Phát triển công nghiệp nông thôn ở Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

MỞ ĐẦU 1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở nước ta hiện nay, trong đó, phát triển CNNT là "chìa khóa" đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát triển CNNT ở ĐBSCL hiện đang là một nhu cầu hết sức bức bách, vì thực tiễn đã chỉ rõ: nếu chỉ dựa vào nông nghiệp thuần nông và độc canh cây lúa như hiện nay thì kinh tế vùng này không thể phát triển mạnh và bền vững, đời sống nông dân khó có t

doc148 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2079 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phát triển công nghiệp nông thôn ở Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể được cải thiện và nâng cao. Với hy vọng góp phần nhỏ trong việc tìm ra các giải pháp nhằm đưa ĐBSCL tiến nhanh vào văn minh, hiện đại, tôi chọn vấn đề "Phát triển công nghiệp nông thôn ở Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài nghiên cứu và viết luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Từ cuối thập niên 40 của thế kỷ này, khái niệm “Công nghiệp nông thôn” xuất hiện và đến nay khái niệm CNNT được dùng rộng rãi như một phạm trù kinh tế độc lập. Nhưng mãi đến 1981, CNNT ở nước ta mới được quan tâm và được đặt trong một chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước mang mã số KX-08: “Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn” với đề tài “Định hướng và giải pháp công nghiệp hóa nông thôn Việt Nam” mã số KX-08-07 do GS Nguyễn Văn Hường, GS Đặng Ngọc Dinh làm Chủ nhiệm; ở ĐBSH có dự án "Phát triển công nghiệp nông thôn nhằm đa dạng hóa thu nhập của nông dân vùng có mật độ dân số cao ở đồng bằng sông Hồng" của tập thể tác giả do GS Hồ Văn Vĩnh làm chủ nhiệm. Ngoài ra còn có một luận án phó tiến sĩ của Nguyễn Văn Phúc với đề tài "CNNT trong quá trình CNH ở Việt Nam và một số vấn đề kinh tế - xã hội chủ yếu ảnh hưởng tới sự phát triển của nó" đã bảo vệ năm 1996; v.v... Đến nay, ở nước ta đã có hơn 60 công trình nghiên cứu và viết về CNNT. Tất cả các tác giả đều tập trung nghiên cứu CNNT với tư cách là giải pháp thúc đẩy sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn trong quá trình CNH, HĐH, đều thống nhất nhận định và đã đạt tới những kết quả sau: - CNNT là một bộ phận của kinh tế nông thôn và nằm trong kết cấu công nghiệp chung của cả nước; - Phát triển CNNT là yêu cầu khách quan cấp thiết của quá trình CNH, HĐH; - CNNT có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; - Đã đưa ra được những định hướng và nhiều giải pháp cho sự phát triển CNNT ở nước ta; Tuy nhiên, việc nghiên cứu CNNT trên địa bàn ĐBSCL hiện vẫn đang còn ở bước sơ khởi, dưới dạng những điều tra thống kê ngành nghề và lao động - xã hội trong vùng. Do vậy, phải đi sâu nghiên cứu CNNT trên địa bàn lãnh thổ ĐBSCL một cách hoàn thiện hơn cả về lý luận và hướng vận dụng thể nghiệm trong thực tiễn. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN Mục đích của luận án: Xác lập những căn cứ lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc đề xuất những quan điểm, định hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy mạnh phát triển CNNT ở ĐBSCL theo hướng CNH, HĐH. Nhiệm vụ của luận án: Để đạt mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau: - Phân tích, luận giải làm rõ cơ sở lý luận của việc phát triển CNNT ở ĐBSCL theo hướng CNH, HĐH thông qua việc nghiên cứu quan điểm lý luận của các tác giả kinh điển, các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước; hệ thống hóa và phát triển những kết quả nghiên cứu về CNNT trong nước và kinh nghiệm thế giới những năm qua. - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển CNNT ở ĐBSCL những năm đổi mới, rút ra những mâu thuẫn và những tồn tại cần khắc phục để thúc đẩy phát triển CNNT ở ĐBSCL. - Luận chứng về những quan điểm định hướng cơ bản cần quán triệt và đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm thúc đẩy CNNT ở ĐBSCL phát triển nhanh, bền vững và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN - Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động sản xuất công nghiệp ở nông thôn bao gồm cả tiểu, thủ công nghiệp được tổ chức dưới nhiều hình thức như hộ gia đình, xí nghiệp tư nhân, cá thể, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại và phát triển trên địa bàn nông thôn ĐBSCL, bao gồm cả những thị trấn, thị tứ trong khoảng thời gian từ 1990 đến nay. - Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng mác-xít, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp khảo cứu thu thập kế thừa có chọn lọc những thông tin qua các công trình nghiên cứu trước đây và qua sách báo kết hợp với đi khảo sát thực tế và bằng tư duy độc lập để phát triển vận dụng những kết quả nghiên cứu trước đây vào thực tiễn ĐBSCL. 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Xác lập quan niệm khoa học về CNNT làm cơ sở cho việc đi sâu nghiên cứu CNNT trên địa bàn ĐBSCL. - Chỉ ra được những điều kiện cơ bản để hình thành và phát triển CNNT cùng những đặc điểm chủ yếu của nó. - Từ phân tích những mô hình phát triển CNNT ở các nước và vùng lãnh thổ đang phát triển trong khu vực luận án đã vạch rõ những ưu, nhược điểm của các mô hình phát triển CNNT ở các nước đó, rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa đối với phát triển CNNT ở ĐBSCL. - Đã phân tích làm rõ thực trạng phát triển CNNT ở ĐBSCL trong những năm đổi mới, từ đó chỉ ra những mâu thuẫn, tồn tại cần giải quyết để đẩy mạnh phát triển CNNT ở ĐBSCL trong những năm tới. - Xác lập được những quan điểm, định hướng cơ bản để phát triển CNNT phù hợp với điều kiện cụ thể của ĐBSCL. - Đề xuất có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng những giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển CNNT ở ĐBSCL trong những năm tới. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án chia làm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN Hiện nay hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới đều chú trọng đến phát triển CNNT và coi đó là một giải pháp hữu hiệu để tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo cơ sở để xã hội nông thôn phát triển ổn định, đồng thời cũng là biện pháp nhằm hạn chế sự tập trung quá mức dân cư ở các đô thị. Đối với nước ta, phát triển CNNT không chỉ có tác dụng nâng cao đời sống dân cư nông thôn, mà còn có tác dụng đưa kinh tế - xã hội nông thôn tiến lên văn minh hiện đại. Phát triển CNNT đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đồng thời là một nội dung trọng yếu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta nói chung, ĐBSCL nói riêng. Ngoài ra, phát triển CNNT ở ĐBSCL còn là giải pháp nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển toàn diện đạt hiệu quả cao, kinh tế - xã hội nông thôn phát triển bền vững, ổn định tiến lên văn minh hiện đại. Phát triển CNNT là con đường đưa nông thôn ĐBSCL thoát khỏi đói nghèo, nhân dân ngày càng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 1.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TRONG LỊCH SỬ 1.1.1. Công nghiệp nông thôn Ở nước ta, CNNT mới được nghiên cứu từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX này và đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VII, ngày 3 tháng 6 năm 1993, thuật ngữ CNNT đã được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng ta [18, 13-14]. Hiện nay phát triển CNNT đã trở thành mối quan tâm chung của các nước đang phát triển trên thế giới và cả ở nước ta. Nhưng do được tiếp cận ở nhiều giác độ khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về CNNT, theo đó mỗi nước có cách thức phát triển CNNT riêng cho mình vì vậy kết quả thu được giữa các nước cũng rất khác nhau. Trên thực tế, các khái niệm CNNT đã được đưa ra từ hai cách tiếp cận cơ bản sau: [các quan niệm về CNNT trình bày dưới đây được tổng hợp từ các nguồn tài liệu: [3, 3], [14], [21], [22], [40, 159-164], [43, 2], [45, 4], [53, 2], [61] ...]. - Cách tiếp cận thứ nhất: CNNT được nghiên cứu dưới giác độ kinh tế ngành. Tức là đặt CNNT trong sự phát triển theo chiều dọc của ngành kinh tế công nghiệp và theo đó CNNT được xác định chỉ là một bộ phận của kinh tế công nghiệp. Với cách tiếp cận này CNNT được xem như một tổng thể bao gồm nhiều bộ phận thuộc nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Do mỗi ngành công nghiệp có đặc điểm riêng, có mối liên hệ khép kín và kết cấu chặt chẽ cho nên mỗi bộ phận khác nhau của CNNT phải phát triển theo quy hoạch, kế hoạch riêng của từng ngành công nghiệp cụ thể. Theo kiểu cách này thì CNNT chắc chắn sẽ phát triển bền vững hơn, nhưng sẽ ít có tác dụng hơn đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đặc biệt là đối với sản xuất nông nghiệp. Bởi lẽ, trong trường hợp này, nông thôn chỉ là nơi tiếp nhận sự phân bổ kế hoạch phát triển của các ngành sản xuất công nghiệp; là biện pháp nhằm phân tán hóa các cơ sở công nghiệp về nông thôn để khai thác nguồn lao động rẻ tại địa phương và trong nhiều trường hợp nó nhằm tránh tình trạng gây ô nhiễm môi trường ở các đô thị. - Cách tiếp cận thứ hai: CNNT được tiếp cận dưới giác độ kinh tế lãnh thổ. Theo cách tiếp cận này, CNNT được xem là một bộ phận của kinh tế lãnh thổ, gồm nhiều ngành công nghiệp khác nhau và được phát triển trong các mối quan hệ kinh tế - xã hội khép kín trong phạm vi một địa bàn nông thôn nhất định. Điều đó có nghĩa là việc phát triển CNNT phải xuất phát từ những nhu cầu cần thiết đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và chỉ dựa chủ yếu vào các nguồn lực có sẵn tại địa phương. Tuy nhiên do xuất phát từ những khía cạnh khác nhau của kinh tế lãnh thổ nên cũng đã có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm CNNT. Cụ thể có mấy loại quan niệm như sau: Loại quan niệm thứ nhất: CNNT là những cơ sở công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn, trong đó bao gồm cả dịch vụ và thương mại, bất kể do ai quản lý. CNNT đồng nghĩa với những ngành phi nông nghiệp. Quan niệm này không thực tế vì: một là, có những cơ sở công nghiệp tuy đóng trên địa bàn nông thôn nhưng không gắn bó với sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn; hai là, dịch vụ, thương mại tuy có vai trò quan trọng trong kết cấu kinh tế nông thôn nhưng không phải là những ngành sản xuất. Do vậy CNNT không thể bao gồm toàn bộ những cơ sở công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn và cũng không thể bao gồm cả những ngành phi sản xuất. Loại quan niệm thứ hai: CNNT là bộ phận công nghiệp phục vụ nông thôn. Quan niệm này quá rộng vì có nhiều xí nghiệp công nghiệp phục vụ nông thôn rất đắc lực nhưng lại đóng ở các thành phố. Loại quan niệm thứ ba: CNNT là bộ phận công nghiệp của nông thôn do địa phương quản lý và chỉ bao gồm tiểu, thủ công nghiệp. Quan niệm này quá hẹp, vì: một là, các cơ sở công nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn không do địa phương quản lý, nhưng lại phát triển gắn bó với kinh tế - xã hội nông thôn thì lại không được liệt vào CNNT; hai là, nếu CNNT chỉ bao gồm tiểu, thủ công nghiệp thì không thể nào đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Những lập luận trình bày trên cho thấy, nếu nhìn một cách phiến diện từ giác độ kinh tế ngành hay kinh tế lãnh thổ đều không thể có nhận thức đúng đắn về CNNT. Do vậy muốn có nhận thức đúng đắn về CNNT thì cần phải xem xét nó trong tổng thể các mối quan hệ của nền kinh tế. Tức là CNNT phải được xem xét trong cả quan hệ dọc (kinh tế ngành) lẫn quan hệ ngang (kinh tế lãnh thổ). Đồng thời nó cũng còn phải được xem xét trong lĩnh vực kinh tế (phát triển lực lượng sản xuất, thỏa mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và thị trường quốc tế) lẫn cả các tác động xã hội (việc làm, thu nhập, mức sống dân cư)... Ngoài ra CNNT còn phải được xem xét trong mối quan hệ với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Hiện nay việc áp dụng quan điểm hệ thống vào nghiên cứu tìm ra những giải pháp phát triển CNNT nhằm thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH nền kinh tế đất nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã được các nhà nghiên cứu nước ta xem trọng và cũng đã đi đến những thành công nhất định, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế vĩ mô. Trong quá trình nghiên cứu đó, đã có một số nhà khoa học nhất trí cho rằng: "CNNT là một bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau, phân bổ ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, bao gồm nhiều ngành nghề đan kết chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp. CNNT không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của: Thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn. Các hợp tác xã và các tổ hợp, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp. Các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực phẩm hoặc các xí nghiệp khai thác quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế địa phương" [21, 7], [60, 118], [72, 5-6]. Quan niệm CNNT với nội dung như trên đã làm rõ được vị trí của CNNT trong nền công nghiệp của cả nước, địa bàn hoạt động và mối quan hệ tác động của nó với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, quy mô, loại hình kinh doanh. Trong một công trình nghiên cứu khác, các nhà khoa học cũng đã cho rằng: "CNNT bao gồm các cơ sở công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, được phân bố ở nông thôn, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của địa phương và do chính quyền địa phương quản lý về mặt nhà nước" [76, 7]. Quan niệm này đã xác định rõ thêm vị trí của CNNT trong chiến lược phát triển kinh tế của địa phương và vai trò quản lý nhà nước của chính quyền địa phương đối với phát triển CNNT. Từ những kết quả nghiên cứu trên, có thể định nghĩa: "CNNT là một bộ phận của kết cấu ngành công nghiệp, được hình thành và phát triển ở nông thôn; bao gồm các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thức, thuộc nhiều thành phần kinh tế, có quy mô vừa và nhỏ; hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn do địa phương quản lý về mặt nhà nước". Theo định nghĩa trên thì CNNT sẽ bị chi phối bởi tính quy định về sự phát triển chung của công nghiệp cả nước trong đó trực tiếp nhất là công nghiệp trên các địa bàn thuộc tỉnh và vùng lãnh thổ. Sự phát triển của CNNT là kết quả của sự phát triển phân công lao động xã hội tại chỗ nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đang đặt ra ở nông thôn, trong đó tác dụng chủ yếu của CNNT là phục vụ trước hết cho lợi ích của nhà đầu tư nói riêng và dân cư nông thôn nói chung. Chính vì thế nên nó được sự quan tâm đầu tư phát triển bởi nhiều thành phần kinh tế và được tổ chức sản xuất dưới nhiều hình thức phong phú đa dạng tùy theo điều kiện của từng nhà đầu tư cụ thể. Do đó sự đa dạng hóa về hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất là một trong những đặc tính cơ bản của CNNT. Theo định nghĩa trên thì CNNT sẽ bao gồm các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy, hải sản; các cơ sở sản xuất, sửa chữa cơ khí và các loại phương tiện khác phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư nông thôn; các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu; các cơ sở sản xuất trong các ngành nghề truyền thống... với quy mô vừa và nhỏ thuộc nhiều thành phần kinh tế; tiến hành sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương. Như vậy chỉ những cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn có những tác dụng sau đây mới thuộc phạm trù CNNT: Trực tiếp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trên địa bàn phát triển toàn diện; Tạo ra nhiều việc làm mới, đẩy mạnh phát triển phân công lao động xã hội nông thôn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn; Thu hút lao động từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn; Làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ; Tạo điều kiện thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển tiến lên văn minh hiện đại. Sự khẳng định CNNT bao gồm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ hoàn toàn không dựa vào ý chí chủ quan mà là dựa vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của các vùng nông thôn. Nhìn chung do đường xá, phương tiện giao thông vận tải, hệ thống thương mại dịch vụ... ở nông thôn thường trong tình trạng phát triển thiếu đồng bộ và yếu kém hơn so với đô thị nên CNNT chỉ có điều kiện phát triển một cách phổ biến ở quy mô vừa và nhỏ. CNNT, do có những đặc tính nêu trên nên tất yếu phải được đặt dưới sự quản lý của các cấp chính quyền địa phương từ tỉnh đến huyện, xã và việc phát triển CNNT nhất thiết phải được đặt trong chương trình, kế hoạch phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của địa phương. 1.1.2. Phân biệt khái niệm CNNT với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn CNNT và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là hai khái niệm khác nhau. Bởi lẽ CNNT là một khái niệm dùng để chỉ một bộ phận của ngành công nghiệp, còn CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay là quá trình phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, nông nghiệp, theo yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. CNH, HĐH là "quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [19, 43], [70, 587]. CNH, HĐH chỉ được tiến hành trong một giai đoạn lịch sử nhất định ở những nước có nền kinh tế kém phát triển, nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tạo ra những tiền đề, điều kiện cần thiết khác cho sự cất cánh của nền kinh tế và sự phát triển của xã hội trong giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, CNH, HĐH sẽ được triển khai rộng khắp trên tất cả các ngành và lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong một quốc gia thông qua con đường phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ. Ở nước ta CNH, HĐH được bắt đầu từ nông nghiệp, nông thôn với nội dung đã xác định gồm: Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp. Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa. Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại [17, 87]. Như vậy, chúng ta có thể hình dung được thực chất của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay là quá trình phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn thông qua các biện pháp sau: * Phát triển các hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp bao gồm các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ kinh tế kỹ thuật vào nông thôn với tỷ trọng ngày càng lớn nhằm chuyển dịch và cải biến nền kinh tế nông thôn từ thuần nông sang cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ. * Trang bị máy móc, thiết bị công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp để cải tạo nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu, năng suất thấp thành nền nông nghiệp cơ khí hóa, sinh học hóa, năng suất cao, khối lượng hàng hóa lớn. * Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội nông thôn (thủy lợi, giao thông, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở, điện, nước... ) để từng bước đô thị hóa nông thôn. Chính vì CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chỉ được thực hiện thông qua hàng loạt các phát triển cụ thể nên nó là khái niệm dùng để chỉ quá trình biến đổi toàn diện trong kinh tế - xã hội ở nông thôn, trong đó bao hàm cả quá trình biến đổi của CNNT từ chỗ là các hoạt động kinh tế phụ trong cơ cấu kinh tế thuần nông truyền thống trở thành ngành sản xuất chính trong cơ cấu kinh tế mới theo hướng giảm dần tỷ trọng các ngành ngoài nông nghiệp. Như vậy, phát triển CNNT chỉ là một giải pháp của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do vậy, không nên có sự đồng nhất giữa phát triển CNNT với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, do phát triển CNNT, đặc biệt là trong giai đoạn CNH không chỉ có tác dụng giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư và tạo ra sự tăng trưởng về kinh tế trong các ngành sản xuất công nghiệp ở khu vực nông thôn mà còn tạo ra sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội, tạo sự biến đổi sâu sắc trong kinh tế - xã hội nông thôn nên phát triển CNNT được coi là "chìa khóa" của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. 1.1.3. Sự hình thành và phát triển của CNNT trong lịch sử 1.1.3.1. Sự hình thành CNNT trong lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của thế giới - CNNT là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngay trên địa bàn nông thôn. Tiền thân của công nghiệp mà trước hết là CNNT là những hoạt động thủ công của nông dân nhằm sản xuất ra những sản phẩm cần thiết trước hết là công cụ sản xuất và sau đó là các vật phẩm tiêu dùng khác để phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống cho bản thân và gia đình họ. Mặc dù là những hoạt động sản xuất phụ của nông dân nhưng do được chuyên môn hóa theo sự phân công nhất định nên năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng lên, số lượng sản phẩm làm ra không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng mà còn có dư thừa ngày càng nhiều để đem trao đổi lấy những sản phẩm tiêu dùng khác. Việc trao đổi sản phẩm thừa lúc đầu chỉ là ngẫu nhiên, nhưng dần dần nó đã trở thành hoạt động có ý thức, do đó các hoạt động sản xuất thủ công nghiệp ngày càng trở thành hoạt động sản xuất chủ yếu của một số thành viên trong gia đình nông dân. Kể từ khi có sự ra đời của những công cụ bằng kim loại, đặc biệt là công cụ bằng sắt, con người đã có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu hơn số tư liệu cần thiết cho sinh hoạt của họ, nhờ đó nền sản xuất nhằm để trao đổi mua bán từng bước ra đời phát triển, đồng thời các hoạt động thủ công nghiệp cũng dần dần tách khỏi nông nghiệp. Ph. Ăngghen đã viết: "Của cải tăng lên nhanh chóng, nhưng với tư cách là của cả của cá nhân; nghề dệt, nghề chế tạo đồ kim khí và những nghề thủ công khác ngày càng tách khỏi nhau, đã làm cho sản phẩm của chúng ngày càng có nhiều loại và ngày càng thêm hoàn hảo về mặt nghệ thuật; bây giờ ngoài ngũ cốc, các loại đỗ và hoa quả ra, nông nghiệp còn cung cấp cả dầu thực vật và rượu vang mà người ta đã học được cách làm. Một hoạt động nhiều mặt như thế không thể chỉ do độc một cá nhân tiến hành được nữa, sự phân công lớn lần thứ hai đã diễn ra: thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp... Vì nền sản xuất bị tách ra thành hai ngành chính, nông nghiệp và thủ công nghiệp nên đã ra đời nền sản xuất trực tiếp nhằm trao đổi, đó là nền sản xuất hàng hóa" [1, 242-243]. Kinh tế hàng hóa ra đời đã tạo động lực thúc đẩy các hoạt động sản xuất của những người thợ thủ công phát triển mạnh mẽ, từ đó nhiều hộ nông dân đã trở thành hộ sản xuất thủ công nghiệp chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định. Chính vì vậy "công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác, và mỗi công nghiệp đó lại chia ra thành nhiều loại nhỏ và phân loại nhỏ, chúng sản xuất ra, dưới hình thức hàng hóa, những sản phẩm đặc biệt và đem trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác" [42, 21]. Điều này có nghĩa là một hệ thống kết cấu công nghiệp gồm nhiều ngành nghề sản xuất khác nhau trên các địa bàn nông thôn đã nhanh chóng hình thành và phát triển lớn mạnh ngay sau khi thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng trong các ngành nghề sản xuất thủ công nghiệp đã khiến cho việc tiêu thụ sản phẩm cũng như việc cung ứng nguyên liệu ngày càng trở nên khó khăn. Chính vì thế mà tầng lớp thương nhân ra đời với nhiệm vụ chủ yếu là đảm nhận việc tiêu thụ sản phẩm và cung ứng nguyên liệu cho các hộ sản xuất thủ công nghiệp trên khắp các địa bàn nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong kết cấu kinh tế xã hội nông thôn. Nếu như trong nông thôn trước kia chỉ có trồng trọt và chăn nuôi thì giờ đây bao gồm cả thủ công nghiệp và dịch vụ, thương mại với tỷ trọng ngày càng lớn; xã hội nông thôn không chỉ gồm những hộ nông dân mà còn có cả những hộ thủ công nghiệp và thương nghiệp nữa. Như vậy sự ra đời của CNNT là kết quả phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. - CNNT chỉ được định hình một cách rõ nét khi các hoạt động sản xuất công nghiệp trong nông thôn đã trở nên ổn định và chiếm một tỷ lệ nhất định trong cơ cấu kinh tế nông thôn; sự hoạt động của các hộ, cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đã thích nghi được trong cơ chế thị trường. Dưới sự tác động của kinh tế hàng hóa, các sản phẩm thủ công nghiệp nổi tiếng của một số hộ nhanh chóng trở thành đối tượng sản xuất của nhiều hộ khác trong làng và lan sang những làng khác. Điều đó có nghĩa là các bí quyết về kỹ thuật và công nghệ chế tạo sản phẩm của các hộ nổi tiếng luôn luôn bị đánh cắp và được nhân rộng ra, gây thiệt hại rất lớn cho những hộ đó, nhưng dần về sau nó lại trở thành thiệt hại chung cho cả làng nghề. Tình trạng đó đã buộc những người quản lý trong làng phải đề ra những quy định khắt khe về các quan hệ giữa người trong làng với người ngoài làng như không truyền nghề cho con gái hoặc cấm gả con gái sang làng khác... đồng thời họ còn quy định cả những tiêu chuẩn chất lượng và giá bán của sản phẩm... nhằm bảo vệ độc quyền sản xuất của làng nghề. Chính vì vậy mà truyền thống sản xuất của các làng nghề vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng chính những quy định khắt khe trong làng đã gây cản trở rất lớn trong việc mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật với bên ngoài, do vậy khó có thể tạo ra sự phát triển hơn nữa trong các làng nghề. Sự tác động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hóa cũng đã thúc đẩy các hộ sản xuất thủ công nghiệp đi vào quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt là ở những nơi không có làng nghề. Kết quả dẫn đến là một số hộ do sản xuất không đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường, buộc phải phá sản để đi làm thuê hoặc chuyển sang nghề sản xuất khác. Ngược lại, một số hộ khác lại trở nên giàu có, ra đô thị xây nhà xưởng, thuê công nhân, tiến hành sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Kể từ khi các công trường thủ công ra đời thì sự cạnh tranh giữa nó với các hộ sản xuất thủ công nghiệp càng diễn ra gay gắt hơn. Tuy nhiên hộ sản xuất thủ công nghiệp ở nông thôn chẳng những không bị mất đi mà còn có bước phát triển đi lên nhờ chuyển sang sản xuất những mặt hàng mà công trường thủ công ở đô thị chưa với tới được hoặc gia công nguyên liệu cho các công trường thủ công đó. Chính vì vậy mối liên hệ giữa các công trường thủ công ở đô thị với các hộ tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn ngày càng được thiết lập chặt chẽ hơn. Về sau này, ngay khi việc áp dụng máy móc ở các công trường thủ công đã hoàn thành và tiến lên hiện đại như ngày nay thì CNNT vẫn tồn tại và phát triển đi lên được. Bởi lẽ bản thân CNNT cũng buộc phải tiến hành cơ giới hóa và hiện đại hóa sản xuất để tồn tại và phát triển. Mặt khác, do có những ưu thế riêng nên CNNT luôn năng động tìm được cho mình một thị trường tiêu thụ riêng, có tính chất đặc thù mà công nghiệp lớn ở đô thị không muốn hoặc không thể vươn tới được, đặc biệt là những nhu cầu tiêu dùng tại chỗ ở các vùng nông thôn. Như vậy, sự tồn tại và phát triển của CNNT đã thật sự trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống công nghiệp quốc gia và luôn gắn bó với sự phát triển của kinh tế - xã hội nông thôn. 1.1.3.2. Sự hình thành CNNT trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - CNNT ở nước ta cũng được hình thành trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trên địa bàn nông thôn, nhưng có đặc thù là: phát triển gắn liền với lịch sử phát triển làng xã, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhiều ngành nghề như nghề làm gốm, nghề mộc, nghề dệt, nghề làm giấy, làm muối, làm đường, làm tương, làm mắm, nấu rượu, làm nón, đan lát, thủ công mỹ nghệ, trang sức v.v... đã xuất hiện rất sớm và gắn liền với đời sống của nhân dân ta từ khi dựng nước đến nay. Ví dụ, nghề đúc đồng đã có từ thiên niên kỷ thứ I, trước công nguyên, với các trống đồng nổi tiếng, các giáo đồng, mũi tên bằng đồng ở Cổ Loa, lưỡi rìu đồng, lưới hái, lưỡi cày bằng đồng; nghề giấy cũng xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên. Tiếp theo là kỷ nguyên Văn Lang, tiêu biểu có những chiếc trống đồng Đông Sơn; đến kỷ nguyên Đại Việt thời cận đại, Nguyễn Trãi đã viết: nước Đại Việt ta thật là một nước văn hiến, các ngành nghề thủ công mỗi ngày một phát triển từ lẻ tẻ từng người, từng nơi, đến tập trung lại thành từng phường nghề, làng nghề và hình thành một lớp thợ thủ công đông đảo, gắn liền với các chợ để tiêu thụ sản phẩm. - Đến thời Pháp thuộc, do có sự xâm nhập của hàng hóa từ nước ngoài vào, nên nhiều ngành nghề ở nước ta đã bị suy giảm. Tuy nhiên, vẫn còn một số ngành nghề tồn tại và phát triển đi lên được. Hơn nữa, một số ngành nghề mới cũng đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu đa dạng về hàng tiêu dùng cho xã hội. Chính vì thế mà ngành nghề ở nông thôn nước ta vẫn có sự phát triển liên tục. Theo tài liệu điều tra của học giả người Pháp P. Gourou, năm 1935, ở đồng bằng Bắc Bộ đã có 108 nghề thủ công khác nhau tập trung thành các làng nghề. Ở Hà Bắc cũ, có hàng trăm làng nghề thủ công cổ truyền, trong đó có hơn 40 làng nghề có quy mô cả làng. Ở tỉnh Hải Hưng cũ, có 36 làng nghề thủ công quy mô cả xã [2, 105-107]. - Trong thời kỳ bao cấp, các hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các vùng nông thôn tuy chỉ được xem là ngành nghề phụ trong hợp tác xã nông nghiệp và ít được quan tâm đầu tư, nhưng nó vẫn tồn tại, phát triển và có vai trò lớn trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Đến năm 1981, ở tỉnh Thái Bình đã có 271 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp trong nông nghiệp, sử dụng trên 40.000 lao động và đã đóng góp 45,83% giá trị tổng sản lượng toàn ngành tiểu thủ công nghiệp của tỉnh [49]. Theo tài liệu trung gian của đề tài "Xây dựng chính sách công nghệ phục vụ phát triển nông thôn" thì trong ba năm (1986 - 1988) các huyện trung du và đồng bằng thuộc tỉnh Hà Bắc cũ đã thu hút được 10.600 lao động vào các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn, gấp 6,3 lần số lao động được điều đi vùng kinh tế mới trong 8 năm (1979 - 1987) mà Nhà nước không phải đầu tư gì cả. Đến năm 1988, ở Hà Bắc đã có tới 16 làng nghề có doanh thu lên tới 18 tỷ đồng mỗi làng, đó là: Phong khê (sản xuất giấy dó), Đông Xuất (sản xuất cày bừa), Đại Bái._. (sản xuất đồ đồng), Vân Hà (sản xuất rượu), Đình Bảng (sản xuất đồ mộc chạm trổ)... Thu nhập từ các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề vừa nêu đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của dân cư nông thôn và đã trở thành nguồn thu nhập chủ yếu. Bảng 1: Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động sản xuất phi nông nghiệp trong tổng thu nhập của một số làng nghề ở Hà Bắc năm 1988 Tên các làng nghề Tỷ lệ thu nhập phi nông nghiệp so với tổng số (%) - Làng Vân Hà 90 - Làng Đa Hội 81 - Làng Mẫn Xá 89 - Làng Phong Khê 80 - Làng Đại Bái 87 Nguồn: Kinh tế - Xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập II, Nxb Tư tưởng Văn hóa, H. 1991, tr. 122. Nhìn chung đến cuối những năm 80, đã có từ 6,5 - 6,7% tổng lao động các ngành kinh tế nông thôn tham gia vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp và đã làm ra trên 10% khối lượng hàng tiêu dùng cho toàn xã hội [2, 122-124]. - Từ sau Nghị quyết 10 Bộ Chính trị khóa VI của Đảng ta đến nay, các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn đã có điều kiện phát triển tốt và đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn. Vào năm 1990, các hộ ngành nghề hoặc kiêm ngành nghề ở nông thôn ĐBSH đã có tổng thu nhập cao gấp 4 lần so với hộ thuần nông, trong đó thu nhập từ ngành nghề chiếm 38% tổng thu nhập của họ [11]. Dù đã trải qua nhiều thăng trầm, sóng gió trong lịch sử, nhưng những ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn nước ta vẫn luôn được duy trì và phát triển; nó vẫn luôn là một phương tiện mưu sinh và là cơ sở trọng yếu để nâng cao đời sống của một bộ phận ngày càng lớn dân cư nông thôn. Điều đó có nghĩa là CNNT ở nước ta là một thực thể luôn tồn tại. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VII của Đảng ta khẳng định phải phát triển CNNT và xem đó là một nội dung quan trọng của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta. 1.1.4. Đặc điểm của CNNT Sự ra đời và phát triển của CNNT trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đã cho thấy rõ CNNT có những đặc điểm cơ bản sau: 1.1.4.1. CNNT luôn phát triển gắn bó với kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là với sản xuất nông nghiệp và ngành nghề truyền thống Điều này đã được thể hiện rõ trong sự tác động qua lại giữa nông nghiệp và công nghiệp trong tiến trình lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, trong đó mỗi bước chuyển của nông nghiệp từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa đều có tác dụng thúc đẩy CNNT phát triển. Bởi vì: "Nông nghiệp càng đi vào lưu thông hàng hóa thì dân cư nông thôn lại càng đòi hỏi những sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, cần thiết cho tiêu dùng cá nhân họ và yêu cầu về tư liệu sản xuất tăng lên" [42, 385]; hơn nữa, nó còn bảo đảm về nguyên liệu, lương thực và cung cấp lao động để CNNT phát triển ổn định, bền vững. Ngược lại, mỗi bước phát triển của công nghiệp trên địa bàn nông thôn đã có tác dụng làm cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng lên nhanh chóng, nguồn lương thực, thực phẩm nuôi sống con người được sản xuất ra ngày càng nhiều, chất lượng càng cao, chủng loại càng phong phú. Mỗi bước phát triển về chất và lượng trong mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp cũng đồng thời là bước chuyển của nền kinh tế - xã hội nông thôn từ kinh tế tự nhiên tự cung, tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hóa với năng suất chất lượng ngày càng cao, trong đó kinh tế công nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn cả về mặt giá trị lẫn mặt lao động. V.I. Lênin đã vạch rõ là: "Tùy theo sự sụp đổ của nền kinh tế tự nhiên mà các quá trình chế biến nguyên liệu lần lượt làm nảy sinh ra những ngành công nghiệp riêng biệt; sự hình thành ra giai cấp tư sản nông dân và giai cấp vô sản nông thôn đã làm tăng thêm yêu cầu về sản phẩm các nghề thủ công nhỏ của nông dân và đồng thời cung cấp cho các nghề đó sức lao động tự do và tiền nhàn rỗi" [42, 428]. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra đời CNNT đã là một bộ phận kinh tế quan trọng cấu thành nền kinh tế nông thôn. 1.1.4.2. CNNT thường mang nặng tính chất địa phương, có quy mô nhỏ và vừa, vốn ít, trang thiết bị công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, tính cạnh tranh kém CNNT phát triển chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu và lao động tại địa phương hoặc là dựa vào thế mạnh của địa phương về một trong hai yếu tố đó. Bởi vì đây là ưu thế lớn nhất đảm bảo cho CNNT tồn tại và phát triển được trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt với công nghiệp đô thị. Kết quả nghiên cứu của V.I. Lênin về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga đã cho thấy rõ sự phát triển của các ngành nghề chế biến nông sản ở nông thôn phát triển gắn bó với vùng nguyên liệu: "Vùng có nghề cất rượu phát đạt nhiều nhất cũng là vùng ở đó thu hoạch ròng về khoai tây tính theo đầu người đạt tới con số cao nhất" [42, 356]; "Nghề làm bột phát triển rộng rãi chủ yếu trong những tỉnh không có đất đen, trong vùng công nghiệp và một phần nào ở những tỉnh đất đen phía Bắc" [42, 362] v.v... Tương tự, đối với những ngành nghề khác như nghề sản xuất vật liệu xây dựng, nghề gốm sứ, các nghề thủ công mỹ nghệ ... cũng chỉ phát triển mạnh ở những vùng có nguồn nguyên liệu dồi dào hoặc là dựa vào truyền thống nghề nghiệp đang được lưu truyền bởi những nghệ nhân của từng địa phương. Do vậy, ở nước ta, nghề gốm sứ phát triển nổi tiếng ở Bát Tràng, Bình Dương; nghề mộc phát triển nổi tiếng ở Đồng Kỵ; nghề chạm bạc phát triển nổi tiếng ở Đồng Sâm; v.v... Chính vì ra đời và phát triển trên cơ sở những thế mạnh có tính đặc thù của từng địa phương cụ thể nên các ngành nghề của CNNT thường mang nặng tính chất địa phương. Cho nên, mặc dù cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng sản phẩm của CNNT ở những địa phương khác nhau bao giờ cũng có sự khác biệt về hình thức, thẩm mỹ, chất lượng, tức là có nét đặc thù riêng. CNNT bao gồm những cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ và vừa, nhưng lại không hoàn toàn giống với những cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa ở đô thị. Nhìn chung, các cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa ở đô thị hay ở nông thôn đều có chung đặc điểm là ít vốn, trang thiết bị công nghệ lạc hậu hơn so với các cơ sở công nghiệp lớn đương thời và trong quá trình phát triển chúng đều hướng tới việc hiện đại hóa sản xuất kinh doanh để đủ sức đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên, do đóng ở nông thôn nên CNNT thường ít có điều kiện để tiếp cận hệ thống dịch vụ, tư vấn, thông tin, khoa học, kỹ thuật, thương mại... hiện có, cho nên hoạt động của các cơ sở CNNT thường kém linh hoạt và kém hiệu quả hơn so với các cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa ở đô thị. 1.1.4.3. CNNT có sự phát triển phong phú đa dạng về ngành nghề, sản phẩm, hình thức tổ chức và vị trí địa lý Trong lịch sử, CNNT đã từng đi vào chế tạo công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và các phương tiện phục vụ sinh hoạt trong gia đình; đã từng đi vào chế biến lương thực, thực phẩm; đã từng đi vào sản xuất vật liệu xây dựng cũng như các mặt hàng thủ công mỹ nghệ ... Ngày nay, sự phát triển đó vẫn đang còn được đẩy mạnh và đi vào hiện đại hóa. CNNT cũng được biểu hiện dưới nhiều hình thức tổ chức sản xuất như: Sản xuất theo hộ gia đình; các loại hình xí nghiệp... hoạt động trên cơ sở sử dụng lao động gia đình hoặc kết hợp lao động gia đình với thuê mướn nhân công hay thuê mướn 100% lao động. Tùy theo sự phát triển về kết cấu hạ tầng mà các cơ sở CNNT có thể ra đời và phát triển tập trung ở các thị trấn, thị tứ hoặc ở các làng quê tạo thành nhiều cụm công nghiệp tổng hợp hay các làng nghề ngay trên các địa bàn nông thôn hoặc được phân bố một cách rải rác trên khắp các địa bàn nông thôn. Nhìn chung sự phát triển của CNNT về mặt số lượng bao giờ cũng có mối liên hệ gắn bó với sự phát triển của kết cấu hạ tầng. Sản phẩm của CNNT không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong vùng mà còn được đem tiêu thụ sang các vùng khác trong nước và ngoài nước. 1.1.5. Những điều kiện cơ bản của sự hình thành và phát triển của CNNT - Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trên các địa bàn nông thôn đã phát triển đến một mức độ nhất định. Nhìn chung, các hoạt động sản xuất có tính chất công nghiệp như chế tạo công cụ sản xuất, đồ dùng trong nhà, chế biến, bảo quản nông sản v.v... đã ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất nông nghiệp. Trong quá trình đó cũng đã từng có một bộ phận lao động chuyên nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp và nông thôn để di chuyển vào các đô thị làm ăn sinh sống trong các phường hội hoặc làm công ăn lương trong các công trường thủ công, v.v... Nhưng đại bộ phận số lao động còn lại ở nông thôn vẫn tiếp tục phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, vì họ chưa thể tự tồn tại và phát triển đi lên được bằng ngay chính bản thân lao động của mình. Chỉ khi lực lượng sản xuất trong xã hội, trong đó trước hết là trong nông nghiệp đã phát triển đến mức độ nhất định, do đó có khả năng tạo ra một khối lượng sản phẩm với chủng loại ngày càng phong phú khiến cho cuộc sống của con người không phải phụ thuộc chủ yếu vào nguồn sản phẩm tự nhiên nữa thì bộ phận lao động công nghiệp trong các gia đình nông dân mới có điều kiện phát triển thành nghề sản xuất chính và dần dần thoát ly khỏi nông nghiệp. Bởi vì sự phát triển đó có tác dụng vừa kích thích làm tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm công nghiệp đồng thời vừa tạo ra tiền đề vật chất cần thiết như cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu v.v... để đẩy mạnh phát triển các hoạt động công nghiệp trong các hộ gia đình nông dân dưới những hình thức chuyên môn hóa nhất định. Tuy nhiên, những điều vừa nêu chỉ phát triển mạnh mẽ khi chế độ nông nô phong kiến đã bị xóa bỏ. Mọi công dân trong quốc gia đều có quyền tự do di chuyển lao động và có quyền tự do phát triển sản xuất kinh doanh để trở thành giàu có. Trên thực tế điều này đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản. Kết quả là số đông nông dân đã bị giải phóng ra khỏi ruộng đất để trở thành những người tự do đi bán sức lao động, trong khi đó quyền sử dụng ruộng đất lâu dài lại được tập trung vào tay giai cấp tư sản. Tuy vậy, C. Mác vẫn nhận thấy rằng: "Mặc dù số người cày cấy ruộng đất có giảm đi, ruộng đất bây giờ vẫn mang lại một số sản phẩm như trước hay nhiều hơn trước, vì cuộc cách mạng về quan hệ sở hữu ruộng đất đã dẫn theo sự cải tiến các phương pháp canh tác, sự hiệp tác rộng lớn hơn, sự tích tụ các tư liệu sản xuất v.v... và vì công nhân làm thuê trong nông nghiệp chẳng những buộc phải lao động căng thẳng hơn, mà lĩnh vực sản xuất trong đó họ tự làm cho bản thân cũng ngày càng bị thu hẹp lại" [44, 1036]. Điều đó có nghĩa là lực lượng sản xuất nông nghiệp đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề, điều kiện cho sự hình thành CNNT. - Sản xuất tự cấp, tự túc trên các địa bàn nông thôn được thay thế bằng sản xuất hàng hóa và sản xuất hàng hóa trở thành mục tiêu, động lực chính đối với hoạt động sản xuất của số đông cư dân nông thôn. Mặc dù sự phát triển của các hình thức sản xuất công nghiệp đầu tiên trên các địa bàn nông thôn là do lực lượng sản xuất quyết định, nhưng nếu sự phát triển đó vẫn còn nằm trong khuôn khổ của sản xuất tự cấp tự túc thì sản xuất công nghiệp trên địa bàn nông thôn vẫn chưa thể thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp để trở thành ngành sản xuất độc lập. Chỉ khi phần lớn các hoạt động sản xuất của dân cư nông thôn đều nhằm tạo ra những sản phẩm đem trao đổi mua bán thì CNNT mới được hình thành rõ nét và phát triển một cách độc lập với sản xuất nông nghiệp. Bởi vì sự phát triển của kinh tế hàng hóa có tác dụng thúc đẩy phân công lao động xã hội ngày một phát triển, sản xuất xã hội ngày càng đi vào chuyên môn hóa làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, số lượng sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, chất lượng tăng lên liên tục nên có thể đáp ứng được những yêu cầu ngày càng tăng lên của thị trường. Chính vì vậy nên sự trao đổi mua bán trong nông thôn ngày càng phổ biến, làm cho thị trường nông thôn được mở rộng ra liên tục khiến cho mọi sản phẩm sản xuất ra đều được tiêu thụ hết, do đó các quá trình tái sản xuất trong công nghiệp cũng như trong nông nghiệp sẽ được thực hiện liên tục với quy mô ngày càng mở rộng. Nhờ đó mà CNNT mới có sự định hình và phát triển đến ngày nay. - Sự ra đời của CNNT còn do có sự tác động mạnh mẽ từ phía nhà nước. Mặc dù, như C. Mác đã nói: "Tư bản mới ra đời lại có máu và bùn nhơ rỉ ra từ tất cả các lỗ chân lông, từ đầu đến chân" [44, 1056], nhưng cũng phải ghi nhận rằng: nhờ có sự tác động mạnh mẽ của nhà nước tư sản nhằm xóa bỏ tận gốc chế độ nông nô phong kiến đồng thời xây dựng hệ thống pháp luật cần thiết để xác lập quyền độc lập tự chủ sản xuất kinh doanh đối với mọi chủ thể sản xuất nên lực lượng sản xuất xã hội mới được khơi dậy, phân công lao động xã hội mới được đẩy mạnh, do đó kinh tế hàng hóa trên từng địa bàn nông thôn mới có điều kiện phát triển. Vì vậy công nghiệp trên các địa bàn nông thôn mới ra đời và phát triển với tư cách là ngành sản xuất độc lập và trở thành một bộ phận trong kết cấu kinh tế - xã hội nông thôn. Đó cũng là sự kiện chưa thể xuất hiện ở các chế độ xã hội trước chủ nghĩa tư bản. Sự ra đời và phát triển của CNNT trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản không chỉ có được môi trường pháp lý thuận lợi như vừa nêu mà còn do có sự tác động mạnh bởi các chính sách đối nội và đối ngoại, đặc biệt là các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản nhằm đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu. Chính nhờ ngay từ đầu các nước tư bản chủ nghĩa đã tập trung được nguồn vốn cho đầu tư phát triển thông qua việc áp dụng nhiều loại thuế, thực hiện chính sách bảo hộ xuất khẩu, phát triển tín dụng, phát hành công trái... [44, 1050-1055] nên chỉ trong một thời gian ngắn, công nghiệp các nước đó, đặc biệt là nước Anh, đã có sự phát triển mạnh mẽ, từ đó kích thích CNNT phát triển mạnh theo, nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu sơ chế từ các loại nông sản cho công nghiệp đô thị. - Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp hiện đại ở các đô thị mà CNNT vẫn tồn tại, phát triển được là do: CNNT đã từng bước được hiện đại hóa, sản phẩm làm ra đáp ứng dược yêu cầu của thị trường, nhờ đó CNNT có thể đứng vững trong cạnh tranh. Hơn nữa do có ưu thế trong việc sản xuất ra những sản phẩm đòi hỏi phải có tính nghệ thuật cao nên CNNT luôn có được một thị trường tiêu thụ ổn định. Sự phát triển của công nghiệp hiện đại ở các đô thị chẳng những không bóp chết CNNT mà còn tạo ra điều kiện mới thúc đẩy CNNT phát triển. Trước hết, một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với công nghiệp hiện đại là nguồn nguyên liệu phải được ổn định, đúng quy cách và đủ tiêu chuẩn về chất lượng. Vì vậy tất yếu phải phát triển công nghiệp sơ chế nguyên liệu cho công nghiệp hiện đại ở các đô thị. Ngoài ra với sự phát triển chuyên môn hóa sâu trên cơ sở công nghệ hiện đại đã cho phép các doanh nghiệp công nghiệp đô thị phát triển mạnh các hình thức gia công, lắp ráp hoặc chế tạo một số chi tiết của sản phẩm mà vẫn duy trì được sự ổn định về chất lượng hàng hóa. Tất cả những điều vừa nói chính là điều kiện đảm bảo cho CNNT phát triển vững chắc. Những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại cho phép phát triển mạnh mẽ, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là đường giao thông, điện, nước và thông tin liên lạc khiến cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa các vùng nông thôn với các đô thị trong nước và ngoài nước ngày càng được mở rộng ra. Do vậy CNNT ngày càng có thêm điều kiện để phát triển mạnh mẽ hơn. 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở MỘT SỐ NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM CÓ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Nhìn chung, kinh tế - xã hội nông thôn ở các nước đang phát triển trên thế giới đều ở trình độ kém phát triển. Lao động nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao. Kinh tế nông thôn dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Cuộc sống của dân cư nông thôn được quyết định bởi nguồn thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng do thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp, trong khi đó dân số lại tăng nhanh nên đời sống dân cư nông thôn gặp nhiều khó khăn, tình trạng bần cùng hoá tương đối ngày càng tăng, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng xa. Dòng di cư từ nông thôn ra thành thị kiếm sống diễn ra với nhịp độ ngày càng cao, làm nảy sinh những vấn đề xã hội gay gắt ở các đô thị. Để chống lại tình trạng trên, nhiều nước đã chọn con đường CNH nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo ra thật nhiều của cải vật chất cho xã hội để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư nông thôn. Thực chất đó là quá trình làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn từ thuần nông và độc canh sang nông nghiệp sản xuất hàng hóa - công nghiệp - dịch vụ. . Nhưng mỗi nước lại có phương pháp CNH khác nhau do đó cũng có cách thức khác nhau đối với phát triển CNNT. 1.2.1 Những mô hình phát triển CNNT ở một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới CNNT ở các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới cũng có đầy đủ những đặc điểm đã trình bày ở phần trước. Tuy nhiên, trình độ phát triển của nó cao hay thấp, quy mô phát triển đến đâu... là tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước và vùng lãnh thổ. Ví dụ, CNNT ở Đài Loan cũng có quy mô vừa và nhỏ nhưng năng lực sản xuất của nó thường rất lớn, bình quân khoảng 17,3 lao động trên một xí nghiệp chế biến nông sản nhưng lại tạo ra một giá trị sản lượng khoảng 3 triệu USD mỗi năm, trong khi đó các xí nghiệp Hương Trấn của Trung Quốc, bình quân có khoảng 60 lao động nhưng mỗi năm chỉ tạo ra được khoảng 79,3 vạn nhân dân tệ. CNNT ở các nước không chỉ sản xuất ra hàng hóa phục vụ tiêu dùng cá nhân mà còn sản xuất ra hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng sản xuất. Hơn nữa nó không chỉ sản xuất ra hàng hóa tiêu thụ trong nước mà còn sản xuất ra hàng hóa xuất khẩu để thu ngoại tệ về cho quốc gia. CNNT cũng không chỉ có mặt trong những ngành nghề truyền thống của các dân tộc mà còn có mặt trong những ngành nghề sản xuất hiện đại. CNNT do có quy mô vừa và nhỏ nên quản lý đơn giản, gọn nhẹ và rất linh hoạt trong chuyển đổi mặt hàng sản xuất, thay đổi thiết bị, công nghệ mỗi khi có sự biến động trên thị trường. Hệ thống tiền lương đã được áp dụng trong các xí nghiệp CNNT thường rất co dãn theo tình hình sản xuất kinh doanh, biên chế gián tiếp ít, do đó tránh được tổn phí cao. Hơn nữa do sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ nên mặc dù thiết bị, công nghệ lạc hậu hơn các xí nghiệp đô thị nhưng các xí nghiệp CNNT vẫn có nhiều ưu thế trong việc hạ giá thành sản phẩm để thị trường có thể chấp nhận được. Nhìn chung, CNNT ở các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới ngày càng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở đất nước họ. Tuy nhiên, mỗi mô hình phát triển của CNNT ở các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới lại có những ưu nhược điểm riêng. Do vậy, việc phân tích làm rõ những mô hình này sẽ giúp chúng ta rút ra được những kinh nghiệm hữu ích cho phát triển CNNT ở nước ta nói chung và cho ĐBSCL nói riêng. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học ở nước ta trong những năm qua [14] [22] [23] [39] [40] [56] [57] [58] [66] [71], có thể khái quát sự phát triển của CNNT ở các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới thành ba mô hình cơ bản sau: Phát triển CNNT theo kiểu phân bố lại ngành công nghiệp nói chung vào cả địa bàn nông thôn nhằm giảm áp lực đối với các vấn đề xã hội ở các đô thị lớn. Phát triển CNNT theo một cơ cấu khép kín trên từng địa bàn lãnh thổ. Phát triển CNNT theo kiểu hỗn hợp từ sự kết hợp hai mô hình trên. 1.2.1.1. Mô hình phát triển CNNT theo kiểu phân bố lại ngành công nghiệp nói chung vào cả địa bàn nông thôn nhằm giảm áp lực về các vấn đề xã hội ở các đô thị lớn (điển hình là mô hình Hàn Quốc) Mô hình này được thực hiện dựa trên quan điểm xem CNNT là một bộ phận của ngành công nghiệp và nó chỉ được triển khai khi sự phát triển ở các đô thị đã đến mức quá tải, đồng thời sự đối lập giữa thành thị và nông thôn cũng đã đến mức gay gắt. Trên thực tế thì đây chỉ là biện pháp nhằm khắc phục hậu quả của CNH theo kiểu cổ điển mà các nước phát triển phương Tây đã đi qua. Lực lượng xây dựng CNNT theo mô hình này chủ yếu do các doanh nhân đã có kinh nghiệm đảm nhận. Hiện nay hầu hết các nước đã thực hiện CNH tập trung ở các đô thị đều phải tìm cách đưa một số ngành công nghiệp về nông thôn, trong đó có Hàn Quốc. Tuy Hàn Quốc đã triển khai cả ba chương trình: chương trình phát triển ngành nghề ngoài nông nghiệp của các hộ gia đình ở nông thôn được tiến hành từ 1967; chương trình phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp truyền thống, được tiến hành từ những năm 70; chương trình xí nghiệp cộng đồng mới (Saemaul undong), được tiến hành từ năm 1973 nhằm phát triển CNNT ở nước mình, nhưng trong đó chỉ có chương trình cộng đồng mới (Saemaul undong) là phát triển mạnh nhất. Kết quả của chương trình này là gần 7000 xí nghiệp các loại như: dệt, sợi, chế biến nông sản, giấy, thủy tinh, hoá chất, sản phẩm cơ khí đơn giản, sản phẩm điện, điện tử, công cụ, máy móc, tư liệu sản xuất nông nghiệp, dịch vụ giao thông vận tải, sửa chữa cơ điện v.v... [22, 67] đã ra đời chủ yếu ở các vùng nông thôn xung quanh các thành phố lớn (Seoul, Pusan, Dacgu). Trong toàn bộ những mặt hàng mà các xí nghiệp này sản xuất ra thì sản phẩm dệt và sản phẩm từ da - lông thú đã chiếm tới 31% và các mặt hàng quan trọng tiếp theo là các khoáng chất phi kim loại và kim loại bán thành phẩm [66, 156]. Phát triển CNNT theo mô hình này có những ưu và nhược điểm sau: Về ưu điểm: Có thể phát triển những xí nghiệp có công suất máy móc thiết bị lớn, hiện đại ngay trên địa bàn nông thôn. Bởi vì trước khi xây dựng xí nghiệp người ta đã xác định được thị trường đầu vào và đầu ra của sản phẩm một cách chắc chắn. Hơn nữa những người đứng ra thành lập xí nghiệp thường là những doanh nhân đã có nhiều kinh nghiệm và có vốn liếng. Ngay từ đầu các xí nghiệp CNNT đã gắn bó mật thiết với các trung tâm công nghiệp lớn về nhiều mặt. Đây là điều kiện đảm bảo cho các xí nghiệp CNNT phát triển bền vững. Về nhược điểm: Tuy cơ cấu kinh tế nông thôn có sự chuyển dịch theo hướng tỉ lệ nông nghiệp giảm xuống, tỉ lệ công nghiệp và dịch vụ tăng lên, nhưng sự chuyển dịch ấy là do những tác động từ bên ngoài theo những động cơ lợi nhuận của các chủ doanh nghiệp. Ở đây chỉ cần nhìn vào kết cấu của các loại xí nghiệp được thành lập theo phong trào Saemaul ở Hàn Quốc như vừa mới nêu trên thì rõ ràng rằng: việc thành lập xí nghiệp ở nông thôn không phải bắt nguồn từ những yêu cầu phát triển gắn bó với sản xuất nông nghiệp nói riêng và với kinh tế - xã hội nông thôn nói chung. Thực chất đó chỉ là biện pháp nhằm khai thác nguồn lao động rẻ và nguồn tài nguyên sẵn có ở nông thôn để thu lợi nhuận tối đa mà thôi. Do đó, khó có thể tạo ra sự phát triển bền vững đối với kinh tế - xã hội nông thôn nói chung và với nông nghiệp nói riêng. 1.2.1.2. Phát triển CNNT theo mô hình cơ cấu khép kín trên một địa bàn lãnh thổ (điển hình là mô hình Trung Quốc) Mô hình phát triển CNNT này được hình thành theo quan điểm xem CNNT chỉ đơn thuần là một bộ phận của kinh tế lãnh thổ. Phát triển CNNT theo mô hình này có nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia... nhưng Trung Quốc là điển hình nhất. Theo mô hình này thì CNNT sẽ được phát triển trên bất kỳ một ngành nghề sản xuất kinh doanh nào miễn là tạo ra được nhiều công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn đều được chính phủ khuyến khích phát triển. Điểm khác nhau căn bản giữa mô hình phát triển CNNT này với mô hình thứ nhất ở chỗ nó phát triển theo những nhu cầu nội tại của nhân dân nông thôn, trong đó trước hết là tăng thu nhập, nâng cao đời sống và do chính nhân dân nông thôn tiến hành. Về ưu điểm: CNNT có khả năng phát triển với nhịp độ cao, tạo ra nhiều việc làm mới, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn, hạn chế việc di dân ra thành phố. Kích thích nông nghiệp phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho CNNT. Thương nghiệp và dịch vụ cũng theo đó mà phát triển với tốc độ cao, thị trường nông thôn phát triển với quy mô ngày càng lớn. Đô thị hóa nông thôn sẽ được thực hiện với tốc độ ngày càng nhanh. Về nhược điểm: Chính vì CNNT có khả năng phát triển với tốc độ cao nên gây ra tình trạng căng thẳng về năng lượng, nguyên liệu, vốn, vật tư, máy móc thiết bị v.v... Giá cả các loại hàng hóa tư liệu sản xuất tăng vọt dẫn đến giá thành sản xuất tăng cao thị trường khó chấp nhận. Cơ cấu CNNT phát triển không cân đối, trùng lắp với cơ cấu công nghiệp ở đô thị, dẫn đến tình trạng sản xuất thừa không nơi tiêu thụ. Mặt khác đẩy nông nghiệp đi vào con đường phát triển phiến diện, an toàn lương thực cho quốc gia có nguy cơ bị phá vỡ. Những ưu, nhược điểm của việc phát triển CNNT theo mô hình này đều đã được bộc lộ trong quá trình phát triển xí nghiệp Hương Trấn ở Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã cho thấy, do tốc độ phát triển của xí nghiệp Hương Trấn quá nhanh, hạng mục xây dựng mới nhiều, đã gây căng thẳng về nguồn năng lượng, nguyên vật liệu, vốn trên toàn xã hội, hiệu quả đầu tư kém. Một số xí nghiệp làm ăn tốt cũng bị kéo tụt lại, gây lãng phí nhiều mặt cho xã hội. Do phát triển nhanh, nên trang bị kỹ thuật và công nghệ ở một số xí nghiệp lạc hậu, chắp vá, chất lượng sản phẩm kém, không có uy tín trên thị trường dẫn đến khó tiêu thụ, thua lỗ. Vì thế, đã có 3 triệu xí nghiệp Hương Trấn bị phá sản ngay vào giai đoạn đầu của phong trào phát triển những xí nghiệp này. Một số loại xí nghiệp lẽ ra không cần phát triển như xí nghiệp may mặc, dệt, nhưng vẫn cứ phát triển mạnh dẫn đến thừa năng lực sản xuất, gây lãng phí về vốn xây dựng, sản phẩm khó tiêu thụ. Ở nhiều nơi, chính quyền chỉ tập trung chỉ đạo phát triển xí nghiệp Hương Trấn, coi nhẹ sản xuất nông nghiệp; còn nông dân thì coi nhẹ sản xuất lương thực, họ chỉ chạy theo sản xuất những sản phẩm phục vụ cho hoạt động chế biến của xí nghiệp Hương Trấn vì thu được lợi nhuận cao hơn sản xuất lương thực. Do đó sản xuất nông nghiệp đã bị đẩy vào con đường phát triển phiến diện. Hơn thế nữa, sự phát triển xí nghiệp Hương Trấn đã khuếch đại sự chênh lệch về lợi ích so sánh giữa nông nghiệp và các ngành phi nông nghiệp, do đó làm tăng thêm lực ly tâm, bứt nông dân ra khỏi nông nghiệp ngày càng nhiều. Điều này đã thể hiện rất rõ ở những nơi xí nghiệp Hương Trấn phát triển phát đạt, nông dân chạy theo ngành nghề phụ, đã bỏ ruộng hoang hoặc chỉ làm chiếu lệ. Xí nghiệp Hương Trấn ở Trung Quốc phát triển quá nhanh cũng dẫn đến tình trạng tranh chấp về lao động và vốn với nông nghiệp. Được thể hiện ở chỗ lực lượng lao động trụ cột, có năng lực trong sản xuất nông nghiệp và nguồn vốn, cả vốn trong dân lẫn vốn tín dụng, cũng đều tập trung vào xí nghiệp Hương Trấn, do đó những nội lực dùng để phát triển nông nghiệp ngày càng bị mất. Chính vì vậy mà sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc vào cuối thập kỷ 80 vừa rồi đã bị đẩy vào con đường suy thoái. Việc xí nghiệp Hương Trấn phát triển tràn lan đã làm cho môi trường sống của con người ngày càng bị ô nhiễm nặng nề. Vì chạy theo động cơ kiếm tiền trong khi thiếu vốn, thiếu vật tư thiết bị và thiếu cả kinh nghiệm tổ chức sản xuất... nhiều nơi khi xây dựng xí nghiệp Hương Trấn đã không tính đến việc có gây ô nhiễm môi trường hay không, miễn là bố trí được lao động và kiếm được lợi nhuận. Kết quả là đã di chuyển chất thải về nông thôn. Tuy chất thải do xí nghiệp Hương Trấn thải ra ít hơn nhiều so với chất thải ở đô thị nhưng do xí nghiệp Hương Trấn được xây dựng rải rác trên diện rộng cho nên gây ô nhiễm rất khó xử lý làm ảnh hưởng lớn tới sản xuất và đời sống ở nông thôn. Từ những điều vừa trình bày, có thể rút ra kết luận là: phát triển CNNT theo qui hoạch và kế hoạch thống nhất sẽ là biện pháp hữu hiệu đối với phát triển CNNT ở nước ta hiện nay. 1.2.1.3. Phát triển CNNT theo kiểu hỗn hợp từ sự kết hợp hai mô hình trên (điển hình là mô hình Đài Loan) Mô hình phát triển CNNT này được hình thành theo quan điểm xem CNNT vừa là một bộ phận của kinh tế ngành công nghiệp đồng thời vừa là một bộ phận của kinh tế lãnh thổ. Phát triển công nghiệp gắn với phát triển nông nghiệp nói riêng, và với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói chung. Mô hình này thường được thực hiện dựa trên qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của cả nước và được triển khai ở từng địa phương theo một chương trình kế hoạch thống nhất nhưng có vận dụng cho phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Thực chất, đây là thực hiện CNH đất nước bắt đầu từ nông nghiệp và nông thôn; là kiểu CNH phân tán. Để phát triển CNNT theo mô hình này các nước thường sử dụng lực lượng tổng hợp từ các doanh nhân, hộ gia đình nông dân; từ nguồn đầu tư trong nước cho đến thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời có sự trợ giúp rất lớn của nhà nước, trước hết là trên lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn để đảm bảo CNNT phát triển đi lên được. Hiện nay đã có nhiều nước và vùng lãnh thổ đang phát triển trên thế giới đi vào phát triển CNNT theo mô hình này, trong đó Đài Loan là nơi thực hiện sớm và đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhất. Một là, tạo ra ngày càng nhiều việc làm mới ngay trên địa bàn nông thôn. Theo tính toán thì tỷ lệ tăng việc làm ở khu vực nông thôn Đài Loan luôn luôn cao hơn so với khu vực thành thị. Nhiều gia đình nông dân vừa làm nông nghiệp, vừa làm công nghiệp, hoặc hoàn toàn hoạt động phi nông nghiệp nhưng không rời bỏ quê hương. Điều đó một mặt làm giảm sức ép của dân số đối với ruộng đất và mặt khác hạn chế đến mức tối đa việc nông dân rời bỏ nông thôn vào thành phố tìm kiếm việc làm. Hai là, có thể tăng thêm thu nhập cho dân cư nông thôn và cải thiện điều kiện sinh hoạt của họ, rút ngắn sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Ba là, tạo ra sự phát triển bền vững giữa công nghiệp và nông nghiệp trên địa bàn nông thôn. Tuy nhiên mô hình này cũng có những khó khăn nhất định. Phát triển CNNT theo mô hình này có thể gây ô nhiễm môi trường trên diện rộng khó xử lý, tốn nhiều thời gian và tiền của để khắc phục nếu như ngay từ đầu không tính đến việc phòng chống. Điều này đã thể hiện rất rõ ở Đài Loan: Qua khảo sát người ta nhận thấy do bố trí các cơ sở công nghiệp phân tán ở nông thôn, do đó môi trường đất, nước, không khí bị ô nhiễm nặng. Để phát triển CNNT theo mô hình này cần phải tập trung một nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trước hết là gi._.chuyên 46.333 23.375 - Của một hộ chuyên 6.563 5.000 3/ Tỷ lệ vốn vay so với bình quân vốn sản xuất hiện có (%) - Đối với cơ sở chuyên 21,85 12,65 - Đối với hộ chuyên 28,40 26,00 Nguồn: Ngành nghề nông thôn Việt Nam 1997, Nxb Nông nghiệp, H. 1998, tr.110, 111. Cũng theo kết quả điều tra nêu trên thì mặc dù trong những năm gần đây hệ thống các ngân hàng có nhiều cải tiến về thủ tục và lãi suất, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Ngân hàng Người nghèo, đã thực hiện chương trình tín dụng xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm nhưng các quan hệ tín dụng vẫn chưa được thực hiện một cách rộng rãi đến các hộ và cơ sở CNNT ở ĐBSCL. Phân tích số hộ và cơ sở đi vay vốn nêu trên người ta nhận thấy chỉ mới khoảng 21% số cơ sở, 9% số hộ được vay vốn ở các ngân hàng nhà nước với mức bình quân khoảng từ 17 đến dưới 30 triệu đồng/cơ sở và khoảng trên dưới 5 triệu đồng/hộ; khoảng 2% số hộ và cơ sở được vay vốn ở các chương trình nhà nước với mức bình quân khoảng gần 7 triệu đồng/1cơ sở và dưới 200 ngàn đồng/1 hộ; khoảng gần 3% số cơ sở và số hộ vay vốn của tư nhân, lãi suất cao, với mức bình quân khoảng trên 17 triệu đồng/1 cơ sở và khoảng từ 500 ngàn đến 1 triệu đồng/1 hộ; số còn lại là vay từ các nguồn khác. Nguyên nhân chính của tình hình vừa nêu là do chính sách cho vay vốn của các ngân hàng chưa thật phù hợp: thời hạn cho vay ngắn, mức vốn cho vay ít so với yêu cầu của CNNT, thủ tục vay còn chưa thuận tiện và kịp thời. Thực tế về tình hình vay vốn nêu trên đã cho thấy rõ sự phát triển của CNNT ở ĐBSCL những năm qua không phải chủ yếu dựa vào các quan hệ tín dụng. Nói cách khác, vốn tự có trong dân cư vẫn giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển của CNNT ở ĐBSCL cả về tốc độ lẫn quy mô sản xuất. Tình trạng thiếu vốn phát triển sản xuất kinh doanh trong các hộ, cơ sở CNNT ở ĐBSCL những năm qua không chỉ do có nhiều hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn tín dụng hiện có mà còn do các hộ, cơ sở này chưa thực hiện được sự liên kết kinh tế với các đơn vị kinh tế khác, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp, thương mại ở các đô thị trong và ngoài vùng, đặc biệt là các doanh nghiệp trong các khu chế xuất nhằm khai thác nguồn vốn đầu tư từ các đơn vị đó để phát triển sản xuất kinh doanh cho mình. Để giải quyết vấn đề vốn cho phát triển CNNT ở ĐBSCL cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: - Thiết lập sâu, rộng và đơn giản hóa các quan hệ tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn. Để thực hiện được điều trên, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Người nghèo nên có ưu đãi hơn nữa đối với phát triển CNNT như: giản đơn hóa đến mức tối cần thiết các thủ tục cho vay; mở rộng diện cho vay trung hạn và dài hạn đối với các ngành nghề, sản phẩm cần khuyến khích sản xuất; cần điều chỉnh về mức vốn và thời hạn cho vay phù hợp với đối tượng và chu kỳ sản xuất ra sản phẩm; hoạt động cho vay của các ngân hàng cần gắn mục tiêu xóa đói giảm nghèo với phát triển CNNT, trong đó cần chú trọng trước hết đến những nơi nghèo khó nhất. Đi đôi với việc nâng cao vai trò của hệ thống ngân hàng đối với phát triển CNNT, các tỉnh ĐBSCL cũng cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển hệ thống tín dụng trong nông thôn. - Nhà nước cần khuyến khích việc tạo vốn cho phát triển CNNT bằng cách: Tạo dựng khuôn khổ pháp lý để các cơ sở CNNT thực hiện đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và tham gia vào thị trường vốn. Trực tiếp lập hoặc khuyến khích lập các quỹ hỗ trợ đầu tư dưới nhiều hình thức; Thực hiện tín dụng lãi suất ưu đãi từ ngân sách Nhà nước hoặc từ nguồn vốn ODA để hỗ trợ cho các cơ sở CNNT hoạt động trong những ngành nghề cần khuyến khích; Thực hiện cho thuê đất với giá ưu đãi và miễn giảm thuế ở mức thỏa đáng, bình đẳng đối với các nhà đầu tư phát triển CNNT; Đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các cơ sở CNNT với các doanh nghiệp đô thị trong và ngoài vùng, đặc biệt là với các khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Liên kết kinh tế là hình thức nhằm khai thác những lợi thế lẫn nhau giữa các bên tham gia để đưa vào phát triển sản xuất đạt hiệu quả cao. Do vậy liên kế kinh tế sẽ là một biện pháp hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề vốn cho phát triển CNNT. Thông qua liên kết kinh tế, các nhà công nghiệp đô thị có thể mở rộng mạng lưới gia công nguyên liệu hay gia công lắp ráp, chế tạo sản phẩm cho mình ngay tại các vùng nguyên liệu sẵn có và giá nhân công rẻ ở nông thôn. Đây là biện pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các nhà đầu tư vì nó cho phép sử dụng một năng lực sản xuất rất lớn với chi phí đầu tư thấp mà không phải gánh chịu toàn bộ rủi ro nếu có. Đồng thời đây cũng là hình thức tốt nhất để các doanh nghiệp nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo của mình với phát triển CNNT. Ngược lại đối với bản thân CNNT thì đây là hình thức tiếp nhận đầu tư ít bị rủi ro nhất vì đã xác định được đầu ra của sản phẩm một cách chắc chắn nhất. Điều này đã được thể hiện ngay tại tỉnh Trà Vinh thông qua hoạt động của công ty Trà Bắc. Tại đây công ty Trà Bắc đã bỏ vốn đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất than hoạt tính có chất lượng cao để xuất khẩu, từ than thiêu kết được chế biến từ sọ dừa, bằng công nghệ tiên tiến của Trung Quốc, có công suất ban đầu 1.000 tấn/năm (dự kiến nâng lên 2.000 tấn vào năm 1999) và đã đi vào hoạt động vào tháng 5/1997. Để đảm bảo cung ứng đầy đủ nguyên liệu cho nhà máy, công ty Trà Bắc đã đầu tư xây dựng 20 dự án sản xuất than nguyên liệu bằng phương pháp thủ công với chi phí khoảng 16 triệu đồng/dự án ở các huyện Càng Long, Tiểu Cần, Châu Thành, Cầu Kè với sản lượng 4.000 tấn/năm. Qua đó giải quyết công ăn việc làm ổn định cho hàng trăm lao động tại địa phương [52]. - Phát huy nội lực của nhà sản xuất nhằm tạo ra tiền đề vững chắc cho việc giải quyết vấn đề vốn đối với phát triển CNNT ở ĐBSCL những năm tới. Vốn bao giờ cũng là một tiền đề vật thiết yếu đầu tiên đối với phát triển sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện kinh tế còn kém phát triển thì việc giải quyết vốn cho sản xuất kinh doanh tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, nếu Nhà nước cùng với hệ thống ngân hàng có cơ chế chính sách huy động và cho vay phù hợp với yêu cầu thực tế thì những khó khăn về vốn đầu tư phát triển sản xuất nhất định sẽ được giải quyết nhanh chóng. Nhưng việc giải quyết vấn đề vốn không chỉ đơn thuần là sự chuyển nhượng quyền sử dụng đồng vốn, mà điều quan trọng ở đây là việc sử dụng vốn đó như thế nào để đạt được hiệu quả. Nếu đồng vốn được sử dụng có hiệu quả thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đồng vốn mới có khả năng được tiếp diễn liên tục để đáp ứng nhu cầu sản xuất với quy mô ngày càng lớn. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào việc phát huy các năng lực nội sinh của nhà sản xuất. Do vậy, phát huy nội lực của nhà sản xuất trở thành điều kiện cơ bản để giải quyết vấn đề vốn cho đầu tư phát triển sản xuất nói chung và đối với phát triển CNNT ở ĐBSCL hiện nay nói riêng. Để phát huy được nội lực của mình, nhà sản xuất CNNT cần phải: Có những tri thức nhất định về ngành nghề và sản phẩm mà mình đang hoặc sẽ đi vào đầu tư sản xuất cùng với những tri thức về quản lý sản xuất kinh doanh tối cần thiết. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi nhà sản xuất CNNT phải qua những khóa đào tạo nhất định có tính bắt buộc. Nhà sản xuất CNNT cần phải có một số vốn liếng, tài sản tối thiểu ban đầu để một mặt nhằm đảm bảo thế chấp cho các khoản tiền vay mượn, đồng thời nó cũng là điều kiện đảm bảo sử dụng các khoản tiền vay đó đạt hiệu quả cao. Trong điều kiện tích lũy trong nội bộ dân cư nông thôn thấp như hiện nay thì sự hợp tác trong nội bộ dân cư nông thôn sẽ là phương cách tốt nhất, hữu hiệu nhất để huy động vốn ban đầu cho đầu tư phát triển CNNT. 3.3.4.2. Chính sách về thị trường Về mặt lý thuyết cũng như trong thực tế, sự phát triển của bất kỳ một đơn vị kinh tế, một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các yếu tố cơ bản: vốn, sức lao động, nguồn tài nguyên, năng lượng, kỹ năng quản lý.... thì dung lượng thị trường luôn chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Nhìn chung các cơ sở sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát triển đi lên được khi xây dựng và thực hiện được chiến lược kinh doanh phù hợp với yêu cầu thị trường. Điều đó đòi hỏi ngoài những nỗ lực của bản thân các cơ sở sản xuất kinh doanh ra, nhà nước cũng cần phải ban hành một hệ thống chính sách thị trường đồng bộ nhằm tạo môi trường pháp lý và điều kiện cần thiết để các cơ sở sản xuất kinh doanh xây dựng và thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh của mình Hiện nay, trên bình diện cả nước, Nhà nước ta đã cho ra đời nhiều chính sách mới để hình thành và phát triển nhiều loại thị trường như: thị trường vốn và ngoại hối; thị trường vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ và nguyên, nhiên, vật liệu; thị trường lao động; thị trường dịch vụ; thị trường hàng tiêu dùng sản xuất trong nước và hàng xuất khẩu... nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những khuôn khổ thể chế chính sách chung đó đã giúp các cơ sở sản xuất kinh doanh tháo gỡ khó khăn, phát triển vươn lên mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao, ngày càng đứng vững trong cạnh tranh và có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Riêng đối với các cơ sở CNNT cả nước nói chung và ở ĐBSCL nói riêng, tuy đã thụ hưởng những thành quả từ sự tác động của hệ thống thiết chế, chính sách của Nhà nước và cũng đã tháo gỡ được nhiều khó khăn vướng mắc trong sản xuất kinh doanh. Nhưng do quy mô sản xuất nhỏ, sản lượng ít, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, lại bị phân tán nên khó khăn lớn nhất đối với họ hiện nay là vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Chính vì "đầu ra" của sản xuất gặp nhiều khó khăn nên đã ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ phát triển của CNNT ở ĐBSCL những năm qua. Để đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của CNNT ở ĐBSCL, các địa phương trong vùng cần phải: - Tổ chức tốt công tác nghiên cứu tiếp thị có tầm chiến lược của cả vùng và từng địa phương, đồng thời thực hiện tốt thông tin về tình hình của thị trường, giá cả hàng hóa và dịch vụ làm chỗ dựa đáng tin cậy để các cơ sở CNNT xây dựng phương án sản xuất kinh doanh phù hợp. - Tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, kinh tế, khoa học, kỹ thuật với các địa phương trong, ngoài vùng và với nước ngoài để giúp cơ sở CNNT tìm bạn hàng dễ dàng. - Giúp đỡ các cơ sở CNNT tham gia các hội chợ trong và ngoài nước. - Giúp đỡ các cơ sở CNNT đẩy mạnh các hoạt động liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp lớn ở đô thị trong và ngoài vùng. - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh mua bán nhằm bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế khi tham gia vào thị trường. - Vận động các cơ sở CNNT tham gia tốt việc bảo hiểm hàng hóa nhằm tránh rủi ro xảy ra trong quá trình vận chuyển, mua bán hàng hóa. 3.3.4.3. Chính sách ứng dụng tiến bộ khoa học và tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại Hiện nay, trước sức ép của thị trường, sự đổi mới công nghệ đã trở thành nhu cầu bức thiết bảo đảm sống còn đối với các cơ sở công nghiệp nói chung và CNNT nói riêng. Đổi mới công nghệ là việc làm của doanh nghiệp, do doanh nghiệp quyết định, doanh nghiệp được hưởng kết quả do đổi mới công nghiệp đem lại và chịu trách nhiệm nếu không thành công. Do vậy không thể có phương án đổi mới công nghệ chung cho tất cả các cơ sở CNNT thuộc các ngành khác nhau được. Điểm chung nhất là phải từ nhu cầu thị trường về sản phẩm và dịch vụ, từ khả năng, điều kiện của doanh nghiệp mà xác định chiến lược và phương án đổi mới công nghệ. Việc thực hiện đổi mới công nghệ ở các cơ sở CNNT có thể được tiến hành thông qua 3 con đường khác nhau: một là, cải tiến hiện đại hóa công nghệ truyền thống; hai là, tự nghiên cứu, phát triển công nghệ mới; ba là, nhập và nhận chuyển giao công nghệ từ nơi khác. Con đường thứ hai nhìn chung không thể thực hiện được vì các cơ sở CNNT dường như không có năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo mới và cũng không có đủ vốn cho công tác này. Con đường thứ nhất và thứ ba là thích hợp và hiệu quả đối với các cơ sở CNNT, nhất là con đường nhận chuyển giao công nghệ. Hiện nay, các chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cho CNNT ở ĐBSCL được thực hiện qua các kênh như sau: - Nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài. - Chuyển giao từ các doanh nghiệp ở các đô thị thuộc các tỉnh lỵ trong vùng hoặc từ các trung tâm công nghiệp lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đồng Nai. - Chuyển giao từ các cơ sở nghiên cứu, triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trung ương và địa phương. - Chuyển giao trong nội bộ CNNT, giữa các cơ sở trong cùng một địa phương, vùng ĐBSCL hoặc giữa các vùng khác nhau. Các loại công nghệ được chuyển giao cho CNNT ở ĐBSCL sẽ có nhiều trình độ khác nhau để phù hợp với trình độ sản xuất của các cơ sở CNNT trong vùng. Tuy nhiên việc chuyển giao công nghệ cho CNNT ở các tỉnh ĐBSCL nhất định sẽ gặp rất nhiều khó khăn: Một là: các cơ sở CNNT ở ĐBSCL đang trong tình trạng thiếu vốn, thiếu thông tin để có thể chọn lựa được loại thiết bị, công nghệ phù hợp. Hai là: nhu cầu về sản phẩm không ổn định, thị trường nhỏ hẹp nên chưa có nhu cầu sử dụng thiết bị, công nghệ hiện đại. Ba là: không đủ năng lực và điều kiện cần thiết để khai thác sử dụng có hiệu quả những loại thiết bị, công nghệ hiện đại. Từ những thực tế trên, muốn thực hiện được chuyển giao công nghệ cho CNNT ở ĐBSCL, ngoài các biện pháp tác động vào thị trường và giải quyết nhu cầu về vốn ra, các địa phương trong vùng cần thực hiện tốt các biện pháp sau: - Tổ chức khảo sát đánh giá hiện trạng công nghệ các cơ sở CNNT, đưa ra những thông tin chỉ dẫn cần thiết về công nghệ và hướng đổi mới công nghệ giúp cho các cơ sở CNNT lựa chọn, áp dụng, đổi mới để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Xác định lại vai trò của cơ quan nghiên cứu khoa học - công nghệ của Nhà nước tại địa phương nhằm hỗ trợ phát triển công nghệ cho CNNT và có chính sách khuyến khích, hỗ trợ thúc đẩy sự hoạt động của các cơ quan này trong việc chuyển giao công nghệ mới cho CNNT. - Tổ chức, hỗ trợ việc đào tạo nghề nghiệp, bồi dưỡng kiến thức kinh doanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động đang làm việc trong các cơ sở CNNT ở địa phương. 3.3.5. Tổ chức sản xuất và quản lý CNNT 3.3.5.1. Về tổ chức sản xuất - Tổ chức sản xuất theo lãnh thổ, hình thành những cụm CNNT tập trung, gắn với quá trình đô thị hóa trong vùng Phát triển công nghiệp nói chung, CNNT nói riêng bao giờ cũng kéo theo nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp. Điều dễ nhận thấy là quá trình đô thị hóa sẽ phát triển ngày càng mạnh để cho ra đời những nông thị nhỏ trong các vùng nông thôn. Trong đó, các hoạt động kinh tế tăng lên nhanh chóng, mối liên hệ giữa sản xuất, dịch vụ, thương mại... ngày càng trở nên phức tạp; dân cư sẽ dần dần được tập trung ngày càng đông hơn, các nhu cầu sinh hoạt: ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, giải trí theo đó phát triển không ngừng. Thông thường tốc độ đô thị hóa phụ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế trên từng địa bàn cụ thể, trong đó tác nhân kích thích là sự phát triển của công nghiệp. Nói cách khác, nếu công nghiệp trên một địa bàn nông thôn nào đó phát triển với tốc độ cao thì quá trình đô thị hóa tất yếu sẽ diễn ra nhanh hơn, nếu không theo quy hoạch, kế hoạch sẽ làm xuất hiện những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp mà muốn khắc phục nó phải tốn kém rất nhiều chi phí, của cải của xã hội. Do vậy, trong quá trình phát triển CNNT phải đảm bảo không gây ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt của cộng đồng dân cư và hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng gây ô nhiễm môi trường hoặc làm cạn kiệt tài nguyên. Đồng thời phải đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Muốn vậy phải: Có quy hoạch, kế hoạch phát triển CNNT thành từng cụm độc lập với các khu dân cư. Các cấp chính quyền địa phương cần kiểm soát chặt chẽ những diễn biến phức tạp do quá trình phát triển CNNT gây ra như: gây ô nhiễm môi trường, vi phạm đến an toàn lương thực, khai thác có tính chất hủy hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự phát triển của CNNT phải được đặt trong chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và trong quy hoạch tổng thể của vùng. Đồng thời phải được triển khai theo kiểu lan tỏa từ một trung tâm ra các khu vực lân cận. - Mở rộng quan hệ liên kết kinh tế giữa các cơ sở CNNT với các doanh nghiệp công, thương nghiệp lớn ở các đô thị và các khu công nghiệp tập trung trong và ngoài vùng. Phát triển sản xuất kinh doanh là công việc làm ăn mang tính tự giác cao của nhân dân. Nhân dân chỉ bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh khi thấy rõ lợi ích mang về cho họ. Do đó sự tự giác bỏ vốn đầu tư sản xuất của dân cư nông thôn thường phải qua nhiều đắn đo, cân nhắc kỹ lưỡng, đặc biệt đối với phát triển công nghiệp thì họ càng phải thận trọng hơn vì vốn đầu tư lớn, độ rủi ro cao. Chính vì vậy sự phát triển của CNNT ở ĐBSCL thường diễn ra một cách chậm chạp, trầm lắng, tuy nhiên khi có người đầu tư thu được lợi nhuận cao thì lập tức bùng nổ thành phong trào. Do vậy, để đẩy mạnh nhịp độ phát triển CNNT ở ĐBSCL, các địa phương, ngoài việc áp dụng các biện pháp, chính sách đã trình bày trên, còn phải tiến hành xây dựng các mô hình liên kết kinh tế làm chỗ dựa đáng tin cậy để kích thích dân cư nông thôn bỏ vốn ra đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Quan hệ liên kết kinh tế của CNNT có thể được tổ chức theo nhiều hình thức với nhiều đối tượng khác nhau thuộc các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất - kinh doanh như: Gia công nguyên liệu hoặc một bộ phận sản phẩm hay lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm... cho các doanh nghiệp đô thị. Đây là hình thức liên kết có tầm quan trọng đặc biệt, vừa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đặt hàng gia công, đồng thời lại mở ra điều kiện mới để phát triển CNNT, giải quyết việc làm cho dân cư nông thôn một cách chắc chắn nhất. Gia công làm hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng nội địa cho các tổ chức thương mại trong và ngoài địa phương. Đây cũng là một hình thức quan trọng vì nó bảo đảm được việc tiêu thụ sản phẩm cho CNNT một cách ổn định. Tuy nhiên đây là hình thức khó thực hiện hơn, vì nó đòi hỏi sản xuất của cơ sở gia công phải đạt đến trình độ nhất định mới có thể tạo ra được hàng hóa đủ tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng quy định. Do đó, chi phí đầu tư để cho ra đời một cơ sở gia công đạt tiêu chuẩn là rất lớn, hơn nữa nó đòi hỏi người chủ cơ sở phải giỏi về tổ chức sản xuất kinh doanh cùng với đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất có tay nghề cao. Nhận sản xuất thử nghiệm cho các cơ sở nghiên cứu, triển khai tiến bộ khoa học công nghệ. Hợp tác sản xuất giữa các cơ sở CNNT với nhau theo quy trình sản xuất ra sản phẩm từ khâu khai thác nguyên liệu đến khâu cuối cùng tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, trong đó mỗi cơ sở đảm nhận một khâu của quy trình sản xuất hoặc cùng sản xuất một mặt hàng nhất định. Hiện tại hình thức này được áp dụng nhiều trong lĩnh vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Ví dụ, ở xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây (Tiền Giang) những năm qua nhờ có sự giúp đỡ của Nhà nước, một nhóm hộ nông dân đã đứng ra tổ chức cho hàng trăm hộ khác trong xã đi vào sản xuất các mặt hàng thủ công xuất khẩu từ nguyên liệu cói và udu. Trong đó nhóm hộ chủ chốt đảm nhận việc cung ứng vật tư nguyên liệu, phổ biến kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm để nhận hoa hồng, còn các hộ khác thì chịu trách nhiệm sản xuất. Để hình thức hợp tác này phát huy được hiệu quả cần phải có sự tham gia của các cơ sở bao tiêu sản phẩm. Kinh nghiệm phát triển liên kết kinh tế giữa CNNT với các loại hình doanh nghiệp khác ở các nước trên thế giới cũng như ở nước ta đã cho thấy rõ hiệu quả mang lại rất lớn. Tuy nhiên khi phát triển hình thức này cũng cần chú ý đến mặt trái của nó là nếu trường hợp sản xuất của doanh nghiệp mẹ bị khủng hoảng, đình đốn thì có thể gây ra hậu quả làm phá sản hàng loạt cơ sở gia công. Do vậy các địa phương cần phải áp dụng một hệ thống chính sách đồng bộ nhằm bảo hiểm và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp mẹ và cơ sở gia công ở bên dưới. - Đẩy nhanh tốc độ phát triển làng nghề ở nông thôn. Làng nghề là nguồn gốc và hình thức cơ bản của CNNT, do đó phát triển làng nghề sẽ đẩy nhanh tốc độ phát triển CNNT. Đối với ĐBSCL, một vùng đất rộng lớn có nhiều tiềm năng kinh tế nhưng có số lượng làng nghề ít hơn nhiều so với ĐBSH. Vì vậy đẩy mạnh phát triển làng nghề ở vùng này có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với phát triển CNNT mà còn đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nói chung. Bởi lẽ nó không chỉ làm cho tốc độ phát triển CNNT ở ĐBSCL phát triển nhanh hơn mà còn đi vào giải quyết được công ăn việc làm cho một lực lượng lao động đang dư thừa ngày càng nhiều ở nông thôn trong vùng hiện nay. Ví dụ như nghề đan lát xuất khẩu của hợp tác xã Thống Nhất thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang hiện nay đã giải quyết được công ăn việc làm thường xuyên ổn định cho trên 6.000 lao động với mức thu nhập bình quân trên 500 ngàn đồng/người/tháng [6]. Làng nghề nông thôn bao gồm làng nghề truyền thống và làng nghề mới hình thành trong thời gian gần đây. Làng nghề truyền thống là làng nghề thủ công có truyền thống lâu đời, trải qua nhiều thế hệ. Để đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống, các địa phương cần có những biện pháp thiết thực nhằm hỗ trợ, giúp đỡ các nghệ nhân đi vào khôi phục, mở rộng và hiện đại hóa những nghề truyền thống mà sản phẩm của nó đang là mặt hàng được người tiêu dùng trong nước và ngoài nước ưa chuộng. Làng nghề mới, được hình thành từ hai nguồn chủ yếu là: Một là: hình thành từ việc tổ chức các quan hệ gia công cho các xí nghiệp lớn, hoặc cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu... Hai là: tự hình thành trên cơ sở lan tỏa từ các làng nghề khác. Nhìn chung việc phát triển làng nghề mới, nên để cho nhân dân trong các làng xã lựa chọn và thực hiện. Nhà nước không cần phải đứng ra tổ chức, nhưng nếu bỏ mặc nhân dân thì làng nghề cũng khó mà ra đời và phát triển nhanh chóng được. Do đó cần phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước bằng cách: xúc tiến việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kỹ năng về các ngành nghề mới đi đôi với việc tổ chức hoặc hỗ trợ tổ chức dạy nghề, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật cho nông thôn. - Chú trọng phát triển mạnh các cơ sở công nghiệp đô thị có mối liên hệ ở đầu vào hoặc đầu ra với sản xuất của các cơ sở CNNT nhất là các dự án hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, qua đó thúc đẩy sự ra đời của các cơ sở công nghiệp mới ở nông thôn. 3.3.5.2. Tổ chức hệ thống quản lý CNNT Thực tế phát triển CNNT ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ đó không phải là sự phát triển chỉ nhằm vào các mục tiêu kinh tế mà còn phải nhằm vào các mục tiêu xã hội. Đặc biệt đối với nước ta, sự phát triển đó là để thực hiện các mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm thúc đẩy kinh tế, xã hội nông thôn phát triển toàn diện. Hơn nữa phát triển CNNT đòi hỏi phải có sự trợ giúp nhiều mặt từ phía nhà nước. Do đó tất yếu phải có sự quản lý của nhà nước đối với phát triển CNNT cả nước nói chung, ở ĐBSCL nói riêng. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở cả thành thị lẫn nông thôn đều đã được Nhà nước thống nhất quản lý đến tận cơ sở sản xuất qua hệ thống tổ chức Liên hiệp xã từ trung ương đến tỉnh, huyện. Nhờ đó về cơ bản, Nhà nước đã kiểm soát được chặt chẽ toàn bộ sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên do thực hiện cơ chế quản lý cứng nhắc, quan liêu và can thiệp quá sâu vào công việc sản xuất kinh doanh của từng cơ sở sản xuất nên sự quản lý đó đã dẫn đến kìm hãm sự phát triển sản xuất đối với tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay việc quản lý nhà nước đối với CNNT được phân cấp và phân công theo hướng giảm bớt các nội dung, chia nhỏ nhiệm vụ theo chức năng và bỏ hệ thống Liên hiệp xã nhưng lại không đưa ra được hệ thống quản lý tương ứng, do đó dẫn tới tình trạng sau: - Thiếu một cơ quan tổng hợp theo dõi và có thẩm quyền giúp đỡ, hỗ trợ cho CNNT. - Có sự quản lý chồng chéo lẫn nhau giữa các cơ quan chức năng (công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn) đối với CNNT. Từ những thực tế trên và cũng nhằm thúc đẩy CNNT phát triển đúng hướng đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải hình thành hệ thống tổ chức quản lý phát triển CNNT từ trung ương đến tỉnh, huyện với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là: - Tạo môi trường pháp lý và những điều kiện cần thiết để các cơ sở CNNT phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ các hoạt động sản xuất đó. - Tổ chức và điều hành các hoạt động có liên quan tới nhiều cơ sở CNNT nhằm tạo ra sự hợp tác phát triển trong nội bộ CNNT. - Tổ chức và xúc tiến việc hình thành các mối liên kết giữa CNNT với các doanh nghiệp đô thị và các cơ sở nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ... - Tổ chức thực hiện các mặt hoạt động chung phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội như bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển phúc lợi xã hội nông thôn... - Tổ chức bảo vệ lợi ích chính đáng cho các cơ sở CNNT, đồng thời làm chỗ dựa đáng tin cậy để họ đề đạt nguyện vọng của mình với Nhà nước. Trước mắt, để CNNT ở ĐBSCL phát triển đúng hướng theo yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong vùng, về mặt quản lý, các cấp chính quyền ở ĐBSCL cần thực hiện như sau: - Tổ chức tốt hệ thống thông tin giữa các cơ quan chức năng ở địa phương để có được sự thống nhất chung về các mặt phát triển CNNT. - Tăng cường lực lượng cán bộ lãnh đạo quản lý phát triển CNNT có trình độ chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ trong lĩnh vực công nghiệp. - Tổ chức lại hệ thống kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh của CNNT và lập hội nghề nghiệp với những hình thức thích hợp để tập hợp các nhà sản xuất, kinh doanh công nghiệp ở nông thôn lại để định hướng, kiểm soát và tạo điều kiện giúp đỡ họ hoạt động có hiệu quả. Kết luận chương 3 Những quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển CNNT ở ĐBSCL những năm tới đã trình bày trên đây chỉ đem lại kết quả hiện thực bằng sự nỗ lực phấn đấu hoạt động của nguồn lực con người trong những hình thức tổ chức thích hợp dưới sự hướng dẫn, chỉ huy, hỗ trợ của Nhà nước, nhằm làm cho CNNT ở ĐBSCL phát triển đúng hướng, đạt hiệu quả và phát triển bền vững. Chỉ khi nào có được các doanh gia, có đội ngũ những người lao động giỏi và các cơ quan hữu trách của nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển đúng tạo được môi trường thuận lợi thu hút được nhân tài vật lực từ các thành phần kinh tế, đầu tư vào phát triển CNNT thì CNNT ở ĐBSCL mới phát triển mạnh, góp phần to lớn vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. KẾT LUẬN 1. Phát triển CNNT ở ĐBSCL đang là nhu cầu bức thiết, đóng vai trò "chìa khóa" cho công cuộc phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn trong vùng theo hướng CNH, HĐH. Nó tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, làm tăng năng suất lao động, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, mở ra những ngành nghề phi nông nghiệp, tạo điều kiện phát triển đưa xã hội nông thôn vùng ĐBSCL tiến lên văn minh, hiện đại. Tuy nhiên quá trình phát triển CNNT ở ĐBSCL không thể diễn ra nếu chỉ dựa vào những ý chí chủ quan, áp đặt từ phía Nhà nước. Tốc độ phát triển CNNT ở ĐBSCL sẽ do các yếu tố thị trường, đặc điểm văn hóa, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng cùng với việc thực thi đồng bộ nhiều biện pháp, chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ phía Nhà nước quyết định. 2. CNNT ở ĐBSCL hiện nay còn non yếu nhiều mặt và việc phát triển của nó đang gặp nhiều khó khăn như thiếu vốn; thiếu khả năng tiếp thị; đội ngũ các nhà doanh nghiệp ở nông thôn còn nhỏ bé, yếu kém, thiếu tri thức và thông tin về công nghệ, thông tin về thị trường; kết cấu hạ tầng chưa đảm bảo... Trong bối cảnh đó CNNT ở ĐBSCL chỉ có thể phát triển mạnh nhờ vào những lợi thế so sánh, từ nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, từ sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, từ truyền thống ngành nghề và từ nguồn lao động dồi dào sẵn có thực hiện đa dạng hóa sản xuất, đa phương hóa thị trường "đầu vào", "đầu ra", đẩy mạnh tiêu thụ trong và ngoài nước bằng cách tăng cường và mở rộng liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế, các tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ, các doanh nghiệp lớn... trong và ngoài vùng. 3. Điều đặc biệt quan trọng ở đây là sự phát triển của CNNT ở ĐBSCL không nhằm mục đích tự thân mà là nhằm vào các mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do đó phải luôn có định hướng đúng đắn trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương, đồng thời phải có kế hoạch triển khai từng bước thận trọng với những điều kiện đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về nhân tài, vật lực, môi trường sinh thái. 4. Phát triển CNNT là phương cách làm ăn sinh sống của từng cá nhân trong cộng đồng dân cư thuộc tất cả các thành phần kinh tế không chỉ ở tại địa phương mà còn từ những nơi khác đến. Mọi thành công hay thất bại, đều thuộc về chủ đầu tư. Tuy vậy, nếu phó mặc cho họ tự bươn chải, xoay xở thì sự nghiệp phát triển CNNT ở ĐBSCL khó đạt được những mục tiêu đã định và gây trở ngại cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do đó quá trình thoát ra khỏi đói nghèo của nông dân ĐBSCL sẽ bị kéo dài ra. Vì vậy, các vấn đề xã hội phức tạp cũng khó mà khắc phục được nhanh chóng. Cho nên, cùng với những nỗ lực của từng người dân, Nhà nước phải có những hỗ trợ, giúp đỡ nhiều mặt như: giúp tìm kiếm thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi, tư vấn dự án, thu hút đầu tư, giải quyết vấn đề vốn; trợ giúp phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ sản xuất một cách phù hợp; đào tạo nhân lực; phát triển kết cấu hạ tầng; tạo dựng các mô hình liên doanh liên kết kinh tế giữa các cơ sở CNNT với các tổ chức kinh tế, khoa học - công nghệ ... trong và ngoài vùng; thực hiện quản lý nhà nước đối với phát triển CNNT... 5. Phát triển CNNT, suy cho cùng là vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Điều đó đòi hỏi trong quá trình phát triển CNNT phải bảo đảm giải quyết hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng xã hội, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, lợi ích cộng đồng xã hội là nền tảng. Nếu xem nhẹ bất kỳ lợi ích nào thì cũng có thể dẫn đến những hậu quả khó lường. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTS54.DOC
  • docCHAULONG.DOC
  • docCLONG-PL.DOC
Tài liệu liên quan