Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) - Hoàn Kiếm

LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng Thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại rất đa dạng và mang tính rộng khắp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.Trong tất cả các hoạt động của ngân hàng thì Tín Dụng là hoạt đ

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1868 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) - Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng quan trọng nhất chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng lượng tín dụng luôn luôn là vấn đề cấp thiết mang tính sống còn đối với mỗi ngân hàng. Là một trong các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh lớn hiện nay, Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBANK) trong thời gian qua đã có bước phát triển và lớn mạnh không ngừng, trở thành một trong những Ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất trong toàn hệ thống, có vị thế và uy tín ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên trong lĩnh vực tín dụng đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn Ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn, tín dụng trung và dài hạn có vị trí quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng, mức dư nợ thường chiếm khoảng 40% so với tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khoanh tuy đã có xu hướng giảm song vẫn còn tương đối cao. Bởi vậy chất lượng tín dụng trung và dài hạn là vấn đề mà Ngân hàng cần đặc biệt quan tâm. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết đưa trên trong thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng VPBANK – Hoàn Kiếm em chọn đề tài: “ Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng VPBANK – Hoàn Kiếm “ làm chuyên đề tốt nghiệp”. Bài viết của em dựa trên cơ sở kết hợp những kiến thức đã học trong nhà trường và thực tế thực tập tại đơn vị thực tập, với bố cục gồm ba phần: Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng VPBANK Hoàn Kiếm Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Hoàn Kiếm ngân hàng VPBANK. CHƯƠNG 1 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng, trung và dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM) Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại các nhà kinh tế học có nhiều quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại. Người thì cho rằng “ ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay ”. Người khác lại nhận định rằng “ngân hàng thương mại là trung gian tài chính có giấy phép của chính phủ để vay tiền và mởi tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc”. Sở dĩ có tình trạng trên là do hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất . đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, ngân hàng được phân loại thành ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác…Trong đó ,hoạt động cơ bản của ngân hàng là hoạt dộng kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng với hoạt động chính là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, ký gửi, uỷ thác… Do đó, có thể khái niệm chung nhất về NHTM: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với nghiệp vụ chính là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.2.Các hoạt động của ngân hàng thương mại 1.1.2.1.Hoạt động huy động vốn Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nguyên thuỷ của ngân hàng. Nhận tiền gửi của khách hàng vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quy mô tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng như : chính sách lãi suất, phương thức trả lãi của ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội trong từng thời kì, tình hình thu nhập và chi tiêu ngân sách, phong tục tập quán thói quen từng vùng, lòng tin dân chúng đối với ngân hàng và Chính Phủ , địa điểm ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng cung cấp. Ngân hàng cần phải nắm vững các yếu tố đó để có thể điều chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình. Hoạt động huy động vốn được thể hiện dưới các hình thức sau Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. KHi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng ,bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp , tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. để gia tăng tiền gửi trong môi trường canh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. + Tiền gửi không kì hạn + Tiền gửi có kì hạn + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư + Tiền gửi của các ngân hàng khác + Vay Ngân hàng nhà nước (NHNN) + Vay các tổ chức tín dụng khác + Vay trên thị trường vốn 1.1.2.2.Hoạt động tín dụng Hầu hết nguồn vốn mà ngân hàng huy động dược sẽ đưa vào hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động kinh doanh chính tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng thương mại vì chỉ có lãi suất cho vay mới bù đắp nổi các chi phí khác của ngân hàng. Thông thường hoạt động tín dụng bao gồm Cho vay: Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung cấp các dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Một trong những dịch vụ quan trọng nhất là cho vay, đặc biệt là thực hiện những khoản cho vay tài trợ đối với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của các thành viên trong xã hội. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này đều vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi gián tiếp từ hoạt động cho vay. Các hình thức cho vay của ngân hàng gồm: - Thấu chi: là nghiệp vụ qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. - Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến ở ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyê, không có điều kiện được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. - Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoặch nhà sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách hàng. - Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của khách hàng. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng bán hàng. - Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. - Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Nghiệp vụ bảo lãnh NHTM: Là sự bảo lãnh của một hoặc nhiều người cho khách hàng vay ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng vay không trả được nợ, người bảo lãnh sẽ trả thay. Như vậy có ba chủ thể tham gia vào việc vay vốn ngân hàng: + Khách hàng vay là người được bảo lãnh. + Ngân hàng là chủ nợ, đồng thời là người được hưởng sự bảo lãnh để tránh rủi ro không trả nợ của khách hàng vay. + Người bảo lãnh là người cam kết trả nợ thay khi người được bảo lãnh không trả được nợ. Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá: Khái niệm chiết khấu Chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng nhận các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. So với hình thức cho vay, chiết khấu có điểm khác biệt là : Không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu làm đảm bảo tín dụng. Ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh giá. Qui trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với cho vay. Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới hình thức khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận một khoản tiền thấp hơn mệnh giá của thương phiếu. Số tiền chênh lệch giữa mệnh giá thương phiếu so với số tiền khách hàng nhận được gọi là lãi chiết khấu và phí hoa hồng. Chiết khấu thương phiếu vừa giống như hành vi mua bán chứng khoán ở chỗ chuyển quyền đòi nợ ở con nợ đồng thời vừa giống tín dụng ở chỗ nó không đơn thuần là hành vi mua bán vì nếu ngân hàng không đòi được nợ thì sẽ có quyền đòi nợ ở người xin chiết khấu. Như vậy, chiết khấu thương phiếu là một đồng được phép truy đòi. Do vậy, thực chất chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn. Khi thực hiện chiết khấu thương phiếu, ngân hàng xác định số tiền phát ra cho khách hàng như sau : Số tiền chuyển cho người xin   = Mệnh giá TP – Lãi chiết khấu – Hoa hồng phí chiết khấu Trong đó: Hoa hồng phí = Mệnh giá TP x % tỷ lệ hoa hồng Lãi chiết khấu = ( Mệnh giá TP x lãi suất CK( %/ năm) x Số ngày nhận CK ) x 365. Số ngày nhận chiết khấu tính từ ngày xin chiết khấu đến ngày đáo hạn (không tính ngày xin chiết khấu và ngày đáo hạn ). Cách thức thu lãi được thực hiện ngay khi chiết khấu bằng cách khấu trừ vào mệnh giá. Đến ngày thanh toán ghi trên thương phiếu, ngân hàng thực hiện thu nợ ở người trả tiền bằng cách thông báo cho người trả tiền hoặc gửi thương phiếu đến ngân hàng uỷ nhiệm nhờ thu hộ. Nếu không thu được nợ ngân hàng có thể xử lý bằng cách hoàn thương phiếu truy đòi người xin chiết khấu hoặc truy tố trước pháp luật. Cho thuê tài chính: Là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn khoảng 80 – 90% đời sống kinh tế của tài sản) Hết hạn thuê khách hàng có thể mua tài sản đó.Cho thuê tài chính có một số đặc trưng sau: - Cho thuê tài chính là một dạng cho thuê tài sản, nhưng khác về căn bản so với các loại cho thuê tài sản khác là có sự chuyển dịch về cơ bản các rủi ro và các lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản thuê. - Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản (tài sản này có thể là máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, động sản khác...) giữa bên cho thuê là công ty cho thuê tài chính (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) với khách hàng thuê (khách hàng có nhu cầu thuê thường là các doanh nghiệp, các bên đối tác trong liên kết kinh tế). - Trong thời hạn thuê, các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng. - Công ty cho thuê tài chính giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê, bên thuê có nghĩa vụ nộp tiền thuê (tiền trích khấu hao tài sản cho thuê) cho công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục cho thuê tài sản đó theo các thỏa thuận trong hợp đồng thuê. - Loại hình cho thuê tài chính có lợi thế là người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch vay vốn khác; bên đi thuê tài chính không phải chịu những rủi ro do sự mất giá của tài sản, hao mòn tự nhiên... 1.1.2.3.Hoạt động dịch vụ thanh toán Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt,tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền.Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (oan toàn,nhanh chóng tích kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng, phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khiến khích các danh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ.Như vậy một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (Demand deposit) cho phép người gửi tiền được viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ.Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi này được xem là một bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như uỷ chi, nhờ thu, LC, thanh toán bằng điện tử,thẻ... 1.1.2.4. Hoạt động ngân quỹ. Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lí ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào cácchứng khoan sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần đến tiền mặt để thanh toán. 1.2. Tín dụng trung và dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường 1.2.1.Các khái niệm Tín dụng: Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng và tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một số nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau: ► Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ từ chủ thể thặng dư thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. ► Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc một công ty thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán hàng chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi. ► Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thêu (bất động sản và đốn sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều thuậ ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc - thiết bị). - Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy ngươi cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quan hệ tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cần lưu ý rằng các bậc tiền bối đã bằng từ “credo” hoặc “tín” để đặt tên cho “credit) hoặc tín dụng không phải la vấn đề ngẫu nhiên. - Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi và phần gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác đĩnh lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cáhc khác phải xác định lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi suất ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên một trong số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một số giai đoạn ngắn. - Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng, như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiêu (promissory note) trong đó bên cho vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Trong hoạt động tín dụng việc phân loại có tác dụng quan trọng nhằm thiết lập quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng khoản vay có thể phân thành hai loai: Có thời hạn và không có thời hạn. Trong tín dụng có thời hạn gồm ngắn hạn, trung hạn và dài han. T ín dụng trung dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng, nó là hình thức tín dụng phân loại theo thời hạn. Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm.Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt la các doanh nghiệp mới thành lập. Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. 1.2.2.Sự cần thiết của tín dụng trung và dài hạn TDC&DH nhằm thoả mãn các nhu cầu về mua sắm máy móc, thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất của một doanh nghiệp và một phần vốn lưu động tối thiểu của một doanh nghiệp. Trong nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh do các doanh nghiệp luôn luôn tìm cách phát triển mở rống sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kỹ thuật tin học v.v... Đặc biệt với nền kinh tế của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn xây dựng cơ bản rất lớn, trong lúc những nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều vốn, tâm lý trực tiếp đầu tư của công chúng vào các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Do vậy đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp mới chủ yếu là dựa vào vốn tự có của các nhà kinh doanh và bộ phận chủ yếu còn lại phải nhờ vào sự tài trợ của hệ thống ngân hàng. Ở các nước công nghiệp phát triển cho vay trung, dài hạn cũng được các nhà kinh doanh yêu thích vì nó cho phép các nhà kinh doanh vay vốn kiểm soát toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời họ có thể điều chỉnh kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn khi họ không cần đến việc sử dụng vốn đó nữa. So với việc phát hành trái phiếu dìa hạn, hoặc cổ phiếu các doanh nghiệp luôn phải chịu sự kiểm soát của cổ đông và họ phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu lãi cổ phần ưu đãi khi việc sử dụng vốn có khó khăn, hoặc không cần thêm nữa. Việc trả nở trung, dài hạn cũng được ấn định theo một sự phân chia hợp lý và ổn định vì vậy các nhà doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các khoản trả nợ một cách dễ dàng hơn. Tín dụng trung dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp yêu thích hơn vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp cổ phần lớn cũng thích vay trung dài hạn để tránh phát hành cổ phiếu, trái phiếu và những hình thức huy động vốn có thể dẫn tới sự phân chia quyền lợi sự kiểm soát doanh nghiệp. Tín dụng trung và dài hạn được sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hoặc mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nới rặng tín dụng trung dài hạn là người trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp để thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh các doanh nghiệp cần phải mở rộng sản xuất, goa tăng lượng sản suất để chiếm lĩnh thị trường, khi có cơ hội sản xuất không còn vốn được hoàn trả ngân hàng cho vay.Đó là một ưu thế của vốn trung dài hạn. Nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác như trái phiếu, cổ phiếu hơn nữa việc vay vốn trung, dài hạn tránh được các chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, đăng ký chứng khoánv.v... Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay nhu cầu vay vốn trung dài hạn cho đầu tư xây dưng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hoá các công nghệ sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất đang có. v.v... đòi hỏi có một nhu cầu rất lớn . Nhu cầu vốn này được thoả mãn một phần bằng nguồn vốn ngân sách cấp phát, vay nước ngoài và một phần huy động vốn từ dân cư. Nhưng cho dù là nguồn vốn xuất phát từ đâu việc cung cấp tín dụng thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại dưới hình thức cho vay trunh dài hạn là rất quan trọng và khả thi. Hệ thống ngân hàng là một hệ thống kinh doanh tiền tệ có kinh nghiệm trong nắm bắt thị trường, có kinh nghiệm thẩm định các dự án, các chương trình đầu tư do vậy việc các ngân hàng tài trợ vốn trung dài hạn cho các hoanh nghiệp vừa bảo đảm tính chất hiệu quả của quản lý vĩ mô về mặt tốc độ và cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, vì ngân hàng cho vay có thể soạn thảo úp các doanh nghiệp các dự án đầu tư có thể tư vấn cho các nhà doanh nghiệp về đầu tư và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quan hệ thanh toán với khách hàng, các thông tin cần thiết cho khách hàng. 1.2.3.Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn Thực chất của hoạt động tín dụng là ngân hàng “mua tiền” với lãi suất thấp và “bán tiền” với lãi suất cao hơn. Phần chênh lệch giữa lãi suất “bán” và lãi suất “mua” la cơ sở hình thành lợi nhuận ngân hàng.Nếu phần chênh lệch này thấp hơn có nghĩa lợi nhuận ngân hàng thấp, điều này cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng đã gián tiếp chia sẻ một phần lợi nhuận kinh doanh của mình cho khách hàng. Tuy nhiên “mua” và “bán” tiền là hoạt động mạo hiểm. Nguy cơ rủi ro lớn và rủi ro của ngân hàng luôn có tính lan hệ thống, ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. Do vậy, đi kèm với mục tiêu lợi nhuận, ngân hàng cần phải đảm bảo an toàn trong kinh doanh.Nhất là đối với các khoản tín dụng trung và dài hạn chi phí bảo hiểm tiền gửi, khoản dư phòng rủi ro là rất lớn.Tín dụng trung và dài hạn có các đặc điểm sau. Đối tượng tài trợ: Của tín dụng trung và dài hạn của NHTM là tài sản cố định đáp ứng nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ,mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án đầu tư. Quy mô vốn lớn: Vì đây là hình thức tài trợ cho mục đích đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi thời gian quay vòng vốn dài số lượng vốn đầu tư phải đủ lớn. Tính rủi ro lớn: Nền kinh tế thị trường luôn biến đổi phức tạp vì thế thời gian cho vay càng dài sẽ càng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng ngắn hạn có tính lỏng cao, có thể xem như là một bộ phận đảm bảo khẳ năng thanh toán của ngân hàng. Còn tín dụng trung dài hạn do đầu tư sau một thời gian dài đem lại lợi nhuận nên khả năng thanh khoản kém hơn. Bởi vậy tín dụng trung và dài hạn có tính rủi ro lớn. Tính lãi suất cao và biến động. Lãi suất chính là giá cả của việc sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà ngân hàng đòi hỏi người vay phải trả khi dùng khoản tiền của mình. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh thì lãi suất này do quan hệ cung cầu trên thị trường vốn quyết định, có thể dựa vào lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh thì lãi suất này do quan hệ cung cầu trên thị trường vốn quyến định, có thể dựa vào lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước. Trong lãi suất cho vay NHTM bao giờ cũng muốn đẩy cao nhằm tăng thu, còn khách hàng muốn giảm xuống để giảm chi phí. Thường đối với những khoản vay trung và dài hạn lãi suất cao để bù đắp rủi ro về kỳ hạn và chi phí dự phòng rủi ro về biến động chi phí vốn huy động. Vì vậy lãi suất tín dụng trung và dài hạn biến động. 1.2.4.Các nguồn vốn hình thành nên nguồn vốn trung, dài hạn Có thể nói rằng nguồn vốn cho vay trung dài hạn ở các ngân hàng thương mại hiện nay là rất nhỏ bé. vì vậy mà khả năng cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại hiện nay là không đáng kể. Điều này hạn chế việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng và hạn chế cho vay ngắn hạn. Nguồn vốn chủ yếu hình thành nguông vốn cho vay trung và dài hạn hiện nay là vốn tự có của các ngân hàng thương mại do góp vốn hoặc do tích luỹ được trong quá trình kinh doanh. Nguồn thứ hai hình thành nguồn vốn cho vay trung, dài hạn là huy động vốn của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu hoặc huy động tìn gửi định kỳ dài hạn. Nguồn này hiện nay rất hạn chế do kỳ hạn huy động không dài và ít người muốn gửi tiền dài hạn. Nguồn huy động ngắn hạn định kỳ. Nguồn này có thể được xem xét, tính toán trích ra một tỷ lệ phần trăm nhất định nào đó tuỳ thuộc vào sự biến động của quá trình gửi tiền và rút tiền của khách hàng để tạo ra một nguồn ổn định lâu dài để cho vay dài hạn Nguồn này có hạn chế là khối lượng nhỏ không đáng kể và các ngân hàng rất ngại đối với rủi ro có thể xảy ra khi dùng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Vốn vay từ ngân hàng nhà nước. Nguồn này cũng bị hạn chế vào chính sách tiền tệ của nhà nước. Ngân hàng thương mại không chủ động, các ngân hàng thương mại cũng rất khó thuyết phục ngân hàng nhà nước cho vay dài hạn vì nó dễ gây ra lạm phát nhất là trong thời kỳ xây dựng cơ bản chưa có hàng hoá đối ứng. Vay nợ nước ngoài để cho vay trung dài hạn. Đây là hình thức được các ngân hàng trên thế giới sử dụng thường xuyên với khối lượng lớn. Vay nợ nước ngoài để cho vay trung dài hạn cũng được các ngân hàng chấp nhận dễ dàng vì lý do sau đây. Người trả nợ cho các ngân hàng, các tổ chức tài chính... nước ngoài là các ngân hàng xin vay. Do đó nó có tính bảo đảm cao hơn là đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp. Ở các nước phát triển cao, hệ số lợi nhuận trên vốn đầu tư ngày càng giảm đi, do đó họ có khuynh hướng đầu tư ra các nước ngoài để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn để tạo lập thì trường môi mới sau này cho sự phát triển kinh tế của nước đó. Các nước phát triển cho vay còn nhằm mục đích là để bán hàng hoá, máy móc thiết bị và họ tìm lợi nhuận chủ yếu là qua việc bán hàng đó. Cho vay để bán hàng được coi là một thủ thuật trong cạnh tranh trên thị trường thế giới hiện nay. Đối với các nước vay vốn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển vốn nước ngoài có ưu điểm. Khối lượng vốn lớn Lãi suất chấp nhận được Chất lượng vốn cao. Việc khó khăn trong vốn vay nước ngoài là phải tạo ra được hàng hoá xuất khẩu để hoàn vốn cho bên vay đúng thời hạn. Thứ hai là trình độ quản lý của các nước này còn thấp nên hiệu quả sử dụng vốn không cao và dễ dàng dẫn đến việc không hoàn trả được nợ vay. 1.2.5. Nguyên tắc cho vay trung dài hạn - Việc sử dụng vốn vay trung dài hạn phải tuân theo nguyên tắc sử dụng vốn đúng mục đích. Muốn vay vốn trung và dài hạn người vay phải soạn thảo dự án, chương trình sản xuất kinh doanh. Dự án, chương trình sản xuất kinh doanh thể hiện một cách rõ ràng, đầy đủ việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Dự án đầu tư phải phân chia các khoản mục sử dụng vốn một cách hiệu quả chi tiết để ngân hàng cho vay có thể thẩm định được khả năng trả nợ của dự án. Các khoản mục sử dụng vốn trung dài hạn có thể gồm. Chi phí mua đất, thêu đất Chi phí xây dựng nhà xưởng Chi phí mua sắm các phương tiện vận chuyển. Chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng: Điện nước, đường sá; ... Một số vốn lưu động tối thiểu. Mục tiêu của dự án, chương trình sản xuất phải nằm trong chương trình phát triển kinh tế chung của địa phương, của vùng của nhà nước. Để đảm bảo cho dự án, chương trình vay vốn được thực hiện, chương trình vay vốn phải được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và thông qua cho phép thực hiện. Đối với các phương án cải tiến kỹ thuật công nghệ, mở rộng sản xuất cần phải xem xét kỹ mục đích của sử dụng vốn một cách chặt chẽ bởi ban lãnh đạo của doanh nghiệp vay vốn, và ngân hàng cho vay nhằm mục đích tránh sử dụng vốn vay cho mục đích khác, không nằm trong phương án vay vốn. Việc sử dụng vốn vay trung dài hạn phải có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một dự án, một chương trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả thấp không được vay vốn để thực hện, vì nó sẽ dẫn đến sự hoàn trả vốn khó khăn và gây hậu quả sấu cho nền kinh tế. Sử dụng vốn vay có hiệu quả được thể hiện ở khả năng hoàn vốn của bên vay đúng thời hạn. Do vậy các dự án chương trình vay vốn trung, dài hạn phải được thẩm định kỹ càng về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả kinh tế của dự án, chương trình sản xuất kinh doanh phải được thể hiện qua các chỉ tiêu như lợi nhuận hàng năm, hệ số lợi nhuận trên doanh thu, hệ số lợi nhuận trên vốn đầu tư.v.v... Việc sử dụng vốn trung dài hạn phải có kỳ hạn. Nguồn vốn cho vay của các ngân hàng thương mại cũng không thể cho vay các nhà kinh doanh vô thời hạn. Thời hạn sử dụng vốn vay lệ thuộc vào tính chất đặc điểm của chu kỳ sản xuất sản phẩm và thời gian xây dựng công trình, giá trị công trình, công nghệ sản xuất. 1.2.6. Lãi suất và thu lãi trong cho vay trung, dài hạn Lãi suất cho vay trong dài hạn lệ thuộc vào lãi suất chung của nền kinh tế, thông thường nó bằng lãi suất huy động vốn, cộng (+) phí ngân hàng (+)._. lợi nhuận ngân hàng. Do cho vay trung, dài hạn rủi ro cao, và nhà ngân hàng không thể sử dụng vốn theo ý thích và linh họat trong một thời gian dài do vậy lãi suất tín dụng trung dài hạn ở các quốc gia đều cao hơn lãi suất ngắn hạn. Lãi suất của các khoản cho vay lớn hơn đối với doanh nghiệp lớn có thể thấp hơn các khoản cho vay nhỏ, đối với các doanh nghiệp nhỏ, do chi phí điều hành thấp và ít rủi ro ít hơn. Lãi suất cho vay trung, dài hạn có thể là lãi suất cố định trong suốt thời kỳ vay vốn, nhưng cũng có thể quy định một lãi suất biến đổi lên hoặc xuống tùy theo sự biến động của thị trường. Sự biến đổi của lãi suất như vậy có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản của ngân hàng, lãi suất của một thị trường liên ngân hàng quan trọng (như LI130R, PIBOR, SI130R) hoặc do sự thay đổi của chỉ số giá cả chung... Lãi suất vay trung, dài hạn của Việt Nam trong thời gian qua được thực hiện theo khung lãi suất do thống đốc ngân hàng nhà nước quy định. Lãi suất cho vay bằng lãi suất huy động vốn cộng với phí ngân hàng (thường không quá 3%) theo quy định và được hai bên vay và cho vaythỏa thuận. Việc thu lãi trong cho vay trung, dài hạn cũng được phân thành kỳ hạn theo tháng, quý năm, dựa trên kết số dư ở mỗi kỳ hạn nợ và lãi suất ở mỗi kỳ hạn nợ. Cũng có trường hợp người ta thu lãi một lần với nợ gốc ở mỗi kỳ hạn nợ, hoặc nhập lãi vào gốc ở từng kê hạn và thu một lần với nợ gốc nếu thời gian cho vay ngắn. 1.2.7. Điều kiện để vay vốn trung, dài hạn Để vay vốn, đơn vị vay phải gửi đến ngân hàng đơn xin vay, luận chứng kinh tế và dự toán đã được thẩm định, nếu là doanh nghiệp nhà nước phải được cấp trên phê duyệt. Ngoài ra phải gửi tới ngân hàng bản tính toán hiệu quả của dự án, có tính toán đầy đủ các số xin vay, các nguồn trả nợ vay và lệnh trả nợ. Đơn vị vay phải xuất trình các báo cáo về tình hình chính của mình ở các năm trước. Ngân hàng cho vay phải xem xét kỹ càng các tài liệu nhậ được nhằm đánh giá đầy đủ các khả năng của đơn vị vay vốn trước khi quyết định cho vay. Trước hết ngân hàng phải đánh giá tình hình tài chính hiện tại và tương lai của doanh nghiệp vay vốn. Đặc biệt là đánh giá đầy đủ các khả năng sinh lợi của dự án. Đặc biệt là đánh giá thẩm định chu đáo về thị trường sản phẩm mà dự án sẽ cung cấp. Bao gồm đánh giá về thị trường hiện tại trong nước và nước ngoài, thị trường du tương lai, dự báo về số lượng và giá cả hàng hóa bán ra, khả năng cạnh tranh của dự án.v.v... Tính ổn định trong hoạt động của sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn cũng là một yếu tố cần xem xét. Các doanh nghiệp có một quá trình hoạt động ổn định và phát triển dài là các đối tượng có khả năng phát triển lâu dài và các đối tượng có khả năng phát triển lâu dài và bền vững, do vậy họ là người được yêu tiên vay vốn. Các doanh nghiệp mới thành lập song có công nghệ hiện đại và khả năng sản xuất các sản phẩm mà thị trường đang có nhu cầu cao cũng là các doanh nghiệp được xem xét cho vay vốn trung dài hạn. Nói cách khác các ngân hàng quyết định cho vay trung dài hạn các doanh nghiệp phải nắm chắc hiệu quả của phương án, của dự án chương trình sản xuất kinh doanh của bên vay vốn. Về mặt nào đó mà nói khi một ngân hàng thương mại quyết định cho vay trung, dài hạn một doanh nghiệp là ngân hàng đó quyết định đã quyết định gắn bó hoạt động của ngân hàng vói doanh nghiệp đó và hy vọng phát triển gắn bó hoạt động của ngân hàng với doanh nghiệp đó và hy vọng sự phát triển gắn bó đó vào tương lai. Vì vậy việc thẩm định khả năng của bộ máy quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá được nhưng người quản lý này có khả năng xoay trở trong mọi tình huống hay không là một điều rất quan trọng cần thiềt để quyết định cho vay. Theo sự nghiên cứu của các nhà khoa học thì thành bại của một doanh nghiệp lệ thuộc chủ yếu vào khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh của bộ máy quản lý. Một doanh nghiệp có bộ máy tồi không thể là đối tượng cho vay trung, dài hạn. Do vậy việc nghiên cứu từng con người cụ thể trong bộ máy quản lý và các mối quan hệ xã hội, quan hệ nội bộ của bộ máy quản lý là một công việc cần phải làm và làm chu đáo trước khi quyết định nên cho vay hay không. Điểm quan trọng khác là cần phải lưu ý đến vị thế của doanh nghiệp vay vốn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó đối với các đối thủ khác. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao vì có một sản phẩm tốt, có một chi phí thấp, có một mạng lưới khách hàng trung thànhv.v... Chẳng hạn là một đối tượng đáng quan tâm đối với đầu tư trung, dài hạn. Tuy nhiên cũng cần xem xét đến uy tín thực sự của doanh nghiệp vay vốn là do sức mạnh hấp dẫn bởi chất lượng sản phẩm, bởi cung cấp quản lý linh hoạt hay nhờ vào vị trí độc quyền, vị trí ưu đãi. Một doanh nghiệp đang ở vị trí độc quyền, vị trí ưu đãi của nhà nước mà có được điều kiện thuận lợi trong kinh doanh thì phải xem xét một cạnh cẩn thận vì theo thời gian vị trí đặc biệt ấy có thể bị thay đổi. Quan tâm đến các vấn đề chíọi củah trị, pháp luật, văn hoá xã hội của dự án, chương trình sản xuất cũng có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội cao thường được sự hỗ trợ cao của nhà nước và ngược lại. 1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn 1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng Chất lượng cho vay tại ngân hàng thương mại là chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng thương mại. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tìên lớn hơn, thông qua đó ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, còn doanh nghiệp có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế lại tạo được hiệu quả xã hội Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản tạo ra thu nhập cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro của ngân hàng. Chất lượng tín dụng ngân hàng là vấn đề mà tất cả các ngân hàng đều phải quan tâm, các rủi ro tín dụng nếu xảy ra thì sẽ tác động xấu đến uy tín của ngân hàng và nguy cơ đó sẽ hoạt động kém hiệu quả trong tương lai là đương nhiên, thậm chí đe dọa sự tồn tại của NHTM và cả hệ thống ngân hàng nếu rủi ro đó bản thân ngân hàng không thể xử lý được. Chất lượng tin dụng là tổng hoà những thành tựu của hoạt động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định và vững chắc của nền kinh tế, của ngân hàng và của khách hàng. chất luợng tín dụng thể hiện sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra lợi nhuận tối đa cho ngân hàng. Để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại thì ta cần xem xét trên góc độ của nền kinh tế, khách hàng và bản thân ngân hàng. Chất lượng cho vay được xem xét trên những góc độ: - Đối với khách hàng: Đó là vay được vốn phù hợp với mục đích sử dụng và các điều khoản về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện đảm bảo thanh toán phù hợp với lợi ích của khách hàng và luật pháp hiện hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất, tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. - Đối với ngân hàng thương mại: cho vay cung cấp phù hợp với thực lực tài chính và quản lý của ngân hàng, phù hợp với chiến lược khách hàng, phù hợp với nguyên tắc cho vay, chiến lược kinh doanh cạnh tranh và phát triển, đảm bảo nguyên tắc hòan trả đúng hạn và có lãi với giá thành hợp lý, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật hiện hàng và thực hiện vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. - Đối với nền kinh tế: Cho vay cung cấp đáp ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, đảm bảo cung cấp vốn đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả cho việc duy trì sản xuất. Mở rộng kinh doanh, tăng cường hiệu quả và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng các vùng kinh tế mới, tạo điều kiện thuận lợi để thực thi chính sách tài chính quốc gia. Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái niệm chất lượng cho vay hay chất lượng tín dụng: - Đây là một khái niệm tương đối: Nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vừa trừu tượng (thể hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...) - Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua nhiều yếu tố như, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. 1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM 1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi bức thiết đối với phát triển của nền kinh tế xã hội Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để thúc đẩy tiến trình phát triển của xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng của xã hội. Trong điều kiện đó chất lượng tín dụng càng được quan tâm bởi vì: + Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng. + Chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, tăng cường chất lượng tín dụng sẽ giảm thiểu lượng tiền thừa trong lưu thông. Điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ. + Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn dịnh tiền tệ tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của các NHTM, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có hoặc lí do nào đó các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách hàng vượt quá số tiền thực tế của họ. Như vậy, nghiệp vụ tín dụng của NHTM có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trong tương lai của các công trình đầu tư. + Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh quan hệ tín dụng: Hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục dơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn đi vay nặng lãi chủ yếu đang hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh. Để có chất lượng tín dụng, ngoài nổ lực của bản thân ngân hàng, đòi hỏi nền kinh tế phải ổn định và có một cơ chế phù hợp về chính sách, chế độ, sự phối hợp nhịp nhàng có hiệu quả giữa các ngành, các cấp, tạo môi trường thuận lợi cho sự hoạt động của tín dụng. Tín dụng có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế, xã hội. Thiết lập một cơ chế chính sách tín dụng đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội, điều đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 1.3.2.2. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của các NHTM Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ, tạo ra một hình ảnh tốt về biểu tượng, uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách hàng. + Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lí, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn đã cho vay và yêu cầu kiểm tra tối thiểu. + Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng bởi vì chất lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ sung vốn đầu tư. + Chất lượng tín dụng cũng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng bằng những điều kiện tốt nhất. Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng của các NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của các NHTM, và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải được cải tiến. 1.3.3: Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 1.3.3.1. Về chỉ tiêu định tính Theo NHTM các chi tiêu đánh giá về mặt định tính dược coi là tốt khi khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Để thực hiện được điều này NHTM cần có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại, đội ngũ cán bộ tín dụng nhanh nhẹn, đánh giá nhu cầu tín dụng của khách hàng chính xác. Cán bộ tín dụng cần phải tuân thủ một số nguyên tắc tín dụng để nhìn nhận khách hàng một cách đày đủ và khái quát nhất từ đó lập ra được nên cho khách hàng vay bao nhiêu, thời hạn tín dụng như thế nào. Mặc dù đánh giá chất lượng quản lý của một khách hàng là rất khó nhưng lại rất quan trọng chất lượng quản lý được thể hiện như sự lựa chọn kiểu thích hợp cho ngành hoạt động theo mô hình độc tài hay dân chủ, cách tổ chức văn phòng công ty, cách thích ứng với thị trường, danh tiếng trong cạnh tranh. Bên cạnh đó để thành công trong hoạt động tín dụng thì uy tín của ngân hàng cũng là một yếu tố quan trọng để thành công trong ngành ngân hàng, để tăng uy tín của mình trên thương trường đều buộc các ngân hàng tìm cách mở rộng thị phần. 1.3.3.2. Các chỉ tiêu định lượng Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sử dụng vốn huy động vào việc cho vay vốn. Thông thường khi nguồn vốn huy động ở ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp so với tổng nguồn vốn sử dụng thì dư nợ thường gấp nhiều lần so với vốn huy động. Nếu ngân hàng sử dụng vốn cho vay phần lớn từ nguồn vốn cấp trên thì không hiệu quả bằng việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Do vậy, tỷ lệ này càng gần 1 thì càng tốt cho hoạt động ngân hàng, khi đó ngân hàng sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn huy động được. Ta có công thức: Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động = Dư nợ/Vốn huy động *100% Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đầu tư vào cho vay của Ngân hàng so với tổng nguồn vốn, hay là dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng. Ta có công thức sau: Tỷ lệ dư nợ trên tổng nguồn vốn= Dư nợ/Tổng nguồn vốn *100% Hệ số thu nợ. Thể hiện mối quan hệ giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Ta có công thức sau: Hệ số thu nợ = Doanh số thu nợ/Doanh số cho vay Hệ số nợ càng gần một càng tốt, thể hiện hình thu hồi nợ của ngân hàng tốt, nợ sấu ít. Dẫn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng được đảm bảo. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số chỉ tiêu khác như một kỳ gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản... Các chỉ tiêu này liên quan chặt chẽ đến nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng. Hi vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Chỉ tiêu này thường nói lên chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. Thông thường chỉ số này dưới mức 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng bình thường. Nếu tại một thời điểm nhất định nào đó tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ trọng trên tổng dư nợ lớn thì nó phản ánh chất lượng nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng kém, rủi ro tín dụng cao và ngược lại. Ta có công thức: Tỷ lệ nợ quá hạn= Nợ quá hạn/Tổng dư nợ * 100% Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, nợ quá hạn được phân chia theo thời hạn như sau: - Nợ quá hạn đến 180 ngày: có khả năng thu hồi. - Nợ quá hạn từ 181 - 360 ngày: có khả năng thu hồi. - Nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên: nợ khó đòi. 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. 1.3.4.1. Nhân tố thuộc về phía khách hàng. Uy tín đạo đức của người vay: Trong quy trình tín dụng các ngân hàng thường chỉ đưa ra quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận các yếu tố có liên quan đến uy tín và khả năng trả nợ của người vay nhằm mục đích hạn chế thấp nhất các rủi ro do chủ quan của người vay có thể gây lên. Đạo đức của người vay là một yếu tố quan trọng của quy trình thẩm định, tính cách của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức cung mà còn phải kiểm nghiệm qua những kết quả hoạt động trong quá khứ, hiện tại và chiến lược trong tương lai. Thực tế kinh doanh đã cho thấy, tính chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể lừa đảo ngân hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh,... Việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro cho ngân hàng. Uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố đáng quan tâm, uy tín của khách hàng là tiêu chí để đánh giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng từ phía khách hàng: chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và ngân hàng. Uy tín được khẳng đinh và kiểm nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường qua thời gian càng dài càng chính xác. Do đó, ngân hàng cần phân tích các số liệu và tình hình trong suốt quá trình phát triển của khách hàng với những thời gian khách nhau mới có kết quả chính xác. 1.3.4.2. Nhân tố thuộc yếu tố ngân hàng Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng của một ngân hàng thương mại là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt mục tiêu đã được hoạch định của ngân hàng thương mại đó và hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Bất cứ một ngân hàng thương mại muốn đạt được các mục tiêu kinh doanh thì phải hoạch định một cách rõ ràng một chính sách thích hợp cho ngân hàng của mình để xác định phương hướng sử dụng các nguồn vốn hiện có để tạo ra một tài sản có chất lượng cao, ít rủi ro. Đồng thời chính sách tín dụng còn là một “ bản hướng dẫn” quan trọng để các cán bộ tín dụng thực thi các hoạt động của mình. Việc hoạch định chính sách tín dụng phải nhằm vào các biện pháp an toàn vốn vay như: Bảo hiểm tín dụng, thế chấp cầm cố v.v... Phải quan tâm đến tình hình kinh doanh và tài chính của người vay tiền và do vậy mà nó có thể vạch ra một chính sách tín dụng khá phức tạp về mặt thủ tục và lợi nhuận không cao. Một chính sách tín dụng có lợi ích cao, thường kéo theo độ an toàn thấp và ngược lại. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế, đồng thời kết hợp được lợi ích của người gửi tiền, của ngân hàng và người vay tiền. Đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nếu chính sách tín dụng:: Việc quản lý tín dụng vẫn theo lối cổ truyền. Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ ngân hàng còn chiếm tỷ trọng thấp do chưa đa dạng hóa hoạt động đầu tư, dư nợ cho vay khách hàng vẫn còn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của ngân hàng. Tập trung, quá chú trọng vào tài sản bảo đảm. Trong thời gian qua, một số nhân viên tín dụng đặt vai trò của bảo đảm tín dụng không đúng chỗ, coi bảo đảm là cơ sở để quyết định cho vay, còn các yếu tố khác không chú trọng đúng mức. Đây chính là nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng gây rủi ro cho hoạt động tín dụng. - Các ngân hàng, các tổ chức tín dụng cạnh tranh trong hoạt động tín dụng. Với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần, các tổ chức tín dụng, ngân hàng đã sử dụng các chính sách thu hút khách hàng như đua nhau hạ thấp lãi suất cho vay trong khi tăng lãi suất huy động; nhiều NHTM đã bỏ qua các quy trình tín dụng, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, lẫn tránh các hàng rào kiểm soát, thông tin sai lệch,..... Và để tăng trưởng tổng dư nợ, nhiều ngân hàng còn cho vay cả những khách hàng hay dự án có độ tín nhiệm thấp, kém hiệu quả; và nếu không kiềm chế, kiểm soát được tốc độ tăng tổng dư nợ tín dụng thì sẽ gặp nhiều rủi ro nếu tốc độ tăng trưởng ở mức “nóng” Công tác kiểm tra, kiểm soát Sau khi hợp đồng đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền) cho khách hàng như thoả thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng ngân hàng kiểm soát tất khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích hay không, tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hay làm ăn thua lỗ hay không… Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại khi chất lượng khoản vay bị đe doạ ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quy thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ xung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay… Khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng đây là bước đi nguy hiểm. Do vậy cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ xung và ra quyết đinh cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản nợ xấu. Khả năng thu thập thông tin và xử lý thông tin của ngân hàng Đây là yếu tố cơ bản và xuyên suốt quy trình tín dụng của ngân hàng, ngân hàng thường xuyên thu thập, đánh giá và xử lý thông tin tín dụng đánh giá và xử lý thông tin tín dụng để đảm bảo cung cấp tín dụng hợp lý, xử lý linh hoạt các tình huống phát sinh trong hoạt động tín dụng. Thông tin tín dụng có kịp thời hay không quyết định chất lượng tín dụng vì thông tin về khách hàng là bằng chứng cho ngân hàng đưa ra các quyết định về khách hàng vay hay từ chối. trong trường hợp các thông tin mà NHTM thu thập không đúng với thực tế sẽ làm ngân hàng mất cơ hội tốt nếu tin vào các thông tin mà đối thủ cạnh tranh đưa ra nhằm đánh bại đối thủ,hoặc trong trường hợp các thông tin mà ngân hàng thương mại thu thập không đúng thực tế chỉ nắm bắt sơ sài về khách hàng sẽ làm ngân hàng thua lỗ trong hợp đồng tín dụng này vì khi khách hàng đưa ra báo cáo tài chính nay trình lên ngân hàng mục đích là để vay vốn nên sẽ báo cáo đẹp. Nếu trong trường hợp cán bộ tín dụng xử lý các thông tin không đúng do lỗi về số liệu nhưng do tính toán sai vô ý sẽ dẫn tới chỉ tiêu đánh giá khách hàng sai sự thật. Chính vì thế mà công tác thu thập và xử lý thông tin rất quan trọng trong hoạt động tín dung của NHTM, nó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nâng cao chất lượng tín dụng cần thu thập và xử lý thông tin đầy đủ và linh hoạt từ đó hạn chế nhưng rủi ro mà tín dụng mang lại. Chất lượng cán bộ tín dụng Con ngưòi là yếu tố quyết định sự thành bại trong quản lí vốn tín dụng nói riêng và trong hoạt động ngân hàng nói chung. Nghiệp vụ ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao để có thể tiếp cận với phong cách làm việc hiện đại. Cán bộ tín dụng cần đạt được các tiêu chuẩn về đạo dức công việc, xác định đúng đối tượng cho vay, khả năng phân tích và thẩm định dự án, phân tích báo cáo tài chính, khả năng quản lí doanh nghiệp, trình độ dự đoán các biến động có thể xảy ra và các kiến thức tư vấn cho khách hàng để tránh rủi ro trong kinh doanh. Quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là trình tự tổ chức thực hiện các bước kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, chỉ rõ các cách làm, trình tự các bước từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một giao dịch thuộc chức năng, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và lãnh đạo ngân hàng có liên quan. Quy trình tín dụng là yếu tố quan trong, nếu có được tổ chức khoa học, hợp lý sẽ cho phép bảo đảm thực hiện các khoản vay có chất lượng. Môi trường pháp lý, kinh tế, chính trị Thứ nhất là môi trường kinh tế - xã hội tạo ra phong tục tập quán của mỗi con người và hoạt động ngân hàng là một thành viên của nền kinh tế cũng nằm trong khuôn khổ đó, hoạt động tín dụng chịu tác động của môi trường kinh tế chính trị và các quy định pháp luật Nhà nước. Thứ hai là môi trường pháp lý: Một môi trường pháp lý thống nhất và ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như doanh nghiệp, nó có tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng các chính sách vĩ mô có tác động trực tiếp và quan trọng về lĩnh vực tài chính ngân hàng: Các chính sách tài chính thương mại. Kinh tế đối ngoại…chỉ một sự thay đổi trong chính sách nhà nước đã có thể làm cho hoạt động của nền kinh tế chuyển hướng, nó có thể ảnh hưởng từ hoạt này đến hoạt động khác của nền kinh tế mà ngân hàng là một hoạt động trung gian tài chính lớn nhất của nền kinh tế nên nó sẽ gánh chịu mọi tổn thất hay thành công xảy ra từ chính sách đó.Do đó, xây dựng một môi trường pháp lý ổn định và thống nhất phù hợp với thị trường sẽ là một đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế, nhưng thực tế hiện nay môi trường pháp lý Việt Nam vẫn luôn là vấn đề mà các ngân hàng luôn phải đối mặt vì luật thường xuyên sửa dổi ảnh hưởng đến các hợp đồng đã kí trong quá khứ. Thứ ba là về môi trường kinh tế - chính trị và xã hội: Môi trường kinh tế ổn định đang trong giai đoạn phát triển hưng thịnh, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động san xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và tạo điều kiện tâm lý cho khách hàng vay vốn để kinh doanh và cuối cùng là có khả năng vay, hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng đúng hạn,đầy đủ. Trên đây là các nhân tố chủ yếu tác động đến chất lương tín dụng, nó có thể gây ra các rủi ro đối với các NHTM bất kì lúc nào. Chính vì thế NHTM cần phải thường xuyên phân tích các nhân tố này đồng thời cũng phải chủ động ngăn ngừa các rủi ro có thể xả ra và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói chung. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI VPBANK – HOÀN KIẾM 2.1 Khái quát về ngân hàng VPBank – Hoan Kiếm Chi nhánh Hoàn Kiếm cũng là một đơn vị trực thuộc NHTM Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank ). Tên gọi tắt là Ngân hàng ngoài quốc doanh. Sự ra đời và phát triển: Ngày 20/10/1994, NHNN Chi nhánh TP Hà Nội chấp thuận cho VPBank được mở phòng giao dich Hoàn Kiếm ( 89 Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm ) tại Thành phố Hà Nội theo công văn số 327/ GCT ngày 20/10/1994. Nằm ở trung tâm thương mại, kinh tế, du lịch của quận Hoàn Kiếm và Hà Nội, phòng giao dịch I đã hoạt động và thu hút khá đông khách hàng trong nước và ngoài nước. Với tinh thần phục vụ khách hàng rất tận tình và cởi mở, Phòng giao dịch đã chiếm được sự tin tưởng của khách hàng và đã thu hút được những khách hàng không chì ở Hà Nội mà còn ở tỉnh xa đến giao dịch khá đông. Đã có thời kỳ phòng đã thu hút được số khách hàng tới giao dịch lên đến hơn 2000 người với số tiền huy động là 70 tỷ đồng, trở thành phòng giao dịch huy động khá lớn của VPBank. Khách nước ngoài đến đổi tiền thanh toán séc giao dịch, VisaCard khá tấp lập, không khí làm việc giữa các nhân viên trong phòng rất chan hoà, đoàn kết gắn bó với nhau, và với VPBank điều đó đã tạo lên sức mạnh để khắc phục những khó khăn về đời sống về điều kiện vật chất và tinh thần, nơi làm việc chật hẹp, tiện nghi thiếu thốn. Ngay cả khi VPBank khó khăn nhất, phòng giao dịch I vẫn duy trì được nhiều khách hàng truyền thống đã gắn bó với VPBank trong 9 năm qua. Với sự kiện năm 2003, VPBank lấy được niềm tin của ngân hàng nhà nước và của khách hàng đã thông qua việc khắc phục hậu quả của những năm 1996-1997 và không ngừng phát triển lớn mạnh. Đến tháng 7/2003, phòng giao dịch được chuyển về số 24 Tông Đản. Trong ba thnág hoạt động tại địa điểm mới, phòng giao dịch Hoàn kiếm đã tạo được niềm tin cho khách hàng. Khách hàng tới gửi tiền hay vay vốn đều nhận được sự phục vụ tận tình chu đáo của tất cả các nhân viên, và tạo không khí thoải mái dễ chịu cho khách hàng. Ngày 4/8/2003, phòng giao dịch Hoàn Kiếm được nâng cấp lên thành chi nhánh cấp II mang tên chi nhánh Hoàn Kiếm theo công văn chấp thuận số 39/NHNN – HAN7.KSĐB ngày 4/8/2003 của NHNN TP Hà Nội. Ngày 8/10/2007, VPBank Hoàn Kiếm đã chính thức khai trương trụ sở mới tại địa điểm số 3 Hai Bà Trưng, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.Với địa điểm mới được đầu tư khang trang, hiện đại, đội ngũ CBNV nhiệt tình chu đáo. VPBank Hoàn Kiếm hi vọng sẽ làm hài lòng mọi khách hàng. Nhân dịp khai trương trụ sở mới, VPBank Hoàn Kiếm cũng có rất nhiều phần quà dành tặng cho quý khách hàng khi giao dịch tại đây. Đến nay chi nhánh Hoàn Kiếm cung cấp tất cả các dịch vụ mà một ngân hàng được phép kinh doanh theo qui định của Ngân hàng Nhà nước. Tổ chức bộ máy. Giám đốc chi nhánh: ra các quyết định tới các phòng ban, điều hành hoạt động của toàn bộ chi nhánh. Phòng kế toán – Giao dịch – Kho quỹ Với chức năng chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ giao dịch trực tiếp với khách hàng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý, hoạch toán các giao dịch, quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch. Bên cạnh đó còn giúp cho Giám đốc thực hiện công tác quản lý tài chính và thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ tại Chi nhánh theo quy định của hệ thống NHCT và theo quy định chung của Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay phòng gồm có 1 trưởng phòng, 1 ki._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30847.doc
Tài liệu liên quan