Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất & trình độ của Lực lượng sản xuất

Lời mở đầu Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay việc nghiên cứu qui luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm nay việc thưc hiện mô hình này không chỉ là nội dung của cuộc đổi mới mà nó còn là công cụ,phương tiện để nước ta đI lên xây dựng CNXH.Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc vận dụng tốt qui luật này

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất & trình độ của Lực lượng sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Một xã hội phát triển được đánh giá từ trình độ của lực lượng sản xuất với sự kết hợp hàI hoà với quan hệ sản xuất .Thời đạI ngày nay tuy trình độ khoa học phát triển song qui luật này vẫn là cơ sở cho sự phát triển.Do vậy vấn đề về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của quan hệ sản xuất là một trong những vấn đề mà chúng ta đang quan tâm giảI quyết .Được sự hướng dẫn của thầy giáo Thạc sỹ Lê Trọng Khanh và qua tìm hiểu một số tàI liệu sách vở em muốn đưa ra một số ý kiến về vấn đề này.Trong bàI viết không thể tránh khỏi những sai sót mong thầy và các bạn bỏ qua .Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo và các bạn. Phần I: QUAN ĐIểM CủA TRIếT HọC MáC Về QUI LUậT QUAN Hệ SảN XUấT PHù HợP VớI TíNH CHấT TRìNH Độ Phát triển của lự c lượng sản xuất I.Lực lượng sản xuất và kết cấu của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,là kết quả của năng lực thực tiễn của con người .Lực lượng sản xuất là cáI kết quả,cáI đã đạt được bởi con người,là sản phẩm đã qua con người chứ không phảI là những cáI mà tự nhiên cho sẵn. Lực lượng sản xuất được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác.Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất cũ để tạo ra những lưc lượng sản xuất mới.Lực lượng sản xuất vừa mang tính xã hội vừa do các thế hệ nối tiếp nhau tạo ra vừa do các cá nhân trong mỗi giai đoạn xã hội bảo tồn và không ngừng phát triển lên . Trong mỗi giai đoạn xã hội trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở công cụ lao động.Đến lượt nó,trình độ của công cụ biểu hiện ở phân công lao động,ở năng xuất lao động.Năng xuất lao động là thước đo trình độ của lực lượng sản xuất. *Các yếu tố của lực lượng sản xuất 1. Người lao động là yếu tố đầu tiên và chủ yếu của mọi quá trình sản xuất Bao gồm các nhân tố : -Nhu cầu sinh sống tự nhiên của con người.Nhu cầu thúc đẩy hoạt động -Sức lao động của người lao động là sức thần kinh,sức cơ bắp mà con người vận dụng để đIều khiển công cụ lao động như:mang,vác,đẩy,chịu tác động của môI trường.. -Kinh nghiệm và kỹ năng lao động:là sự hiểu biết về đối tượng lao động,tính năng và tác dụng của công cụ lao động và ít nhiều hiểu biết trong việc sử dụng công cụ và khả năng cảI tiến công cụ Toàn bộ các nhân tố trên kết hợp trong người lao động thành nhân tố người lao động . 2.Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động -Tư liệu lao động có công cụ lao động và những phương tiện,vật liệu khác dùng để tăng cường,hỗ trợ cho tác động của công cụ lên đối tượng như:kìm búa,máy móc..Tư liệu lao động là vật hay hệ thống những vật được con người đặt giữa mình và đối tượng lao động để truyền những tác động của con người lao động lên đối tượng nhằm biến đổi chúng thành những sản phẩm thoả mãn nhu cầu của con người.Do đó tư liệu lao động được coi là cánh tay bắp thịt,hệ thần kinh thứ hai của con người.Nó kéo dàI và tăng cường sức mạnh của khí quan con người.Tư liệu lao động do con người sáng tạo ra trong đó công cụ sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến đổi tự nhiên. -Đối tượng lao động là toàn bộ những khách thể tự nhiên hoặc những vật liệu tự nhiên đã được con ngươì làm biến đổi nhưng chưa thành sản phẩm. Những khách thể và vật liệu này có thể biến thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu con người và chịu sự tác động của con người.Đối tượng lao động mang lạI cho con người tư liệu sinh hoạt. Ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tức là trở thành yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất khác với trước đây việc ứng dụng những thành tựu khoa học ở cách xa sản xuất. II.Quan hệ sản xuất và kết cấu của quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là quan hệ của con người với nhau trong quá trình sản xuất.Đó là quan hệ tất yếu khách quan được hình thành trong quá trình sản xuất của các cá nhân với nhau. Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt : -Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất -Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức và phân công lao động xã hội -Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối sản phẩm xã hội *Kết cấu của quan hệ sản xuất Ba mặt của quan hệ sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định với những mặt khác.Trong hệ thống sản xuất xã hội người sở hữu tư liệu sản xuất quyết định quá trình phân công lao động,phân phối sản phẩm xã hội vì lợi ích của mình còn người không sở hữu thì phục tùng sự phân công nói trên. Có hai hình thức sở hữu cơ bản trong lịch sử :Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.Sở hữu tư nhân là hình thức mà trong đó một thiểu số cá nhân nhất định sở hữu đạI bộ phận những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội như các hình thức sở hữu của chủ nô,phong kiến và tư sản.Trong các hình thức sở hữu này lợi ích của cá nhân chi phối quá trình sản xuất.Sở hữu xã hội là hình thức của các cá nhân liên kết thành tập thể sở hữu hoặc tư liệu sản xuất thuoọc về mọi thành viên trong xã hội như trong xã hội cộng sản nguyên thủy,các công xã thời cổ,xã hội chủ nghĩa.Trong đó sở hữu xã hội ,lợi ích tập thể ,của xã hội chi phối nền sản xuất xã hội. Quan hệ sản xuất là biểu hiện tập trung của phương thức sản xuất,giúp phân biệt hình tháI kinh tế-xã hội này với hình tháI kinh tế-xã hội khác. III.Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. 1.Bản chất của quy luật. LLSX và QHSX là hai mặt không tách rời nhau của phương thức sản xuất.Chúng tác động lẫn nhau một cách biện chứng và quy định vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự hình thành và phát triển của những cơ cấu xã hội.Do đó mối quan hệ này được gọi là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lạI của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.Bản chất của quy luật này là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lưc lượng sản xuất. 2.Tính chất và trình độ của lượng sản xuất Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và của lao động đó chính là tính chất cá thể hay tính chất xã hội của chúng.Còn trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển cảu công cụ lao động,của kỹ thuật,kinh nghiệm và kỹ năng,biểu hiện thông qua quy mô,cơ cấu sản xuất,phân công lao động.Tính chất của lực lượng sản xuất liên hệ chặt chẽ với trình độ của lực lượng sản xuất.Thí dụ như công cụ sản xuất ở trình độ cá thể,tư nhân,lao động cũng mang tính chất cá thể. Khi máy móc xuất hiện thì việc sản xuất ra máy móc cũng như việc dùng nó để sản xuất đều cần sự kết hợp lao động của nhiều cá nhân trong đó mỗi người chỉ thực hiện một khâu nào đó của quá trình sản xuất như vậy ta nói lực lượng sản xuất đó mang tính chất xã hội.Trình độ của lực lượng sản xuất càng cao thì phân công lao động xã hội càng sâu sắc,do đó tính chất xã hội của nó càng cao. 3.Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất Lực lượng sản xuấtlà nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức trong phương thức sản xuất.Nội dung qui định hình thức. Lực lượng sản xuất là yếu tố động,cách mạng trong phương thức sản xuất.Vì trong quá trình lao động con người không ngừng cảI tiến công cụ do kinh nghiệm luôn được tích luỹ,do nhu cầu sản xuất không ngừng tăng lên.Trong khi đó quan hệ sản xuất có khuynh hướng bảo thủ,ổn định.Do những thay đổi của phương thức sản xuất đều bắt nguồn sâu xa từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất .Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất nữa. Lực lượng sản xuất quyết định sự phân công lao động xã hội do đó quyết định quan hệ giữa những tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất thông qua đó quyết định quá trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. LLSX phát triển mâu thuẫn với QHSX cũ đang kìm hãm nó thì đòi hỏi phảI được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để cho sản xuất phát triển.Như vậy sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng quan hệ sản xuất khác do lực lượng sản xuất quy định chứ không phảI do quan hệ sản xuất.Khi quan hệ sản xuất mới thay thế quan hệ sản xuất cũ thì phương thức sản xuất cũ sẽ bị diệt vong ,phương thức sản xuất cũ kết thúc phương thức sản xuất mới ra đời. 4.Tác động ngược lạI của QHSX đối với LLSX Quan hệ sản xuất không chịu sự tác động của lực lượng sản xuất một cách thụ động mà có tác động ngược trở lạI đối với lực lượng sản xuất. Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phương thức sản xuất.Lực lượng sản xuất không thể tồn tạI,phát triển ở bên ngoàI quan hệ sản xuất,nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất.Quan hệ sản xuất có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực lượng sản xuất đúng với vị trí và chức năng của chúng làm cho chúng phát huy được hết các tính năng,tác dụng của chúng.Nhưng khi quan hệ sản xuất không phù hợp với LLSX thì trở thành xiềng xích trói buộc lực lượng sản xuất,làm cho chúng không phát huy được tác dụng..Sự không phù hợp của QHSXvới LLSXxảy ra theo hai xu hướng:vượt quá hoặc lạc hậu quá so với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất tức là sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đoàn xã hội nào,tổ chức sản xuất vì lợi ích nào và phân phối sản phẩm có lợi cho ai?Như thế có nghĩa là mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực lượng sản xuất rất trực tiếp. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật chung cơ bản của quá trình lịch sử loàI người,nó tác động trong những giai đoạn lịch sử cơ bản của xã hội.là nguyên nhân cơ bản của sự hình thành và phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế-xã hội xác đnhj tring lịch sử,đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển cơ bản từ giai đoạn lịch sử này sang giai đoạn lịch sử khác ;từ phương thức sản xuất nguyên thuỷ sang phương thức chiếm hữu nô lệ,tiếp theo là phương thức phong kiến,rồi sang tư bản chủ nghĩa cuối cùng là sang cộng sản chủ nghĩa. Sự tác động của quy luật này trong lịch sử đã xác định vai trò quyết định của phương thức sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu trúc xã hội nhất định.ĐIều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu,tác động đến quá trình sản xuất,tạo đIều kiện thuận lợi hoặc khó khăn nhất định cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tạI và phát triển xã hộinhưng không phảI là nhân tố quyết định.Chỉ có sự phát triển của phương thức sản xuất mới là nhân tố quyết sự tồn tạI và phát triển của xã hội loàI người. PHầN II: QUI LUậT QUAN Hệ SảN XUấT PHù HợP VớI TíNH CHấT &TRìNH Độ PHáT TRIểN CủA LựC Lượng sản xuất Trong công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam Trong công cuộc đổi mới đất nước đẩy mạnh phát triển sản xuất,cảI tạo và xây dựng quan hệ sản xuất nhất thiết phảI gắn liền với việc nhận thức và vận dụng quy luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất’’ I.Nhìn lạI những sai lầm về quy luật trước đạI hội Đảng VI. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lượng sản xuất thì lượng sản xuất phát triển thuận lợi kéo theo quan hệ sản xuất cũng phát triển.Con người đóng vai trò tác động vào quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất nhưng con người không thể tự do định hướng bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn vì quan hệ sản xuất luôn được quy định bởi lực lượng sản xuất. Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong công cuộc cảI tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đI vào hợp tác xã,mở rộng phát triển qui mô nông trường quốc doanh ,các nhà máy,xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ thấp kém chúng ta đã tạo ra những qui mô lớn và ngộ nhận là chúng ta đã có “quan hệ sản xuất XHCN”và còn nói rằng :mỗi bước cảI tiến quan hệ sản xuất cũ,xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới.Quan hệ sản xuất XHCN có khả năng “vượt trước “,”mở đường”cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thực tế trong nhiều năm qua đã chứng minh quan đIểm đó là sai lầm.Sai lầm chủ yếu không phảI là ở chỗ chúng ta duy trì quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất như người ta thường nói mà chr yếu đó là có những mặt của quan hệ sản xuất bị thúc đẩy leen quá cao,quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ sản xuất thấp kém của lực lượng sản xuất .Bởi vậy,nhận định trong đạI hội Đảng lần thứ VI là có căn cứ đã làm phong phú thêm lý luận biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đó là “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ là trong trường hợp quan hệ sản xuất bị lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ sản xuất phát triể không đồng bộ ,có những yếu tố đI quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Để chứng minh cho “quan niệm sản xuất đI trước “hoặc nói theo cách thời bấy giờ là để giảI quyết một mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiên tiến vơí lực lượng sản xuất lạc hậu chúng ta đã ra sức đẩy nhanh xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành còn non yếu,què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dàI công-nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không cần tính đến khả năng của cấp đó ,khả năng trình độ quản lý,trình độ tổ chức sử dụng của nông dân. Thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phảI cảI tạo xã hội chủ nghĩa,phát triển công nghiệp quốc doanh,công nghiệp nặng chỉ nên coi như mục đích lâu dàI phảI tiến tới chứ không phảI coi như một tất yếu trực tiếp phảI cảI tạo ngay.Song chúng ta đã bất chấp thực tiễn khách quan trên mà chỉ vin vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà nước chuyên chính vô sản bằng những đường lối chính sách và những hoạt động tích cự có thể tìm được những cách giảI quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội,có đủ khả năng chủ động sáng tạo ra quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.Nhưng thực tế chúng ta đã không thể rút ngắn được “những cơn đau của thời kỳ sinh đẻ”.Nỗi đau cứ kéo dàI.Dẫu sao cũng”không thể nhảy qua những giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó “. Quan đIểm về quan hệ sản xuất đI trước là không đúng đắn và nói đến quan hệ sản xuất XHCNlà nhấn mạnh việc xây dựng chế đọ công hữu về tư liệu sản xuất và cơ chế thực hiện chế độ đó phiến diện.Đành rằng yếu tố này là cơ bản nhưng không thể xem nhẹ quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.PhảI thấy rằng quan hệ sở hữu được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất trao đổi,phân phối và tiêu dùng của người lao động.Ngay cả việc xoá bỏ chế độ tư hữu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không phảI chỉ là thời gian ngắn là xong.Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phảI là mục tiêu trước mắt của nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có.Hơn nữa những thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển.Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phảI là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất TBCN,khi nền kinh tế XHCNcủa chúng ta còn chưa đủ sức thay thế.ĐIều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của lựuc lượng sản xuất và đã làm mất khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội .Cũng vậy,chúng ta xoá sạch tiểu thương khi quan hệ thống nhất thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của chúng ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội”gây ra nhiều khó khăn,ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu cho nhân dân. 2.Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước ta đI lên CNXH Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng:một trong những nguyên nhân sâu xa làm cho sản xuất chậm phát triển,đời sống nhân dân gặp khó khăn là do”không nắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”.Từ đó Đảng ta đã rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cachs mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học-kỹ thuật,chú trọng việc tổ chức lạI nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bước đI thích hợp Đảng nhận thức rằng:sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối,không có mâu thuẫn,không thay đổi.Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giò cũng tồn tạI dưới những hình thức cụ thể,thích ứng với những đặc đIểm nhất định với trình độ nào đó của lượng sản xuất.Trong thời kỳ đI lên xây dựng XHCN,nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN.Bởi vậy công cuộc cảI tạo XHCN phảI chú ý đến đặc đIểm của sự tồn tạI khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần .Trong cảI tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới,ĐạI hội Đảng VI đã nhấn mạnh là phảI quyết tâm giảI quyết đồng bộ ba mặt,xây dựng chế độ sở hữu,chế độ quản lý và chế độ phân phối,không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây fựng hai chế độ kia.Không nên quá đề cao chế độ công hữu,coi đó là cáI duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới.Thực tế chỉ rõ,nếu chế độ quản lý và chế độ phân phối không được xác lập theo những nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở lực lượng sản xuất phát triển. Đối với chế độ quản lý,chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có những qui định gì?Trước tiên,nó qui định tính chất,mục tiêu và phương pháp của quản lý đó là quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với việc tổ chức quản lý nền kinh tế,làm sao cho mọi người lao động trong xã hội cùng làm chủ tư liệu sản xuất ,có quyền bình đẳng,hợp tác trong lao động ,sản xuất và trong lợi ích kinh tế.Thứ hai là ,cơ chế quản lý kinh tế dựa trên chế độ công hữu là phảI có tính kế hoạch ,tính tập trung ,tính thống nhất.Văn kiện ĐạI hội Đảng VI cũng đã khẳng định đIều này :tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời lỳ quá độ. Trong công cuộc đổi mới đất nước phảI tuân thủ qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác định bước đI và những hình thức thích hợp.Qui luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cảI tạo quan hệ sản xuất cũ,xây dựng quan hệ sản xuất mới trên những đIều kiện phát triển của lực lượng sản xuất.ĐạI hội VI đã chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất”,không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đI cũng như việc chọn lựa các hình thức kinh tế cần phảI tạo ra nền sản xuất nhỏ ,có thể dể đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn.Trên cơ sở sản xuất nhỏ xây dựng những hình thức của quan hệ sản xuất phù hợp ,từng bước và đồng bộ.Rà soát lạI toàn bộ quá trình cảI tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận :”Theo qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ,quá trình cảI tạo XHCN phảI có bước đI và hình thức thích hợp”,phảI coi trọng những hình thức kinh tế trung gian,quá độ từ thấp lên cao ,từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn,trong mỗi bước đI của quá trình cảI tạo xã hội chủ nghĩa phảI đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật,tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản xuất lên hình thức và qui mô thích hợp để thúc đẩy nhanh lực lượng sản xuất phát triển”. Tóm lại việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phảI đảm bảo sự thích ứng đồng bộ giữa ba yếu tố của quan hệ sản xuất cũng như mối liên hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. II.Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. Nền văn minh nhân loạI suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định.Do vậy trong quá trình xây dựng CNXH việc phát triển lực lượng sản xuất ,xây dựng quan hệ sản xuất mới là nhiệm vụ cần thiết khách quan. 1.Thực trạng nguồn lực của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá ,hiện đạI hoá ở Việt Nam trong đIều kiệ kinh tế còn đang mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu , công nghiệp còn chiếm tỷ trọng nhỏ , tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa so với các nước trong khu vực. Theo số liệu thống kê ở Việt Nam lao động hoạt động chiếm gần 45% dân số , trong đó lao động nông nghiệp chiếm 75%, công nghiệp chiếm 11%còn lạI là trong các hoạt động dịch vụ khác. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 đã đưa ra các thông tin dự báo về nguồn nhân lực lao động : “Bước vào thập kỷ 90 nước ta có 66 triệu dân với 33 triệu người trong độ tuổi lao động.Đến năm 2000 có khoảng 80 triệu dân với 40 triệu người trong độ tuổi lao động , tình hình giáo dục cũng có những biểu hiện đáng ngạI , học sinh bỏ học hàng năm có xu thế gia tăng , chất lượng giáo dục không bảo đảm.Như giáo dục đạI học một số nước Đông Nam á đạt tỷ lệ 60-80 sinh viên/10000dân thì nước ta chỉ đạt tỉ lệ có 22sinh viên/10000 dân. 2.Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất Nước ta vốn là một nước nông nhiệp lạc hậu đI lên chủ nghĩa xã hội trong đIều kiện tiền vốn ít , khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố khác qui định thì chưa thể đổi mới ngay lực lượng sản xuất cũ bằng lực lượng sản xuất tiên tiến , do đó những yếu tố của lực lượng sản xuất truyền thống vẫn cần phảI được duy trì và khai thác.Trong hoàn cảnh hiện nay lực lượng sản xuất bổ xung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của luực lượng sản xuất.Cần phảI sàng lọc trong lực lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị để bổ xung cho việc xây dựng lực lượng sản xuất hiện đạI cần phảI kết hợp các yếu tố truyền thống với các yếu tố hiện đạI, bảo đảm tính phủ định có kế thừa ,tiếp thu những cáI có chọn lọc cho phép tạo nên một sự phát triển ổn định lâu dàI ,bình thường của lực lượng sản xuất ,tránh được sự “gãy gục”trong tiến trình phát triển của nó . Những tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật ngày nay cho phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng trực tiếp những thành tựu khoa học-kỹ thuật , nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đạI , chuyển giao công nghệ qua liên kết và hợp tác kinh tế với nước ngoàI.Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự kết hợp những tiến bộ về lực lượng sản xuất do đó tiếp thu có chonj lọc từ bên ngoàI với những cơ sở vật chất và lực lượng sản xuất vốn có trong nước để đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất , vươn kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Con người tham gia vào quá trình sản xuất vừa với tư cách là sức lao động vừa với tư cách là con người có ý thức chủ thể của những quan hệ kinh tế.Trình độ văn hoá , trình độ kỹ thuật chuyên môn , ý thức và tháI độ của người lao động đối với sản xuất và sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng , khai thác kỹ thuật và tư liệu sản xuất vốn có để sáng tạo trong quá trình sản xuất.Angghen đã nhấn mạnh rằng : “Muốn nâng cao sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đến mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù hợp thì chưa đủ.Còn cần phảI phát triển một cách tương xứng năng lực của con người , sử dụng những phương tiện đó nữa” nghĩa là phảI có sự phối hợp phát triển hài hòa các nhân tố khách quan của các lực lượng sản xuất hiện đại. Để tạI đIều kiện cho con người chủ động nhận thức và giảI quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất , đIều chỉnh và hoàn thiện quan hệ sản xuất để thông qua đphát triển lực lượng sản xuất đồng thơì muốn tạo ra những động lực tích cực kích thích năng lực sáng tạo của người lao động thì đòi hỏi phảI có một cơ chế quản lý phù hợp-cơ chế quản lý theo nguyên tắc hoạch toán kế toán.Muốn giảI phóng và phát huy triệt để nhân tố con người trong sản xuất trước hết phảI có chiến lược về con người nhằm tạo ra những biến đổi tích cực về cơ cấu quản lý và chất lượng công nhân.Việc cảI cách giáo dục , bồi dưỡng chuyên môn , kỹ thuật và năng lực quản lý , việc ban hành và thực hiện các chính sách phù hợp với yêu cầu cuộc sống hiện đạI và hướng tiến lên của xã hội chủ nghĩa là những phương tiện đa dạng trong thống nhất để đI đến chỗ lhát triển lực lượng sản xuất. III.Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN 1.Tính tất yếu khách quan xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội.Đối với nước ta đồng chí Tổng bí thư đã khẳng định rằng: “Nếu công nghiệp hoá hiện đạI hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”. ĐạI hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là bước đI đúng đắn.Bởi vì , nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thức , ước , đI , giảI pháp thích hợp với trạng tháI kinh tế hiện nay của nước ta. Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lục lượng sản xuất nước ta hiện nay vừa thấp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN vế tư liệu sản xuất như trước ĐạI hội VI , làm như vậy là đẩy quan hệ sản xuất đI quá xa so với lực lượng sản xuất.Mở ra nền kinh tế nhiều thành phần đã khơI dậy tiềm năng của sản xuất , xây dựng năng lực sáng tạo ,chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tiễn mấy năm qua cho thấy , chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đóng góp phần giảI phóng và phát triển lực lượng sản xuất , đưa đến những thành tựu to lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng.Vì vậy , ĐạI hội VIII đã khẳng định : “Tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dàI chính sách này , khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân trong nước khai thác tiềm năng ra sức đầu tư phát triển ..trong khi thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, một mặt cần phảI thoát ra khỏi sự trói buộc của tư duy cũ , những nhận thức không đúng trước đây đối với các thành phần kinh tế cá thể , tư bản tư nhân , tư bản nhà nước trong quá xây dựng chủ nghĩa xã hội , từ đó không chủ động tháo gỡ những vướng mắc hoặc thiếu sự quản lý hướng dẫn các thành phần kinh tế này phát triển đúng hướng. 2.Sự vận dụng quy luật đúng đắn qui luật QHSX phù hợp với tính chất &trình độ của LLSX của Đảng ta. Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo qui luật này vào đIều kiện lịch sử đặc thù của nước ta đang ỏ trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội , bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta hiện nay cả nước độc lập thống nhất đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa , quá trình xây dựng phương thức sản xuất mới XHCN phảI là một quá trình kết hợp chặt chẽ cảI tạo với xây dựng , cảI tạo để xây dựng và xây dựng để cảI tạo mà xây dựng là chủ yếu.PhảI xoá bỏ cáI cũ , vừa xây dựng cáI mới từ thấp lên đến cao , từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.Chúng ta phảI đồng thời tạo ra cả quan hệ sản xuất mới lẫn lực lượng sản xuất mới.Chúng ta phảI nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.Đồng thời , ngay từ đầu quá trình công nghiệp hoá phảI tiến hành cảI tạo XHCN các ngành kinh tế , nhất là tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp với phát triển nông nghiệp.Chúng ta phảI tiến hành đồng thời cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật , tư tưởng và văn hoá ba cuộc cách mạng này gắn bó chặt chẽ với nhau.PhảI quán triệt vị trí then chốt của cách mạng khoa học-kỹ thuật để nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất không ngừng củng cố , hoàn thiện quan hệ sản xuất mới , luôn giữ được vai trò mở đường , thúc đẩy cho lực lượng sản xuất phát triển.Báo cáo ban chấp hành trung ương tại Đại hội Đảng IV đã nhấn mạnh : “PhảI luôn luôn thấu suốt đặc đIểm của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN là QHSX và LLSX luôn luôn gắn bó với nhau , thúc đẩy nhau cùng phát triển , mỗi bước cảI tạo QHSX cũ , xây dựng QHSX mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của LLSX mới ;ngược lạI mỗi bước tạo ra LLSX mới đều có tác dụng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới..” Nắm vững quan đIểm đó của Đảng , ra sức thực hiện đường lối chung cũng như đường lối xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa mà ĐạI hội IV của Đảng đã đề ra chúng ta sẽ nhanh chóng xây dựng thành công phương thức sản xuất XHCN ở nước ta làm cho nước ta trở thành một nước XHCN có kinh tế công-nông nghiệp hiện đạI , văn hoá và khoa học-kỹ thuật tiên tiến:có nền vững mạnh;có đời sống văn minh và hạnh phúc. Kết luận Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.Đây là qui luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội , vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất.Đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động trở lạI đối với lực lượng sản xuất. Xu huớng của nền sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển , sự biến đổi phát triển của lực lượng sản xuất.Trước hết là công cụ lao động ,công cọ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có , đòi khách quan phảI xoá bỏ QHSX cũ băng QHSX mới. Lịch sử phát triển của xã hội loàI người là lịch sử thay đổi các phương thức sản xuất , sự thay đổi đó bắt đầu từ sự thay đổi LLSX .Xã họi loàI người trảI qua 5 phương thức sản xuất :Cộng sản nguyên thuỷ , chiếm hữu nô kệ , phong kiến , TBCN , XHCN. Lực lượng sản xuất là nội dung , là quá trình sản xuất ;quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất .Hình._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0187.doc
Tài liệu liên quan