quan điểm trong các sách kinh điển của nho gia ta thấy có một điểm chung là đề cao ý nghĩa, vai trò quan trọng của dân, dân là thần dân nên cần được chăm lo, dạy dỗ. Điều đó tạo nên giá trị nhân văn của tư tưởng thân dân. Các nhà nho quan niệm dân là những người “lao lực”, họ là lực lượng to lớn trong xã hội, lực lượng chủ yếu sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy cho nên, người cầm quyền phải quan tâm đến đời sống vật chất, đến những nhu cầu tối thiểu, thiết thực, trực tiếp của người dân. Khổng Tử khuyên nhà cầm quyền phải giúp cho dân làm giàu, muốn cai trị dân nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện này: “Túc thực, túc bình, dân tín chi hỷ” (Lương thực cho đủ để nuôi dân, binh lực cho mạnh để bảo vệ dân, lòng tin cậy của dân đối với mình) (Luận ngữ) [27,tr.184]. Trong ba điều ấy Khổng Tử xếp lòng tin là điều quyết định, rồi đến lương thực và binh lực.
Nho giáo đề cao dân trong quan niệm coi dân còn là gốc nước, là nền tảng, là cơ sở của nền chính trị: “Dĩ dân vi bản” - (Khổng Tử), “dân vi bang bản” (Mạnh Tử). “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là đáng quý nhất, xã tắc sau dân, vua xem nhẹ hơn (dân và xã tắc) [27,tr.262]. Đây là tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là đối với một xã hội mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị của các triều vua. Cũng từ quan niệm này, các Nho gia đều cho rằng, lòng tin của dân, sự ủng hộ của dân quyết định sự thịnh, suy, tồn vong của một triều đại hay nền chính sự. Mạnh Tử đã nêu lên một tư tưởng rất tiến bộ và đi trước cả thời đại ông: “Kiệt, Trụ chi thất thiên hạ giã, thất kỳ dân giã. Thất kỳ dân giã, thất kỳ tâm giã. Đắc thiên hạ hữu đạo: Đắc kỳ dân, tư đắc thiên hạ hỹ. Đắc kỳ dân hữu đạo: Đắc kỳ tâm, tư đắc dân hỹ. Đắc kỳ tâm hữu đạo: Sở dục, dữ chi tụ chi: Sở ố, vật thi nhĩ dã.” (Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử, ấy vì mất dân chúng. Mất dân chúng, ấy vì mất lòng dân. Muốn được thiên hạ, có một phương pháp nên theo: Hễ được lòng dân, tự nhiên sẽ được dân chúng. Muốn được dân chúng, có một phương pháp nên theo: dân muốn việc gì nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ; dân ghét việc gì nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ” (Mạnh Tử) [27, tr.18]. Tuân Tử lấy hình ảnh ẩn dụ “thuyền” và “nước” để nêu bật sức mạnh của nước, cũng là khẳng định vai trò to lớn của dân trong việc ổn định xã hội: “Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tái chu, thủy tắc phúc chu” (Vua là thuyền, dân là nước; nước có thể chở thuyền, nước có thể lật thuyền” (Tuân Tử) [88, tr.121].
Trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc cổ đại, có hai khái niệm “thân dân” và “tân dân”, trong đó chữ tân có khi là viết tắt của chữ thân. “Tân dân” là giác ngộ dân chúng để dân chúng đổi mới; “Thân dân” là làm cho dân giàu có, an thuần. Vấn đề làm cho dân giàu có và vấn đề giáo dục dạy dỗ dân chúng là hai vấn đề song song, Thượng Thư, Kinh Thi, Quản tử, Luận ngữ, Đổng Trọng Thư đề cao “tiên phú hậu giáo” (trước làm cho dân giàu, sau giáo dục dân, đi từ phú đến giáo, với các khái niệm dưỡng dân, khang dân, dụ dân, bảo dân, thứ chi - phú chi - giáo chi); Giản Nghị nhấn mạnh trước giáo dục, sau làm cho dân giàu. Chu Hy nhấn mạnh “nội thánh” (bậc đế vương phải gương mẫu đạo đức, “tu kỉ” để giáo dục dân chúng, minh minh đức), còn Vương Dương Minh chú ý đến “ngoại vương” (bậc đế vương phải “an bách tính”). Khổng Tử nêu rõ các phép tắc của người cai trị thiên hạ, trong đó ông đặc biệt nhấn mạnh lòng nhân đức, từ ái đối với dân “Tử thứ dân, tắc bá tính khuyến” (Mình thương dân chúng như con, thì bá tính rủ nhau phục tùng theo mệnh lệnh mình). (Luận ngữ) [27, tr. 252]. Mạnh Tử tiếp nối tư tưởng của Khổng Tử, ông giải thích rõ hơn chính sách giáo dân: “Thiện chính bất như thiện giáo chi đắc dân giã. Thiện chính, dân úy chi; thiện giáo, dân ái chi. Thiện chính, đắc dân tài; thiện giáo đắc dân tâm” (Lời nói có nhân làm cho người ta cảm động chẳng sâu xa bằng danh tiếng có nhân. Cai trị giỏi thâu hoạch dân chúng chẳng bằng giáo hóa hay. Cai trị giỏi khiến dân sợ sệt; giáo hóa hay làm cho dân yêu mến. Cai trị giỏi làm cho dân được giàu có no đủ; giáo hóa hay thì được lòng dân) [27, tr.224]. Tư tưởng thân dân đó gắn với chủ nghĩa nhân đạo và có nhiều điểm tiến bộ so với thời đại.
Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm tư tưởng thân dân, luận án đề xuất nội hàm cơ bản của khái niệm tư tưởng thân dân như sau: Tư tưởng thân dân được hiểu là quan niệm, nhận thức về dân, cách ứng xử với dân theo hướng: gần gũi, gắn bó với dân; thương dân, đề cao sức mạnh của dân (trọng dân), ơn dân. Tính chất phức tạp, nhiều chiều trong khái niệm tư tưởng thân dân còn thể hiện ở việc xác định chủ thể của tư tưởng thân dân. Đây là tư tưởng của giai cấp thống chí và của cả các sĩ phu, nho sĩ trí thức. Tầng lớp thống trị dùng tư tưởng này để quản trị đất nước. Với họ, dân có khi là mục đích, có khi là phương tiện. Dân là mục đích khi người cầm quyền hướng tới người dân (thấy được sức mạnh của người dân để quan tâm tới họ). Dân là phương tiện khi người cầm quyền hướng tới người dân nhưng mục đích là để duy trì địa vị giai cấp thống trị (không để dân khổ để dân không làm loạn, thấy được sức mạnh người dân, tìm cách chăn dân, vỗ về dân, “yên dân” để giữ yên địa vị của giai cấp thống trị. Tư tưởng thân dân của các sĩ phu – trí thức phong kiến thì trong tư tưởng ấy có gửi gắm những mong ước, khát vọng của quần chúng. Vì vậy, nội hàm “tư tưởng thân dân” ở từng triều đại tương ứng với khái niệm “dân” ở mỗi thời, qua đó cũng thể hiện trình độ, nhận thức của tầng lớp “quân tử” thời ấy. Qua tư tưởng thân dân, có thể đánh giá được sự tiến bộ, văn minh hay bảo thủ, lạc hậu của các triều đại.
1.1.3. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong tác phẩm văn học
Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác nhau trong khái niệm dân và tư tưởng thân dân, luận án xác định tìm hiểu tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII với các nội dung: Tư tưởng thân dân thể hiện một cách trực tiếp là khi nói đến người dân, đây là nội dung chủ yếu mà đề tài quan tâm nghiên cứu. Tư tưởng thân dân thể hiện một cách gián tiếp là khi viết về đất nước, xã hội, nhưng qua đó gửi gắm nguyện vọng về cuộc sống của người dân. Khi viết về người dân trong cảnh đói khổ nhưng đồng thời bày tỏ niềm mơ ước về một đất nước hòa bình, thịnh vượng để người dân đỡ khổ. Vì thế, có những trường hợp, tư tưởng thân dân và tư tưởng yêu nước giao thoa với nhau. Tuy nhiên, đây lại là hai phạm trù bởi lẽ, tư tưởng thân dân nhìn từ góc độ mục đích viết về người dân cơ bản đứng trên lập trường nhân bản - nhân đạo về quyền sống con người. Còn tư tưởng yêu nước về cơ bản đứng trên lập trường dân tộc.
Luận án của chúng tôi đề cập đến tư tưởng thân dân trong văn học tập trung qua ba phương diện:
Thứ nhất, thân dân là thương dân (ái dân). Đây là nền tảng cũng là gốc rễ của tư tưởng thân dân. Xuất phát từ những tình cảm chân thành, nhân ái mà xúc động, rung cảm, đồng cảm với những niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau khổ trong cuộc sống của người dân. Chỉ khi gần gũi và chia sẻ có tình cảm mới hiểu và biết yêu, thương dân.
Thứ hai, thân dân là trọng dân, tức là đề cao người dân, coi trọng vai trò, vị trí của người dân; coi dân là gốc của nước. Trong đời sống xã hội, người dân luôn luôn có một vị trí quyết định, sáng tạo ra những giá trị của cải vật chất và tinh thần. Trọng dân thì mới phát huy được sức mạnh của dân. Do đó, trọng dân là mức độ thứ hai, tiến lên một bước khi nhận ra vai trò, ý nghĩa của dân trong kiến tạo xã hội.
Thứ ba, thân dân là ơn dân. Khi giới cầm quyền biết “ơn dân” là vị thế của dân đã được đánh giá cao và được tôn trọng thật sự. Thái độ “biết ơn” dân là thái độ của kẻ dưới đối với người trên. Chỉ khi có nhận thức cao mới có suy nghĩ và tình cảm biết ơn này và khi “biết ơn” mới có cách hành xử, đối xử tương ứng. Về cơ bản nội dung này chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tư tưởng của Nguyễn Trãi về dân là tư tưởng vượt lên thời đại ông và rất có ý nghĩa đối với thời hiện đại khi mà vai trò và vị trí cũng như nhận thức về dân đã có những bước tiến bộ vượt bậc.
Rõ ràng, tư tưởng thân dân là một trong những tư tưởng lớn và quan trọng của lịch sử chính trị phương Đông nói chung, ở Trung Quốc và Việt Nam nói riêng. Tư tưởng thân dân cũng có sự phát triển và nó thể hiện sự phát triển của các triều đại phong kiến. Tư tưởng thân dân dù nằm trong lằn ranh của những vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa mang những tính chất phức tạp, song nếu xét sự biểu hiện trong văn học thì tư tưởng thân dân vẫn được tiếp cận theo hướng thuận chiều nhiều hơn là trái chiều. Thuận chiều thể hiện sự đóng góp của các tác giả khi nhìn nhận rõ vai trò tích cực của người dân, phản ánh một cách sâu sắc các “tiêu chí” trên của tư tưởng thân dân trong quan điểm và các sáng tác văn học. Trái chiều lại theo hướng xa dời, thậm chí có quan điểm, cách nhìn coi thường vị thế của người dân, đi ngược lại với các “tiêu chí” của tư tưởng thân dân.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhìn chung có những hướng nghiên cứu sau liên quan tới đề tài của luận án:
1.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử liên quan tới đề tài
Các tài liệu nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử là yếu tố tiền đề giúp chúng tôi hình dung về diễn tiến của tư tưởng thân dân trong mối quan hệ với văn học. Các nhà nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam một mặt chỉ ra rằng “thân dân” là một tư tưởng lớn của thời đại, nó có liên quan chặt chẽ với lịch sử, tư tưởng, văn hóa, triết học, tôn giáo, đặc biệt là Nho giáo, Phật giáo, mặt khác, tư tưởng thân dân còn là tinh hoa trong truyền thống yêu nước, nhân đạo và văn hóa Việt Nam được kết tinh trong sáng tác của nhiều tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Có thể kể tới các tài liệu tiêu biểu sau: Lịch sử tư tưởng Việt Nam (1967 - 1970) của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục [186]; Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu của tác giả Cao Xuân Huy [68]; Tư tưởng Việt Nam thời Trần (2014) của Trần Thuận [185]; Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (2016) của nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thư và nhiều tác giả khác [46]; Vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỉ XV- XVIII của tác giả Nguyễn Bá Cường [29],
Ngoài những công trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề tài luận án còn có các luận văn, luận án triết học, các...ranh của các triều đại. Bảy thế kỉ từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII là chặng đường chế độ phong kiến xây dựng, phát triển theo tiến trình từng bước đi tới thịnh vượng. Người khởi dựng triều Lí là Lí Công Uẩn (974 - 1028). Vì có chí lớn khác thường lại rất nhân ái nên ông được các quan trong triều và dân chúng đồng lòng tôn lên ngôi hoàng đế. Dù ở đỉnh cao quyền lực, vua Lí Thái Tổ vẫn luôn quan tâm đến lợi ích lâu dài của đất nước và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước tiên ở quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La. Việc dời đô không chỉ nói lên khát vọng phát triển đất nước hùng mạnh, bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn xa trông rộng mà còn khẳng định tấm lòng thương dân của nhà vua.
Các trí thức chân chính thời phong kiến (như thiền sư, nho gia) là những người yêu nước, thân dân. Từ sử sách đọc được, từ thực tiễn cuộc sống phong phú đã trải nghiệm, họ nhận thức được vai trò lịch sử to lớn của dân, họ hiểu được những đau khổ, mất mát của người dân dưới ách chuyên chế độc đoán của chế độ phong kiến, họ cũng biết các mặt trái của chế độ quân chủ chuyên chế này. Nhưng trong hoàn cảnh văn hóa chính trị nói trên, họ phải tìm cách khéo léo diễn đạt, biểu hiện được tư tưởng thân dân, để ngăn chặn, kìm hãm bớt sự chuyên quyền độc đoán của đấng quân vương, làm sao để có lợi cho dân mà mình cũng được đảm bảo sự an toàn cho bản thân. Chúng ta chứng kiến nhiều trường hợp nho sĩ trí thức đã can gián vua chúa nhưng không được chấp nhận, có khi còn bị tai vạ vì lời can gián thẳng thắn của mình.
Như vậy, tìm hiểu lịch sử - xã hội thời trung đại chính là một nền tảng quan trọng để tìm hiểu tư tưởng thân dân trong văn học. Bởi lẽ, qua bức tranh lịch sử, xã hội của thời đại ta thấy được các khía cạnh đa dạng trong đời sống của nhân dân. Cảm hứng, tư tưởng trong văn học cũng không nằm ngoài quy luật đó.
2.1.2. Chế độ giáo dục, khoa cử
Thế kỷ X - XIV là giai đoạn đầu xây dựng Nhà nước phong kiến Việt Nam. Các vị vua của cả triều Lý và triều Trần đều chú trọng đến giáo dục và tổ chức các cuộc thi để tuyển chọn người tài giúp dân, giúp nước. Tuy nhiên, giáo dục và khoa cử thời Trần phát triển hơn nhiều so với thời Lí. Đầu thời Trần, Phật giáo rất thịnh hành. Sau đó, Nho giáo ngày càng được đề cao. Triều đình quy định rõ ràng cần học theo các cuốn sách Ngũ kinh, Tứ thư, Bắc sử. Triều đình đã mở rộng Quốc tử giám để đào tạo con em quý tộc, quan lại. Tại các lộ, phủ, kinh thành đều có các trường công. Hơn nữa, việc học còn được mở rộng đến người dân, con em thứ dân nếu có tài năng cũng được theo học, đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm quan. Các kì thi được tổ chức đều đặn để tuyển chọn nhân tài giúp nước, giúp dân. Năm 1232, khoa thi đầu tiên của triều đình được tổ chức. Kể từ đó, cứ bảy năm, nhà nước lại mở một khoa thi tiến sĩ. Những người đỗ đạt cao trong các kì thi này được triều đình bổ nhiệm giữ các chức quan ở viện Hàn lâm, cơ quan hành khiển. Họ là những nhân tố quan trọng đảm nhận việc đi sứ phương Bắc. Có thể kể đến những tên tuổi rất nổi tiếng như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh
Sang thế kỷ XV, Nho giáo thịnh trị thì triều đình nhà Lê càng chú trọng đến giáo dục, thi cử, khuyến khích nhân tài ra giúp nước. Ngay năm 1427, giặc chưa tan, Lê Lợi đã mở kỳ thi ở doanh Bổ Đề. Đất nước giải phóng, hòa bình lập lại, nhà nước lập Quốc tử giám ở kinh đô, mở các trường học ở phủ, lộ. Thành phần học trong Quốc tử giám được mở rộng. Điều này cho thấy việc sử dụng nhân tài không câu nệ vào đẳng cấp và hướng đến cả người dân. Lê Thánh Tông ngoài việc mở rộng Quốc tử giám (nhà Thái học), năm 1467 còn đặt chức bác sĩ dạy Ngũ kinh, in sách Ngũ kinh làm tài liệu học tập. Việc thi cử dần dần theo nền nếp nhất định. Triều đình đặt nhiều hình thức khuyến khích việc học: từ năm 1439 có lệ xướng danh, treo bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, ăn yến, vinh quy bái tổ; từ năm 1442 có lệ khắc bia tiến sĩ, Giáo dục phát triển có ảnh hưởng tích cực tới văn hóa, văn học. Những trí thức lớn đồng thời là những tác giả văn học tiêu biểu của thời kỳ này là Nguyễn Trãi, Lí Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Thiên Tích, Chu Tam Tỉnh, Phan Phu Tiên, Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn.
Thế kỷ XVI - XVII, tuy chế độ phong kiến trên đà suy thoái nhưng việc học, việc thi vẫn được các tập đoàn phong kiến coi trọng. Nhà Mạc ngay sau khi xây dựng triều chính, nhanh chóng tổ chức thi cử để chọn nhân tài. Từ năm 1527 đến năm 1592, nhà Mạc đã mở 22 khoa thi Hội, lấy đỗ 468 Tiến sĩ và 11 Trạng nguyên. Nho giáo vẫn được đề cao, tầng lớp nho sĩ, những người vốn đắc lực cho Nhà nước phong kiến vẫn được trọng dụng. Nhưng do sự biến động của thời cuộc, sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến dẫn dến tầng lớp nho sĩ bị phân hóa, xuất hiện tầng lớp nho sĩ không tham gia triều chính mà về làng quê ẩn thân. Nếu thời Lê sơ có Hội tao đàn với nhị thập bát tú, những văn nhân tinh tú đương thời, thì trong giai đoạn triều Mạc cũng nổi lêm một số văn nhân danh tiếng như Nguyễn Giản Thanh (1498 - ?), Bùi Vịnh (1498 - 1545), Nguyễn Hàng (1488 - ?), Hoàng Sĩ Khải (? - ?), Tiêu biểu hơn cả là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), một nhà văn hóa, một nhà thơ lớn, không chỉ của văn học thời Mạc mà là của văn học trung đại Việt Nam. Họ sống gần dân, hiểu dân và thương yêu nhân dân. Những hiện tượng nổi bật của xu hướng này là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan,
2.2. Tiền đề tư tưởng, văn hóa của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII
2.2.1. Tín ngưỡng bản địa và văn hóa dân gian
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp lúa nước và có nền văn hóa bản địa phong phú, đa dạng mà phần lớn được hình thành từ trong đời sống, sinh hoạt của nhân dân lao động, cho nên không thể không quan tâm đến văn hóa dân gian nói chung cũng như tín ngưỡng dân gian nói riêng vốn là tài sản của họ được lưu truyền và gìn giữ từ nhiều thế hệ, bên cạnh hình thái văn hóa do nhà nước xây dựng các thiết chế, ban hành cơ chế quản lý và lưu hành. Vì vậy, tín ngưỡng dân gian là hình thức tín ngưỡng quan trọng, phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta bao đời nay, và thậm chí nó thường xuyên được các nhà nước phong kiến Việt Nam coi trọng, công nhận. Nền văn hóa cổ truyền dân tộc và tín ngưỡng dân gian chính là nguồn sức mạnh to lớn, là cơ sở để người Việt cổ chống lại sự “Hán hóa” suốt một ngàn năm Bắc thuộc của phong kiến Trung Hoa. Những hình thức tín ngưỡng sinh hoạt tâm linh mang màu sắc bản địa, luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của đại bộ phận cư dân Việt. Với đa số người Việt, gia đình dòng họ là quan trọng nhất, nên tín ngưỡng thờ kính tổ tiên có thể coi như là "quốc đạo". Nói chung những thao tác cầu cúng, với các nghi thức trang trọng phong phú, đa dạng luôn hiện diện thường xuyên ở mọi thành phần dân tộc khác nhau trên đất nước. Tục thờ thần, thờ thánh thể hiện tính chất tín ngưỡng đa thần đã có từ xa xưa. Trong lịch sử, ông cha ta đã bảo lưu rất nhiều hình thái tín ngưỡng tôn giáo khác nhau như tín ngưỡng vạn vật hữu linh, các tín ngưỡng thờ sinh thực khí, tín ngưỡng thờ động vật, thờ nhân thần - các nhân vật được thờ phụng thường là các anh hùng có công với nước, giúp dân khai hoang lập ấp hay dựng nghề khởi nghiệp (thờ vua Hùng, thờ Thành hoàng làng), đạo thờ Thánh Mẫu hay còn gọi tín ngưỡng Tam Phủ (ba bà mẫu ở ba vùng chăm sóc cho dân ở nơi đó), Tứ Phủ (mây, mưa, sấm, chớp). Đây là một tín ngưỡng thuần Việt vô cùng đặc sắc, mang một tín lý tinh tế giản dị, sâu sắc, dung hòa Phật giáo Ấn Độ, Đạo giáo Trung Hoa vào tục thờ thần thánh đậm đà bản địa. "Tháng tám giỗ cha” (hình ảnh thiêng hóa từ vị anh hùng lỗi lạc Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn), “tháng ba giỗ mẹ” (bà Chúa Liễu Hạnh, Thánh Mẫu của người Việt). Các tín ngưỡng tôn giáo thuần chất bản địa là kết tinh đặc sắc của tâm thế Việt. Không phải ngẫu nhiên mà vào ngày 1-12-2016, UNESCO đã tự hào chính thức công nhận "Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt" là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cùng với nghi thức cúng lễ bản địa, cũng có rất nhiều nghi lễ tôn giáo ảnh hưởng từ bên ngoài, đặc biệt là từ nền văn minh sông Hằng, sông Dương Tử và còn có thêm Thiên Chúa giáo tới từ Tây phương, bởi bản chất của người Việt vốn khoan hòa cởi mở. Có điều, hầu hết những nghi lễ này đã được Việt hóa sâu sắc, tinh tế.
Cùng với tín ngưỡng văn hóa bản địa, những cơ sở tư tưởng cũng đã sớm xuất hiện từ thời dựng nước: yêu nước và thương người hay tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân văn, nhân đạo. Những truyện lưu truyền trong dân gian về các vị thành hoàng, về nhân tài đất Việt; các truyền thuyết Lạc long Quân - Âu Cơ, Thánh Gióng, Tản Viên, An Dương Vương,; các truyện cổ tích Trầu cau, Bánh chưng bánh giầy, Dưa hấu, Sọ Dừa chính là những bằng chứng sắc nét thể hiện sức mạnh vai trò sáng tạo của nhân dân. Những đặc điểm về văn hóa tín ngưỡng dân gian đó phát triển dần lên qua các chặng đường lịch sử nhiều thế kỉ. Nó tồn tại với nhân dân trong khuôn khổ cộng đồng nông thôn và nhân dân là người giữ gìn lưu truyền thành truyền thống dân tộc. Nó tiếp thu các yếu tố ngoại lai để phát triển. Các nhà trí thức phong kiến tuy học theo các hệ tư tưởng nước ngoài, nhưng những người ưu tú đều giữ vững truyền thống dân tộc, và dựa trên cơ sở đó mà tiếp thu ở những hệ tư tưởng ngoại lai những gì có thể bồi bổ cho truyền thống và có ích cho đời sống dân tộc.
Thế kỷ X - XIV, bốn thế kỉ đầu đất nước độc lập, bước vào giai đoạn phục hưng về mọi mặt. Văn hóa dân tộc có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Triều đình có nhiều cố gắng khôi phục phong tục, tập quán, tín ngưỡng dân gian và phát triển những giá trị vốn có của văn hóa dân tộc. Hàng năm, nhà nước tổ chức những ngày lễ dâng hương cho các anh hùng dân tộc, kết hợp những lễ hội dân gian với các sinh hoạt văn hóa khác như: ca hát, đua thuyền, đánh vật, ném còn, đá cầu, mứa rối nước, Nhà Lí và Trần đã xây dựng được một đời sống văn hoá, tinh thần giản dị, cởi mở và lành mạnh. Giữa vua và các tướng lĩnh, giữa nhân dân và triều đình chưa có sự cách biệt đáng kể. Từ thế kỉ X đến thế kỷ XIV, các vương triều đã cho xây dựng nhiều công trình văn hóa nổi tiếng, trong đó có “An nam tứ đại khí” từng được Trung Quốc ca ngợi: tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh. Lăng mộ nhà Trần ở Thái Đường (Thái Bình) cũng là một công trình kiến trúc có giá trị. Những di tích văn vật còn lại cho phép khẳng định rằng nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trong các công trình của Nhà nước đời Lí, đời Trần đã tiếp thu những truyền thống nghệ thuật dân gian và tận dụng khả năng, đặc điểm của vật liệu có sẵn trong nước. Việc tiếp thu những truyền thống của văn hóa dân gian để xây dựng văn hóa chính thống của Nhà nước Đại Việt là một hiện tượng có tính tất yếu lịch sử, thể hiện bản sắc và bản lĩnh của nhân dân.
Đến thế kỉ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, chúng thực hiện chính sách đồng hóa và ngu dân với phương châm đốt sạch, phá sạch. Giặc Minh đã tàn phá một cách khốc liệt nền văn hóa Đại Việt. Nhưng nền văn hóa nước nhà vẫn quật khởi vùng lên với một sức sống mãnh liệt đó là nhờ nhân dân không ngừng sáng tạo, lưu truyền, phát triển. Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo: “Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Nhà Lê khi giành được độc lập đã bắt tay ngay vào việc bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, như bảo vệ thuần phong mĩ tục, thu thập văn hóa dân gian, Trong khí thế đi lên của Đại Việt, nhà Lê đã đưa chế độ phong kiến tới giai đoạn cực thịnh mà đỉnh cao là triều đại Lê Thánh Tông ở nửa sau thế kỷ XV. Bước sang thế kỷ XVI và cả thế kỷ XVII, khi chế độ phong kiến khủng hoảng thì nền văn hóa dân gian càng có điều kiện phát triển. Các loại hình sân khấu múa rối, chèo, tuồng hầu như được cả vua quan và nhân dân ưa chuộng và được mở ở khắp nơi.
Từ các nhân tố của văn hóa, tín ngưỡng dân gian truyền thống và sức sống nội tại của tinh thần dân tộc đã tạo nên nét riêng trong đạo lí làm người của người Việt. Từ xa xưa, trong kho tàng văn học dân gian , nhân dân lao động vừa là tập thể sáng tác văn học vừa là “nhân vật” trung tâm của đời sống xã hội. Truyền thống của người Việt Nam bao đời nay luôn coi trọng con người. Họ đề cao lối sống thủy chung, tình nghĩa; đề cao tinh thần đoàn kết, yêu thương gắn bó giữa gia đình, làng xóm với cộng đồng, xã hội, dân tộc, Những quan niệm đó được diễn tả súc tích qua nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao: “Thương người như thể thương thân”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Một mặt người hơn mười mặt của”, “Bẻ đũa chẳng bẻ được cả nắm”, “Cả bè hơn cây nứa”, “Chết cả đống còn hơn sống một người”, “Dựng nhà cần nhiều người, đánh giặc cần nhiều sức”, “Chung lưng đấu cật”, “Khi đói cùng chung một dạ, khi chết cùng chung một lòng”, “Tướng chuộng nhiều quân, dân chuộng nhiều người”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng//Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương//Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Dân ta nhớ một chữ đồng//Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”, “Một cây làm chẳng nên non//Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”,
Thấm sâu trong tình cảm, huyết mạch của mỗi người Việt Nam là nền tảng gia đình: Hiếu đạo với đấng sinh thành: “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”; coi trọng tình anh em ruột thịt: “Anh em như thể tay chân”, “Máu chảy ruột mềm”, “Một giọt máu đào hơn áo nước lã”; tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt “đầu gối, tay ấp”, “tình sâu nghĩa nặng”: “Tay nâng chén muối đĩa gừng//Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Mở rộng hơn là tình làng xóm láng giềng, “chín bỏ làm mười”, “nhường cơm, xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, “tối lửa, tắt đèn có nhau” và bao trùm hơn cả là tình yêu thương đồng bào “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng” Người Việt Nam quý trọng tình nghĩa hơn của cải vật chất:“Người sống, đống vảng” hay“Cầm vàng mà lội qua sông//Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”. Họ ghét lối sống bạc tình, bạc nghĩa, theo kiểu “ăn cháo, đá bát”. Quan điểm này thể hiện cả trong mối quan hệ với người thân: “Người dưng có ngãi (nghĩa) thì đãi người dưng, anh em vô ngãi thì dừng anh em”.
Không chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày, tình yêu thương, sự khoan dung, độ lượng với con người của dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn tắc trong các bộ luật của Nhà nước; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề cao và coi trọng việc giữ tình hoà hiếu với các nước, tận dụng mọi cơ hội có thể để giải quyết hoà bình các xung đột, cho dù nguyên nhân từ phía kẻ thù “Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại” ... Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã được dân gian, thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc trăm trứng” để lý giải cộng đồng cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết Thánh Gióng là một trong những câu chuyện mà bao thế hệ người Việt đều đã nghe qua ít nhất một lần trong đời. Đây là tác phẩm văn học dân gian đầu tiên về công cuộc giữ nước chống ngoại xâm. Truyện Thánh Gióng là sự đan xen chặt chẽ giữa các yếu tố thần thoại, truyền thuyết dân gian, lịch sử dân tộc, được nhân dân xây dựng thành một câu chuyện huyền thoại nhằm gửi gắm những khao khát, lý tưởng, giá trị yêu nước như một bài học lưu truyền cho đời sau. Trong tâm thức dân gian, Thánh Gióng là một trong bốn hình tượng tứ bất tử của Việt Nam, được suy tôn như biểu tượng của sự trường tồn, bất diệt của dân tộc, đất nước từ thuở xa xưa cho tới ngày nay.
Truyền thống “thương người như thể thương thân” của người Việt Nam còn có nguồn gốc sâu xa từ trong xã hội công xã nông thôn thời kì nguyên thuỷ, buổi đầu dựng nước. Chúng ta đều biết, dân tộc Việt Nam có lịch sử nhiều ngàn năm, có nhà nước Văn Lang tồn tại lâu dài. Trong thời gian dài như vậy, dân tộc ta đã hình thành nền văn hoá mang bản sắc riêng của mình, trong đó, lòng yêu thương con người là một tình cảm đạo đức lớn, có nét đẹp riêng, như là một giá trị văn hoá rất cơ bản trong hệ giá trị của người Việt Nam. Mặt khác, do những điều kiện lịch sử riêng khiến vận mệnh dân tộc và vận mệnh nhân dân, nước và dân là những nhân tố luôn gắn chặt với nhau. Dân có vai trò dựng nước, giữ nước thắng lợi, ngược lại nếu không có dân thì nước suy, nước mất. Dân là công dân trong quan hệ dân nước, dân còn là con người trong quan hệ dân - cộng đồng người. Do đó mà có công thức: Nước - dân - người - nhất thể, có tư tưởng yêu nước, thương dân, thương người hay yêu nước, nhân đạo, nhân văn.
2.2.2. Nho giáo và tư tưởng thân dân
Nho giáo là một học thuyết triết học, chính trị - xã hội, đạo đức lớn nhất ở Trung Quốc và phương Đông thời cổ đại. Trong nội dung của Nho giáo, chứa đựng nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng, đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống xã hội và con người, trong đó có tư tưởng về dân. Theo nhiều tài liệu từ nguồn sử học, văn học và các công trình nghiên cứu khác, Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc thông qua việc xác lập bộ máy xâm lược, cai trị và thông qua quá trình xâm lược và thực hiện chính sách Hán hóa của nhiều vương triều phong kiến phương Bắc ở nước ta. Từ chỗ là công cụ xâm lược, nô dịch của ngoại xâm, theo thời gian và yêu cầu phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam đã chủ động tiếp nhận Nho giáo và sử dụng nó thành công cụ của chính mình trong việc xây dựng, củng cố và phát triển chế độ phong kiến, trong việc xây dựng, phát triển đất nước về mọi mặt, trong việc giữ nước và bảo vệ chủ quyền đất nước.
Những nhận thức, tư tưởng, quan điểm của Nho giáo Khổng - Mạnh về dân và vai trò, vị trí của người dân như “Dân vi bang bản”, “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, cho ta thấy có nhiều yếu tố hợp lí, tiến bộ mà chúng ta không thể phủ nhận và hơn thế, cần phải tiếp thu, kế thừa. Tất nhiên, cũng trong nội dung của tư tưởng ấy, cần thiết thấy một số điểm hạn chế của Nho giáo.
Từ thế kỉ XI trở đi, các vương triều phong kiến Việt Nam ý thức được vai trò của Nho giáo trong quản lí và xây dựng đất nước. Nho giáo với quan niệm “Thiên mệnh”, “Thiên tư” quan niệm rằng, dưới vòm trời (thiên hạ), đâu cũng là đất của vua, đâu cũng là thần dân của vua. Cùng với đó là quan niệm về “nhân chính”, “đức trị” - một hệ thống luân thường đạo lí gồm những chuẩn mực, giá trị ràng buộc con người vào gia đình, xã hội, vào vua và triều đại thực sự là một công cụ sắc bén cho việc bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, đồng thời cũng tạo điều kiện cho sự thống nhất và cố kết dân tộc. Hơn thế, Nho giáo với lí luận, học thuật còn góp phần nâng cao tư duy, làm phong phú đời sống học thuật và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc trong thời đại ấy.
Dưới thời Lí - Trần, dù Nho giáo được Nhà nước phong kiến sử dụng như một thành tố của hệ tư tưởng Nho - Phật - Lão, nhưng theo thời gian, xu hướng Nho giáo ngày càng có vị trí và vai trò lớn hơn, nhiều hơn trong đời sống tinh thần, tư tưởng của người Việt. Ảnh hưởng tư tưởng về dân của Nho giáo thể hiện khá cụ thể trong đường lối cai trị, quản lí xã hội, pháp luật và việc thực hiện những chủ trương chính trị lớn của đất nước như việc dời đô, kế vị ngôi báu, phát động kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Các nhà tư tưởng thời Lí - Trần đã tiếp thu những yếu tố tích cực, tiến bộ, đậm tính nhân văn của Nho giáo và vận dụng một cách cụ thể vào hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, phù hợp với truyền thống tình cảm, tâm hồn của người Việt.
Đến thời Lê Sơ (từ năm 1428 đến năm 1527), sau khi giành được độc lập dân tộc và thiết lập triều Lê, nhằm phát triển bộ máy Nhà nước phong kiến tập quyền hùng mạnh, trong nhiều biện pháp mà nhà Lê đưa ra để đạt mục đích trên đây, thì Nho giáo được đưa lên địa vị “độc tôn” trong lĩnh vực hệ tư tưởng. So với thời Lí - Trần, Nho giáo đã có sự phát triển mạnh mẽ về vị trí và vai trò của nó đối với xã hội và chế độ phong kiến Việt Nam. Các vị quân vương triều đại Lê Sơ, các nhà Nho, nhà tư tưởng Việt Nam đã sử dụng Nho giáo để phục vụ các nhiệm vụ chính trị của mình như xây dựng và phát triển bộ máy Nhà nước, kiến lập và thực thi pháp luật, giáo dục - khoa cử, xây dựng và phát triển đất nước, Việc phát huy những yếu tố khả thủ của Nho giáo như tư tưởng thân dân, chủ trương nhập thế, nêu cao phẩm chất, khí tiết trong sạch của kẻ sĩ,đã khiến cho tư tưởng Nho học thời kỳ này đạt tới mức cực thịnh. Tư tưởng về dân trong thời kỳ này đã kết tinh thành những hiện tượng tiêu biểu nhất, rực rỡ nhất của truyền thống tư tưởng, văn hóa, văn học Việt Nam thời trung đại.
Sang thế kỉ XVI, với biểu hiện khủng hoảng của chế độ phong kiến, Nho giáo nói riêng và tình hình tư tưởng, văn hóa trong các thế kỉ XVI, XVII có những chuyển biến rõ rệt và sâu sắc. Nho giáo vẫn được đề cao và được các tập đoàn phong kiến sử dụng để củng cố trật tự phong kiến, ràng buộc kiềm chế hành vi, tình cảm và lý trí con người. Các tập đoàn phong kiến có ý thức dùng khoa cử để tranh thủ nho sĩ khi ấy vẫn là tầng lớp đông đảo và có uy tín trong xã hội. Nhưng do sự suy yếu của chế độ phong kiến, việc học hành thi cử cũng như nho phong sĩ khí ngày càng đồi bại xuống cấp. Đạo đức và trật tự phong kiến bị phá vỡ ngay từ trong hàng ngũ nho sĩ quan liêu. Triều thần lấn át vua, triều thần cướp ngôi vua, anh em nhà vua, nhà chúa bức hại lẫn nhau. Bên cạnh vương triều nhà Lê “hữu danh vô thực”, phủ chúa nắm hết thực quyền, tự tiện phế lập ngôi vua. Tình hình chính sự ấy khiến người dân rơi vào cảnh chiến tranh loạn lạc, ly tán. Sự ảnh hưởng của Nho giáo tất yếu làm cho tư tưởng thân dân trong văn học thời kỳ này có màu sắc khác với thời Lí - Trần.
2.2.3. Phật giáo và tư tưởng thân dân
Nói đến ảnh hưởng của tôn giáo tới tư tưởng thân dân, không thể không bàn đến Phật giáo. Đạo Phật chủ trương bình đẳng, từ bi, bác ái. Từ bi, bác ái của Phật làm cho lòng thương dân, thương người phong phú, tốt đẹp hơn. Những tư tưởng và hạt nhân tích cực của giáo lí Phật giáo được người Việt Nam tiếp thu và truyền bá một cách rộng rãi trong đời sống xã hội. Phật giáo chính là một tiền đề tôn giáo quan trọng của tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam trong nhiều thế kỉ.
Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV là thời kì phát triển của Phật giáo Việt Nam, qua các vương triều phong kiến như triều Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009), Lí (1009 - 1225), Trần (1226 - 1400), Đạo Phật được sự nâng đỡ của chính quyền phong kiến, đã trở thành trụ cột tinh thần của bộ phận phong kiến thống trị. Lúc đó “Đế và Tăng cùng cai trị thiên hạ”, không ít tăng nhân đã ra vào trong cung đình, trực tiếp tham gia triều chính, nắm giữ quân quyền, chế định pháp lệnh, hưởng các loại đặc quyền. Suốt thời Lí cho đến đầu thời Trần, Phật giáo chiếm địa vị quốc giáo nên có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống chính trị, văn hóa. Sự ảnh hưởng của Phật giáo lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân, mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Nó không xa rời mà gắn liền với thực tiễn. Các nhà sư được các nhà vua thời Lí tôn trọng, đề cao. Do vậy lực lượng tăng lữ rất đông đảo. Nhiều vị thiền sư có công lao to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đấu tranh chống giặc ngoại xâm, có uy tín đối với nhân dân. Không chỉ dân thường mà cả các nhà vua cũng đi tu như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông. Chùa ngày càng nhiều và thường được xây dựng ở những nơi cảnh đẹp, phong thuỷ hữu tình như chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Sùng Nghiêm (Hà Nội), chùa Yên Tử (Quảng Ninh) Những năm tháng đất nước có giặc ngoại xâm, Phật giáo đã góp phần tập hợp, đoàn kết những người yêu nước thương dân đấu tranh, chiến thắng kẻ thù.
Phật giáo có nhiều tông phái. Vào nước ta chủ yếu là Thiền Tông. Thiền tông Lí - Trần được đặt trong một hoàn cảnh đất nước đòi hỏi con người phải hành động tích cực, từ hành động chiến đấu chống ngoại xâm đến hành động giúp dân sống no ấm, yên vui. Đó cũng là ý chỉ của vua Lí Nhân Tông trong lời nói với thiền sư Mãn giác: “Bậc chí nhân hiện thân giữa cõi đời này tất phải tế độ chúng sinh. Làm việc gì cũng phải đầy đủ, không việc gì không làm. Chẳng những đắc lực về thiền định mà cũng có công giúp đỡ nhà nước”. [Thiền uyển tập anh, Phân viện Nghiên cứu Phật học, NXB Văn học, Hà Nội, 1990].
Phật giáo sang Đại Việt đã thành một đạo Phật bình dị và thiết thực. Cái đặc biệt của nó là tinh thần thực tiễn. Nó không triết lí trừu tượng hô hào người ta phải xuất thế tìm về một cõi “niết bàn” xa xôi mà chủ trương đi tìm chân lí ngay trong chính bản thân cuộc sống. Công quả của các thiền sư không phải đo bằng sự trì giới khổ hạnh, tụng kinh niệm Phật mà được đo bằng những đóng góp hữu ích của họ cho đời sống xã hội, cho đất nước, cho nhân dân. Đó chính là cái tinh thần của thiền sư Vạn Hạnh: “Trụ tích trấn vương kì” (chống gậy nhà chùa lên coi giữ kinh đô). Do vậy, Phật giáo đã có được vai trò và những đóng góp đáng kể đối với xã hội, đất nước. Có thể đơn cử, giáo dục là một mặt quan trọng trong đời sống xã hội. Trước khi trường Quốc Tử giám được thành lập ở kinh đô vào thời Lí và ngay cả trong khi đã có trường đại học dành cho con em các quan lại, việc giáo dục ở nông thôn, ở những cấp thấp hơn, hầu như do nhà chùa đảm trách. Mặt khác, Phật giáo dưới thời Lí Trần không hoàn toàn được nhìn nhận và vận dụng như một tôn giáo, đặc biệt là đối với giới trí thức, mặc dù nó đích thực là một tôn giáo. Những nhà trí thức trong đó có nhiều người tham gia chính sự đất nước đã đối xử với đạo Phật như một hệ tư tưởng - triết học mà họ tìm thấy từ đó những yếu tố cần thiết để góp phần xây dựng một con người phù hợp với thời đại: nhân ái, bao dung, cởi mở và tự tin. Quan điểm “Phật tại tâm”, “Mỗi chúng sinh đều có Phật tính” của Thiền tông với chủ trương mỗi người phải tự quay về thắp lên ngọn đuốc của chính mình, không tìm cầu bên ngoài (mà ảnh hưởng sâu sắc trong dân gian có thể thấy qua câu tục ngữ “Bụt nhà không cầu đi cầu Thích Ca ngoài đường”) đã tạo nên cho con người thời đại một bản lĩnh tự tin đặc biệt. Bản lĩnh này là đỉnh cao của tinh thần nhân văn thời đại. Nhờ bản lĩnh tự tin này mà con người Đại Việt thời đó đã không sợ địch dù địch lớn hơn mình gấp nhiều lần; cũng như không mặc cảm về một nước nhỏ mới thoát vòng nô lệ mà vững chãi đường hoàng xây dựng quốc gia tự chủ tự cường. Mặt khác, tư tưởng dân chủ, nhân đạo truyền thống đã bắt gặp tinh thần bác ái trên cơ sở cái nhìn bình đẳng vô sai biệt đối với vạn vật và tinh thần “vô ngã” của Phật giáo Thiền tông. Có bình đẳng, bác ái mới thực hiện được vị tha để thương dân tựa con mình như Lí Thánh Tông, có thể “lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình” như Trần Thái Tông, dễ dàng từ bỏ ngai vàng để nhường ngôi lại cho người em khi người này tới tuổi lớn khôn như Trần Minh Tông, hay có những ứng xử hợp nghĩa và cao thượng với người khác như Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Bảo Từ Thái hậu,
Tinh thần từ bi, bác ái của Phật giáo Thiền tông quả đã đem lại phẩm chất thanh cao cho con người thời đại - làm việc tận tụy hết mình vì dân vì nước nhưng vô cầu, coi công danh phú quý tựa phù vân. Chỉ có thể đạt tới trình độ này khi người ta quan niệm được cuộc sống trong đó có cái “tôi” là vô thường, hữu hạn, khi cần có thể buông bỏ để vươn tới những giá trị làm người đích thực, cũng là cái chân tâm trong sáng, vĩnh hằng, nhìn từ góc độ nhà Phật. Thiền dung hợp với phía tích cực của Nho và Lão để giúp con người phát triển toàn diện, và phù hợp với con đường phát triển của đất nước. Thiền hợp với Tịnh độ tông, Mật tông và cả tín ngưỡng dân gian bản địa để phù hợp thực tiễn và mang tính đại chúng. Có thể nói, đó là đạo Phật Việt Nam với tất cả ý thức và sự cố gắng của nó, tìm một hướng riêng phù hợp và có ích nhất cho sự phát triển của dân tộc. Chọn Phật giáo Thiền Tông, các nhà trí thức và những người cầm quyền trong buổi đầu kỷ nguyên tự chủ đã tìm thấy nơi hệ thống triết học này sự phù hợp với tâm lý, tập quán và đạo lý truyền thống của dân tộc để từ đó có thể phát huy sức mạnh Đại Việt. Tinh thần bình đẳng và bác ái của đạo Phật tìm thấy sự hòa điệu với tinh thần dân chủ, nhân ái truyền thống của nhân dân có từ buổi đầu dựng nước là một ví dụ. Không những thế, khi chọn hệ tư tưởng này, các nhà trí thức của dân tộc còn lọc ra từ nó cái gì cần thiết nhất cho thời đại và luôn chú ý vận dụng vào thực tiễn đời sống. Trên quan điểm thân dân, họ đã tập hợp được sức mạnh vĩ đại của quần chúng trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước. Chính vì vậy, sức sống bền vững của Phật giáo chính là ở tính nhập thế tích cực. Đạo gắn liền với đời sống và đời sống không thiếu vắng đạo.
Tiểu kết chương 2
Ở chương 2, luận án đã nghiên cứu, lý giải những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hóa liên quan đến tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Có thể thấy lịch sử của cha ông ta ngay từ những ngày đầu dựng nước đã nổi bật lên đặc thù là sự gắn kết cộng đồng. Từ buổi đầu ấy đến kế tiếp những triều đại phong kiến sau này, vấn đề kháng chiến chống xâm lược và củng cố chế độ, xã hội phong kiến ở mỗi triều đại luôn luôn gắn liền với vai trò và vị trí của người dân. Các Nho sĩ, trí thức phong kiến đã ca ngợi các triều đại ấy cũng là cách để hướng tới những điều tốt đẹp cho người dân. Nền giáo dục, thi cử của các triều đại phong kiến luôn luôn được quan tâm ngay trong hoàn cảnh chống ngoại xâm. Chính sách cầu hiền tài, coi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” khiến cho tầng lớp thứ dân cũng được học, được bổ nhiệm làm quan khi đỗ đạt. Điều đó tạo nên điều kiện thuận lợi để đất nước có những danh sĩ, trí thức tài năng cống hiến cho nhân dân.
Luận án chỉ ra tư tưởng thân dân còn có tiền đề từ tín ngưỡng bản địa, văn hóa dân gian; hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo. Tín ngưỡng bản địa, văn hóa, văn học dân gian truyền thống không chỉ tạo nên sức sống nội tại của tinh thần dân tộc mà còn tạo nên nét riêng trong tư tưởng thân dân. Người Việt Nam cũng rất linh hoạt khi tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa văn học nước ngoài, đặc biệt ở tầng lớp trí thức, ở những tác giả văn học sự tiếp thu đó đã góp phần tạo nên những hình tượng đẹp về con người mang tinh thần thời đại đặt trọng trách tổ quốc và nhân dân lên ...òng thiện mà tỏ tình thương xót).
23
Tây hỗ, Văn quan quân tiến bộ tặc, thế hữu khả cầm, hỉ tác Bộ Văn Đạt bá vận (Đi hộ giá miền Tây, nghe quan quân tiến đánh bắt bọn giặc, thế có thể được chúng, mừng làm bài họa vần Văn Đạt Bá)
Biên manh cộng hưởng thần cư Bắc,
Thượng đức hoài nhu giáo kị Nam.
Địa hiểm khán lai phi túc thị,
Bảo dân đương cố úy dân nham.
(Dân biên bỉ cùng hướng về ngôi Bắc Đẩu,
Đức độ của hoàng thượng hòa dịu giáo hóa đến tận phương Nam.
Xem ra địa thế hiểm trở, chưa là điều đủ để tin cậy;
Việc bảo vệ dân nên tính đến sự lo sợ dân những nơi rừng sâu núi thẳm).
24
Tòng tây chinh
(Theo quan quân đánh dẹp miền tây - bài 1)
Đảo huyền dân cửu li hung ngược,
Yếm loạn thiên tương khải trị bình.
Kí thủ vương sư hoàn khải nhật,
Luân cân bố hạt nhậm nhàn tình.
(Nhân dân từ lâu đã bị khốn khổ như bị treo ngược bởi bọn hung tàn,
Trời ghét cảnh loạn lạc sắp ra tay mở hội trị bình.
Hãy nhớ ngày quân đội nhà vua chiến thắng trở về,
Quan quân và dân chúng đều được thỏa ước muốn thanh nhàn).
25
Tòng tây chính
(Theo quan quân đánh dẹp miền tây - bài 2)
Lão bệnh trùng phùng thử loạn li,
Dự tham nhung mạc hiệu truy tùy.
Sơn hà phong cảnh do tiền độ,
Thành quách nhân dân dị tích thì.
(Già yếu lại gặp cảnh loạn li,
Được tham dự vào việc phò tá trong màn trướng tướng soái.
Sông núi, cảnh vật vẫn như dạo trước,
Thành quách và nhân dân thì đã khác xưa).
26
Quá Tây Giang (Qua sông Tây Giang, bài 1)
Thánh chủ chỉ kim nhân thắng bạo,
Cứu dân vụ tại quảng chiêu hang.
(Nhà vua bây giờ chỉ lo việc lấy đức nhân thắng cường bạo,
Trong kế sách cứu dân, điều cốt yếu là mở rộng việc chiêu hàng).
27
Quá Tây Giang (Qua sông Tây Giang, bài 1)
Cửu trùng chính cấp cầu nhân tướng,
Chửng cứu ưng tô thử nhất phương.
(Chiếu tìm tướng giỏi nay ban bố,
Cứu vớt dân lành tính phút giây).
28
Quá Tây Giang (Qua sông Tây Giang, bài 5)
Chỉ duyên lão giặc giai vi ngạnh,
Trí sử biên dân giáp lộng hoàng.
(Chỉ tại quân giặc ngoan ngạnh ngày càng lấn bước láo xược,
Nên dẫn đến cả khối dân biên cương dung đến giáp binh).
29
Hạ ngự giá thướng kinh (bài 1)
Di dân cửu dĩ la điêu sái,
Nguyện bố khoan nhân ủy hệ tô,
(Từ lâu dân chúng chìm đau khổ,
Xin mở lòng nhân tận núi gò).
30
Tức sự (Thơ tức sự)
Tùy xứ lưu dân hoài tỉnh ấp,
Hà thời chiến sĩ tức can qua?
(Khắp nơi người dân lưu lạc đang nhớ về làng quê,
Biết bao giờ, người chiến sĩ mới nghỉ tay gươm giáo?).
31
Quá Từ Liêm thần tử trách thần (Qua đền thần ở Từ Liêm, trách thần)
Thông minh chính trực vị chi thần,
Để sự dung gian cánh hại dân.
Độ thủ lão quyền khoa kiếm kích,
Cùng lư bố ốc bộn yên trần.
Lưu vong nhật tiệm nan sinh khí,
Chửng cứu thùy năng bất sát nhân.
(Tai nghe sáng suốt, mắt nhìn sáng suốt, có lòng chính trực mới gọi là thần,
Cớ sao lại dung dưỡng kẻ gian đến nỗi làm hại dân?
Đôi tay lão luyện, tàn độc khoe nào kiếm nào kích,
Khắp ngõ hẻm nhà gianh đều mịt mù khói bụi.
Dân lưu vong ngày càng khó lấy lại sinh khí,
Dẹp loạn cứu dân ai lại có thể không phải giết chóc?).
32
Hí tác kí chương đức y gia tử Lễ Bá Hầu huynh đệ (Viết đùa chơi gửi an hem Lễ Bá Hầu, con của nhà thầy thuốc ở Chương Đức)
Tây nam hội kiến dân tô tức,
Bốc nhật đương quy quân thủy quy
(Mong giữa hội vui thấy dân vùng Tây nam được hồi sinh lại,
Xem ngày nào nên về thì anh hãy về)
33
Hạ Khiêm Đại Vương đản nhật (Mừng ngày sinh nhật Khiêm Đại Vương)
Quốc thế dân tâm vưu khả úy,
Nguyện gia cẩn giới bất vong nguy.
(Thến nước và lòng dân là điều rất đáng sợ,
Xin ngài cẩn trọng răn đe, chớ quên lúc nguy khó).
34
Tân niên hí tác
(Năm mới, viết chơi)
Hà nhật tái phùng Nghiêu Thuấn thế,
Thái bình thiên tử, thái bình dân,
(Bao giờ được gặp đời thịnh trị của vua Nghiêu, vua Thuấn?
Vua của thời thái bình, dân của thời thái bình).
35
Hồng Châu xuân hội (Hội xuân ở Hồng Châu)
Thử lạc túng phi hiền giả lạc,
Thụ suy đồng lạc cập tư dân.
(Thú vui này nếu không phải là thú vui những kẻ hiền,
Thì ai là kẻ san sẻ niềm vui chung này đến cho dân?)
36
Vĩnh lại huyện tri huyện Trần Lâm (Gửi tri huyện Vĩnh Lại là Trần Lâm)
Huyện trái dục cầu thường bất xứ,
Nhất liêm chi ngoại cánh vô dư.
(Nợ của dân trong huyện muốn tìm giả hết bất kỳ ở đâu,
Ngoài một chữ liêm, không có thiếu gì).
37
Quân đạo thi (Đạo làm vua)
Đế vương đại đạo cự tinh nghiên,
Hạ dục kiềm lê, thượng kính thiên.
Chế trị, bảo bang tư kế thuật,
Thanh tâm, quả dục tuyệt du điền.
(Đạo lớn bậc đế vương rất mực tinh tế,
Dưới thì nuôi dưỡng dân đen, trên thì kính trời
Chế định nền thịnh trị, giữ gìn đất nước, nghĩ đến việc noi theo, kế thừa,
Giữ tâm trong sạch, ít dục vọng, dứt bỏ việc vui chơi, săn bắn).
38
Quân thần thi
(Đạo vua tôi- Bài 1)
Nhất ngữ nhất ngôn thường trí giới,
Phân du phân niệm vĩnh khang dân
(Một lời nói phát ra đều nhằm vào việc răn bảo nhau,
Mọi suy nghĩ tính toán đều lo đến việc khiến cho dân được giàu mạnh).
39
Quân thần thi (Đạo vua tôi- Bài 2)
Vọng kim lưỡng tận khắc nan đạo,
Chính sự năng tu dân duyệt thâm.
(Mong mỏi ngày nay vua và bầy tôi đều hiểu rõ cái khó khăn của mình,
Nền chính sự thường xuyên tu chỉnh thì dân chúng mừng rỡ sâu sắc).
40
Trì thi (Cái ao)
Dân thủy thản kim nhân cố kết,
Ẩn nhiên diệc thị nhất thang trì.
(Dân là nước, huống nữa ngày này lấy điều nhân để cố kết vững vàng,
Trong đó có ẩn náu một cái ao nước sôi đấy).
41
Thạch tỉnh thi (Giếng đá)
Đãn nguyện quân tâm hoằng đức trạch,
Ấp tư chú bỉ ủy quần tình.
(Chỉ cầu mong nhà vua mở rộng ơn đức,
Đem nước giếng này tưới mát, thỏa lòng chúng dân).
42
Điền thi (Ruộng đồng)
Dân thực thành vi vương chính tiên,
Bản nguyên tòng xuất tại ư điền
Tô trừ y Hán trọng dân thiên.
Vô khinh dân sự kim do ổ,
Tứ dã hàm đăng đại hữu niên.
(Lo cái ăn cho dân thực là việc trước tiên trong nền vương chính,
Cái gốc chính để làm được như vậy là nhờ ở ruộng đất
Chớ xem thường việc làm ăn của dân, ngày nay cũng như ngày xưa vậy,
Như thế thì khắp các chốn đồng quê đều được mùa lớn).
43
Đình thi (Ngôi đình)
Ngũ đạt tứ thong giai đắc sở,
Kì hàn thử vũ miễn tư dân.
(Năm đường bảy ngả qua đây đều được nơi nghỉ chân tốt,
Cầu mong dân lành (có nơi dừng nghi mà) khỏi bị nắng mưa giá rét).
44
Quế thi (Cây quế)
Thùy tri lão lạt khương đồng vị,
Y quốc y dân hữu diệc phương.
(Ai hay khi già có chất cay cùng một vị giống như gừng,
Là vị trong phương thuốc diệu kỳ để chữa cho nước, cho dân).
45
Tịch thi (Chiếc chiếu)
Chỉ kim lễ vị hiền nhân thiết,
Trạch cập tư dân nhẫm tịch khang.
(Đến nay lễ được đặt ra vì người hiền,
Ban ơn trạch đến chúng dân, khiến họ được yên vui trong chăn chiếu).
46
Hạ thử thi (Nắng hè)
Thiên như dục giải ngô dân uẩn,
Ưng tá huân phong nhất trận xuy.
(Trời nếu như muốn cởi bỏ nỗi uất ức cho dân ta,
Thì xin hãy thổi một trận gió hòa dịu).
47
Thu thủy thi (Nước mùa thu)
Đãn nguyện quân vương thường trạm nhược,
Trạch lưu viễn bị cửu vi dân.
(Những mong quân vương luôn lưu ý,
Làm cho ân trạch tuôn trào đến dân mọi miền xa).
48
Trung Tân quán nhị lão dung thụ (Hai cây đa già ở quán Trung Tân)
Sơ phạp đống lương phù đại hạ,
Hảo tương ấm tí cập tư dân.
(Vốn không có tài rường cột chống đỡ ngôi nhà lớn,
Hãy đem bóng mát che chở cho dân này).
49
Da tử thi (Quả dừa)
Hảo tương nhất chước thiên nhiên thủy,
Tô khước thương sinh khát vọng tâm.
(Khéo đem một gáo nước thiên nhiên,
Làm sống lại lòng khao khát của chúng dân).
50
Mạch môn đông (Vị thuốc mạch môn đông)
Thiên hạ điêu sái cửu vị tô,
Thí đầu nhất chủy tẩy lao nhiệt.
(Thiên hạ đau khổ điêu linh từ lâu mà chưa được cứu,
Hãy thử múc một thìa để tẩy hết nỗi lao khổ).
51
Ngụ ý (Ngụ ý mình)
Hà hạnh tái phùng Nghiêu Thuấn trị,
Nhất triền nguyện tác thái bình dân.
(May sao lại được gặp thời thịnh trị của đế Nghiêu đế Thuấn,
Một lòng mong làm người dân của thời thái bình).
52
Quan kì ngụ hứng (Gửi hứng khi xem đánh cờ - bài 2)
Hoàn lí bất phùng nguy hiểm xứ,
Bình cư khởi phục cố dân loan.
(Nếu như không gặp chỗ nguy hiểm,
Thì ngày thường há lại đoái nghĩ đến người dân ư?).
BẢNG 2: NHỮNG BÀI THƠ THỂ HIỆN TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
TRONG “BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
STT
Tên bài thơ
Câu thơ thể hiện tư tưởng thân dân
1
Bài 1
Ái ưu vằng vặc trăng in nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.
Án sách hãy còn án sách cũ,
Nước non bạn với nước non nhà.
2
Bài 4
Giàu cơm thịt khó cơm rau,
An phận là tiên lọ phải cầu.
3
Bài 5
Giàu sang người trọng, khó ai nhìn,
Mấy dạ yêu vì kẻ lỡ hèn.
4
Bài 8
Thanh vắng thú quê dầu nấn ná,
Dữ lành miệng thế mặc chê khen.
5
Bài 12
Niềm xưa trung ái thề chăng phụ,
Cảnh cũ điền viên thú đã quen.
6
Bài 13
Chớ chớ thờ ơ nhìn mấy biết,
Đỏ thì son đỏ, mực thì đen.
7
Bài 14
Yêu đòi phận, dầu tự tại,
Lành dữ khen chê ai mặc ai.
8
Bài 15
Buồn về biếng thấy cái đao binh,
Yên phận thời lành, ở một mình.
Nghĩa cả luống quên tôi chưa cũ,
Thề xưa nỡ phụ nước non xanh.
9
Bài 17
Nhàn được thú quê dầu nấn ná,
Nghĩ xem thế sự biếng đua tranh.
10
Bài 21
Ân chúa đã nhiều chưa báo,
Lòng còn canh cánh ắt khôn nài.
11
Bài 24
Nghèo hiểm là khi vị nước,
Khó khăn dầu mệnh ở trời.
Cầu lui đường lợi khôn đi, đỗ,
Rộng hẹp lòng nhân mặc nghỉ ngơi.
12
Bài 27
Ba đời chúa được phúc tình cờ,
Ơn nặng, chưa từng báo tóc tơ.
13
Bài 29
Đã ngoài mọi sự chăng còn ước,
Ước một tôi hiền chúa thánh minh.
14
Bài 30
Khó khăn mới biết người quân tử,
Nghèo hiểm thời hay tiết trượng phu.
15
Bài 31
Anh hùng người lấy tài làm trọng,
Ẩn dật ta hay thú có mầu.
16
Bài 36
Của nha còn ấy hai pho sách,
Ơn chúa chăng quên một bữa cơm.
17
Bài 39
Dữ lành miệng thế mặc chê khen,
18
Bài 43
Mùi thế gian nhiều mặn nhạt,
Đường danh lợi có chông gai.
19
46
Có quyền thời có của người cho,
Mất vốn chi đầu hoạ đắn đo.
Ang thịt mỡ bùi ruồi đến đỗ,
Bát bồ hòn đắng kiến đâu bò.
20
Bài 48
Dầu nhẫn dầu chê dầu miệng thế,
Cơ mầu tạo hoá mặc tự nhiên.
21
Bài 49
Giàu người họp, khó người tan,
22
Bài 58
Được thời thân thích chen chân đến,
Thất thế hương lân thỉnh mặt đi.
Thớt có tanh tao ruồi đỗ bấy,
Ang không mật mỡ kiến bò chi!
Thế nay những trọng người nhiều của,
Lặng đến tay không ai kẻ vì?
23
Bài 60
Ruộng thời hai khảm đất con ong,
Đầy tớ ta cày kẻo muộn mòng.
24
Bài 62
Kiến nhân thác bởi sanh bùi ngọt,
Ruồi lánh mình vì bát đắng cay.
25
Bài 63
Giàu sang người đến họp đam chiêu,
Bần tiện ai kẻ trọng yêu?
Của khỏi làng, nhà nên quý giá,
Người lìa quê, phúc lấy làm phiêu.
Nuôi con mới biết lòng cha mẹ,
Nẻo loạn thì thương thời Thuấn Nghiêu.
26
Bài 64
Kẻ khó nhờ ơn có kẻ giàu,
Làm chi đua cãi mất lòng nhau.
Người hơn ta thiệt thì dầu vậy,
Đấy thẳng đây chùng chẳng đứt đâu.
Dại nọ chưa đo sao đã đắn,
Khôn thì thốt trước lại lo sau.
27
Bài 69
Gần son thì đỏ, mực thì đen,
28
Bài 70
Giữ đạo hiếu trung là của báu,
Miễn qua ngày tháng phận ta an.
29
Bài 71
Thớt có tanh tao ruồi háo miệng,
Gang không mật mỡ kiến đam thân.
30
Bài 73
Cơm ăn chẳng quản dưa muối,
Áo mặc nài chi gấm thêu.
31
Bài 75
Đành hay muôn sự của đều chung,
Cờ đến tay ai, ai mới phất.
32
Bài 76
Ưu ái chăng khuây niềm trước,
Thị phi biếng nói sự nay.
33
Bài 77
Thế gian biến cải vũng nên đồi,
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn vàng, còn đệ tử,
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thật,
Ai nấy nào ưa kẻ đãi buôi.
Ở thế mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui.
34
Bài 80
Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười,
Có của thì hơn hết mọi lời.
35
Bài 81
Chớ thuở được thời mèo đuổi chuột,
Đến khi thất thế hổ tha bò.
36
Bài 82
Ăn ít ấy hơn, hờn ấy thiệt,
Khôn thời người dái, dại người thương.
37
Bài 83
Ưa ngọt thì hơn, nhiều kẻ trọng,
Quá chua ra úng, có ai màng?
Ở có đức lành hơn ở dữ,
38
Bài 86
Trời sinh, trời ắt đã dành phần,
Tua hãy cho hiền, dạ có nhân.
Khó nhớ oán thân, mình mới nhẹ,
39
Bài 88
Giàu: trọng, sang: yêu, khó: chẳng vì.
Nhị kết hoa thơm, ong đến đỗ,
Mỡ bùi mật ngọt, kiến nào đi.
40
Bài 90
Cơm ăn chẳng quản mùi xa, bạc,
Áo mặc nề chi vẻ rách lành.
41
Bài 93
Dẫu có ai han thời sẽ nhủ:
Thái bình thiên tử, thái bình dân.
42
Bài 94
Thú thanh nhàn, lều một căn.
Quét cửa kho, chờ khách đến,
Trồng cây đức, để con ăn.
43
Bài 96
Vuốt mặt còn trừ qua mũi nọ,
Rút dây lại né động dừng chăng?
44
Bài 101
Lửa vô tình nọ bừng bừng cháy,
Của bất nhân kia rối rối qua.
Cơm cháo bỗng xui người hoá quý,
Oản xôi dễ khiến bụi nên ma.
45
Bài 102
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
46
Bài 105
No lòng ấm cật ơn nhờ chúa,
Tiết ngọc gan vàng giữ phận tôi.
47
Bài 107
Sự thế cuộc cờ đâu miễn được,
Lòng người, sóng bể cạn thì sâu.
48
Bài 110
Tiền ròng, bạc chảy: tưng bừng đến,
Nhà khó, tay không: lững thững đi.
49
Bài 112
Đời chẳng trọng người bằng trọng của,
Bạn dù hay mặt chửa hay lòng.
50
Bài 114
Thịt chó, chó ăn, loài chó dại,
Lông chim, chim tiếc, ấy chim khôn.
Bò đàn những bạn cái bò cái,
Cá cả mong ăn con cá con.
51
Bài 119
Đôi chữ công danh còn xắm nắm,
Một niềm ưu ái hãy lăm le.
52
Bài 120
Giàu chê khó, khó chê giàu.
Người hàng thịt nguýt người hàng cá,
Đứa bán bò gièm đứa bán trâu.
Bé vú thở than người cả vú,
Ít râu inh ỏi kẻ nhiều râu.
53
Bài 121
Yên bách tính, thì yên trị đạo,
54
Bài 123
Non nước vui chơi đã mặc dầu,
Hãy còn canh cánh chí sơ âu.
55
Bài 124
Rượu, cảnh quê hương nhặt chốc mòng,
Chiêm bao ngờ đã tới non sông.
56
Bài 125
Bạn nhiều cày cuốc ngày ngày họp,
Gánh nặng yên hà chốn chốn thâu.
57
Bài 130
No bữa hôm, đủ bữa mai,
Gẫm lâu chăng đã thú nhà vui.
Ruộng năm bảy khảm trồng cây lúa,
Tằm chín mười nong để giống ngài.
58
Bài 134
Phúc nào gặp được cong đời trị,
No ấm cũng nhờ phúc thái bình.
59
Bài 136
Lưỡi thế gẫm xem mềm tựa lạt,
Miệng người toán lại sắc như chông.
60
Bài 139
Muốn cho nhà chúa bằng Nghiêu Thuấn,
Phải đạo làm tôi kẻo hổ ngươi.
61
Bài 142
Mừng thấy thời vần đời mở trị,
Thái bình thiên tử, thái bình dân.
62
Bài 143
Giàu vì phận, khó vì phận,
Khôn mặc người, dại mặc người.
63
Bài 144
Nước yên chín thực ấy nhà yên.
64
Bài 149
Đời thái bình ca khúc thái bình.
Cơm áo lo đền thiên tử trị,
65
Bài 151
Người gồng gánh, kẻ lầm than,
Ta biết so ta kể thực nhàn.
BẢNG 3: NHỮNG BÀI THỂ HIỆN TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
TRONG THƠ PHÙNG KHẮC KHOAN
STT
Tên bài thơ
Những câu thơ thể hiện tư tưởng thân dân
1
Lâm tuyền vãn (Thơ Nôm theo thể lục bát)
-“Phát kinh phát cức trồng gai,
Đan lưới, đan chài dưỡng thú ngư ca”.
-“Muốn ăn trái lật trái lê,
Họa nhà con cái chợ quê theo tìm”.
-“Ngày nhiều vật lạ của tươi,
Che chở nghìn đời dân ấm no”.
2
Đề Hoằng Đạo thư đường (Đề vào phòng đọc sách “Hoằng Đạo”)
Cư nhân do nghĩa ngô nho sự,
Tế khế khang dân chí khí hùng.
(Ở nhân noi nghĩa là việc của nhà nho ta,
Giúp đời yên dân chí khí thật là hào hùng).
3
Kỳ nhị (Bài 2)
Tôn chủ tí dân Nho sự nghiệp,
Khẳng vi bạch diện nhất thư sinh.
(Tôn chúa, cứu dân là sự nghiệp của nhà nho ta,
Sao chịu làm một anh học trò bạch diện thư sinh mãi).
4
Dao thọ phụ thân (Từ nơi xa chúc thọ phụ thân)
Vị thủy điếu hoàng kỳ Thượng Phụ,
Ngu đình chủng đức mại Cao Dao.
(Giống Thượng Phụ ở bờ sông Vị, trước còn câu cá đợi thời,
Như Cao Dao ở triều Ngu chăm ban bố đức trạch cho dân).
5
Qua Lam Sơn miếu hữu cảm (Cảm tưởng khi qua Lam Sơn miếu)
Tự cổ tác tiền công đức hậu,
Dữ trưng thiên hựu dữ dân thân.
(Xưa nay người sáng nghiệp công đức đầy đặn,
Càng nghiệm rõ trời giúp người có đức và dân quy về người có nhân).
6
Thương loạn (Nhị thủ) (Bài một)
Can qua lạc khổ lưu ly,
Trường sư anh hùng mạn tự ti (tư),
(Gươm đao chống chọi nhau, dân khổ lưu lạc ly tán triền miên,
Làm cho đám anh hùng phải tự nghĩ lại chăng).
7
Thương loạn (Nhị thủ) (Bài hai)
Đại đông chi hậu xuân ưng phục,
Thánh tá hân quan sĩ nữ tuy.
(Sau cái đông giá rét, xuân tươi ắt ấm trở lại,
Thánh nhân xuất hiện, ta vui mừng được thấy dân yên vui).
8
Doanh trung trừ tịch (Thời tại Thể Khê) (Đêm ba mươi tết ở doanh trại) (Bấy giờ tôi ở Thể Khê)
Uy hòa tịnh chí tang sư luật,
Cam khổ du đồng thức sĩ tình.
(Ân uy đủ cả, đúng đắn luật quân,
Cam khổ cùng nhau, biết rõ tình sĩ tốt).
9
Đoan Ngọ dược (Thuốc hái ngày Đoan Ngọ)
Nhược ngôn ý quốc y dân thủ,
Nhân nghĩa vi đan thướng thánh hoàng.
(Còn nói tới phương thuốc chữa bệnh cho nước khỏi loạn, cho dân khỏi khổ,
Xin dâng nhà vua thứ linh đan nhân nghĩa).
10
Tây Đô hoài cổ
Duy dư dân tụ sở vô cải,
Vạn cổ sơn hà vạn cổ thâu (thu).
(Nơi đây chỉ còn nhân dân sum họp như xưa, không gì thay đổi,
Muôn thuở vẫn non sông ấy, muôn thuở vẫn mùa thu này).
11
Phụng sai vãng Thiên Quang phủ tập, đọa qua Ngọc Lâu tức sự (Phụng mệnh vua đến Thiên Quan vỗ về triệu tập dân chúng ly tán, đường qua Ngọc Lâu, tức sự làm thơ)
An dân toàn lại hoàng vương đức,
Đầu bút hà công cảm thuyết Ban.
(Yên được dân, toàn nhờ đức tốt của nhà vua,
Ném bút theo việc quân, lập công gì mà dám nói như Ban Siêu thuở xưa).
12
Hành niên (Năm trải qua)
Tế thời cường phiến kim luân phú,
Tùy phận liêu an nghĩa mệnh toàn.
(Chuyện kinh luân thắng thua đều tùy vào thời thế có phú cho không?
Tùy theo danh vị trong xã hội hãy giữ bình yên, lẽ phải và tính mệnh cho nhân dân).
13
Thử (Lúa nếp)
Hậu Tắc giáo dân càn giáng chủng,
Chu Công ái chủ ngụ Trần thi.
Chưng dân nãi lạp công vi đại,
Đãn nguyện hoàng vương giá sắc tri.
(Hậu Tắc dạy dân siêng năng đặt giống,
Chu Công yêu chúa, gửi gắm khi trình bày bài thơ.
Dân chúng được hạt gạo ăn, công lao lớn lắm,
Chỉ mong đấng quân vương biết đến công việc cấy cày).
14
Tắc (Lúa Tắc)
Niên phong chính thị nông phu khánh,
Hỉ khởi ca canh lạc thái bình.
(Năm được mùa chính là phúc lành cho nông phu,
Mừng rỡ hát ca, vui đời thái bình).
15
Tự xướng tự họa
Công thành sự nghiệp bằng trung nghĩa,
Ức vạn duy sinh hoạt Bắc Nam.
(Sự nghiệp thành công đều nhờ vào trung nghĩa,
Ức vạn sinh linh được sống yên ổn ở Bắc và Nam).
16
Đề xuyên sơn dịch (Đề trạm Xuyên Sơn)
Triều đình hữu đạo dân vô sự,
(Triều đình có đạo, dân vô sự)
17
Quảng Tây lưu đề (Thơ đề lưu lại Quảng Tây)
Xu đường chí yết thượng ty Hán,
Giáp đạo nhân nghênh tân sứ Lê.
(Lên công đường, mang lễ vật yết kiến quan trên người Hán,
Hai bên đường, dân đón chào sứ giả mới của nhà Lê).
18
Đáo An Nam ngẫu thành (Đến An Nam, bất chợt thành thơ)
Nghĩ hướng đế tiền ca đế đức,
Giải ngô dân uấn phụ dân tài.
(Ta muốn đến trước vua, ca tụng công đức nhà vua,
Đức nhà vua như gió nam giải nỗi buồn giận cho dân và làm cho của dân giàu có).
19
Kỳ ngũ (Bài năm)
Thuấn vô hoang đãi tồn trung xứ,
Thang khắc khoan nhân lâm hạ thì.
(Tồn tâm như vua Thuấn không lười nhác, không phóng túng,
Trị dân như vua Thang có đức khoan nhân).
20
Nam hoàn quá Thông Châu (Về Nam qua Thông Châu)
Kinh thành đông xuất thị Thông Châu
Thành quách nhân dân thái khẩn trù.
(Ra khỏi Bắc Kinh ấy Thông Châu,
Thành quách nhân dân ở sát nhau).
21
Tặng An Nam sứ thần bài luật thập vận (Tặng sứ thần nước An Nam mười vần thơ bài luật)
Văn đạo Giao Nam tục,
Dân cư chướng hải nhuyên
Cống bằng trùng dịch thiệt,
Gia dưỡng bát tàm miên
(Nghe nói phong tục phía Nam Giao châu, ‘
Dân cư ở sát ngay bờ biển,
Triều cống phải nhờ qua nhiều lần phiên dịch,
Dân gia một năm nuôi tám lứa tằm).
BẢNG 4: NHỮNG TÁC PHẨM THƠ CHỮ HÁN THỜI MẠC
THỂ HIỆN TƯ TƯỞNG THÂN DÂN
STT
Tác giả
Tác phẩm
1
Nguyễn Hàng (?-?)
Tịch cư ninh thể phú
Yêu thay miền thôn tịch
Yêu thau miền thôn tịch!
Cư xử dầu lòng,
Ngao du mặc thích.
Khéo chiều người mến cảnh yên hà:
Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch.
Xó xỉnh góc trời mom đất, một bầu thu cảnh mọn hẹp hòi;
Áy o ruộng núi vườn đèo, bốn mùa đủ thứ vui cộc kệch..
Có một sự gắn bó, hòa hợp giữa con người với cảnh vật, người coi cảnh như bạn bè thân thiết, cảnh giúp người quên được những nỗi ưu tư:
Khách nhàn họp ba chồi cúc muộn, đứng dựa bên thềm;
Bạn lão sum mấy gốc mai già, hen kề tận ngạch.
Gió nhân là quạt mát, điêm trần ai thau thảy tan không;
Nước trí ấy gương trong, miền tụy lụy lâng lâng rửa sạch.
Dấu ngựa xe chẳng đến, cỏ bén hơi xuân;
Bạn viên hạc quen tìm, hoa cười đón khách
Rườm rà hàng cổ thụ, lồng những tàn dù;
Quanh quất dài kỳ phong, bao làm thành quách.
Vượn chào hòa khiếu hót, cách ngàn đưa khúc xướng ca;
Suối chảy lẫn thông reo, bên tai rõi nhịp đàn, nhịp phách.
Chợ chân trời, mây họp đùn đùn;
Chày sườn núi, nước đâm thình thịch.
Đại đồng phong cảnh phú
Non Xuân Sơn, cao thấp triều tây;
Sông Lôi Thủy quanh co nhiễu tả.
Ngàn tây chìa cánh phượng, dựng thửa hư không;
Thành nước uốn hình rồng, dãi cùng dãy đá.
Đùn đùn non Yên Ngựa, mấy trượng khỏe thế kim thang;
Cuồn cuộn thác Con Voi, chín khúc bền hình quan tỏa
Hình thế ấy khen nào còn xiết;
Phong cảnh này thực đã nên danh!
vũng con con thả muống một bè;
vườn mọn mọn trồng huyên mấy rạch.
Cảnh chắt chiu nương đậu, nương khoai;
Mùa đắp đổi hàng kê hàng mạch.
Cày lũng tuyết sớm giong đủng đỉnh, trải thung chè, trèo đèo sở, nẻo tắt hình gối hạc ngẳng nghiu;
Hái củi mây, hôm quẩy xênh xang, qua dặm liễu, tới ngàn sâm, đường uốn khúc ruột dê ngóc ngách.
2
Nguyễn Giản Thanh
(1482 – 1552)
Phụng thành xuân sắc phú
Nẻo họp châu xa, ngọc bạch, dân mến về chầu.
Tộ mừng bàn thạch, Thái Sơn, thế bền khôn động.
Nước yên vững đặt âu vàng;
Đất thịnh vốn chưng thành Phụng
Tuy đã nhiều non nhiều nước, mạnh thửa thành trì;
Sao bằng lấy nhân lấy nghĩa, bền làm phong vực.
3
Khuyết danh
Việt sử diễn âm
-Dân ta bọc lấy để nay làm lề.
Năm ấy hồng thủy chỉn ghê,
Cấy cày chẳng được chợ quê mất mùa.
Thóc gạo chẳng có hòa mua,
Trời làm mất mùa dân khổ thương bi.
-Sự làm cho lỗi chẳng bằng lòng dân.
-Dẹp được tám cõi biên man,
Nước ta giàu có việc khoan dân rồi.
-Nhà Trần xưa có đức lành,
Nền vua nhân hậu dõi sinh chúa hiền
Trị vì thiên hạ bốn phương,
Vạn dân phú thứ một dường ấm no.
-Lấy nhân đổi ngược đẹp lòng vạn dân.
Chữ rằng ứng thiên thuận nhân,
Lê hoàng thiện vị xa gần đều yên.
Dựng nghiệp thánh, kế thần truyền,
Mùa hè tháng sáu lên đền đăng quang.
-Trung hung khôi phục một lòng dấu dân.
-Giả mưu lập Hoàng Vương khi ấy,
Làm cho dân đâu đấy lầm than,
-Âu loan trợ nước liều mình vực dân.
-Ân uy khắp mọi nơi đều mến
Đã thuận trời lại đến lòng dân.
4
Hà Nhậm Đại (1525 - ?)
Khiếu vịnh thi tập
-Cốt nhục tương tàn chính sĩ tiêu
Nội gia sủng đố ngoại gia kiêu
Hình hà chính thảm dân li khổ
Hựu thị Lê triều nhất ngọa triều
(Cốt nhục tàn sát lẫn nhau, chính khí kẻ sĩ tiêu tan
Họ nội hiềm khích oán ghét, họ ngoại lộng hành
Hình phạt hà khắc khuôn phép thảm thương, dân li tán khổ sở
Thật đúng là triều Lê có một ông vua nằm thiết triều).
(Thơ vịnh Lê Uy Mục)
-Thế biến thiên di hận vị câm (cấm)
Túc tiêu đồ báo định thần tâm.
Lão phu bất thức tằng tri phủ,
Nhất phiến trung thành phó chuyển luân.
(Đời biến phải chạy loạn, hận chẳng cam,
Sớm khuya mưu báo đáp, đã định trong lòng kẻ làm tôi.
Lão phu chẳng hiểu rằng có ai biết cho mình không,
Một tấm lòng trung thành phó cho chiếc bánh xe lăn).
(Vịnh Nguyễn Hữu Nghiêm)
5
Vũ Cán (1475 - ?)
Hạn điền câu (Tát nước ruộng hạn)
Điền gia vọng vọng tích lưỡng càn,
Câu cừ tranh huề cư thủy cụ.
Nhật dạ tòng sự bát thích gian,
Lão ông bộ nhi phu hoán phụ.
Ấp bỉ chú tư ký quyên trích,
Kết cao ninh từ ngưỡng nhi phủ.
(Nhà nông cứ trông ngóng thở than vì hạn hán nặng,
Đua nhau mang gầu ra ngoài rãnh tát nước.
Ngày đêm quần quật với manh áo làm đồng,
Ông già mớm cơm cho trẻ, chồng gọi vợ đi làm.
Múc chỗ này đổ ra chỗ kia mong được từng giọt nước,
Gàu múc hết sấp lại ngửa nào có quản chi).
Tây đô thành hoài cổ (Bài 2) - Giáp Trưng
Phủ tắc quân nhân ngược tắc cừu,
Lão ô hà khổ dụng tà mưu.
Tức chân tình hiện thời nan yểm,
Tác ngụy tâm lao nhật bất hưu.
(Vỗ về chăm dân là bậc quân vương, tàn ngược là kẻ thù,
Con quạ già việc gì phải dùng mưu gian cho khổ.
Khi cái thực chất đã hiển hiện ra thì khó mà che lấp cho được,
Toan tính việc gian trá, nhọc lòng hàng ngày chẳng ngớt).
PHỤ LỤC 10: TƯ TƯỞNG THÂN DÂN TRONG HAI TÁC PHẨM
DIỄN CA LỊCH SỬ “THIÊN NAM MINH GIÁM” VÀ “THIÊN NAM NGỮ LỤC”
Những câu thơ thể hiện tư tưởng thân dân trong Thiên Nam minh giám
Những câu thơ thể hiện tư tưởng thân dân trong Thiên Nam ngữ lục
Nối Hồng Bàng tới tuần họ Thục,
Đời có người cổ phúc vạn dân.
Hai Trưng vì nghĩa thương dân,
Giận Tô quái gở cất quân trả hờn.
Dấy một cơn rồng vươn hùm thét,
Nổi gió oai thổi hết loài gian.
Lạ thay đôi sức hồng nhan ,
Sau mươi thành lẻ đặt yên bằng tờ.
Dựng ngôi báu cõi bờ bằng vững,
Phụng mệnh trời gái chẳng dám đương.
Dạy dân lấy nghĩa thói vầy Lỗ Trâu. Đời rằng có bụt đâu ở thế?
- Đấng tôn thất khá khen Quốc Tuấn,
Đuổi giặc Nguyên nhiều bận ra tay.
Sau thiêng vì bởi trước ngay,
Một phen kiếm động nhiều ngày giặc kinh.
- Phạm Ngũ Lão đã nên danh tướng,
Chí hồng bằng mở lượng bể non
Quên mình vì nước chẳng nài công phu.
Nguyện chẳng tiếc trăng thu rong ruổi,
Miễn chin trùng cao gối điện Nghiêu.
Xử lòng khả nghị người thiều,
Ra biên nhớ chúa vào triều dân trông.
- Lê Hoàng cất ba nghìn hùm soi,
Gối bác trời khua đuổi giặc Minh,
Dưới cờ những tướng hùng anh,
Vì dân lấy đức tuốt thành lấy oai.
-Sánh văn võ ai bằng Nguyễn Phục?
Trên ngay vua dưới phúc vạn dân.
Trời Nam làm đấng thượng thân,
Nền vương càng vững mạch dân càng dài.
Nghĩ trong đời nhiều tệ ắt ghê.
Xấu danh nhục nước hổ thì,
Dân đà chung khổ còn gì hòa đau.
Vâng mệnh trời vì dân đánh tội,
Bốn phương vầy một mối xa thư.
Ra oai mở đức chở che,
Dân về tựa nước hiền về tựa non.
-Rượu hằng treo khuyên thưởng ba quân.
An hem cùng sức giúp dân,
Một niềm đốc thực chín lần đã hay
Phù nghĩa công tài nay ai sánh?
Còn những đấng văn chương biết lý,
Đông đầy triều khôn kể xiết xong.
Nguyên công Bùi công Lưu công,
Đấng dùng ích nước đấng dùng chăn dân.
Bè bè nhúc nhúc dưới loài,
Hổ chăng những đấng trên đời có danh?
Lộc nước dành nuôi quân thưởng sĩ,
Báo nộp về vàng để ruộng mua,
Dan tay kết đảng làm hồ,
Vào toan luồn lọt ra lo hiếp người.
- Muôn dân nhà đủ người no,
Cởi hờn vỗ dạ chẳng lo cửa cài.
-Khuyên văn vũ giữ then cầm mực,
Chớ tham giàu dại thác làm chi
Chước nào thơm để thẻ kia,
Kẻo phen có sử khen chê rằng hèn.
Việc nghèo hiềm khó khăn chớ ngại,
Kể chi khi nắng dãi mưa mưa rền.
Miễn là nước trị dân yên.
Khí thiêng tạo hóa có thường,
Sơn xuyên hiểm trở, phong cương khỏe bền.
Có người có vật tự nhiên,
Nhờ trong khí hóa hợp nên dân trời.
Hay đâu chữ nghĩa điều chương,
Lấy dân làm cửa, lấy hang làm nhà.
Năm mươi về mẹ bấy lâu,
Ngồi trên thế giới bảo nhau rằng vầy:
Binh Hùng anh cả trên này,
Làm vua ra trị nước này muôn dân.
- Gái trai già trẻ đẹp lòng
Trị trong dân vật, mở cong vương đồ.
- Muôn năm truyền dõi lâu xa,
Hanh thông hội gặp, thái hòa thời đăng.
Xa thư một mối lâng lâng,
Dân không tập ngụy, vật không bắt càn
- Ân vương sai tướng phá thành,
Binh dòng muôn đội, tướng tinh một nghìn.
Đạp bằng đất Việt sơn xuyên,
Có chẳng cho mọc, đường nên tuyệt người.
- Tự ấy Thái thú nước Ngô,
Tên là Thạch Đái sang mà cướp dân.
Nào ai là kẻ cấm ngăn,
Thuế chẳng có ngần dịch chẳng có ngơi.
- Trăm bốn mươi tám năm ròng,
Bắc sai sang nhậm, dân không còn người
- Loạn Nam biết mấy mươi lần,
Dân như đậu bánh bóc dần mà ăn
- Cướp người của chất bằng non,
Dân tựa gỗ tròn dầu mặc nẻo lăn
- Lạ thay ở huyện Tiên Du,
Đất thiêng Phù Đổng sinh sơ một người. Dung nhan diện mạo tót vời,
Có tài trợ quốc, có tài cứu dân.
- Chọn tài hào kiệt anh hùng,
Có mưu hộ quốc có lòng vực dân.
- Kể từ Hùng tổ trị dân,
Lên ngôi sánh với thánh nhân Đào đường.
Tới nay Chu mạt Noãn vương,
Ông cha con cháu giữ giàng trị dân.
- Nam biên lại bẵng bằng tờ
Nằm dù ngó cửa, ở dù an thân.
- Muôn dân từ ấy khỏi hờn
Nẻo sông khỏi lội, đường non khỏi trèo.
- Quét nhanh bụi bụi tro tàn,
Thu về thay thảy giang sơn bản đồ.
- Bắc Nam quét sạch bằng tờ,
Dời binh thanh giá định đô Long Thành,
Ngoài trần sa mạc quét thanh,
Âu vàng khỏe đặt, cung xanh vững vàng.
- Cầm quân ở đất Nam bang
Dặn làm vương cho chính an dân tình
- Thôi bèn tướng sĩ khởi trình
Vì dân ra sức đem binh dẹp loàn
- Thôi liền ban tước ban ân
Trên quan chỉ phí, dưới dân an lòng
Hiệu xưng là Triệu Việt Vương
Nước khỏe, binh cường, giặc hết an dân.
- Dân mừng xướng thái bình ca,
Đêm ngỡ những là ngày lại sáng lên
Mừng thay nước trị dân yên
Anh thánh, em hiền bốn bể làm tôi
- Hoàn thành đưa lại nước ta,
Sơ cẵng lập miếu phụng thờ Dương công.
Khắp hòa chư tướng ngoài trong,
Cùng sa nước mắt cùng lòng xót xa.
- Toan nhau nói sự mở đồ,
Tập tành lớn dạy để hòa trị dân
- Đinh Hoàng từ được Trần quyền
Đức muôn vỗ chúng, ân nguyền trị dân
- Vua bèn xa giá hoàn kinh,
Muôn dân mừng rước như quân rợp đường.
- Những sự thảm khốc người ta,
Lòng dân chẳng muốn bây giờ trừ đi.
Việc gì dân nghe thì nghe,
Bỏ lệ Kiệt, Trụ phản về Đường Ngu.
- Trong làm kiệm ước, ngoài trừ nhũng gian,
Thuế mười thu một dân an
- Chúng yêu trời cũng lòng yêu giữ giàng
- Thương dân giảm thuế quyên tô,
Luật lệnh dụng vừa, hình pháp dụng công.
- Thấy thương dân ngậm ngùi ngùi
Lập thờ một miếu trợ người phải oan.
- Chính hình điều luật rõ ràng
Cấm đường quyền thế, giới đường lạm dân.
- Sinh cầm Nguyên tướng họ Ô,
Thuyền Ngô chìm hết, quân Ngô tan tành.
Vua cùng chủ tướng hội binh,
Mừng khen Quốc Tuấn nên danh tướng tài .
Một nhà bốn bể sum vầy,
Thịnh như viêm hỏa, khỏe tày Thái Sơn.
- Bốn phương dân những lo phiền,
Loạn ly biết thưở nào yên nghiệp nhà
- Bấy giờ dân lại gian nan ghê đường
- Dấy từ Hoàng Phúc binh sang
Lấy tài tướng địa làm đường dạy dân
- Dặn dò vui nghiệp làm ăn
Lòng người đến hỏi, lòng dân dập dờn.
Ước mong thống nhất hoàn nguyên
Nước trong một mối dân an bốn bề
Kẻo còn kinh khủng loạn ly
Học thì thất nghiệp, nông thì thất cơ
- Hươu thành đôi đứa càng đua
Dân như cá cạn thôi cò thì lươn
Lòng người thảm khốc trăm đường
Đêm ngày trông thánh mở mang cõi bờ
-Tôi hiền chúa thánh, vui làm quy mô.
Muôn dân nhà đủ người no
Nước lặng bằng tờ, trị khỏe bằng non
- Việc nào việc chẳng sửa xong
Dân nào dân chẳng đẹp lòng thuở an
- Dân an nệm chiếu ức muôn,
Vật chẳng gầy mòn người chẳng gian tanh