Một số giải pháp đề xuất góp phần phát triển dịch vụ du lịch sinh thái tại Vườn Quốc gia Cúc Phương - Ninh Bình

Tài liệu Một số giải pháp đề xuất góp phần phát triển dịch vụ du lịch sinh thái tại Vườn Quốc gia Cúc Phương - Ninh Bình: ... Ebook Một số giải pháp đề xuất góp phần phát triển dịch vụ du lịch sinh thái tại Vườn Quốc gia Cúc Phương - Ninh Bình

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2410 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp đề xuất góp phần phát triển dịch vụ du lịch sinh thái tại Vườn Quốc gia Cúc Phương - Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Trong lịch sử nhân loại, du lịch được ghi nhận như một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người, và dần dần nó trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của xã hội hiện đại. Du lịch ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn cầu và trở thành một trong những hoạt động kinh tế hàng đầu của thế giới. Du lịch sinh thái là một bộ phận quan trọng của ngành du lịch với bản chất là gắn liền với các yếu tố môi trường sinh thái. Cùng với sự phát triển chung của ngành du lịch, DLST hiện có tốc độ tăng trưởng nhanh và thu hút được sự quan tâm của nhiều thành phần trong xã hội. Hoạt động du lịch sinh thái ngày càng nổi bật và khuyến khích phát triển, Vườn Quốc Gia và các khu Bảo Tồn thiên nhiên là một nơi lý tưởng để mọi người có cơ hội tham quan, giải trí, nâng cao nhận thức về môi trường. Vườn Quốc Gia Cúc Phương là đơn vị bảo tồn thiên nhiên được thành lập sớm nhất ở Việt Nam, VQG có nhiều loài động vật, thực vật quý giá, tính đa dạng sinh học, thiên nhiên phong phú. VQG Cúc Phương sớm trở thành một nơi thu hút các hoạt động tham quan giải trí, học tập, nghiên cứu khoa học của khách trong nước và quốc tế. Trong những năm gần đây số lượng khách du lịch đến thăm Vườn Quốc Gia đã tăng lên, mức độ tập trung khách ngày càng cao đã nảy sinh những bất cập trong mối quan hệ giữa hoạt động dịch vụ du lịch và công tác bảo tồn. Vì vậy, việc đánh giá tiềm năng du lịch của VQG, hiện trạng hoạt động du lịch với các vấn đề bảo tồn tự nhiên, với sự phát triển của cộng đồng của khu vực để từ đó đưa ra giải pháp thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng địa phương, nhằm đảm bảo mục tiêu bảo tồn và song song với việc mở rộng các hoạt động dịch vụ du lịch của VQG để đáp ứng nhu cầu của du khách là hết sức cần thiết. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của vấn đề vì vậy tôi lựa chọn đề tài “ Một số giải pháp đề xuất góp phần phát triển dịch vụ du lịch sinh thái tại VQG Cúc Phương – Ninh Bình ” - Mục tiêu nghiên cứu của khoá luận là: Trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng, tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại cơ sở, đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy mạnh hoạt động DLST gắn liền với bảo tồn thiên nhiên tại VQG Cúc phương - Ninh Bình. - Nội dung nghiên cứu của khoá luận bao gồm: Nghiên cứu cơ sở lý luận về thời gian quản lý và phát triển DLST. Nghiên cứu hiện trạng hoạt động dịch vụ DLST tại VQG Cúc Phương. Đề xuất một số giải pháp phát triển DLST tại VQG Cúc Phương. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp kế thừa tài liệu Phương pháp khảo sát thực tiễn Phương pháp này tìm hiểu địa bàn của ban du lịch tại VQG Cúc Phương, thẩm nhận giá trị tài nguyên trên cơ sở đó đề xuất được những giải pháp hợp lý và khả thi. - Phương pháp thống kê và phân tích kinh tế Các tài liệu thống kê được từ nguồn số liệu từ VQG Cúc Phương, trên cơ sở đó chọn lọc, xử lý, tập hợp các tài liệu, số liệu, các kết quả điều tra xã hội học. Qua đó cho phép xác định tính động lực, sự ảnh hưởng qua lại giữa phát triển du lịch với công tác bảo tồn thiên nhiên và giải pháp thúc đẩy dịch vụ nơi này. - Phương pháp chuyên gia Phỏng vấn cán bộ quản lý của ban du lịch và VQG Cúc Phương để nắm bắt được cơ chế chính sách liên quan đến việc tổ chức các hoạt động du lịch và thuận lợi và khó khăn của đơn vị trong giai đoạn hiện nay - Phương pháp phân tích xu thế Bản chất của phương pháp này là dựa vào quy luật biến động trong quá khứ để suy ra xu hướng phát triển trong tương lai. Phần I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI 1.1. Khái niệm về du lịch Trên thực tế du lịch đã được nhìn nhận từ nhiều phương diện khác nhau và có rất nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Những định nghĩa truyền thống thì chỉ quan niệm du lịch đơn giản là một kỳ nghỉ hay một chuyến đi để giải trí. Theo xu hướng hiện nay, du lịch được định nghĩa bao hàm các nội dung liên quan đến dạng chuyển cư đặc biệt, cách thức sử dụng thời gian tại nơi đến và các hoạt động kinh tế, xã hội liên quan diễn ra tại đó. Trong cuốn “Du lịch: Môi trường vật lý. Kinh tế và tác động xã hội” (1982) Mathieson và Wall đã đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của người dân đến những nơi ngoài khu vực cư trú và làm việc thường xuyên của họ, các hoạt động được thực hiện trong thời gian lưu trú tại những nơi đó và các tiện nghi được sinh ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ” Ở Việt Nam khái niệm này được định nghĩa chính thức trong pháp lệnh du lịch (1999) như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định ”. Du lịch là một ngành liên quan đến rất nhiều thành phần như: Du khách, phương tiện giao thông, địa bàn đón khách ở đó diễn ra các hoạt động du lịch cũng như các hoạt động kinh tế - xã hội liên quan đến du lịch. 1.2. Khái niệm và đặc trưng của du lịch sinh thái 1.2.1. Khái niệm du lịch sinh thái Từ những năm 80 DLST bắt đầu được thế giới quan tâm và thập kỷ 90 được dự đoán là “Thập kỷ của DLST”. Khái niệm du lịch sinh thái lần đầu tiên được đưa ra bởi Hector Ceballos - Lascurain, một nhà nghiên cứu tiên phong về loại hình du lịch này như sau: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị thay đổi với những mục tiêu đặc biệt: Nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới thực vật - động vật hoang dã cũng như những biểu thị văn hóa(cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này”. Chương trình du lịch sinh thái của hiệp hội bảo tồn thiên nhiên Quốc tế -IUCN thì đưa ra một khái niệm tương tự nhưng có đề cao trách nhiệm trong việc bảo tồn thiên nhiên và văn hóa bản địa cũng như lợi ích của cộng đồng địa phương: “DLST là loại hình du lịch và tham quan có trách nhiệm với môi trường tại những vùng còn tương đối nguyên sơ, để thưởng thức và hiểu biết thiên nhiên (và có kèm theo các đặc trưng văn hóa - quá khứ cũng như hiện tại) có hỗ trợ đối với bảo tồn, và có ít tác động từ du khách giúp cho sự tham gia tích cực có ích cho kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương”. Còn ở Việt Nam hội thảo “Xây dựng về chiến lược quốc gia về phát triển DLST tại Việt Nam đã đi đến thống nhất quan niệm về DLST như sau : “DLST là một loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa bản địa có tính giáo dục môi trường và đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. Hiệp hội du lịch sinh thái định nghĩa “Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương ”. Định nghĩa này bao hàm đầy đủ nội dung của DLST thống nhất về cơ bản với các quan niệm của các nhà khoa học thế giới. Khái quát lại có thể nói du lịch sinh thái được nhìn nhận như là du lịch lựa chọn những mặt tích cực của một số loại hình du lịch sau đây: -Du lịch thiên nhiên văn hóa bản địa -Du lịch có giáo dục môi trường -Du lịch ủng hộ bảo tồn -Du lịch hỗ trợ cộng đồng 1.2.2.Đặc trưng của du lịch sinh thái Sự khác biệt cơ bản của du lịch sinh thái với các loại du lịch khác ở việc đảm bảo đầy đủ các yếu tố đặc trưng chủ yếu sau: *Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên và các yếu tố văn hóa bản địa Đối tượng của DLST là những khu vực hấp dẫn về tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh học cao, còn tương đối nguyên sơ. Điều này giải thích tại sao hoạt động DLST thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên đặc biệt ở các Vườn Quốc Gia. *. Đảm bảo bền vững về sinh thái, ủng hộ bảo tồn. Đây là một đặc trưng khác biệt nổi bật của DLST vì nó được phát triển trong môi trường có những hấp dẫn về ưu thế tự nhiên trong DLST, hình thức, địa điểm và mức độ sử dụng cho các hoạt động du lịch phải được duy trì và quản lý trên cơ sở bền vững của hệ sinh thái và bản thân ngành du lịch. Điều này được thể hiện ở quy mô nhóm khách thường có số lượng nhỏ, yêu cầu sử dụng phương tiện, tiện nghi của du khách thường thấp hơn yêu cầu về kinh nghiệm du lịch có chất lượng. Các hoạt động trong DLST thường ít gây tác động đến môi trường, và du khách sẵn sàng chi trả cho việc bảo vệ môi trường. (Chủ yếu ở Bắc Mỹ và Châu Âu là loại khách có thu nhập cao, trình độ nhận thức và thẩm mỹ phù hợp) *. Có giáo dục môi trường (GDMT). Trong DLST, GDMT là yếu tố cơ bản thứ hai phân biệt nó với các loại hình du lịch thông thường khác. Giáo dục và thuyết minh bằng các nguồn thông tin thông qua tài liệu, hướng dẫn viên, các bảng biển trên tuyến, điểm tham quan góp phần làm giàu kinh nghiệm du lịch, nâng cao nhận thức về môi trường và bảo tồn. GDMT có tác dụng làm thay đổi thái độ của du khách cộng đồng và chính ngành du lịch đối với giá trị bảo tồn và sẽ góp phần tạo nên sự bền vững lâu dài của những khu tự nhiên. GDMT có thể coi là một công cụ quản lý hữu hiệu của du lịch bền vững. * Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia và hướng lợi ích từ du lịch DLST tạo việc làm, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương trên cơ sở cung cấp về kiến thức, kinh nghiệm thực tế để đa số người dân có thể tham gia vào việc quản lý, làm dịch vụ DLST, từ đó hướng họ tham gia vào công tác bảo tồn. Lợi ích mang lại từ du lịch phải lớn hơn sự trả giá về môi trường và văn hóa xã hội có thể nảy sinh mà địa phương phải gánh chịu. * Cung cấp các kinh nghiệm du lịch với chất lượng cao cho du khách về sự nâng cao hiểu biết môi trường du lịch, kinh nghiệm du lịch lý thú là sự tồn tại sống còn lâu dài của ngành DLST. Vì vậy các dịch vụ trong DLST tập trung vào việc đáp ứng những nhu cầu này nhiều hơn là các dịch vụ cho nhu cầu về tiện nghi. 1.3. Các nguyên tắc của du lịch sinh thái DLST được phát triển trên cơ sở những nguyên tắc hướng tới phát triển bền vững. Các nguyên tắc này không chỉ cho các nhà quy hoạch,các nhà quản lý,điều hành mà cả những hướng dẫn viên du lịch sinh thái và được tổng kết lại như sau: - Sử dụng tài nguyên bền vững: Sẽ khiến môi trường tự nhiên văn hóa, xã hội được duy trì và việc kinh doanh phát triển lâu dài. - Giảm tiêu thụ quá mức và xả thải nhằm giảm chi phí khôi phục các suy thoái môi trường, đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng du lịch. - Duy trì tính đa dạng: Là điều cơ bản cho du lịch bền vững và tạo cơ sở mạnh mẽ cho ngành công nghiệp này. - Lồng ghép du lịch vào quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia - Hỗ trợ nền kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường vừa để bảo vệ nền kinh tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường. - Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương tạo nên những lợi ích kinh tế lâu dài cho cộng đồng địa phương những người nên được quyền làm chủ trong sự phát triển và trong hoạch định du lịch. - Sự tư vấn của các nhóm quyền lợi và nhóm công chúng tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương các tổ chức và cơ quan là đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh. - Đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch nhằm thực thi sáng kiến và giải pháp PTBV, nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch. - Marketing du lịch một cách có trách nhiệm, phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, văn hóa, xã hội khu du lịch thường xuyên đáp ứng cho du khách những kinh nghiệm lý thú. - Triển khai các nghiên cứu nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, thường xuyên đáp ứng cho du khách những kinh nghiệm du lịch lý thú. Các nguyên tắc cho những nhà điều hành du lịch sinh thái: - Cung cấp các thông tin cơ bản cho khách về việc giảm thiểu các tác động của môi trường và văn hóa khi tham quan. - Cần cung cấp các thông tin qua hướng dẫn và tài liệu cho khách du lịch về văn hóa và môi trường ở nơi tham quan. - Giảm thiểu các tác động của khách thông qua việc nhắc nhở bằng lời hoặc hành động khi cần thiết. - Cung cấp các thông tin cần thiết và tạo cho các nhân viên có đủ khả năng giúp công ty hạn chế những tác động vào môi trường và văn hóa địa phương đón khách. - Sử dụng người địa phương vào mọi cương vị của doanh nghiệp - Phải là người ủng hộ bảo tồn của khu vực đón khách - Cung cấp các cơ sở ăn, nghỉ không gây ảnh hưởng có hại đến nguồn lực địa phương cũng như làm hại môi trường trong khi tạo mối quan hệ qua lại với cộng đồng địa phương. - Đảm bảo được sự lãnh đạo hợp lý, các nhóm thăm quan nhỏ để tối thiểu các tác động vào lãnh thổ đón khách - Tránh các khu vực ở đó không có sự quản lý và khách tham quan quá tải 1.4. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn ở Vườn Quốc Gia - Vai trò của VQG đối với du lịch sinh thái Theo tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới thì : Một vườn quốc gia là một lãnh thổ tương đối rộng trên đất liền hay trên biển mà : - Ở đó có một hay vài hệ sinh thái không bị thay đổi lớn do sự khai thác hay chiếm lĩnh của con người. Các loài thực, động vật, các đặc điểm hình thái, địa mạo và nơi cư trú của các loài hoặc các cảnh quan thiên nhiên đẹp trong đó là mối quan tâm cho nghiên cứu khoa học, cho giáo dục và giải trí - Ở đó ban quản lý thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc loại bỏ càng nhanh càng tốt sự khai thác hoặc chiếm lĩnh và tăng cường sự tôn trọng những đặc trưng về sinh thái, hình thái học và cảnh quan. - Ở đó cho phép khách du lịch đến thăm, dưới những điều kiện đặc biệt, cho các mục đích nghiên cứu, giáo dục, văn hóa, giải trí và lòng ngưỡng mộ. Trong hệ thống phân loại rừng đặc dụng Việt Nam: VQG “Là khu bảo vệ có giá trị sử dụng toàn diện về các mặt bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa học, bảo tồn di tích văn hóa phục vụ tham quan du lịch”. Như vậy với sự phong phú của tự nhiên, sự đa dạng của hệ thống sinh thái và các cảnh quan đẹp, các VQG là địa bàn thuận lợi cho việc phát triển DLST mang lại lợi ích về kinh tế - xã hội cho cộng đồng sở tại. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan điểm về mối quan hệ giữa phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên, mối quan hệ đó được tổng hợp lại thành ba dạng chính như sau: + Quan hệ cùng tồn tại: Giai đoạn ban đầu, khi du lịch chưa phát triển mức độ sử dụng tài nguyên thấp. Mối quan hệ thường thể hiện ở dạng quan hệ cùng tồn tại nghĩa là cả du lịch và bảo tồn có rất ít ảnh hưởng lẫn nhau. Mối quan hệ này cũng ít được người ta quan tâm đến bởi nó không nảy sinh nguy cơ làm thay đổi môi trường. + Quan hệ mâu thuẫn : Giai đoạn tiếp theo, nếu du lịch phát triển quá mức, đặc biệt khi du lịch đại chúng xuất hiện mà không quản lý tốt, không quan tâm đến bảo tồn thì mối quan hệ sẽ theo chiều hướng tiêu cực, quan hệ mâu thuẫn. Điều này thường xảy ra trong thực tế khi khả năng quản lý nhà nước về du lịch chưa theo kịp nhu cầu trong khi các công ty du lịch lại “gặt hái nóng vội”. Khi đó du lịch làm tổn hại lớn đến bảo tồn tự nhiên đây thường là vấn đề bức xúc ở các VQG và các khu bảo tồn thiên nhiên của các nước chậm phát triển. + Quan hệ cộng sinh : Nhưng nếu du lịch được quy hoạch và quản lý tốt phát triển hòa hợp với bảo tồn thiên nhiên thì mối quan hệ theo hướng tích cực - quan hệ cộng sinh. Có mối quan hệ này những giá trị thiên nhiên vẫn được bảo vệ, thậm trí ở điều kiện tốt hơn trong khi vẫn đảm bảo được chất lượng du lịch. Lúc này cả du lịch và bảo tồn thiên nhiên đều nhận được những lợi ích từ mối quan hệ giữa chúng và có sự hỗ trợ lẫn nhau. Trên thế giới nhiều nước đã làm được điều này. 1.5. Tổ chức quản lý dịch vụ du lịch 1.5.1 .Khái niệm về dịch vụ du lịch Dịch vụ du lịch là toàn bộ các hoạt động nhằm tạo ra các tiện nghi và làm dễ cho du khách trong việc mua và sử dụng dịch vụ hàng hóa trong quá trình du lịch. Như vậy dịch vụ du lịch chính là nội dung của hoạt động kinh doanh du lịch. Các đơn vị tổ chức du lịch bán các sản phẩm du lịch của mình thu lợi nhuận trên cơ sở đáp ứng tốt nhất nhu cầu của du khách. Hoạt động du lịch có những đặc điểm sau đây : - Hoạt động DVDL là một quá trình kéo dài về thời gian mở rộng về không gian do nhiều tổ chức thực hiện, chịu tác động của nhiều mối quan hệ. - Nội dung và phương pháp phục vụ du lịch đa dạng và phong phú. - Dịch vụ và hàng hóa phục vụ du lịch phong phú, đa dạng cả dưới dạng vật chất và phi vật chất. - Việc thực hiện các dịch vụ, hàng hóa phục vụ du lịch diễn ra đồng thời trên cùng một không gian, thời gian của quá trình tạo ra dịch vụ. 1.5.2 Các loại hình dịch vụ du lịch có thể được tổ chức tại VQG - Dịch vụ thăm quan và hướng dẫn tham quan du lịch. Mục đích thăm quan du lịch tại cácVQG của du khách không chỉ để thỏa mãn các nhu cầu thuần túy mà còn nhằm nâng cao hiểu biết và nhận thức về bảo tồn thiên nhiên. Chính vì vậy dịch vụ tham quan và hướng dẫn tham quan và hướng dẫn tham quan là loại hình dịch vụ chủ yếu trong các hoạt động dịch vụ du lịch ở các VQG. Để đáp ứng được mục tiêu bảo tồn, việc quản lý loại hình dịch vụ này phải theo hướng DLST. - Dịch vụ lưu trú, ăn uống và bán hàng Đây là các loại hình dịch vụ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của du khách, do vậy cũng như các cơ sở du lịch khác, dịch vụ này cũng được tổ chức cùng với dịch vụ tham quan, học tập và nghiên cứu. Để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách và thích ứng với cơ chế thị trường các loại hình dịch vụ này được tổ chức có quy hoạch trên cơ sở liên doanh liên kết và mở rộng sự tham gia của cộng đồng. - Dịch vụ vui chơi giải trí Đây là loại hình dịch vụ du lịch hấp dẫn đối khách du lịch đại chúng, ở các khu du lịch nếu tổ chức được các hoạt động này sẽ là một hoạt động thu hút khách. Đối với các VQG các hoạt động này cần có nhưng không khuyến khích để tránh sự tác động vào môi trường sinh thái. Do vậy việc tổ chức cần cân nhắc ở mức độ nào cho phù hợp và theo hướng khai thác và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Ngoài ra khi khách ngủ lại qua đêm cần phải tổ chức chương trình giao lưu văn hóa, văn nghệ, giữa khách du lịch và cán bộ VQG. Đặc biệt phát huy văn hóa, văn nghệ của người Mường để phục vụ khách qua đó nhằm mục đích giữ gìn bản sắc dân tộc bằng tiếng mường. Thêm vào đó còn có dịch vụ thuê xe đạp cho khách quốc tế khi họ có nhu cầu đi thưởng ngoạn, tham quan quang cảnh của những địa điểm du lịch.Tuy nhiên hình thức dịch vụ này chưa đem lại lợi nhuận cao nhưng nó lại không gây tổn hại đến môi trường và các loài thú được bảo tồn tại Vườn. 1.5.3 Các yếu tố sản xuất sử dụng trong quá trình du lịch - Yếu tố tài nguyên: Tài nguyên là yếu tố vô cùng quan trọng cho du lịch hình thành và phát triển. Cảnh quan thiên nhiên và di tích lịch sử văn hóa và những nền văn hóa đặc trưng mang đậm sắc thái dân tộc, bao giờ cũng thu hút mạnh mẽ lòng hiếu kỳ của khách du lịch. Do vậy muốn kinh doanh du lịch đạt hiệu quả cao căn cứ loại hình và qui mô dịch vụ cho phù hợp, đồng thời phải biết cách làm giàu tài nguyên trong quá trình du lịch. -Yêú tố về vốn: Kinh doanh du lịch đòi hỏi huy động nguồn vốn không nhỏ đặc biệt trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, nhà nghỉ, các khu vực vui chơi giải trí, phương tiện giao thông vận tải ... và cần sự đầu tư đồng bộ thì mới phát huy tốt hiệu quả. Ngành du lịch nước ta trong giai đoạn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư bởi nền kinh tế còn thấp kém khi nhu cầu du lịch lại phát triển quá nhanh. -Yếu tố về vật tư hàng hóa: Vật tư hàng hóa phục vụ du lịch rất phong phú đa dạng đòi hỏi chất lượng cao, khó bảo quản và giá cả thường rất cao. Song khối lượng vật tư hàng hóa tiêu thụ trong lĩnh vực này lại rất lớn, nếu tổ chức tiêu thụ tốt thì sẽ mang lại nguồn lợi khổng lồ.Thông thường khách du lịch xuất hiện ở đâu thì ở đó có hình thành dịch vụ bán hàng. 1.5.4 Marketing du lịch Marketing du lịch là sự ứng dụng khoa học Marketing vào lĩnh vực du lịch là hệ thống hoạt động và quản lý của công ty du lịch nó có vai trò liên kết hợp nhất giữa mong muốn của khách hàng mục tiêu, với các hoạt động sản xuất, tài chính và nhân sự của công ty du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất và sớm hơn các đối thủ cạnh tranh để đạt được mục đích của công ty. Như vậy Marketing du lịch đòi hỏi trước hết phải điều tra nắm bắt được nhu cầu của những đối tượng du khách sẽ đến với công ty trên cơ sở đó xây dựng chiến lược kinh doanh, xây dựng sản phẩm và tổ chức hệ thống mạng lưới dịch vụ phù hợp nhằm thu hút lượng khách lớn nhât, kinh doanh thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đáp ứng tốt nhu cầu của du khách. Phần II ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG 2.1 . Đặc điểm cơ bản của Vườn quốc gia Cúc Phương 2.1.1 Giới thiệu khái quát về VQG VQG Cúc Phương là khu rừng nguyên sinh còn sót lại trên dãy núi đá vôi nằm gần kề châu thổ Sông Hồng với nền văn minh lúa nước lâu đời của cư dân nước Việt. VQG Cúc Phương nằm cách thủ đô Hà Nội 120km về phía tây nam, nằm trên ranh giới của ba tỉnh Ninh Bình, Thanh Hoá và Hoà Bình, đây là một khu rừng nguyên sinh nhiệt đới và á nhiệt đới có nhiều loài động thực vật quý hiếm, có tính đa dạng sinh học rất cao phong phú, có giá trị về mặt văn hoá và lịch sử. Ngày 7/7/1962 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập khu rừng cấm Cúc Phương, là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên ở Việt nam với diện tích là 22.200 ha. Ngày 01/8/1996 rừng cấm Cúc Phương được đổi tên thànhVQG Cúc Phương. Từ đó đến nay, ngoài mục đích bảo tồn thiên nhiên, VQG Cúc Phương còn trở thành một địa điểm lý tưởng cho việc nghiên cứu khoa học, tham quan du lịch, giải trí, nghỉ ngơi cho mọi người. Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, VQG Cúc Phương đã lập được nhiều thành tích xuất sắc và luôn xứng đáng là đơn vị dẫn đầu trong công tác bảo tồn thiên nhiên ở Việt nam. VQG Cúc Phương đã được Nhà nước tặng huân chương độc lập hạng hai và danh hiệu đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. VQG Cúc Phương được xếp vào loại " là khu bảo vệ có giá trị sử dụng toàn diện về các mặt bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa học bảo tồn di tích văn hóa, phục vụ tham quan du lịch".VQG Cúc Phương được Nhà nước quy định ba chức năng cơ bản sau: - Bảo vệ thiên nhiên, bảo tồn di tích văn hoá - Nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu khoa học - Tổ chức phục vụ tham quan du lịch Để thực hiện các chức năng trên, luận chứng kinh tế - kỹ thuật đã xác định các nhiệm vụ cụ thể của Vườn như sau: + Quản lý bảo vệ toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên của Vườn, mọi giá trị tài nguyên văn hoá, lịch sử, khảo cổ, các cảnh quan có giá trị thẩm mỹ đặc biệt, phục hồi những khu vực đã bị tác động hoặc bị tàn phá. + Tổ chức điều tra, nghiên cứu khoa học, thực nghiệm phục vụ công tác bảo vệ, phục hồi quản lí và khai thác nguồn tài nguyên hợp lí. + Đảm nhiệm làm tốt dịch vụ du lịch sinh thái trên cơ sở tôn trọng luật lệ, nguyên tắc bảo vệ và sử dụng tài nguyên của VQG, tạo điều kiện cho mọi người tham quan, học tập, giải trí, thưởng thức giá trị của VQG, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường… 2.1.2 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của VQG Cúc Phương - Vị trí địa lý Cách biển đông 60km theo đường chim bay về phía tây, khu rừng Cúc Phương nổi lên như một ốc đảo xanh giữa đồng bằng của 4 huyện: Nho Quan (thuộc tỉnh Ninh Bình), Thạch Thành (thuộc tỉnh Thanh Hoá), Yên Thuỷ và Lạc Sơn (thuộc tỉnh Hoà Bình). Với vị trí địa lý nằm ở toạ độ: 20014' - 20024' vĩ độ bắc, 105029' - 105044' kinh độ đông. - VQG Cúc Phương cách thủ đô Hà Nội 120km về hướng tây nam theo đường ô tô, nằm không xa đường quốc lộ chính và chỉ cách quốc lộ 1A 35km, có đường giao thông vào dễ dàng tạo điều kiện thu hút khách tham quan. Hơn nữa do vị trí nằm gần thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế xã hội của cả nước nên có thể thu hút nguồn khách từ Hà Nội và các vùng lân cận thực hiện chuyến tham quan Cúc Phương khá tiện lợi với thời gian trong ngày. Cúc Phương lại nằm trong quần thể du lịch Ninh Bình nổi tiếng của cả nước với 18 điểm du lịch hấp dẫn như: Cố đô Hoa Lư lịch sử từng là trung tâm chính trị kinh tế, văn hoá của nước Đại cồ Việt, Nhà nước phong kiến trung ương độc quyền đầu tiên của Việt nam ở thế kỷ thứ X; Nhà thờ Phát Diệm - công trình văn hoá tôn giáo kết hợp hài hoà kiến trúc phương đông - phương tây… có nhiều hang động đẹp như "Nam thiên đệ nam động", động Vân trình; nhiều hồ nước đẹp: Hồ Đầm cút, hồ Yên quang, hồ Đồng chương có suối nước nóng Cúc Phương … khu thắng cảnh Tam Cốc - Bích Động. Ngoài ra VQG còn tồn tại hệ động thực vật quý hiếm có tên trong sách đỏ thế giới và Việt Nam như: Voọc quần đùi trắng, chồn bay, sóc bay, đại bàng… thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước, quốc tế và khách du lịch đến chiêm ngưỡng… với mật độ điểm du lịch cao và hấp dẫn đường giao thông đến Ninh Bình thuận lợi về cả đường thuỷ và đường bộ, có đường quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên việt chạy qua, khả năng thu hút khách du lịch đến Ninh Bình là rất lớn. Khoảng cách giữa các điểm du lịch hấp dẫn của Ninh Bình là ngắn, đi lại dễ dàng và việc kết hợp giữa các tour, tuyến du lịch của Cúc Phương với điểm du lịch tạo thành các tour du lịch hấp dẫn là khá thuận tiện, nên làm tăng khả năng thu hút khách du lịch đến với Cúc Phương, đặc biệt nguồn khách từ Hà Nội và các tỉnh lân cận. - Địa hình VQG Cúc Phương thuộc dạng địa hình Carsto, chủ yếu là đá vôi với nhiều đỉnh núi cao và các hang động có nhiều đỉnh núi cao và các hang động có nhiều nhũ đá đẹp có khả năng hấp dẫn khách du lịch, phục vụ tham quan, nghiên cứu như: Hang Đắng hay hang Dơi mà ngày nay gọi là động Người xưa, động Trăng khuyết, hang Con Moong, động Thuỷ Tiên, hang Phò Mã… những hồ nước nóng, những con suối chảy theo mùa, và cả những dòng suối ngầm làm nên nét độc đáo hấp dẫn riêng cho mình. Khoảng 3/4 diện tích Cúc Phương là núi đá vôi có độ cao tuyệt đối trung bình từ 300 - 400m. Với hai dãy núi cao chạy song song, ở giữa là thung lũng mở rộng về phía tây bắc và hẹp dần về phía đông nam tạo ra vùng tiểu khí hậu khá biệt lập. Với địa hình cao hơn hẳn so với khu vực lân cận Cúc Phương còn được ví như một "Hạ long cạn" hùng vĩ, và đây cũng là một trong những điều kiện thuận lợi để khu rừng này được bảo vệ tồn tại khá nguyên vẹn đến ngày nay, trước sức ép khai thác lâm sản của một biển người vây quanh trên đường ranh giới dài 120km. - Khí hậu, thuỷ văn Do đặc điểm của cấu tạo địa lý như trên nên khí hậu của Cúc Phương có nhiều điểm khác biệt. Khí hậu Cúc Phương thuộc khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá theo mùa. Do thảm thực vật dày, cùng với địa hình tương đối cao nên nhiệt độ ở đây luôn thấp hơn ở các vùng xung quanh. Nhiệt độ bình quân năm là 22,50C, nhiệt độ cao tuyệt đối là 390C, thấp tuyệt đối là 4,90C. Lượng mưa bình quân năm ở đây dao động từ 1.700 - 2.200mm, cơn mưa to thường xuất hiện vào cuối tháng 8 và tháng 9. Độ ẩm của Cúc Phương tương đối cao, bình quân là 85% và khá đều trong năm, tháng thấp nhất trong năm không dưới 75%. Cúc Phương một năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 - tháng 11 (lượng mưa 100mm trở lên) lượng mưa chiếm khoảng 88% tổng lượng mưa cả năm, mùa hanh khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau và lượng mưa chiếm khoảng 12%. Ở Cúc Phương một năm có khoảng 190 - 200 ngày mưa, số ngày không mưa đạt trên 150 ngày phù hợp với mức độ, khá thuận lợi cho hoạt động du lịch nhất là đối với du lịch sinh thái. Tuy nhiên vào những ngày mưa hoạt động du lịch bị hạn chế gây khó khăn cho việc đi lại, tham quan trong rừng của du khách vì có nhiều Vắt và đường khó đi. Nhìn chung khí hậu Cúc Phương phân theo mùa, mùa mưa gặp khó khăn đi lại, tham quan do hệ thống thoát nước là các dòng suối ngầm bị quá tải dẫn đến ngập lụt ở một vài nơi, đường đi bộ ở các tuyến tham quan có trở ngại. VQG Cúc Phương được đánh giá tổng hợp là khá thích nghi cho hoạt động du lịch, thời gian hoạt động du lịch ở đây kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12 và từ tháng 3 đến nửa đầu tháng 5 do tính phân mùa của khí hậu vì vậy hoạt động du lịch ở Cúc Phương cũng mang tính mùa vụ. Về thuỷ văn, Cúc Phương có hệ thống sông suối ít, song nguồn nước ngầm khá phong phú tạo nên nguồn cung cấp nước cho sông hồ xung quanh Vườn. Mặc dù lượng mưa lớn, song do đặc điểm địa hình Carsto nên nước rút nhanh xuống các bể nước ngầm, hạn chế việc hình thành các dòng chảy mặt. Trong khu vực VQG Cúc Phương chỉ có sông Bưởi và sông Ngang ở phía tây bắc có nước quanh năm, còn lại là các khe cạn, chỉ có nước về mùa mưa. Trong phần ranh giới Vườn không có hồ ao tự nhiên mà chỉ có những dòng suối cạn vào mùa khô, thường gây lũ nhỏ vào những tháng có lượng mưa lớn. + Sông Bưởi chảy từ phía nam của tỉnh Hoà Bình, cắt dọc phần phía tây của Vườn trước khi hoà với sông Ngang chạy dọc biên giới phía tây ở khu vực xã Thạch Lâm. Đây là hai con sông có giá trị cung cấp nguồn nước ngọt cho con người, động vật và tạo nên những cảnh quan hấp dẫn khách du lịch. + Cúc Phương về mùa mưa, nước rút vào các khe cạn rồi vào các vó nước, phía đông nam của Vườn còn có khu hồ Yên Quang, hồ này bao gồm 4 hồ liền nhau với diện tích khoảng 300 ha kéo dài 5km được xây dựng nhằm mục đích chứa nguồn nước ngầm từ khu núi đá vôi để cung cấp nước tưới cho khu vực sản xuất nông nghiệp góp phần cải thiện môi trường. Do vị thế của hồ tựa vào vách núi tạo nên một cảnh sắc sơn thuỷ hữu tình có giá trị về du lịch, giữa hồ còn có một hòn đảo nhỏ cây cối um tùm, có vài cây cổ thụ tán rộng bao vây lấy một miếu cổ. Vào mùa đông chim trời về đây chú ngụ tạo nên cảnh quan thiên nhiên thật trữ tình hấp dẫn khách xem chim. Ngoài ra, tại làng Thường Sung ở xã Kỳ Phú có nguồn nước khoáng từ trong lòng đất phun lên, trong suốt, không màu, không mùi, có nhiệt độ là 350. Nước này rất có lợi cho sức khoẻ khi ngâm mình trực tiếp tại nguồn. Hiện đã được sản xuất và trao đổi trên thị trường mang nhãn hiệu nước khoáng Cúc Phương. Tài nguyên thiên nhiên: Qua điều tra thống kê tổng hợp tài nguyên rừng và sử dụng đất của VQG Cúc Phương được thể hiện như sau: Biểu 01. Đặc điểm cơ cấu đất đai tài nguyên rừng của VQG STT Hạng Mục Diện tích (ha) Tỷ trọng (%) 1 I. Đất lâm nghiệp 21.811,6 24,60 2 1. Đất có rừng 16.686,3 18,82 3 1.1. Rừng tự nhiên 16.605,8 18,73 4 - Rừng gỗ núi đất 1.110,1 1,25 5 + Rừng giầu 526,8 0,59 6 + Rừng trung bình 328,8 0,37 7 + Rừng nghèo 240,0 0,27 8 + Rừng non phục hồi 14,5 0,02 9 - Rừng gỗ núi đá 15.307,4 17,27 10 Rừng tre nứa 188,3 0,21 11 1.2. Rừng trồng 80,5 0,09 12 2. Đất không có rừng 5.125,3 5,78 13 2.1. Núi đất 2.008,4 2,27 14 - Trảng cỏ 1.424,6 1,61 15 - Trảng cây bụi 342,1 0,39 16 - Cây gỗ rải rác 241,7 0,27 17 2.2. Núi đá 3.116,9 3,52 18 - Cây bụi 3.116,9 3,52 19 II. Đất nông nghiệp 78,9 0,09 20 III. Đất khác 305,5 0,34 Tổng 88.660,4 100 (Nguồn: số liệu thống kê của ban quản lý Rừng VQG Cúc Phương) Với hệ sinh thái rừng nhiệt đới ẩm trên núi đá vôi điển hình, Cúc Phương có tính đa dạng sinh học cao, đây là những tài nguyên thiên nhiên cho du lịch sinh t._.hái. Cúc Phương là nơi hội tụ của nhiều luồng thực vật và rất phong phú về loài. Theo số liệu điều tra gần đây Cúc Phương có gần 2000 loài thực vật, chiếm 17,27% trong tổng số loài thực vật ở Việt Nam. Đặc biệt Cúc Phương có nhiều loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Cấu trúc rừng mưa nhiệt đới, do vậy rừng Cúc Phương là rừng nhiều tầng, có nhiều cây gỗ lớn, có hoa quả trên thân… đây là những yếu tố kỳ thú đối với khách du lịch. Sự phong phú hấp dẫn của thế giới thực vật của Cúc Phương còn thể hiện ở sự đa dạng của các loài cây dây leo thân gỗ, hiện tượng cây phụ sinh, các loài đa bóp cổ … Nguồn tài nguyên thực vật đa dạng và phong phú này không chỉ có giá trị về mặt khoa học, mà còn thu hút khách du lịch với sự ngưỡng mộ và trân trọng. Khu hệ dộng vật Cúc Phương cũng rất phong phú, theo số liệu điều tra mới nhất, Cúc Phương có 89 loài thú, 307 loài chim, 110 loài bò sát và lưỡng cư, 65 loài cá và gần 2000 loài côn trùng. Trong các loài thú ở Cúc Phương, nhiều loại đã được xếp vào loại quý hiếm như Báo gấm, Báo lửa, Gấu ngựa và nhiều loài đặc hữu như sóc bụng đỏ. Cúc Phương có loài Linh trưởng rất đẹp, ngoài Việt Nam chúng không còn tồn tại nơi nào khác. Đó là loài Voọc mông trắng, chim gõ kiếm đầu đỏ, chim phượng hoàng đất. Chính vì vậy Cúc Phương được chọn là một trong những điểm xem chim lý tưởng cho các nhà khoa học trong và ngoài nước. 2.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội - Xã hội: VQG Cúc Phương nằm trong một phần đất đai của 15 xã, thuộc 4 huyện của 3 tỉnh.Với trên 80.000 nhân khẩu sống ở vùng đệm, mật độ chung cho toàn vùng gồm 15 xã là 138 người/km2 nhưng dân số phân bố không đều. Một số xã có mật độ dân số thấp như Cúc Phương 23 người/km2, Thạch Lâm 38 người/km2, Kỳ Phú 72 người/km2, Văn Phương 454 người/km2, Yên Trị 354 người/km2. Do đặc điểm dân cư chủ yếu tập trung ở vùng thấp gần các trục đường giao thông, nên phân bố lao động và sản xuất cũng tập trung chủ yếu ở đây. Dân tộc chủ yếu là người Mường và người Kinh. Người Mường chủ yếu phân bố ở các Bản vùng núi thuộc các xã Yên Nghiệp, Ân Nghĩa, Tân Mỹ, Thành Yên, Cúc Phương, Thạch Lâm. Dân tộc Mường thường sống tập trung thành những bản nhỏ từ 20 - 40 hộ ở các thung lũng có nguồn nước ổn định. Người Kinh sống ở làng bản gần đường giao thông và thị trấn. Tốc độ gia tăng dân số khá cao, các tập quán sản xuất, sinh hoạt còn lạc hậu. Từ nhiều thế kỷ người Mường đã định cư và phát triển ở vùng núi cao và hoàn toàn không phụ thuộc vào người Kinh sống ở vùng đồng bằng. Dân tộc Mường đã phát triển những phong tục tập quán và ngôn ngữ của họ khác biệt với dân tộc khác. Cư dân lâu đời ở đây là người dân tộc Mường có nét văn hoá - xã hội riêng biệt, đặc thù. Người Mường sinh sống trong các ngôi nhà sàn bên sườn đồi thành những Bản, họ đã cư trú ở đây 300 năm, sản xuất nông nghiệp là nghề chính, có thêm ngề dệt vải thổ cẩm, chủ yếu để dùng trong gia đình, nghề nuôi ong lấy mật. Công cụ sản xuất truyền thống của họ mang nặng tính bản sắc như con nước, cối giã gạo bằng sức nước, máng dẫn nước bằng ống bương, những khung cửi dệt vải thủ công, rìu nỏ làm bằng gỗ… Thêm vào đó là các trang phục độc đáo, nếp sống sinh hoạt đặc trưng bởi nhiều thế hệ sống chung trong một ngôi nhà, phong tục uống rượu cần, lễ hội Cồng chiêng, tục chơi xuân ném còn. Họ sống thật thà, gắn bó, thương yêu lẫn nhau và rất hiếu khách. Tuy nhiên các thôn bản ở gần đường giao thông không còn giữ được các bản sắc đặc thù của mình và đang hoà đồng với cách sống của người Kinh, chỉ còn một số bản ở phía tây của Vườn là khu vực thung lũng sông Bưởi như bản Khanh, xóm Voọc…Còn giữ được một số nét văn hoá sinh hoạt bản địa. - Kinh tế: Đời sống kinh tế của cộng đồng xung quanh Vườn nói chung còn nghèo, thu nhập của người dân chủ yếu là từ nông nghiệp, thu nhập bình quân 2.000.000 đồng / người/ năm. Trước đây thu nhập chính của họ là từ nông nghiệp, chủ yếu là gạo,ngô, mía, lạc. Cây lúa là cây lương thực chính của người dân, nhưng ở các cộng đồng xung quanh Vườn việc sản xuất lúa lại phụ thuộc vào rất nhiều vào nguồn nước từ con suối trong rừng chảy ra. Ngoài ra, các nguồn thu khác của họ đều bắt nguồn từ các sản phẩm rừng, sức lao động, các dịch vụ và các mặt hàng thủ công, các loại hình dịch vụ, công nghiệp và lao động làm thuê. Các sản phẩm chủ yếu mà cư dân khai thác và sử dụng đó là gỗ, củi, măng, các loại củ quả và hạt, cây thuốc, mọc nhĩ, phong lan. Động vật mà họ bắt và săn bắn đó là cua, ốc đá, cá, gà rừng, các loại bò sát (rắn, tắc kè). Thú và các loài động vật hoang dã khác, những hoạt động đốt rừng làm nương dẫy, chăn thả gia súc trong rừng cũng ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên ở đây. Hoạt động sinh kế của dân cư trong khu vực VQG đã và đang có nhiều ảnh hưởng xấu đến tài nguyên thiên nhiên của Vườn, đòi hỏi Ban quản lý phải có giải pháp hữu hiệu để vừa bảo vệ phát triển tài nguyên vừa nâng cao đời sống cho nhân dân địa phương. Thuộc địa hình Carsto che phủ, Cúc Phương có nhiều hang động đẹp, đặc biệt có một số hang động còn lưu giữ những di tích khảo cổ có giá trị như động Người xưa, hang Con moong. Qua việc khai quật ở hai động này người ta đã thu giữ được một số bộ xương người nguyên thuỷ và công cụ lao động bằng đá thuộc hai nền văn hoá Hoà Bình và Sơn Vĩ cách đây hàng nghìn năm. Các di chỉ này đã trở thành những vật chứng có giá trị khoa học, đồng thời cũng là yếu tố thu hút sự quan tâm của khách tham quan. Nhìn chung điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tài nguyên giàu có cùng với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ ở VQG Cúc Phương rất thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động tham quan du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái. Được nhà nước cho phép, nhiều năm qua VQG Cúc Phương đã tiến hành kinh doanh dịch vụ du lịch, song công tác quản lý, tổ chức của các hoạt động này còn nhiều điểm cần phải xem xét để cải tiến, sửa đổi bổ sung cho phù hợp và phát triển tốt hơn. 2.1.4. Cơ sở hạ tầng trong khu vực VQG. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật là tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, và nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch. - Hệ thống giao thông: Giao thông đến VQG Cúc Phương thuận lợi để thu hút khách du lịch. + Cách đường quốc lộ 1A là 20km, từ Gián Khẩu đến thị trấn Nho Quan theo đường Phà Đế (đường 12A). Từ Nho Quan vào đến cổng VQG khoảng 13km đường bê tông được nâng cấp từ năm 1994, là điều kiện khá thuận lợi cho khách du lịch từ Hà Nội và các tỉnh đồng bằng đến thăm quan VQG. Ngoài ra, các đường liên tỉnh, liên huyện khác cũng tạo điều kiện khá thuận lợi cho khách du lịch từ Hà Nội và các tỉnh đồng bằng đến thăm quan VQG. + Đường ô tô liên tỉnh từ Nho Quan đi Yên Thuỷ - Lạc Thuỷ - Hoà Bình; đường ô tô Lạc Sơn - Thạch Thành - Thanh Hoá, hiện đang dự kiến nằm trong dự án đường quốc lộ 1B (đường Hồ Chí Minh). Tuyến ô tô vào trung tâm Vườn tạo nên tuyến đầu mối cho các tuyến tham quan trong Vườn. + Tuyến đường chính từ cổng Vườn vào khu trung tâm đã cải tạo thành đường bê tông, nhựa, rộng 3 - 3,5m. Xe chở khách vào thẳng khu trung tâm, nơi tập kết để thực hiện các điểm, tuyến tham quan trong Vườn. Tổng chiều dài tất cả các tuyến đường mòn đi bộ tham quan khoảng 30km. Tuy nhiên, vào mùa mưa, một số đoạn đườn từ quốc lộ 1A đến thị trấn Nho Quan và từ khu hành chính vào trung tâm Vường bị ngập, gây khó khăn cho việc đi lại nói chung và cho du lịch nói riêng. Ngoài ra chất lượng của một số tuyến đường liên tỉnh còn thấp, hạn chế khả năng thu hút luồng khách đến tham quan từ những tuyến đường này. - Thông tin liên lạc: Trước đây mạng lưới thông tin liên lạc ở Vườn còn gặp khó khăn vì chưa có sóng điện thoại di động, mà liên lạc chủ yếu bằng điện thoại bàn và chỉ có đến cổng Vườn. Trong trung tâm Bống cũng chưa có mạng lưới, hệ thống máy fax và email cũng chỉ đến đó. Mọi thông tin từ cổng Vườn vào trung tâm đều phải đưa đến tận nơi thông qua phương tiện giao thông. Hiện tại bây giờ đã có lưới điện và sóng điện thoại di động đến khu vực hồ Mạc (qua cổng Vườn vào phía trong 1km). Theo phản ánh của một số khách du lịch thì lượng khách nghỉ lại qua đêm chưa nhiều một phần vì lý do thiếu thông tin. - Hệ thống cấp điện: Hệ thống lưới điện của Vườn được nối từ thị trấn Nho Quan đến cổng Vườn, về mùa mưa vẫn còn xẩy ra mất điện do cây đổ hoặc tập trung điện cho chống lụt ở vùng lân cận. Nguồn điện này đảm bảo thuận tiện cho việc sử dụng các phương pháp thiết yếu cho nhu cầu của khách (quạt điện, điều hoà, nước nóng, tivi…) Ngoài ra, VQG có hai máy phát điện có công suất 75KVA và 8KVA. Một máy dự phòng khi cần thiết cho khu trụ sở chính cổng Vườn. Máy kia dùng phát điện tại khu trung tâm Vườn vào buổi tối (từ 6h đến 10h) vì khu này chưa được cung cấp điện lưới quốc gia. Vì vậy khách nghỉ lại trong khu nhà nghỉ ở trung tâm Vườn là những khách không đòi hỏi các yêu cầu tiện nghi cao, phù hợp với khách du lịch sinh thái đích thực, thích gần gũi với thiên nhiên. - Hệ thống cấp thoát nước và xử lý nước thải: Khu vực cổng Vườn đã có hệ thống nước máy và xử lý nước sạch, về căn bản là đáp ứng được nhu cầu sử dụng. Khu vực trung tâm sử dụng nguồn nước tự nhiên thông qua bể chứa. Nước tự nhiên ở rừng Cúc Phương trong, sạch, có thể dùng làm nước sinh hoạt. Tuy nhiên, hàm lượng vôi không được xử lý cũng phần nào không tốt cho sức khoẻ nếu sử dụng lâu dài. Nước thải được sử lý bằng phương pháp thấm, phân huỷ thông qua bể phốt, nước rửa ở nhà ăn được dẫn qua cống rãnh và tự thấm vào lòng đất. Rác thải chưa được phân loại mà được xử lý thô sơ bằng cách đốt hoặc chôn. Lượng khách đến Cúc Phương ngày càng tăng, rác thải ngày càng nhiều. Để giải quyết vấn đề này, VQG Cúc Phương đang có kế hoạch phối hợp với Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Ninh Bình xây dựng hệ thống xử lý chất thải giảm thiểu sự tác động xấu đến môi trường. 2.2.Tình hình tổ chức hoạt động du lịch sinh thái tại VQG Cúc phương 2.2.1. Tổ chức quản lý hoạt động du lịch sinh thái VQG Cúc Phương hiện nay có 112 cán bộ công nhân viên được chia thành các bộ phận sau đây: * Lãnh đạo VQG: -Có 1Giám đốc -2 phó Giám đốc * Các phòng ban chức năng: - Phòng Tổ chức hành chính - Phòng Kế hoạch tài vụ - Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế * Các đơn vị cơ sở: - Hạt kiểm lâm - Trạm nghiên cứu khoa học - Ban du lịch Các hoạt động du lịch hoàn toàn do sự điều hành và giám sát của Ban giám đốc, giám đốc là người đứng đầu và trực tiếp điều hành mọi hoạt động của Vườn. Phó giám đốc (2 người) tham mưu giúp việc cho giám đốc. Gồm có ba đơn vị trực thuộc và ba phòng chức năng thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu như sau: Phòng Tổ chức hành chính có nhiệm vụ tham mưu giúp cho giám đốc trong việc định ra đường lối, sắp xếp lao động một cách hợp lý, xây dựng kế hoạch quản lý cán bộ công nhân viên trong Vườn. Phòng Kế hoạch tài vụ quản lý vốn, tài sản của Vườn, tham mưu cho giám đốc sử dụng vốn kinh doanh đạt hiệu quả cao, tăng nhanh, thay mặt Vườn kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh củaVườn. Phòng Khoa học và hợp tác quốc tế nhiệm vụ phòng này chủ yếu thực hiện các dự án trong Vườn quan hệ với các tổ chức nước ngoài thực hiện dự án đầu tư nghiên cứu về khoa học nghiên cứu bảo tồn loài. Hạt kiểm lâm chức năng chính của đơn vị này là làm công tác quản lý rừng và bảo vệ rừng. Trạm nghiên cứu khoa học chủ yếu là nghiên cứu các công trình khoa học tạo nguồn giống lai ghép các nguồn gen mới. Ban du lịch chủ yếu làm công tác đón tiếp khách đến thăm Vườn hướng dẫn điều tiết khách sao cho hợp lý, ngoài ra còn một công việc rất quan trọng là làm công tác bảo tồn để người dân và du khách nhận thức được tầm quan trọng của việc làm này trong đó ban du lịch là một trong ba đơn vị cơ sở thực hiện nhiệm vụ tổ chức du lịch. Như vậy Ban du lịch là đơn vị cơ sở chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của giám đốc Vườn. Theo sơ đồ 01 dưới đây ta thấy với mô hình quản lí này, các hoạt động du lịch hoàn toàn do sự điều hành và giám sát của Ban quản lý VQG. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp giữa hoạt động du lịch với công tác bảo tồn của VQG. Ban quản lý VQG có thể chủ động trong việc quy hoạch, điều chỉnh các hoạt động du lịch cho phù hợp với nhiệm vụ, chức năng của Vườn đó là bảo tồn và nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ môi trường. Sơ đồ 01: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của VQG Cúc Phương BGD Các Bộ phận cơ sở Trạm NC KH Ban du lịch Phòng KH và HTQT Phòng TCHC Hạt KL Phòng KH TV Ngoài các bộ phận chính ở trên, VQG còn có một số bộ phận phục vụ công tác nghiên cứu khoa học sau đây: * Trung tâm cứu hộ thú linh trưởng Được xây dựng năm 1994 nhằm cứu hộ linh trưởng bắt được từ các vụ buôn bán động vật hoang dã trái phép, nuôi dưỡng và thả chúng về tự nhiên. Đây là trung tâm cứu hộ linh trưởng đầu tiên ở Đông Nam á. Hiện cứu hộ và nuôi dưỡng được 116 cá thể thuộc 16 loài và phân loài linh trưởng và đối tượng có nguy cơ tuyệt chủng. Trung tâm là điểm thăm quan có ý nghĩa cao trong việc bảo vệ tính đa dạng sinh học. * Khu nghiên cứu Cầy vằn: Chuyên thực hiện chương trình cứu hộ, sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt và nghiên cứu đặc tính sinh thái Cầy vằn để phục vụ bảo tồn. * Khu bảo tồn rùa: Được xây dựng theo dự án bảo tồn Rùa cạn và Rùa nước ngọt với mục đích nghiên cứu, cứu hộ và trả về với tự nhiên. * Vườn thực vật: Với diện tích hơn 100 ha hiện đã trồng để nghiên cứu 336 loài cây, đồng thời cũng là nơi thuần dưỡng Hươu với mục tiêu bảo tồn và phát triển loài Hươu sao của Việt nam. * Trung tâm du khách: Là trung tâm giáo dục nâng cao nhận thức bảo tồn cho du khách và đặc biệt cho người dân vùng đệm, đồng thời cũng là nơi cung cấp mọi thông tin về Vườn cho khách du lịch. Nếu được khai thác hợp lý cho khách tham quan, các cơ sở có ý nghĩa không nhỏ trong việc bổ sung kinh nghiệm du lịch, đóng góp nâng cao nhận thức về giá trị sinh thái tự nhiên và ý nghĩa bảo tồn, tăng cường quỹ ủng hộ của khách cho việc nghiên cứu cũng như hỗ trợ cho bảo tồn của VQG. 2.2.2 Tình hình tổ chức quản lý hoạt động du lịch sinh thái của VQG Đầu năm 2002, công tác nhân sự, tổ chức hoạt động du lịch đã được triển khai đồng bộ từ khâu đề bạt cán bộ, sắp xếp kiện toàn tổ chức các tổ (quyết dịnh thành lập 6 tổ, đề bạt một phó ban) giúp cho công tác quản lý kinh doanh du lịch được đẩy mạnh lên một bước cao hơn. Sơ đồ 02: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Ban du lịch Tổ hồ mạc Tổ buồng Tổ hướng dẫn Trưởng ban Tổ trung tâm Tổ dịch vụ Hoạt động du lịch sinh thái được giao cho Ban quản lý. Ban Du lịch của VQG Cúc Phương gồm 41 người, trong đó cán bộ viên chức là 10 người và lao động hợp đồng là 31 người. Gồm 1 trưởng ban và một phó ban, 8 hướng dẫn viên, 2 nhân viên lễ tân, 1 kế toán, 1 bảo vệ, một lái xe còn lại là các nhân viên phục vụ trong các dịch vụ buồng nghỉ, ăn uống, bán hàng. Tuy nhiên vào những dịp đông khách, đơn vị phải sử dụng thêm lao động thuê khoán và hợp đồng theo mùa vụ. Ban du lịch chủ yếu thực hiện hoạt động sau đây: + Tổ chức hướng dẫn thăm quan + Phục vụ nhà nghỉ + Kinh doanh phục vụ khách Du lịch: ăn uống, bán quà lưu niệm Lực lượng lao động của các tổ được nêu trên biểu 02 Biểu 02: Cơ cấu lao động của Ban du lịch TT Bộ phận Số lượng Phân theo cấp độ quản lý Phân theo trình độ Chính thức Hợp đồng Đại Học Cao Đẳng Trung cấp LĐ Phổ thông 1 Lãnh đạo ban 4 2 0 2 0 0 0 2 Tổ hướng dẫn du lịch 24 1 12 5 1 5 0 3 Tổ phục vụ buồng 12 3 3 0 0 3 3 4 Tổ dịch vụ cổng Vườn 10 1 8 0 0 1 0 5 Tổ dịch vụ Hồ Mạc 13 2 3 1 0 2 5 6 Tổ dịch vụ trung tâm 19 1 5 1 0 2 10 7 Tổ đại diện Hà Nội 4 2 0 2 0 0 0 Tổng 86 12 31 11 1 13 18 (Nguồn: Số liệu thống kê của ban du lịch VQG Cúc Phương, 2004) Nhìn chung đội ngũ lao động ở đây còn bị thiếu hụt về trình độ chuyên môn, cán bộ đại học, cao đẳng và trung cấp chỉ có hai người được đào tạo đúng chuyên ngành du lịch, còn lại 20 người làm trái ngành nghề. Trong số nhân viên làm việc thường xuyên có 9 người chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ. Số người biết ngoại ngữ không ít song trình độ thấp, phần đa đạt chứng chỉ từ A đến B. Có nhiều người giao tiếp được là do tự học bởi môi trường trong VQG có nhiều người nước ngoài đến đây với mục đích là nghiên cứu khoa học và làm việc ở khu bảo tồn vì vậy mà họ có cơ hội để tự học tiếng anh là cao hơn. Nội dung hoạt động của các tổ như sau: - Dịch vụ tham quan và hướng dẫn tham quan. Khách đến Cúc Phương sau khi mua vé, được giới thiệu khái quát về các tuyến điểm tham quan. Tuỳ thuộc vào thời gian lưu trú khách có thể lựa chọn các chương trình tham quan phù hợp. + Tổ hướng dẫn gồm 10 người chuyên làm nhiệm vụ tiếp đón, giới thiệu, cung cấp mọi thông tin về Vườn cho du khách, xây dựng lịch trình tham quan và hướng dẫn cho khách tham quan theo chương trình đó, phù hợp với thời gian và nhu cầu của khách. + Tổ dịch vụ nhà nghỉ: Hiện nay ở VQG Cúc Phương tổ chức thành 3 khu nhà nghỉ cho du khách nghỉ lại qua đêm là khu cổng Vườn, khu trung tâm và Hồ Mạc. Tổng số nhà nghỉ có thể đáp ứng cho 326 chỗ nghỉ, ngoài ra phục vụ được cho 150 chỗ nghỉ bằng hình thức cắm trại ngoài trời. Vào tối thứ 7 hàng tuần thì tổ chức giao lưu văn hoá, văn nghệ cùng với các trò chơi để khách du lịch được thoả mãn với chuyến đi du lịch của mình. + Tổ dịch vụ cổng Vườn: Chuyên làm công việc đón tiếp khách , cho khách quốc tế thuê xe đạp bán quà lưu niệm đưa khách du lịch đi thăm quan nơi lân cận và vào bên trong trung tâm. + Tổ dịch vụ Hồ Mạc: Tổ này chủ yếu phục vụ cho khách du lịch về ăn uống, nghỉ ngơi ban ngày khách đi bè mảng, câu cá trên hồ cắm trại ngoài trời giao lưu văn hoá văn nghệ giữa những đoàn khách thăm quan tạo nên bầu không khí vui vẻ làm hài lòng du khách. + Tổ khu trung tâm: Do tổ này cách xa tổ Hồ Mạc và cổng Vườn nên điều kiện để phục vụ khách rất khó khăn phải thuê xe chở thực phẩm từ thị trấn Nho Quan vào nên điều kiện đi lại không thuận lợi. Hơn nữa trong trung tâm chưa có điện lưới nên khách lưu trú nơi này ít hơn. Ngoài ra các dịch vụ ăn uống và bán hàng cũng được tổ chức theo 3 khu vực, với tổng số 5 quầy bán hàng, 3 nhà ăn. - Dịch vụ vui chơi giải trí và các loại hình dịch vụ khác còn hạn chế. - Hoạt động tuyên truyền quảng cáo Hoạt động kinh doanh du lịch ở VQG Cúc Phương chưa xúc tiến làm Marketing mà các sản phẩm du lịch thường được xây dựng qua ý tưởng của các nhà lãnh đạo cùng với kinh nghiệm đúc kết trong quá trình công tác hoặc học tập theo một số mô hình nước ngoài, song riêng mảng quảng cáo thì đã được tiến hành từ cách đây nhiều năm dưới góc độ khoa học và bảo tồn. Hiện nay VQG Cúc Phương đã có các sản phẩm tuyên truyền quảng cáo như thông tin trên mạng internet (website: www.vqgcucphuong.com.vn). Những cuốn phim giới thiệu cho khách du lịch và một số ấn bản khoa học về VQG Cúc Phương. Hai năm trở lại đây, Ban Du lịch đã có tài liệu giới thiệu gửi đi quảng bá và liên kết với một số công ty du lịch lữ hành tại Hà Nội để thu hút thêm nguồn khách. Cơ chế chính sách về tổ chức kinh doanh du lịch: VQG Cúc Phương nói riêng và các VQG ở Việt Nam nói chung đang tổ chức hoạt động tham quan du lịch theo tinh thần của quy chế rừng đặc dụng được ban hành theo quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy chế này thì nhà nước khuyến khích mạnh mẽ các VQG phát triển du lịch nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến mục tiêu bảo tồn thiên nhiên. Vì vậy hoạt động du lịch xây thành dự án riêng và phải được cấp trên quản lý trực tiếp phê duyệt. Trên thực thế ở nước ta chưa có VQG nào xây dựng thành dự án du lịch. Hơn nữa Bộ Nông nghiệp và PTNT chưa phối hợp với các bộ, ngành liên quan để ban hành các quy định cụ thể về việc tổ chức các hoạt động du lịch ở rừng đặc dụng như quy chế đã nêu. Do vậy hành lang pháp lý cho việc phát triển du lịch ở các VQG còn chưa rõ ràng, đặc biệt là cơ chế đầu tư và liên doanh liên kết. 2.2.3. Cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh du lịch Cơ sở lưu trú: Hiện nay các khu nhà nghỉ của VQG Cúc Phương được bố trí ở ba khu vực là: Khu cổng Vườn, khu trung tâm và khu Hồ Mạc. - Khu cổng Vườn là khu nhà nghỉ chính có 2 nhà 2 tầng, 2 dãy nhà cấp III, 1 nhà sàn, 2 dãy nhà cấp IV và 4 kiểu nhà Bugalow (nhà Luồng) với chủ yếu là phòng đơn khép kín và có thể đáp ứng 152 chỗ nghỉ lại. - Khu trung tâm có 4 nhà Bungalow, 2 nhà sàn và 1 nhà 2 tầng với tổng sức chứa là 86 chỗ nghỉ. Ở đây được chia thành 2 khu nhỏ, một cho các đoàn ít người đi du lịch dưới dạng du lịch sinh thái và một khu nhà giành cho các đoàn tập thể đi du lịch đại chúng. Hình thức lều trại được cho phép dựng ở 2 vị trí cố định ở khu cổng Vườn và khu trung tâm Bống cho các đoàn học sinh - sinh viên có nhu cầu hoặc Ban du lịch không còn chỗ nghỉ. Đây là hình thức được họ rất ưa thích, nhưng để hạn chế các tác động ảnh hưởng đến môi trường thiên nhiên VQG (vệ sinh, tiếng ồn ban đêm, đốt lửa trại dễ gây cháy rừng…). Vườn chỉ cho phép (lều trại) dựng 2 - 3 lều trại, như vậy đáp ứng chỗ nghỉ cho 80 - 100 người. - Khu Hồ Mạc là khu nhà nghỉ mới xây dựng, gồm có 3 nhà Bungalow và 2 nhà sàn tập thể với tổng sức chứa là 88 chỗ nghỉ. Ngoài ra ở khu trung tâm và khu Hồ Mạc còn bố trí 8 nhà bạt kiểu Camping với sức chứa khoảng 150 chỗ nghỉ cho đối tượng là học sinh, sinh viên. Số phòng nghỉ ở VQG Cúc Phương không phải là ít, nhưng phân bố không tập trung, chất lượng phòng lại rất khác nhau nên không đáp ứng được nhu cầu của các đoàn khách đông người. Nhiều phòng nghỉ đang xuống cấp mạnh, nhưng chưa có kinh phí để sửa chữa, nâng cấp. Theo thống kê của Ban du lịch hiệu suất sử dụng phòng hàng năm chỉ đạt từ 17 đến 20%. Song lại không đủ đáp ứng nhu cầu vào những thời điểm đông khách, nhất là vào các ngày lễ. Nhiều đoàn khách không đăng ký lưu trú trước phải quay ra nghỉ nhờ nhà dân hoặc ra thị trấn Nho Quan. Biểu 03: Số lượng phòng nghỉ ở Ban du lịch TT Loại phòng Khu cổng vườn Khu hồ mạc Khu trung tâm Tổng số số phòng số giường số phòng số giường số phòng số giường phòng giường 1 Phòng tốt khép kín 22 44 4 8 4 8 30 60 2 Phòng TB khép kín 12 36 0 0 0 0 12 36 3 Phòng thường khép kín 6 12 0 0 7 17 13 29 4 Phòng thường không khép kín 0 0 0 0 6 24 6 24 5 Nhà tập thể 3 6 0 0 0 0 3 60 6 Nhà sàn tập thể 0 0 2 80 1 40 3 120 (Nguồn:Số liệu thống kê của Ban Du Lịch VQG Cúc Phương) Việc khách không đăng ký lưu trú trước đã gây sự mất chủ động trong đón tiếp phục vụ nhu cầu khách cả về chỗ nghỉ lẫn ăn uống… làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ của Vườn. - Cơ sở dịch vụ đón tiếp khách: Khu đón khách ở cổng Vườn có nhiệm vụ đón tiếp, thu lệ phí tham quan, hướng dẫn sơ đồ tham quan và phổ biến các nội quy cần thiết cho khách. Vườn có một phòng dành riêng cho việc giới thiệu về VQG Cúc Phương, nâng cao nhận thức môi trường cho các đoàn khách đến tham quan thông qua việc chiếu các băng video về VQG Cúc Phương và sự thuyết trình của các hướng dẫn viên. Nhưng thực tế chỉ có một số ít đoàn khách vào nghe một là do xe của họ chỉ dừng ít phút ở phòng lễ tân để mua vé, hai là do tâm lý thích được tự do thoải mái, đến đây chỉ nhằm vui chơi chứ không thích tìm hiểu sâu về ý thức bảo vệ môi trường. Nếu có thì chỉ là đoàn học sinh, sinh viên của các trường đến thực tập. Vì thế chức năng nâng cao nhận thức, bảo vệ môi trường của phòng này không được đảm bảo cho mọi đoàn khách đến đây. Ở trung tâm Vườn có hai khu vực phía dưới các nhà sàn (ở khu A và kh B) là nơi để khách nghỉ ngơi, ăn uống trước hoặc sau khi đi tham quan. Ngoài ra còn có hai hội trường: một ở khu cổng Vườn và một ở khu trung tâm để phục vụ nhu cầu hội nghị hoặc hội họp của các đoàn khách tham quan với sức chứa khoảng 150 - 200 người/ một hội trường. - Cơ sở dịch vụ ăn uống: Vườn có ba nhà ăn phục vụ khách bố trí ở cạnh ba khu: khu vườn, khu hồ Mạc và khu trung tâm nhà nghỉ với tổng năng lực phục vụ khoảng 300 lượt khách ăn cho một bữa với chất lượng phục vụ ở mức trung bình, chỉ có một nhà ăn phục vụ được khoảng 40 người ở khu cổng Vườn là đạt tiêu chuẩn nhà hàng khách du lịch. Đặt ăn ở Cúc Phương thường phải đặt trước bằng điện thoại, nhất là những đoàn ăn có số người đông, có mức ăn cao. Nếu đặt tại chỗ thì thường phải chờ đợi. Cũng do còn hạn chế về khả năng phục vụ ăn uống mà rất nhiều đoàn khách mang theo đồ ăn sẵn từ ngoài vào. Nhìn chung dịch vụ ăn uống ở khu du lịch Cúc Phương còn chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách. + Cở sở dịch vụ bán hàng: VQG Cúc Phương có tổng số 5 quầy bán hàng phục vụ khách du lịch, ở khu cổng Vườn có 2 quầy, khu hồ Mạc 1 quầy, khu trung tâm 1 quầy và chân động Người Xưa một quầy. Các quầy hàng này chủ yếu bán một số loại đồ uống, bánh kẹo, thuốc lá. Các mặt hàng lưu niệm đũa kim giao, một vài sản phẩm trang phục của người mường, một số tranh ảnh, sách giới thiệu về VQG. Và đặc biệt có rượu nhung hươu và rượu mơ do Vườn sản xuất được coi là hương vị riêng của Vườn nhưng chỉ có một số ít khách mua. Vườn mới bổ sung thêm một cửa hàng lưu niệm cùng nhiều mặt hàng lưu niệm mẫu mã đẹp, giá cả phù hợp với nhiều đối tượng. Trên một địa bàn rộng mà chỉ tổ chức 5 quầy bán hàng là quá ít, song vì khu du lịch ở tách biệt với các vùng dân cư, Vườn lại chưa mở rộng cho người dân vào tham gia kinh doanh vì lý do bảo tồn. Vì vậy mà dịch vụ bán hàng mới chỉ đáp ứng ở mức độ thấp. - Cở sở vui chơi giải trí và các dịch vụ khác: Hiện tại VQG chưa có các loại hình vui chơi giải trí tại khu dịch vụ, ngoại trừ một bể bới ở khu trung tâm Bống mới được đưa vào khai thác để phục vụ cho hoạt động của các đoàn khách lưu lại, VQG Cúc Phương có một nhà hội thảo 300 chỗ ngồi, một phòng họp 40 chỗ ngồi, một ô tô nisan tải và một số phương tiện phục vụ khác. Thông thường các cơ sở du lịch xây dựng các khu vui chơi giải trí cho khách du lịch, nhưng ở VQG Cúc Phương khâu này chưa được đầu tư nhiều, chỉ mới tổ chức hoạt động chèo mảng, nhà nổi trên hồ Mạc, sân vui chơi thể thao và sân đốt lửa trại. 2.2.4. Các sản phẩm du lịch tiềm năng của VQG Các điểm hấp dẫn về tự nhiên, văn hoá, lịch sử được kết hợp với nhau về lãnh thổ tạo thành các tuyến tham quan. Hiện trong VQG đã hình thành 5 tuyến tham quan chính: * Tuyến thứ nhất: khu đón khách - động Người Xưa, cây Đăng đại thụ. Đây là tuyến gần nhất, xuất phát từ khu đón khách theo đường ô tô vào trung tâm, cách cổng Vườn khoảng 7km, bên phải là lối vào động Người Xưa. Cách đường khoảng 500m theo lối mòn đi bộ tới chân núi một thang sắt dẫn lên cửa động, tạo điều kiện dễ dàng cho khách có thể vào tham quan động. Trở lại đường ô tô đi thêm khoảng 2 km, phía bên trái có lối mòn đến cây Đăng đại thụ thẳng đứng với chiều cao trên 45m, đường kính 5m. Đường đến cây Đăng được dẫn qua một thung gọi là thung bể cạn, có các loài cây khác nhau như: cây "Quan âm ngự toà sen", cây "Một hoa 7 lá", cây "Đơn gối hạc" cao tới 5-7m (ở nơi khác chỉ cao ngang thắt lưng)… Trong thung này khách cũng có thể nghe tiếng hót của các loài chim. (thời gian là 1 ngày/tuyến) Một số hạn chế trong khai thác tuyến này là đoạn đường vào động Người Xưa thường bị ngập vào ngày mưa lớn. Đoạn đường rẽ vào lối mòn đến cây Đăng, nơi đỗ xe không thuận lợi nên hạn chế khả năng khai thác. * Tuyến thứ 2: khu trung tâm Bống - cây chò ngàn năm - động Thuỷ Tiên. Từ trung tâm Bống đi bộ 3 km theo đường bê tông đến cây chò ngàn năm. Trên đường đi du khách sẽ được xem những dây leo thân gỗ cực lớn, vắt vẻo trên những tầng rừng như những bước "võng trời" đu đưa. Cây chò chỉ cao 5m thẳng tắp, thân cây to tròn, đường kính ngang ngực tới 1,2m xem cây đa bóp cổ đã giết chết và chiếm chỗ của cây chủ. Chiêm ngưỡng cây chò ngàn năm cao 45m, chu vi gốc tới 25m. Du khách sẽ không khỏi sững sờ, thán phục trước vẻ cổ thụ của nó. Đi thêm khoảng 500m là đến động Thủy Tiên với những cảnh sắc kỳ ảo của cung vua và các tiên nữ ở dưới nước. (thời gian là 1 ngày/tuyến) * Tuyến thứ 3: cây sấu đại thụ - sông Buởi - thác Sông Ngang - bản Khanh. Tuyến này có các du khách nước ngoài ưa mạo hiểm thường chọn đi. Tuyến này có thể chia thành tuyến ngắn và tuyến dài như sau: + Tuyến ngắn từ trung tâm Bống đi bộ theo lối mòn khoảng 3 km qua khu ruộng bậc thang cũ của người Mường (đã chuyển đi) qua các con suối cạn và các khu rừng rậm rạp để đến cây sấu đại thụ. Trên đường đi đến cây sấu, du khách sẽ gặp các loài cây thấp bé, rất kỳ lạ. Có cây với lá hình trái tim nhọn, to bằng bàn tay người lớn, ở giữa có màu trắng, phía ngoài mầu xanh rất lạ. Đến cây sấu không ai không khỏi sững sờ, thán phục bởi bạch vè của nó cao to như một bức tường thành. Tuyến này giành cho khách không đủ thời gian và sức khoẻ đi cả tuyến dài. + Tuyến dài: Được tiếp tục từ cây sấu đại thụ đi bộ xuyên đường rừng khoảng trên 10km, du khách sẽ đến bản Khanh - bản đồng bào của người Mường ở. Du khách có thể ngủ lại 1 đêm ở bản Mường để thưởng thức rượu cần, cơm lam và món các ăn độc đáo khác. Xuôi dòng sông Bưởi bằng bè mảng, lòng sông rộng và hai bên bờ có nhiều con nước rất to để đến thác Giao Thuỷ. Đây là niềm hứng thú của rất nhiều du khách khi đến nơi đây. Tuyến này đòi hỏi khách phải có sức khoẻ tốt, thời gian đi ít nhất là 2 ngày 1 đêm, phải có hướng dẫn viên của Vườn đi kèm và bố trí xe đón chở về. * Tuyến thứ 4: Khu trung tâm Bống - đỉnh Mây Bạc. Xuất phát từ trung tâm Bống theo đường mòn đi bộ 3km, qua nhiều đồi dốc, vượt qua các vách đá tai mèo để lên đỉnh Mây Bạc - đỉnh cao nhất ở VQG (648,2m). Tuyến này chỉ thích hợp với những người có sức khoẻ và ưa mạo hiểm, nhưng bù lại được xem nhiều loài cây, nhiều loài hoa trên đỉnh núi Hồi núi, Lát hoa, Sơn, Phong lan, Phượng vỹ, Thạch lộc… Trên đường đi có thể gặp nhiều loài chim, thú, kể cả các loài thú lớn: lợn lòi, sơn dương, nai, hoẵng và chim đẹp như gà lôi, phượng hoàng. * Tuyến thứ 5: khu đón khách - hồ Yên Quang - hang Phò Mã. Tuyến này theo đường ô tô ngược khoảng 7km về phía Nho Quan, qua dốc Sườn bò, rẽ trái để đi sâu vào hồ Yên Quang. Qua đường đê ngăn giữa hồ 2 và hồ 3 vượt dốc Quèn lá qua thung lũng rộng sẽ tới chân núi sẽ có hang Phò Mã. Tuyến này có thể kết hợp du thuyền trên hồ câu cá, tham quan ngắm cảnh, xem phim, thăm ngôi đền miếu cổ ở giữa hồ và tham quan hang động. Ngoài ra còn có những điểm tham quan khác như: Đỉnh Kim Giao động Con Moong… ở khu cổng Vườn du khách có thể tham quan nhà bảo tàng của VQG Cúc phương, trong trại c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32499.doc
Tài liệu liên quan