Nho giáo & tư tưởng đạo đức của Nho giáo - Ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam

MỞ ĐẦU Nho giáo là một trong những dòng triết học ra đời từ thời Cổ đại ở Trung Quốc, nhưng ảnh hưởng của nó đối với Trung Hoa thì vô cùng lớn. Thậm chí, chúng ta không thể nghiên cứu Trung Quốc tách rời Nho giáo. Ban đầu khi được truyền bá vào Việt Nam, Nho giáo đã được sử dụng như một thứ vũ khí để thể hiện sức mạnh và tham vọng đồng hoá người Phương Nam của phong kiến Phương Bắc. Triết học Nho giáo chủ yếu bàn về các vấn đề chính trị, đạo đức luân lý. Nếu lược bỏ đi âm mưu, tham vọng xâm lượ

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 11673 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nho giáo & tư tưởng đạo đức của Nho giáo - Ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c của phong kiến Phương Bắc ẩn mình trong Nho giáo thì Nho giáo cũng là một học thuyết rất tuyệt vời cho một tộc người còn rất non trẻ trong phát triển tư tưởng, văn hoá, tính dân tộc như người Phương Nam lúc bấy giờ. Người Việt đã rất thông minh nắm lấy cơ hội đó làm cho quá trình "Hán hoá" và truyền bá Nho giáo của người Hán vào Việt Nam thật đặc biệt. Văn hoá Hán và Nho giáo được người Việt tiếp biến có chọn lọc. Qua lăng kính của người Việt, Nho giáo bị "khúc xạ" và mang những nội hàm mới. Nói về Việt Nam và văn hoá Việt Nam lại không thể không kể đến Nho giáo. Trong quá trình du nhập, tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Nho giáo đã góp phần to lớn trong việc kiến tạo bộ mặt văn hoá Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta lại không thể không nói tới con người Việt bởi con người với các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mỹ… chính là biểu hiện rõ nhất của cái gọi là " Văn hoá của một dân tộc". Lịch sử sản xuất, đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt đã hình thành các giá trị đạo đức cho người Việt nhưng không thể phủ nhận vai trò của Nho giáo. Nếu sản xuất và đấu tranh giữ nước là thực tiễn hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt thì Nho giáo chính là hệ thống lý luận làm cho các giá trị đạo đức đó được khái quát lại, thâu tóm lại một cách sâu sắc, có tính "tự giác" và trở thành chuẩn mực cho các thế hệ người Việt. Quan hệ giữa tư tưởng đạo đức của Nho giáo và đạo đức của người Việt là quan hệ có tính hai chiều. Tư tưởng đạo đức của Nho giáo được từng chọn làm chuẩn mực để giáo dục đạo đức cho người Việt và đặt dấu ấn rất rõ ràng vào nhân cách người Việt. Ngược lại, qua thực tiễn phát triển tư tưởng đạo đức xuất phát từ nhu cầu tự thân của người Việt, các phạm trù đạo đức của Nho giáo được mở rộng nội hàm và trở nên phong phú, thể hiện tính phù hợp trong nhiều thời đại. Việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức Nho giáo và vai trò, ảnh hưởng của nó trong việc xây dựng, hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay nhằm khẳng định những giá trị đạo đức tốt đẹp, bền vững mà con người Việt Nam đã bồi đắp trong lịch sử và rút ra những giá trị, đóng góp của tư tưởng đạo đức Nho giáo trong hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay. Đặc biệt , trong bối cảnh hội nhập và sự thay đổi trong định hướng giá trị nhân cách của người Việt Nam, việc phát triển con người Việt Nam bền vững cần có cơ sở triết học vững chắc nhằm vừa đảm bảo, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp mà vẫn chứa đựng yếu tố năng động, hiện đại. NỘI DUNG I. NHO GIÁO VÀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA NHO GIÁO 1. Khái quát sự ra đời và phát triển của Nho giáo. Nho giáo là hệ thống giáo lý của các nhà Nho nhằm mục đích tổ chức xã hội ổn định. Những cơ sở đầu tiên của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán- con thứ của Chu Văn Vương, là cố vấn văn hoá và chính trị của nhà Chu. Đến thời Xuân thu- Chiến quốc, Khổng Tử (551TCN- 479TCN) đã hệ thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết gọi là Nho giáo hay Nho học. Vào thời Xuân thu- Chiến quốc từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN, xã hội Trung Hoa có sự chuyển biến mạnh mẽ. Về kinh tế: công cụ lao động là đồ sắt trở nên phổ biến, phân công lao động ngày càng sâu sắc; các ngành nghề mới hình thành; tiền tệ xuất hiện; chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất hình thành. Thời đại của Khổng Tử là thời kỳ loạn lạc. Mối quan hệ giữa Thiên Tử với các nước chư hầu lỏng lẻo. Chế độ Tông pháp nhà Chu bị xoá bỏ; mâu thuẫn xã hội sâu sắc; chiến tranh với quy mô lớn xảy ra liên miên; đạo đức, luân lý suy đồi; đời sống nhân dân cùng cực, lòng dân ly tán. Điều kiện lịch sử đặt ra hàng loạt các vấn đề triết học, chính trị, đạo đức...cần giải quyết. Trước những yêu cầu của xã hội , Khổng Tử đã đưa ra các tư tưởng triết học nhằm bình ổn xã hội. Nho giáo, Nho gia là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ " Nho". Theo Hán tự " Nho" được ghép từ chữ "nhân" (nghĩa là người ) đứng cạnh chữ "nhu" (cần, chờ đợi). Nho giáo hiểu theo nghĩa trực diện nhất đó là học thuyết mà bất cứ người nào trong xã hội cũng phải cần tới . Nho gia hay nhà nho là người đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở cho hợp với luân thường đạo lý. Nho gia hay nhà nho còn được gọi là "sĩ". "Sĩ" có nhiều cách giải thích khác nhau. "Sĩ"được ghép từ 2 chữ: nhất ( ) (một) và thập ( ) (mười). Kẻ "sĩ" là người học một hiểu mười, từ mười thâu tóm vào một. "Sĩ" so với chữ Vương ( ) (vua, thiên tử) thì thiếu một mối liên hệ với trời. Kẻ sĩ là người thấu suốt tam tài: thiên, địa, nhân; am tường cõi trần nhất. Trong quan niệm về thế giới, Khổng Tử cho rằng sự tương tác giữa 2 yếu tố âm, dương tạo nên sự biến đổi vô tận gọi là Đạo. Theo Khổng Tử, Đạo là cái huyền vi sâu kín, đúng đắn quy định vạn vật và con người. Đạo có Thiên đạo và Nhân đạo. Người hiểu được Đạo là người hoàn thiện nhất. Con đường thực hiện Đạo vô cùng gian truân đòi hỏi cần có người am hiểu Đạo, gánh vác Đạo truyền cho thiên hạ, thay đổi thiên hạ đó là đại nghĩa của Sĩ. Trước thời Xuân thu - Chiến quốc, kẻ Sĩ chuyên học văn chương, lục nghệ góp phần trị vì đất nước. Trong thời loạn lạc xã hội nhiều biến động, tầng lớp Sĩ là tầng lớp trung gian giữa dân thường và quý tộc. Thân phân kẻ sĩ bấp bênh. Khổng Tử đưa ra học thuyết của mình dành cho kẻ sĩ thích ứng với hoàn cảnh. Kẻ sĩ luôn Trung dung giữa cuộc đời, siêu thoát khỏi quyền lực dù thân phận có lênh đênh. Khi được làm quan thì "hoằng dương Đạo" (phát triển Đạo), khi xuống thứ dân thì "duy hộ Đạo" (bảo lưu được đạo nên không đau khổ, an bần lạc đạo). Chính vì vậy, Nho giáo còn được coi là Đạo của kẻ Sĩ quân tử. Nho giáo là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa- nền văn minh vốn là sự tổng hợp văn hoá lưu vực sông Hoàng Hà (được cấu tạo từ văn hoá du mục Tây Bắc và văn hoá nông nghiệp khô Trung Nguyên) với văn hoá nông nghiệp Đông Nam Á. Vậy nên, Nho giáo thực chất là sản phẩm của truyền thống văn hoá du mục Phương Bắc và truyền thống văn hoá nông nghiệp Phương Nam. Hình thành từ những nguồn gốc như vậy nên đặc điểm của Nho Giáo mang đậm nét của chất du mục Phương Bắc và chất nông nghiệp Phương Nam Chất du mục Phương Bắc được Nho giáo nguyên thuỷ tiếp thu thể hiện ở các điểm: Tham vọng "bình thiên hạ", trọng sức mạnh, chính danh. Còn chất nông nghiệp Phương Nam được Nho giáo nguyên thuỷ tiếp thu thể hiện: Đề cao chữ "Nhân" và nguyên lý "Nhân Trị".Người nông nghiệp Phương Nam có lối sống giản dị, hoà ái với thiên nhiên, cộng đồng. Lối sống trọng tình khiến cho quan hệ gia đình của người Việt nông nghiệp rất bền chặt. Nho giáo rất đề cao chữ Hiếu, Tam cương ngũ thường. Người quân tử trị nước đề cao chữ Đức. Nho giáo chủ dùng Đức trị và Nhân trị. Tư tưởng Kính đức bảo dân là quan niệm cơ bản để trị dân. Các quan hệ trong đạo "ngũ luân" là quan hệ 2 chiều bình đẳng, tôn trọng con người: Quân minh thần trung ( vua sáng, bề tôi trung thành); Phụ từ tử hiếu (cha hiền từ, con hiếu thảo); Phu nghĩa phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng); Huynh lương đệ đễ( anh tốt, em nhường); Bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau). Nho giáo tiên Tần coi trọng văn hoá, đặc biệt là văn hoá tinh thần. Các bộ kinh điển của Nho giáo (Thi, Thư, Lễ, Xuân thu, Dịch). Kinh thi bàn nhiều đến tình người, cái gốc của điều Nhân. Thấu hiểu được Nhạc để dưỡng tâm trí thì đức nhã nhặn sẽ phát triển dễ dàng. Sự đối lập của hai truyền thống du mục và gốc nông nghiệp cho thấy: một bên coi trọng võ "Dũng" (phương Bắc), một bên coi trọng văn thơ “Thi, Nhạc” ( phương Nam); một bên chủ trương xây dựng một xã hội tôn ti trật tự, kỷ cương rõ ràng (Chính danh), một bên mong muốn xây dựng một xã hội lấy tình cảm làm hàng đầu, coi trọng chữ Nhân, quan hệ trong "ngũ luân" có tính hai chiều... Trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động như thời Xuân thu - Chiến quốc, tư tưởng của Khổng Tử đưa ra không tránh khỏi sự đối lập chứa đựng nhân tố mâu thuẫn. Năm 202 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang lên làm vua ban đầu cũng ưa dùng vũ lực cai trị ( nặng chất du mục), coi trường trí thức văn hoá. Đến thời Hán Vũ Đế ( 140TCN- 87TCN), để phục vụ mục đích xây dựng nhà nước Phong kiến, nhà nho Đổng Trọng Thư đã đưa ra những tư tưởng bổ sung Nho giáo ( thiên nhân tương cảm, tam cương ngũ thường, tuyệt đối hoá các quan hệ có tính một chiều từ trên xuống…). Nhà Hán đã sử dụng Nho giáo là hệ tư tưởng xây dựng nhà nước phong kiến. Thực chất, bên ngoài là Nho bên trong là Pháp ("dương Nho hành Pháp", "biểu Nho lý Pháp"). Đổng Trọng Thư đã "chế biến" Nho Tiên Tần làm cho Nho giáo bị "nghèo nàn" đi. So với Nho Tiên Tần, Hán Nho là một bước lùi nghiêm trọng, tạo ra phong cách học, suy tư giáo điều, tước bỏ sự chủ động sáng tạo, đẻ ra những tấm gương ngu trung, ngu hiếu của nhiều thế hệ Nho gia sau này. Từ thời nhà Đường, Tống (đặc biệt thời Tống), Nho giáo được phát triển và thể hiện sự pha tạp với các dòng tư tưởng khác như Đạo giáo, Phật giáo… Sách kinh điển của Nho giáo gồm 2 bộ: Bộ lục kinh (gồm 6 cuốn: Kinh thi, Kinh thư, Kinh lễ (Lễ ký), Kinh dịch, Kinh Xuân Thu, Kinh Nhạc). Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc chỉ còn lại một ít được làm thành một thiên ghép chung với Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Vì vậy Lục kinh thành ra chỉ còn ngũ kinh. Bộ tứ thư (gồm 4 cuốn: Đại học, Trung dung, Mạnh Tử, Luận ngữ. "Ngũ kinh" và "Tứ Thư" là hai bộ sách gối đầu giường của các nhà Nho. 2. Tư tưởng đạo đức của Nho giáo Nho giáo là hệ thống triết học bàn đến nhiều vấn đề như bản thể luận, tư tưởng đạo đức, chính trị…Các vấn đề đó đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thành một hệ thống nhất quán. Khi bàn về khởi nguồn của thế giới, Khổng Tử cho rằng, khởi nguồn của thế giới là hai yếu tố âm và dương. Sự tương tác chuyển hoá âm- dương tạo nên sự biến đổi gọi là Đạo hay Dịch, hay Thiên lý ( quy luật điều khiển trời đất và thiên hạ). Âm, Dương tạo ra thanh khí và trọng khí. Tuỳ vào mức bẩm thụ thanh khí và trọng khí ít nhiều mà làm: Trời, Thần, Quỷ thần, Người và vạn vật. Đạo, Thiên lý là cái huyền vi sâu kín có phép màu quy định vạn vật gọi là Thiên mệnh. Thiên mệnh quy định vận mệnh xã hội, con người. Hiểu được thiên mệnh là người hoàn thiện.( "bất tri thiên mệnh vô dĩ quân tử dã") Nho giáo ra đời xuất phát từ nhu cầu bình ổn xã hội nên trọng tâm của Nho giáo bàn đến các vấn đề chính trị, đạo đức. Trong tư tưởng chính trị, Khổng Tử đưa ra thuyết Chính danh và Đức trị. Theo thuyết Chính danh, mỗi vật, người sinh ra đều có địa vị, công dụng nhất định gọi là Danh. Người, vật mang Danh nào phải thực hiện đúng Danh đó gọi là Chính Danh ( chính danh là làm cho mọi việc ngay thẳng). Nguồn gốc xã hội rối ren là do sự sa đoạ của nhà cầm quyền làm cho Danh không được Chính."Danh bất chính, ngôn bất thuận, sự bất thành, xã tắc loạn" ( ). Thuyết Đức trị chỉ ra rằng, người cai trị phải Thượng Hiền (có đức). Vua phải có lối sống giản dị, xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu, chiếm được lòng tin của nhân dân. Để thực hiện được Chính danh thì Đạo đức là công cụ. Chính vì vậy, các vấn đề trong học thuyết của Khổng Tử lại bàn đến nhiều nhất, quan trọng nhất là Đạo đức luân lý. Khổng Tử cho rằng, người hoàn thiện phải có 3 đức lớn gọi là "tam đạt đức" Trí, Nhân, Dũng. Thứ nhất, Trí ( ) Trí là sự minh mẫn sáng suốt nói chung để phân biệt, đánh giá con người và tình huống, qua đó xác định cách ứng xử cho phải Đạo. Bàn về điều Trí, Khổng Tử giảng cho Phàn Trì: "Trí là biết người". "dùng người trực, bỏ kẻ gian. Như vậy có thể giáo hoá kẻ gian thành người trực" (Luận Ngữ). Ở hoàn cảnh khác, Khổng Tử lại dạy học trò: "Kẻ tìm chỗ ở không biết dựng nhà nơi lý tốt sao có thể gọi là người có trí". Người có Trí mới hiểu được đạo lý phân biệt được phải trái, thiện ác, trau dồi đạo đức và hành động theo luân lý. Nguồn gốc của trí theo quan điểm của Nho giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm. Chịu sự chi phối của tư tưởng thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng Trí có được do con người bẩm sinh bẩm thụ khí trời không cần học cũng hiểu được đạo lý. Tuy nhiên, Khổng Tử còn cho rằng Trí có được còn do quá trình học hỏi, rèn luyện, tu dưỡng. Nếu không học dù thiện tâm đến đâu cũng bị cái mê muội phóng đãng làm cho lầm lạc. Trí trong quan hệ với các đức khác, Khổng Tử cho rằng: " ưa làm điều Nhân mà không ưa học thì cái hại che lấp là sự ngu muội; ưa trí xảo mà không ưa học thì cái hại che lấp là sự phóng đãng lầm lạc; ưa dũng cảm mà không ưa học thì cái hại che lấp là sự phản loạn; ưa cường bạo mà không ưa học thì cái hại che lấp là sự cuồng bạo" (Luận Ngữ). Khổng Tử đề ra chủ trương giáo dục. Nếu không giáo dục bản tính tốt của con người sẽ mất đi. Trừ có bậc thượng trí và hạ ngu là không thay đổi được bản tính của mình. Con người có trí mới vươn được tới đức Nhân, không thể là người có nhân nếu không có trí. Thứ hai, Nhân ( ) Theo hán tự, Nhân ( ) được ghép từ bộ nhân đứng ( ) và chữ nhị ( ). Hai người sống gần nhau sẽ nảy sinh quan hệ người với người. Người với người sống gần nhau, ăn ở hợp lẽ vừa lòng nhau là rất khó. Nhân tức là duy trì quan hệ giữa người với người. Điều Nhân là đạo lý của con người, quy định bản tính của con người và mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong triết học của Khổng Tử. Cơ sở để Khổng Tử lấy chữ Nhân làm nguyên lý cơ bản là: Một, xuất phát từ quan điểm cho khởi nguyên của thế giới là hai yếu tố âm, dương. Sự tác động yếu tố âm, dương tạo nên sự biến đổi gọi là Đạo hay Thiên lý hay Dịch. Con người bẩm thụ khí âm, dương của đất trời nên phải tuân theo Thiên lý, hợp với đạo "Trung hoà". đạo sống của con người phải "Trung dung"- sống đúng với mình, sống phải với người. Hai, Thời đại của Khổng Tử loạn lạc, đạo lý nhân luân suy đồi. Khổng Tử chủ trương dùng Nhân để giáo hoá con người. Nhân được nhìn theo hai chiều hướng: hướng nội tu kỷ và hướng ngoại thi hành ra thiên hạ. Chữ Nhân theo quan niệm của Khổng Tử, không chỉ riêng một đức tính nào mà chỉ chung mọi đức tính. Người có Nhân đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất. Điều Nhân có ý nghĩa bao hàm nhiều mặt trong đời sống xã hội. Tuỳ mỗi hoàn cảnh mà Khổng Tử bàn về nội dung chữ Nhân khác nhau. Trong Luận Ngữ có khoảng 60 lần Khổng Tử nói về chữ Nhân . Quan niệm về Nhân của Khổng Tử không nhất quán song có thể thấy trong các lời dạy với các đệ tử. Giáo huấn về điều Nhân, Khổng Tử giảng cho học trò của mình: Nhân là ái nhân, yêu người. Con người khác loài cầm thú chính là ở Nhân vậy. Theo Thầy Khổng Tử, ái nhân là coi người như mình. Làm người có nhiều điều chung quy lại chỉ là điều đối với mình và đối với người. Yêu người, coi người như bản thân: đem mình ra suy xét mọi việc. Xuất phát từ thuyết "cầu kỷ" và "chấp lưỡng đoan", Nho giáo cho rằng Nhân là phải "Trung" và "Thứ" ( kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân và kỷ sở bất dục vật thi ư nhân - Nghĩa là: cái gì mình muốn làm, muốn đạt được hãy làm cho người khác; điều gì không muốn thì đừng làm cho người khác). Đây cũng là nguyên tắc mỗi người phải thực hiện suốt đời. Nhan Uyên ( học trò của Khổng Tử ) hỏi về điều Nhân. Thầy Khổng Tử đáp: "Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỷ phục Lễ, thiên hạ quy nhân yên. Vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai? ". Nghĩa là chế ước bản thân thực hành theo Lễ tức là làm điều Nhân. hàng ngày khắc chế được dục vọng của bản thân làm cho hành động và lời nói của mình hợp với Lễ, thiên hạ sẽ thừa nhận là mình có điều nhân. Làm điều Nhân là do mình chứ đâu phải do người. Lễ là những quy tắc ứng xử phù hợp với địa vị của mình. Xã hội rối ren suy đồi cũng là do con người không "chính danh", "tiếm quyền việt vị" không thực hành đúng Lễ . Để xã hội ổn định, đạo đức cương thường được giữ vững cần thực hành theo Lễ. Nhân là nội dung, Lễ là hình thức. Người có Nhân trước hết phải theo hướng nội tu kỷ. Làm được điều Nhân là do mỗi người tự ý thức. Làm điều Nhân trước hết làm cho mình trở thành người có Nhân, thiên hạ tất sẽ công nhận. Nhan Uyên hỏi sâu hơn về điều Nhân Thầy vừa giảng, Khổng Tử giải thích: "phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật ngôn, phi Lễ vật động" nghĩa là điều gì trái với Lễ thì không nhìn, điều gì trái với Lễ thì không nghe, điều gì trái với Lễ thì không nói, điều gì trái với Lễ thì không làm). Khi nói với Tử Trương, Khổng Tử dạy: Người có Nhân phải thực hiện được 5 đức lớn gọi là "ngũ giả" là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung là cung kính, nghiêm túc giữ mình, không buông thả. Khoan là đối xử với mọi người rộng rãi. Tín là thực hiện điều mình nói, hành động phải thống nhất với lời nói. Mẫn là chăm chỉ. Huệ là từ huệ, biết cách ban ơn. Nếu thực hiện Cung thì không bị khinh nhờn, Khoan thì được lòng người, Mẫn thì có công, Huệ thì sai khiến được người. Theo quan niệm của Nho giáo, điều kiện để con người trau dồi điều Nhân là phải chất phác, thuần hậu, tình cảm chân thực, hết lòng vì nghĩa, lời nói chậm rãi .('xảo ngôn, lãnh sắc tiển hỹ nhân"). Ở những chỗ khác, Khổng Tử lại cho rằng người có Nhân phải làm việc trước rồi mới hưởng sau, sẵn sàng an bần lạc đạo. Đức Nhân có vai trò đặc biệt quan trọng, là gốc rễ của các đức tính khác. Đức Nhân yên lặng, vững trãi như núi, bao nhiêu đức khác bởi đó mà sinh ra. Nếu Tâm con người luôn hướng về điều Nhân con người khắc sống tốt, nhân luân được giữ gìn, trật tự xã hội được đảm bảo. Thứ ba, Dũng ( ) Dũng là lòng dũng cảm, không sợ, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Nho giáo cho rằng: "Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã"( thấy việc nghĩa mà không làm không phải là người có Dũng). Con người phải có Dũng mới làm trọn được điều Nhân. Còn " Hữu nhân tất hữu dũng, hữu dũng bất tất hữu nhân" (nghĩa là:có điều Nhân tất có Dũng, có Dũng chưa chắc đã có Nhân). Trong sách Trung Dung, Khổng Tử trả lời Tử lộ về "cường": " Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư, ức như cường dư? Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo. Nam phương chi cường dã, Quân tử cư chi. Nhẫm kim cách, tử nhi bất yếm. Bắc phương chi cường dã, nhi cường giả cư chi" ( nghĩa là cái mạnh của người phương Nam chăng, cái mạnh của người phương Bắc chăng hay cái mạnh nào đây? Khoan dung mềm mỏng để giáo dục, không báo thù kẻ vô đạo đó là cái mạnh của người phương Nam. Điều quân tử chính là ở chỗ đó. Nằm lên gươm giáo, chết mà không sợ đó là cái mạnh của người phương Bắc.Điều quân tử là ở chỗ đó. Cốt lõi của Nho giáo là học thuyết Chính trị nhằm bình ổn xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả điều cốt lõi là đào tạo những người cai trị kiểu mẫu đó là người quân tử. Không chủ trương dùng pháp luật cai trị xã hội, Khổng Tử đã thấy được sức mạnh đạo đức, dùng sức mạnh đạo đức để bình ổn xã hội. Học thuyết đạo đức của Nho giáo đặt ra nhằm đào tạo mẫu người quân tử. Vì vậy, Nho giáo còn gọi là Đạo của sỹ quân tử. Để trở thành người quân tử trước hết phải Tu thân. Tiêu chuẩn của việc tu thân là đạt đạo ( thực hiện năm đạo là quân-thần, phụ-tử, phu-phụ, huynh-đệ, bằng-hữu còn gọi là ngũ luân); đạt đức ( có 3 điều Trí, Nhân, Dũng); biết thi - thư - lễ - nhạc. Bổn phận của người quân tử là phải hành đạo đem hiểu biết của mình ra cai trị đất nước. Quá trình hành đạo bắt đầu từ Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. Phương trâm của người cai trị là dùng Nhân trị và Chính danh. II. QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG, VAI TRÒ CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM 1.Quá trình truyền bá, phát triển Nho giáo ở Việt Nam Năm 179 TCN, Triệu Đà đem quân xâm lược Âu lạc đã thống trị trên đất Việt, biến Âu Lạc thành hai quận của Trung Hoa là Giao Chỉ và Cửu Châu. Để nô dịch nhân dân ta về tinh thần, Nhà Hán đã đưa Nho Giáo vào đất Việt, đồng hoá văn hoá. Buổi đầu, Thái Thú Tích Quang và Nhâm Diên tích cực "dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa" với mục đích đào tạo tầng lớp quan lại phục vụ cho bộ máy cai trị và dạy lễ nghĩa cho người dân. Năm 187-226, Sỹ Nhiếp cai trị Giao Chỉ lần đầu tiên tổ chức việc học ở Việt Nam ( "Nam giao học tổ"). Thời Sỹ Nhiếp làm Thái Thú Giao Chỉ, hàng trăm sỹ phu Trung Hoa sang Việt Nam đẩy mạnh truyền bá Nho giáo và Hán học. Mở trường ở Luy lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) và Long Biên. Mục đích phát triển Hán học nhằm Hán hoá và phát triển tư tưởng "trung quân" của Nho giáo. Con đường truyền bá, học tập Nho, chữ Hán gồm có: các trường lớp do các sỹ phu, quan lại người Trung Hoa lập nên và nhân dân tự học chữ ở các nhà chùa. Nho giáo vào Việt Nam là một quá trình đặc biệt từ phản ứng đến tiếp thu, từ xa lạ đến gần gũi, từ Nho giáo là công cụ thống trị của bên ngoài thành vũ khí của bản thân. Thời Bắc thuộc, đất nước, con người Việt Nam diễn biến theo hai chiều hướng: hướng Hán hoá và chống Hán hoá. Tuy Nho giáo đã được đưa vào Việt Nam nhưng chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi bắt tay vào xây dựng nhà nước Phong kiến tập quyền. Do nhu cầu xây dựng bộ máy nhà nước và đòi hỏi về tri thức của giai cấp thống trị cần phát triển một nền văn hoá phục vụ cho chế độ phong kiến. Nho giáo được đề cao và sử dụng như là vũ khí sắc bén trên lĩnh vực chính trị, văn hoá, tư tưởng. Đến năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu ở kinh đô Thăng Long thờ Chu Công và Khổng Tử. Nho giáo được xem là tiếp nhận chính thức ở Việt Nam. Thời nhà Lý ở Việt Nam tương ứng với thời nhà Tống ở Trung Hoa. Nho giáo ở Việt Nam là Tống Nho. Nho giáo thời kỳ Lý - Trần ( thế kỷ X-XIV) được cải biến khiến cho nhiều khái niệm mang tính nhân dân và tính dân tộc. Biểu hiện rõ nét nhất là các phạm trù "trung", "hiếu", "đức trị", "thần quyền"...không mang tính một chiều. Đến thời Lê - Nguyễn, cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến, Nho giáo được phát triển, đề cao và được tôn làm quốc giáo. Đặc điểm nổi bật của Nho Giáo Việt Nam thời kỳ này là không chú ý nhiều đến học thuật, thuần tuý kinh viện. Nho giáo vận dụng các phạm trù vào để phục vụ cho mục đích cứu nước và mang nội hàm mới. Người có công phát triển Nho giáo và làm cho Nho giáo trở thành yếu tố văn hoá không thể thiếu của Việt Nam là Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã đem lại cho các phạm trù Nho giáo vốn cứng nhắc một chiều yếu tố mềm dẻo, có lợi cho hành động của con người. "Trung với nước, hiếu với dân" "việc nhân nghĩa cốt để yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo" "lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo" "giữ hoà hiếu hai nước tắt muôn đời chiến tranh" Tư tưởng lấy dân làm gốc: "mến người có nhân là dân, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân", "rượu hoà một nước, trên dưới một dạ cha con, lòng thương dân " Khoảng những năm thế kỷ XVIII, cùng với sự suy tàn của nhà nước phong kiến, Nho giáo suy yếu dần. Thế kỷ XI, nhà Nguyễn ra sức tuyên truyền và trấn hưng Nho giáo. Nho giáo vận động theo hai chiều hướng: Hướng bảo thủ tuyệt đối hoá các phạm trù nho giáo. Hướng tiến bộ không chịu sự ràng buộc của các phạm trù Nho giáo hướng đến giải phóng cá tính. 2. Sự ảnh hưởng, vai trò của tư tưởng đạo đức Nho giáo đến với việc xây dựng, hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội được hình thành trong hoạt động thực tiễn của người Việt. Các chuẩn mực, giá trị đạo đức con người Việt Nam được hình thành trong hoạt động sản xuất, đấu tranh dựng nước và giữ nước. Các tư tưởng Nho giáo nói chung và các tư tưởng về đạo đức nói riêng khi truyền bá vào Việt Nam đã xâm nhập được vào đời sống tinh thần của người Việt và được tiếp biến theo lăng kính của người Việt. Cơ sở để các phạm trù đạo đức của Nho giáo có thể bám rễ chính là ở điểm tương đồng của yếu tố nguồn gốc. Nho giáo là sản phẩm của nền văn hoá đậm chất nông nghiệp Phương Nam thể hiện tinh thần dân chủ, hoà ái, nhân nghĩa, mềm dẻo… Khi truyền bá vào Việt Nam-đất nước Phương Nam dựa trên nền sản xuất nông nghiệp-đã tìm thấy điểm tương đồng. Đối với người cư dân Phương Nam, khi bị phong kiến Phương Bắc xâm lược và bị đồng hoá bằng văn hoá Hán đã tiếp thu những điểm tương đồng và biến đổi cho phù hợp với nhân sinh quan của mình. Nho giáo đã trở thành nền tảng đầu tiên cho nền giáo dục nước nhà và là cơ sở lý luận để xây dựng nhà nước phong kiến đầu tiên của Việt Nam. Những quan niệm về nội dung, phương pháp giáo dục, tư tưởng đạo đức, các phạm trù, điển tích... của Nho giáo được sử dụng vào giáo dục. Các giá trị văn hoá tinh thần nói chung và đạo đức nói riêng đều chịu ảnh hưởng đậm nét của Nho giáo. Sự ảnh hưởng, vai trò của tư tưởng đạo đức Nho giáo đến xây dựng, hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam có thể nhìn ở những góc độ, nội dung cụ thể sau: Một là, các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Đặc điểm cách trình bày các tư tưởng đạo đức của Nho giáo thường thông qua các tích, tình huống, lời răn dạy của cổ nhân nên dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Cùng với quá trình hình thành các giá trị đạo đức tự thân của người Việt,Tư tưởng đạo đức Nho giáo đã hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt: Hiếu học, kính thầy Quá trình tiếp nhận văn hoá hán của người Việt rất đặc biệt. Sự tiếp biến có chọn lọc và học văn hoá Hán để chống Hán. Việc học chữ Hán không chỉ diễn ra trong các trường dành cho con quan lại quý tộc mà còn diễn ra trong các đình, chùa. ở Việt Nam, việc học trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu và là con đường để đổi đời. Việc học không liên quan đến nhà nước, mỗi gia đình tự lo. Tính xã hội hoá trong giáo dục đã hình thành từ lâu đời như vậy. Chế độ học tập ấy đã tạo cho đất nước một nền học vấn phổ cập rộng rãi, hiếu học, biết trân trọng yêu quý văn học. Từ nét văn hoá hiếu học như vậy đưa đến nét văn hoá tốt đẹp trọng thầy, quý trò. Vai trò người thầy được đề cao ("không thầy đố mày làm nên","Kính thầy mới được làm thầy"…) Trung quân ái quốc Các nhà Nho khác của Việt Nam đã thấm triết lý nhân sinh của Nho Giáo: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu" Phú quý không bị lôi cuốn, nghèo nàn không bị thay đổi, uy vũ không khuất phục, như vậy mới là đại trượng phu. Người Việt Nam đã tiếp thu triết lý sống của Đạo Nho. Người Việt quý trọng cái sống nên không hề do dự hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh sinh tồn tự nhiên, giữ gìn độc lập dân tộc. Các tấm gương lớn hy sinh cho đất nước lưu danh muôn thủa, góp phần làm giàu truyền thống tốt đẹp đó là truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường. Hiếu đễ Do ảnh hưởng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, xã hội Việt Nam từ xa xưa được kết cấu theo mô thức gia đình, họ hàng, làng nước. Yếu tố huyết thống được đề cao. Trước khi đạo Khổng du nhập, người Việt đã có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên- biểu hiện của huyết thống. Gia đình là tổ tông nhỏ, dòng họ là tổ tông lớn, đất nước là tổ tông cao nhất. Chuẩn mực đạo đức đầu tiên và cao nhất mỗi người phải thực hiện bắt đầu từ chữ Hiếu và kết thúc là chữ Trung. Hiếu đễ là gốc của điều Nhân ("hiếu đễ dã giả kì vi nhân chi bản dư") Nhân nghĩa Người Việt là cư dân nông nghiệp lúa nước. Sống hoà ái với tự nhiên và con người là bản chất vốn có. Cũng do nhu cầu trị thuỷ để phát triển sản xuất mà sự đoàn kết, yêu thương rộng rãi được hình thành. Nhân, nghĩa vốn là các chuẩn mực đạo đức mà đạo Nho đưa ra nhưng các chuẩn mực đạo đức đó dành cho mỗi cá nhân trong tu thân và thực hành đạo đức cá nhân. Khi truyền bá và phát triển ở Việt Nam, người Việt đã biết mở rộng quan niệm và thực hành Nhân nghĩa (đại nghĩa). Trong thời kỳ xây dựng chế độ phong kiến của Việt Nam, cùng với sự kết hợp tư tưởng Phật giáo trong trị nước và hình thành đạo đức của người Việt, các giá trị đạo đức nhân nghĩa của đạo Nho có sự pha tạp với các tư tưởng từ bi hỷ xả của đạo Phật. Thương người như thể thương thân Tư tưởng Trung, Thứ của Nho giáo khi truyền bá vào Việt Nam đã có cơ sở bám rễ khi có điểm tương đồng với quan niệm của người Việt như: “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác gióng nhưng chung một giàn”…những giá trị nhân văn trong đạo đức của người Việt vốn đã hình thành trên cơ sở nền văn minh lúa nước khi kết hợp với các phạm trù đạo đức có tính lý luận của Nho giáo càng trở nên sâu sắc, bền chặt hơn. Hai là, các chuẩn mực đạo đức Vai trò của các tư tưởng đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hưởng có tính tự phát đến sự hình thành các giá trị đạo đức của người Việt mà còn là cơ sở lý luận cho các nhà tư tưởng Việt Nam đưa ra các chuẩn mực đạo đức cho người Việt. Điển hình là tư tưởng đạo đức của Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh Nguyễn Trãi sống ở thời kỳ phong kiến. Ông là người đầu tiên có ý thức sâu về khái niệm "nước" và "yêu nước". Yêu nước trên cơ sở thương dân Theo Nguyễn Trãi, khái niệm nước với dân là một. Kết cấu văn hoá làng xã Việt Nam theo mô thức gia đình-làng xã-nước nhà. Trong tâm thức người Việt, lợi ích đất nước thống nhất với lợi ích của các gia đình, cá nhân (nước mất nhà tan). Nho giáo bàn về Trung hiếu cho rằng trung với Vua, hiếu với cha mẹ. Qua tư tưởng của Nguyễn Trãi, tư tưởng Trung, Hiếu của Nho giáo được mở rộng nội hàm Tận trung với nước, Tận hiếu với dân Coi trọng nhân dân. Nho giáo vốn coi trọng Đức trị và lấy dân làm gốc. Kế thừa các tư tưởng của Nho giáo, Nguyễn Trãi cho rằng người cai trị phải có Đức và coi trọng vai trò của nhân dân. Nhân nghĩa: "phàm mưu lược lấy nhân nghĩa làm gốc, dựng nên công to phải lấynhân nghĩa làm đầu, chỉ nhân nghĩa gồm đủ thì việc lớn mới xong xuôi". Chủ trương hoà bình "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chi nhân thay cường bạo" Hồ Chí Minh Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức hình thành trên cơ sở kết hợp các giá trị đạo đức truyền thống và yêu cầu xây dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam trong thời đại cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh đã đưa ra các chuẩn mực đạo đức mà mỗi người cần có là: trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, yêu thương rộng rãi (đại đoàn kết), nguyên tắc rèn luyện đạo đức Vai trò đạo đức Nho giáo với hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay Con người Việt Nam hiện nay trong thời kỳ đổi mới có sự thay đổi định hướng giá trị nhân cách. Bên cạnh những giá trị đạo đức tốt đẹp hình thành cũng xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Con người chạy theo lối sống xa hoa, ích kỷ, chú ý nhiều đến lợi ích cá nhân, lợi ích trước mắt. Sự phát triển con người Việt Nam bền vững được đặt trên những cơ sở lý luận đạo đức nhất định. Tư tưởng đạo đức Nho giáo đã từng đóng góp nhiều trong hình t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0442.doc
Tài liệu liên quan