Tính kế thừa của phủ định biện chứng & vận dụng xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam

mục lục Mở đầu Phần 1: Tính kế thừa của phủ định biện chứng 1. Khái niệm phủ định biện chứng 2.Tính kế thừa của phủ định biện chứng Phần 2: Tính kế thừa của phủ định biện chứng trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự cung tự cấp ở Việt Nam Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1469 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tính kế thừa của phủ định biện chứng & vận dụng xem xét công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự quản lý của Nhà nước Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Kết luận Tài liệu tham khảo mở đầu Trong suốt 45 năm (từ khi thành lập 1930 đến khi giải phóng hoàn toàn đất nước 1975) Đảng ta do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khó và giành được những thắng lợi vĩ đại: làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đưa dân tộc ta tiến vào kỉ nguyên độc lập tự do, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh là đế quốc Pháp và đế quốc Mĩ. Ngày nay trong công cuộc xây dựng kinh tế đất nước , Đảng lại lãnh đạo nhân dân đi hết từ thành công này đến thành công khác, mang lại sự đổi thay từng ngày từng giờ cho nền kinh tế Việt Nam cũng như mang lại sức sống mới cho nhân dân cả nước . Trước những biến động và những thay đổi kì diệu trong đời sống nhân loại, người Việt Nam nhìn ra nước ngoài càng suy ngẫm về con đường phát triển kinh tế của đất nước, về sự tăng trưởng bền vững và khả năng thu hẹp khoảng cách của nước ta với nhiều nưứoc phát triển, về hội nhập quốc tế...Tuy rằng trước đây chúng ta đã duy trì nền kinh tế bao cấp, việc đó làm trì trệ nền kinh tế, thế nhưng Đảng ta đã nhanh chóng nắm bất tình thế và đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình mới, thời đại mới, Đảng ta đã chủ trương chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước vào năm 1986, công cuộc đổi mới đã đua nước ta thoát khỏi khủng hoang trầm trọng sang phát triển nhanh. Không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà trong những ngành khoa học cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn, bằng chứng là ngân sách nhà nước cho những ngành này đã tăng lên đáng kể so với những năm đầu thập kỉ 90. Trong quá trình lãnh đạo đất nước để thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” tiến lên CNXH Đảng ta đã kiên định đường lối lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác – Lênin và áp dụng thực tiễn pháp biện chứng của Mac một cách linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạh định phát triển kinh tế xã hội trong nước. Phép phủ định biện chứng với đặc tính kế thừa đã được thể hiện rõ trong quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Đó là sự ra đời của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kì quá độ lên CNXH nhưng vẫn kế thừa được những thành tựu đã đạt đựoc trong thời kì trước đó. Nhận thức được tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-Lênin đặc biệt là tính kế thừa của phủ định biện chứng vào công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, bộ môn triết học Mac-Lênin đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên, do đó em chọn đề tài “tính kế thừa của phủ định biện chứng và vận dụng vào công cuộc đổi mói kinh tế của Việt Nam” để nghiên cứu. Tuy nhiên do thời gian có hạn kiến thức cũng như kinh nghiệm của em chưa được đầy đủ cho nên bài tiểu luận này còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ của thầy cô để em có thể bổ sung và sửa chữa ở những đề tài nghiên cứu sau. phần I : tính kế thừa của phủ định biện chứng 1. tính kế thừa của phủ định biện chứng: 1.1.Định nghĩa phủ định biện chứng. Thế giới vật chất vận động và phát triển không ngừng. Bất cứ sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi và được thay thế bằng sự vật mới.Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học Mac-Lênin gọi là sự phủ định. Phủ định bao gồm phủ định siêu hình và phủ định biện chứng. Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra dời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. Như vậy, phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phất triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trưng sau: tính khách quan và tính kế thừa. Những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là do những nguyên nhân bên ngoài đưa lại, xem sự vật và hiện tượng là những cái cô lập, tách rời nhau. Phương pháp biện chứng khẳng định cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm trong ngay bản thân sự vật, nó là kết quả của những mâu thuẫn được giải quyết trong bản thân mỗi sự vật . 1.2.Tính kế thừa của phủ định biện chứng: Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái giữ lại trong đó những yếu tố tích cực tiễn bộ từ cái cũ cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đới trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai doạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực. Do vậy phủ định biện chứng mang tính kế thừa. Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, diễn đạt tư tưởng đó, Lênin viết: “ Không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà lại sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời cái mới. Không có cái mới nào ra đời từ cái hư vô, nhờ việc giữ lại nhân tố tích cực của cái phủ định mà cái mới có tiền đề cho sự xuất hiện của mình. Qúa khứ không bao giờ lại biến mất hoàn toàn. Trong dòng chảy vô tận của thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở hiện tại. Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiện tại, tạo nên sợi dây liên hệ sinh động giữa quá khứ và hiện tại. Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Chẳng hạn, truyền thống yêu nước của dân tộc ta được các thế hệ Việt Nam kế thừa liên tục từ chỗ yêu nước là “trung với vua” đến “trung với Đảng, hiếu với dân”. Thực chất của sự phát triển là sự biến đổi, mà giai đoạn sau còn bảo tồn tất cả những gì đã được tạo ra ở giai đoạn trước, chẳng hạn trong khi phủ định Chủ nghĩa tư bản với tư cách là một chế độ lỗi thời chủ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, song những yếu tố được giữ lại đó cũng phải được cải tạo, được biến đổi trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố nội tại của CNXH. Trong quá trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biêt kế thừa những di sản tích cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sach trơn. Ngược lại có lúc có nơi lại phục hồi lại những phong tục tập quán đã lỗi thời, khong biết đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho phù hợp . Đối lập với quan điểm biện chứng, những người theo quan điểm siêu hình coi phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ là chấm dứt sự liên hệ, sự vận động, sự phát triển của bản thân sự vật. Do đó quan điểm siêu hình không thấy được tiền đề của sự nảy sinh ra cái mới. Mặt khác, khi nói đến kế thừa thì họ hiểu kế thừa một cách nguyên xi không phê phán, không cải tiến cải tạo chúng hoặc lắp ghép các yếu tố của cái cũ vào cái mới một cách đơn giản máy móc. Những người thuộc “phái văn hoá vô sản” ở Nga đầu những năm cách mạng có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hoá quá khứ. Theo họ nền văn hoá vô sản không có liên quan gì với nền văn hoá trước, họ chủ trương xây dựng lại từ đầu nền văn hoá mới của giai cấp vô sản. Đây là quan điểm siêu hònh xem phát triển chỉ là sự phát triển tăng lên hay giảm đi thuần tuý về lượng không có sự thay đổi về chất. Sự phát triển chỉ là thay đổi số luợng của từng loại đang có, không có sự nảy sinh những loại mới với những tính quy định về chât, có thay đổi về chất chăng nữa thì đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín. Việc thừa nhận hay không thừa nhận sự phát triển vẫn không đủ căn cứ để phân biệt một quan điểm biện chứng với quan điểm siêu hình. Điều chủ yếu để phân biệt hai quan điểm đó là phải làm rõ quá trình phát triển diễn ra như thế nào. Trong quan điểm biện chứng duy vật, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn. Trong quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo vòng xoáy trôn ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại diểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn. Như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ mà còn gắn liền cái cũ với cái mới dựa trên cơ sở của cái cũ để tạo nên sự phát triển. Nền kinh tế nào cũng có những khuyết điểm những mâu thuẫn tồn tại trong nó và một xã hội mà luôn giữ một kiểu tổ chức sản xuất, phương thức sản xuất thì chắc chắn sẽ không thể tiến lên được. Vì vậy nền sản xuất phải luôn được đổi mới phù hợp với phép phủ định biện chứng. Nền sản xuất lỗi thời không còn năng động nữa sẽ được thay thế bởi nền sản xuất tiến bộ, năng động và phát triển phù hợp với thời đại. Công cụ sản xuất bằngcơ khí ra đời thay thế công cụ sản xuất bằng lao động thủ công. Đến lượt nó sản xuất tự động hoá ra đời thay thế công cụ bằng cơ khí của quá trình sản xuất. Nguyên nhân của quá trình thay thế này là do những động lực tự thân của nền sản xuất xã hội quy định, do những nhu cầu không ngừng biến đổi và phát triển của con người. Nhưng sự thay thế đó không phải là vứt bỏ, phủ định sạch trơn phương thức sản xuất cũ mà chúng vẫn được giữ lại, tồn tại song song với phương thức sản xuất mới và trở thành các nghành, các phương thức sản xuất truyền thống đôi khi chúng rất cần đối với nền kinh tế của một số nước . phần 2 : tính kế thừa của phủ định biện chứng vào công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam 1.Những tồn tại bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tự cung tự cấp ở Việt Nam: Sau khi miền Bắc giành độc lập, được sự giúp đỡ của các nước XHCN và dựa vào kinh nghiệm của các nước đó, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kịnh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các nước XHCN khác, mô hình kinh tế kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá Nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai tài sản và tiền bạc để ổn định đất nước và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong thời kì đầu ở nước ta đã tỏ ra phù hợp với điều kiện của đất nước, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích ứng với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến. Nhưng sau khi giải phóng miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng kinh tế đã có nhiều thay đổi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình: kinh tế tự cung tự cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng kinh tế chỉ huy như ở miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà nước. Điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ, giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền kinh tế kém phát triển được sự bảo trợ của Nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính sách dù lỗ của Nhà nước ngày càng không đem đến bất cứ một hiệu quả kinh tế nào. Đồng thời do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi truờng bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó đã gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm , ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có, vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương xảy ra nạn đói triền miên. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế của nước talà do đã áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước ngoài giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta trước sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới. Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và đi lên. 2.Tính kế thừa của phủ định biện chứng khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam: 2.1.Sự ra đời của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước: Trong tình hình đất nước đang gặp nhiều khó khăn, có những tồn tại và bất cập trong nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng VI(1986) đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện hạch toán kinh doanh XHCN . Đến Đại hôi Đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước talà một tất yếu khách quan, tức là chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa hết sức quan trọng trong lí luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại. Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ đừng nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỉ 80 đã chỉ rõ được thực tế của cơ chế quản lý kinh tế cũ cho dù chúng ta liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhưng hiệu quả đạt được của nền sản xuất xã hội rất thấp, sản xuất không đáp ứng dược nhu cầu của tiêu dùng xã hội , tích luỹ hầu như không có đôi khi còn lấn chiếm cả vốn của nước ngoài. Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy của nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất mà nó còn sản sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thứ ba, xét về những nhân tố của cơ chế thị trường. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là một thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thực tế thị trường đã hình thành và phát triển được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vương tới những vùng hẻo lánh xa xôi và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức can thiệp của Nhà nước còn rất thấp, chưa có sự quản lý chặt chẽ một cách hệ thống và liên kết các thị trường một cách động bộ theo pháp luật. Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền minh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn vối nền kinh tế thị trường thế giới, tương quan giá cả của các loại hàng hoá quốc tế. Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các quốc gia là tạo ra được nhiều của cải vật chất làm cho quốc gia của mình đạt tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thứơc đo chủ yếu vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các Đảng cầm quyền. Vì vậy, chúng cần phải đổi mới để phát triển kinh tế cũng như những mặt xã hội khác để khẳng định vị trí của Đảng của dân tộc mình trên trường quốc tế. Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đềdo chính cơ cấu và bản thân đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các hiệm tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng, vì vậy sự tác độnh của Nhà nước một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của nền kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kì dài tiến hành xây dựng nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình”của thị trường, cơ chế này đã có vai trò lịch sưtrong những năm1950-1979 và đã có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song cơ chế này đã được duy trì khá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, trong Đại hội lần thứ IV của Đảng(1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới, điều chỉnh cơ cấu kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã đựơc đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hội VII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. 2.2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước: Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, Nhà nước ta đã xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không chú ý đến yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo những quy luật của thị trường. Trên thực tế , cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó nền kinh tế hàng hoá ra đời là tất yếu, có là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà là sự chuyển đổi có tính kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sửa đổi nhứng tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau: Trước hết đó là việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác bên cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân ... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ những mặt yếu kém của nền kinh tế cũ nhưng nền kinh tế mới đã biết kế thừa những yếu tố tích cực của nền kinh tế cũ và phát triển nó một cách toàn diện tích cực hơn. Hai thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế tập thể vẫn giữ vai trò chủ đạo trong đường lối phát triển kinh tế. Những bước đổi mới quan trọng của Đảng và Nhà nước là sự thừa nhận của các thành phần kinh tế khác như thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Với sự chuyển đổi đó, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng nhưng không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đổi mới kinh tế xã hội khong nên hiểu chỉ là sự thay đổi cơ chế quản lý mà thực chất là sự giải thể có kế thừa cấu trúc gắn với mô hình cũ, xây dựng cấu trúc mới bao gồm nhiều mặt: cơ cấu sở hữu –thành phần kinh tế; cơ cấu ngành sản xuất, kinh doanh; cơ cấu vùng lãnh thổ; cơ cấu kĩ thuật công nghệ; cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư... Đảng ta chủ trương trên cơ sở ổn định chính trị để đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội: cần chú ý sâu sắc rằng đổi mơí là quá trình gắn với các thời kì đổi mới khác nhau có liên quan đến nhau, vận dụng những ưu điểm của thời kì trước và khắc phục những mặt yếu kém. Những thời kì đó là: Thời kì xuất hiện mầm mống đổi mới được đánh dấu từ Nghị quyết Trung ương lần thứ 6 khóa IV (tháng9 năm 1979). Qua các sự kiện như : “khoán chui”, “làm chui” trong nông nghiệp; thực hiện kế hoạch 3 phần (phần chỉ tiêu pháp lệnh, phần một nửa chỉ tiêu pháp lệnh một nửa tự lo của xí nghiệp và phần tự do theo thị trường hoàn toàn), trong các nghành công thương nghiệp. Thời kì khởi xướng đổi mới. Từ kinh nghiệm tiên tiến được tổng kết, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), đánh dấu chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới, tạo bước ngoặt mới, cơ bản trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Trước đây đã có thời kỳ người ta cho rằng, văn hoá nằm ngoài sự phát triển kinh tế và tìm nền tảng phát triển kinh tế từ chính các nhân tố thuần tuý kinh tế. Nhưng, trong những năm gần đây, người ta đã có quan niệm đúng đắn hơn về các vấn đề này và coi văn hoá là một trong những động lực của nền kinh tế năng động; đồng thời , nó cũng có tác động kìm hãm với sự tăng trưởng kinh tế. Từ cách tiếp cận trên, có thể khẳng định rằng, kinh tế- với tư cách là một hoạt động của con người – gắn bó chặt chẽ với văn hoá; văn hoá không đứng ngoài kihn tế mà một trong những nhân tố quan trọng của sự phát triển kinh tế. Sau gần 20 năm cải cách và mở cửa nền văn hoá của ta càng được thăng hoa nhanh hơn khi nó xoá bỏ nhiều khuôn phép cũ, xơ cứng của văn hoá truyền thống phong kiến, hình thành từng bước những quan niệm về giá trị, đạo dức con người và gắn kết hai cái đó lại với nhau, tạo nên khuôn mặt mới, nội dung cơ bản của văn hoá mới. Nếu trước đây , ai đó có nói đến cái “tôi” , đến kiếm tiền, đến thụ hưởng vật chất cá nhân, đến làm giàu thì đều bị quy là cá nhân chủ nghĩa, phi đạo đức, là ảnh hưởng lối sống tư sản. Nay, thì ít ai lên án chúng nữa, thậm chí còn đước coi là chuyện thường ngày, miễn sao kiếm tiền và làm giàu hợp pháp là được. Cái giáo lý xưa, lỗi thời của đạo đức truyền thống “trọng nghĩa khinh tài” cũng theo đó được uốn nắn lại theo hướng trả lại ý nghĩa đúng đắn của nguyên tắc lợi ích vật chất, của sự đa dạng trong phong cách sống, kiếm tiền... Từ những thay đổi quan niệm về đạo đức và giá trị, người ta đã rủ nhau lập ra các hội buôn, xí nghiệp tư nhân, hùn hạp nhau để mở trường tậu lớp, khôi phục phát triển nghành nghề...Rõ ràng, cải cách và mở cửa đã làm bật dậy nhiều quan niệm mới về giá trị, đạo đức, nhất là làm cho chúng ăn nhập vào hành vi con người như là một nội dung cơ bản của văn hoá mới. Cái tiêu cực của văn hoá truyền thông Việt Nam chủ yếu là chuyên chế và khép kín với bên ngoài. Nó đề cao tuyệt đối luân lý, đạo đức trung hiếu, trung quân...làm cá tính của con người bị bóp nghẹt, tính sáng toạ của họ cũng bị tê liệt, coi mọi cái sinh lợi đều bất chính, mọi mưu toan tìm cách kiếm lời đều ti tiện bất nghĩa...Tuy nhiên , văn hoá truyền thống phong kiến cũng có những cái được khơi trong để sử dụng như quan hệ giữa người với người...Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, văn hoá đạo đức được coi là nguồnlực quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Vai trò to lớn của nó được thể hiện ở khả năng định hướng cho việc khai thác những nhân tố tích cực và hạn chế những nhân tố tiêu cực cho việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Thực tế cho thấy, văn hoá đã góp phần định hướng và làm cho việc lựa chọn và xác định những quốc sách phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp. Chẳng hạn, trong quá trình mở cửa, chúng ta chấp nhận chia sẻ để học hỏi những kinh nghiệm của bạn bè quốc tế...nhằm phát triển nền kinh tế. ở nước ta ngày càng nhiều nghành nghề mới ra đời và phát triển. Bên cạnh những nghành nghề mới ra đời và phát triển đó, những nghành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được phục hồi và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, từng địa phương, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng cao hơn của sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành quốc tế. Cùng với việc công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác là sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể của những người sản xuất nhỏ, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản Nhà nước, công ty cổ phần. Đây cũng là bước ngoặt quan trọng để giải phóng sức lao động, tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại. Ngoài việc chuyển đổi tư tưởng mạnh mẽ về sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta còn được thể hiện trong việc tiếp tục duy trì và phát huy công cụ kế hoạch hoá một cách linh hoạt bằng việc kết hợp “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình”. Nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phụ thuộc hoàn toàn vào sự quản lý của Nhà nước đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tôn trọng những quy luật khách quan của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... nhưng không phải để cho những quy luật này tự do chi phối điều tiết thị trường mà ở đây có sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện vừa với tư cách là một chủ thể kinh tế hoạt động kinh doanh trên thị trường, vừa với tư cách là một chủ thể quản lý, bằng những chính sách linh hoạt của mình để điều tiết hoạt động của thị trường. Nhà nước không còn đưa ra kế hoạch sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu mà vấn đề vẫn được thực hiện bởi thị trường. Nhà nước can thiệp với tư cách định hướng, điều tiết trên cơ sở đưa ra các kế hoạch dài hạn. Như vậy nền kinh tế mới không thổi phồng, tuyệt đối hoá vai trò kinh tế của Nhà nước tới mức phủ nhận thủ tiêu vai trò của chủ thể kinh tế của các công ty, xí nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập. Thực hiện quản lý kinh tế của Nhà nưổctng cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp là sai lầm. Trái lại vịn vào việc xây dựng và phát triển vận động của các quy luật khách quan lại bỏ vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là không đúng. ở Việt Nam hiện nay để xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với sự quản lý của Nhà nướctheo định hướng XHCN tức là một mặt phải tiếp tục củng cố lại nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, mặt khác phải không ngừng phát huy vai trò của Nhà nước, của Đảng, luôn bảo đảm niềm tin của người lao động. Đã có nhà báo nước ngoài phỏng vấn đồng chí Lê Khả Phiêu (trong thời kì ông còn làm Tổng bí thư) rằng “với một người có bằng cấp về quân sự nhưng không có bằng cấp về kinh tế ông có thể đưa nước Việt Nam tiến lên không?”, trả lời phỏng vấn ông khẳng định rằng Việt Nam khác với các nước ở chỗ chúng tôi đào tạo một người lí._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0299.doc
Tài liệu liên quan