Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: ... Ebook Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

doc199 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4588 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế phát triển ngày càng sâu rộng, trong đó các hoạt động liên kết kinh tế giữa các quốc gia, các khu vực, các khối tạo thành chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu ngày càng lớn. Trong quá trình tham gia vào phân công lao động quốc tế, để tận dụng được lợi thế và giảm thiểu khó khăn, tránh tụt hậu, các quốc gia cần phải tập trung vào những khâu, những chuỗi có giá trị gia tăng cao và mang tính phổ biến. Điều đó chỉ có thể có được khi có nguồn nhân lực chất lượng cao và tương ứng với nó là thị trường sức lao động chất lượng cao với đầy đủ các yếu tố cấu thành của nó. Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế với việc hình thành nhiều tổ chức hợp tác song phương, đa phương... Trong đó Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) mà Việt Nam là thành viên chính thức từ đầu năm 2007 đã thúc đẩy quá trình di chuyển lao động quốc tế phát triển mạnh, trong đó có nhân lực trình độ, chất lượng cao từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển để chiếm giữ những vị trí quan trọng then chốt về khoa học - công nghệ, quản lý, kinh doanh, dịch vụ. Đồng thời cũng làm tham gia tăng hiện tượng "chảy máu chất xám" từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Trong quá trình giao lưu ấy, các nước đang phát triển cần phải đẩy mạnh phát triển nhân lực, phát triển thị trường sức lao động chất lượng cao và hạn chế "chảy máu chất xám" để có điều kiện tiếp cận khoa học và kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại, tiếp cận chuyển giao công nghệ để nắm bắt tiến tới làm chủ quá trình sản xuất tổ chức quản lý và công nghệ, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi ngay tại thị trường trong nước. Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, một số nước phát triển đang từng bước phát triển kinh tế tri thức. Thế giới đang chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh tri thức, tạo ra nhiều việc làm kể cả trực tiếp và gián tiếp trong nhiều ngành công nghệ cao. Từ đó đặt ra nhu cầu sức lao động chất lượng cao ngày càng lớn và kéo theo nhiều việc làm khác. Trong những ngành công nghệ cao, kiến thức trở nên lạc hậu nhanh chóng. Đồng thời, các ngành nghề cũng biến đổi liên tục, nhiều ngành cũ mất đi, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, yêu cầu kỹ năng tổng hợp và thay cho kỹ năng hẹp... Từ đó đòi hỏi trình độ và kỹ năng của người lao động không ngừng nâng lên và thay đổi cho phù hợp bắt kịp với cái mới của văn minh tri thức đem lại. Muốn có được tốc độ phát triển nhanh, vượt bậc phải tạo ra năng suất lao động cao, trong đó vai trò của chất xám, trí tuệ chiếm tỷ trọng lớn trong cấu thành sản phẩm. Điều đó chỉ có được khi có nguồn nhân lực chất lượng cao, có thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm, kinh nghiệm của Mỹ về phát triển thị trường sức lao động có trình độ cao và đặc biệt kinh nghiệm của các nước thành công trong công nghiệp hoá rút ngắn: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore... chỉ có cách quan trọng nhất là dựa vào tri thức, vào tiến bộ khoa học - công nghệ, tức là dựa vào nguồn nhân lực trí tuệ và chất lượng cao hoàn thiện và phát triển, đảm bảo cân bằng cung - cầu hàng hoá sức lao động chất lượng cao cho nền kinh tế. Việt Nam sau 20 năm đổi mới với những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Thời kỳ 2001 - 2005 của nhiệm kỳ Đại hội IX, GDP tăng bình quân gần 7,5%. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện. Tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế tăng đáng kể. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các thành phần kinh tế đều phát triển, hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước phát triển mới rất quan trọng, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010 và tầm nhìn 2020 đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 8%/năm. Đến năm 2010, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển với mức GDP bình quân đầu người khoảng hơn 1.100 USD. Chính phủ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng tiến bộ với tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp chiếm trên 90% GDP. Đến năm 2020, phấn đấu Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với GDP bình quân đầu người khoảng 2.500 USD. Nghị quyết Đại hội IX (2001 - 2005) của Đảng đã chỉ rõ: "Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường... phát triển thị trường sức lao động, người lao động tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế... Phát triển các loại thị trường dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí tuệ, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn kinh doanh". Từ đó đến nay, mặc dù hoạt động thị trường sức lao động dưới nhiều hình thức và đã phần nào giải quyết quan hệ cung - cầu hàng hoá sức lao động cho các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống người lao động. Nhưng vấn đề bức thiêt đã và đang đặt ra hiện nay trước yêu cầu phát triển nhanh của nền kinh tế. Với yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Ở nước ta hiện nay và dự báo đến 2020, trên phạm vi cả nước sẽ xây dựng và phát triển nhanh các khu công nghệ cao, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế cùng với đẩy nhanh tốc đọ phát triển các ngành công nghiệp cơ bản (công nghiệp điện, cơ khí chế tạo, công nghệ tự động hoá, vật liệu mới, hoá chất, dầu khí, luyện kim, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin...). và các ngành dịch vụ cơ bản với chất lượng cao để cạnh tranh thắng lợi với các công ty nước ngoài (vận tải, thông tin liên lạc, tài chính, ngân hàng, tín dụng, du lịch, thương mại, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ). Đồng thời, sẽ tiếp thu và ứng dụng quy trình công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại với hàm lượng khoa học - công nghệ cao, nhiều lĩnh vực ở mức trung bình, tiên tiến và hiện đại của thế giới. Trước yêu cầu bức thiết đó đòi hỏi nhanh chóng phải có được đội ngũ nhân lực chất lượng cao, có tri thức và kỹ năng cao... Nghị quyết Đại hội X đã chỉ rõ: "Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động... Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới. Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển". Để đạt được điều đó nước ta cần đổi mới toàn diện, sâu sắc đường lối, chính sách phát triển nhân lực mà trong đó phát triển thị trường sức lao động chất lượng cao là vấn đề cấp thiết đặt ra. Vì vậy, vấn đề: Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được chọn làm chủ đề nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 2.1. Về thị trường sức lao động nói chung Thị trường sức lao động là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng của các ngành khoa học kinh tế v.v.. Vì vậy, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu vấn đề này với những nội dung chủ yếu bàn về hàng hoá sức lao động, làm rõ thêm thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng của sức lao động trong điều kiện toàn cầu hoá. Điều kiện sức lao động trở thành hàng hoá trong điều kiện ngày nay ở các nước tư bản và ở Việt Nam. Bàn về trình độ người lao động, về các yếu tố ảnh hưởng đến cung - cầu sức lao động. Nhiều đề tài tập trung vào đánh giá và phân tích những bất cập trong đào tạo hiện nay như nhiều trường đại học, trong khoa quá chú ý đào tạo lý thuyết mà ít quan tâm đến đào tạo kỹ năng thực hành. Đồng thời, cũng chỉ ra những mất cân đối trong ngành nghề đào tạo, thời gian qua quá tập trung vào các ngành dịch vụ, kế toán, quản trị kinh doanh, thương mại... trong khi đào tạo kỹ thuật cơ bản ít... Một số đề tài đi sâu vào những những mất cân đối về bậc đào tạo. Chỉ ra mất cân đối lớn về quy mô đào tạo đại học quá nhiều trong khi đào tạo nghề ít, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục đến nay bước đầu có kết quả. Một số đề tài tập trung phân tích sử dụng lao động có nhiều bất cập về cơ chế, chính sách, về tiền lương, bảo hiểm, nhà ở, dịch vụ công cộng. Một số đề tài tập trung phân tích tốc độ đô thị hoá và phát triển các khu công nghiệp gây sức ép về cung lao động giản đơn, trình độ thấp gây mất cân đối cung - cầu thị trường sức lao động trong cả nước, ở một số vùng miền và một số tỉnh, thành phố như: - Tsunesaburo Makiguchi, Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo, Nxb Trẻ. Phân tích mô hình giáo dục Nhật Bản, so sánh mô hình giáo dục một số nước phương Tây: Anh, Pháp. Từ đó phân tích khả năng cung cấp lao động cho yêu cầu phát triển các ngành nghề kinh tế trong nước và di chuyển lao động giữa các nước phát triển. - Đỗ Minh Cương (1997), Tác động xã hội của cải cách kinh tế: việc làm và thị trường lao động, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 224, tháng1, tr.25. Bàn về tác động cải cách kinh tế Việt Nam đến việc làm và mất cân đối thị trường lao động. Những số liệu thống kê cho thấy mất cân đối cung - cầu lao động ở nông thôn - thành thị, ngành nông nghiệp và các ngành công nghiệp, dịch vụ... đề xuất giải pháp khắc phục trước mắt và định hướng 2010. - Đăng Đại (1998), Thiếu - thừa lao động và những mối lo, báo Tuổi trẻ. Phân tích những mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường lao động. Trong khi thị trường lao động Việt Nam đang hình thành còn sơ khai manh mún, rất nhiều bất cập. - Andrew Streer and Homi Kharas (Ngân hàng Thế giới) các trụ cột của sự phát triển Việt Nam tiến vào thế kỷ 21 đề cập đến chất lượng đào tạo và dạy nghề của Việt Nam và chất lượng dịch vụ giáo dục. Chỉ ra sự định hướng của Nhà nước là chủ yếu, quản lý manh mún, được nhiều tài trợ nước ngoài giúp đỡ song không có sự phối hợp với nhau và không đáp ứng một cách hệ thống nhu cầu thị trường lao động. Đồng thời, đề xuất giải pháp hiện đại hoá ngành giáo dục phổ thông, phát triển đào tạo nghề cả công và tư giải quyết cung - cầu lao động trong quá trình phát triển. - Nguyễn Thị Lan Hương, Thị trường lao động Việt Nam, định hướng và phát triển, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả trình bày các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, sự hình thành và phát triển thị trường lao động, các giải pháp định hướng lao động của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; - Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân, Một số vấn đề phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2003. Các tác giả đã làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động của thị trường lao động Việt Nam, những thuận lợi, khó khăn, mặt được và chưa được trong quá trình hình thành và phát triển thị trường lao động; các giải pháp cần thiết để phát triển loại thị trường đặc biệt này trong thời gian tới; - Nguyễn Hữu Dũng, Thị trường sức lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên ở nước ta, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2004. Tổng thuận những nội dung cơ bản về cung - cầu lao động ở nước ta. Những mất cân đối lớn về ngành nghề, trình độ và giải pháp khắc phục. - Phạm Đức Chính, Thị trường lao động, cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Tác giả phân tích những cơ sở lý luận của thị trường lao động, về nguồn lao động, những yếu tố cấu thành và điều tiết thị trường lao động, mối quan hệ cung - cầu sức lao động và tiền lương; sự vận dụng linh hoạt lý luận về thị trường lao động vào điều kiện Việt Nam. - Đỗ Thị Xuân Phương, Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm (qua thực tế ở Hà Nội), Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000. Luận giải thực tiễn trong phạm vi thành phố Hà Nội. - Bùi Sĩ Lợi, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn và các giải pháp của tỉnh Thanh Hoá. - Vương Thanh Tú, thị trường lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Nghiên cứu trên góc độ lý luận thời kỳ quá độ. - Trần Văn Nga, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá qua thực tiễn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; Sách tham khảo "Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và giải pháp" của tiến sĩ Nguyễn Thị Thơm, Khoa Kinh tế phát triển chủ biên - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, đã tập hợp được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, nhiều nhà quản lý về thị trường sức lao động thời kỳ đổi mới đã khái quát các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động, từ đó đưa ra các giải pháp phát triển. Năm 2004, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng đề án: "Phát triển thị trường lao động ở Việt Nam đến năm 2010" đã thống nhất khái niệm thị trường lao động theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp, khái quát quá trình hình thành và phát triển của thị trường sức lao động ở Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp có tính khả thi để phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam. Tháng 4 năm 2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng "Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020", tài liệu này nêu lên vị trí, vai trò của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực trình độ cao, khái quát thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam và đưa ra các giải pháp phát triển đến năm 2020. Thị trường sức lao động ở Việt Nam còn được thể hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước và đã từng bước được thể chế hoá bằng hệ thống các văn bản pháp luật, trước hết là trong Bộ luật lao động, pháp lệnh, nghị định, thông tư quy định về vịêc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, về đình công, giải quyết tranh chấp lao động... tạo hành lang pháp lý cho thị trường sức lao động theo quy luật khách quan. 2.2. Về thị trường sức lao động trình độ cao Gần đây sức ép về cầu hàng hoá sức lao động chất lượng cao ngày càng lớn, trong khi nguồn cung hạn hẹp gây mất cân đối nghiêm trọng hàng hoá sức lao động chất lượng cao. Trong khi sức lao động chất lượng thấp thì tình trạng dư thừa ở mức báo động gây sức ép lớn cho nền kinh tế. Đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này theo hướng phân tích, đánh giá, luận giải về những bằng cấp, bậc thợ, nhóm ngành, cách phân loại, tiêu chí xếp loại sức lao động trình độ cao. Mất cân đối giữa đào tạo lý thuyết với thực hành khắc phục đào tạo chay, người lao động có bằng cấp, học vị nhưng không làm được việc tương ứng. Một số công trình phân tích sử dụng lao động chất lượng cao, chỉ ra những hạn chế về thu nhập, đội ngũ và cơ chế chính sách chưa phù hợp. Có đề tài đề cập đặc điểm, xu hướng di chuyển lao động và những khó khăn khi nhập khẩu lao động chất lượng cao hiện nay ở nước ta. Nội dung được đề cập nhiều nhất trong các công trình này hướng vào đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, chất lượng cao. Những đặc điểm, xu hướng và giải pháp khắc phục mất cân đối cung lao động chất lượng cao hiện nay ở nước ta cả ở góc độ vi mô (doanh nghiệp, ngành) và vĩ mô (Nhà nước)... Cụ thể như: - Landanov and Pronicov, Tuyển chọn và quản lý công nhân viên chức ở Nhật Bản, Nxb Sự thật - Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội, 1991. Sách tham khảo tập trung vào quy trình bắt buộc khi tuyển chọn lao động với công chức Nhật Bản. Đồng thời, nêu những yêu cầu cơ bản buộc khi quản lý công nhân viên chức, phân tích những ưu điểm của quy trình, đồng thời nêu những hạn chế đã và đang bộc lộ của quy trình trên. Đổi mới, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực trình độ cao đẳng, đại học nhằm phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế - Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1996, đã bước đầu khái quát trong thực trạng của việc đào tạo cao đẳng, đại học ở Việt Nam, tình hình việc làm sau khi ra trường và các giải pháp đổi mới giáo dục cao đẳng, đại học. Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho kỷ nguyên kinh tế tri thức của Phạm Sỹ Tiến đăng trên Tạp chí Khoa học - Tổ quốc, số 18/151 năm 2000 đã đề cập đến thực trạng sức lao động trình độ cao ở nước ta và các giải pháp phát triển. - Christian Batal, Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Sách tham khảo. Nội dung chủ yếu phân tích về năng lực làm việc cán bộ, công chức, khối doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng khung năng lực tiêu chuẩn trên cơ sở đó phân loại năng lực. Đồng thời, mô tả công việc chuyên môn của một số công việc chuyên trách yêu cầu nhân lực chất lượng cao như: Phụ trách đào tạo trong một cơ quan nhà nước, công việc của một thủ trưởng đơn vị trong doanh nghiệp nhà nước. - Bushmarrin, Trí tụê hoá lao động ở các nước có nền kinh tế thị trường. Thông tin khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, 2002. Trọng tâm của công trình nghiên cứu là luận điểm về vai trò quyết định của cá nhân trong hoạt động sống của công ty. Các công ty hiện nay đều mong muốn nói đến chính sách cán bộ có tính chất chiến lược, nhằm đào tạo, tiếp nhận và cung cấp lực lượng lao động chất lượng cao, có khả năng sáng tạo đến tất cả các khâu sản xuất. - Barry Eihngvin, Ansgarr Rumler, Nước Đức: Chính sách trên thị trường lao động... Trung tâm Thông tin khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, 2002. Bàn về quan niệm về đào tạo chuyên môn, nâng cao trình độ chuyên môn và đào tạo lại những công nhân đáp ứng yêu cầu càng cao của thị trường. Đặc biệt phân tích vai trò dịch vụ của các cơ quan dịch vụ việc làm trong lĩnh vực hướng nghiệp, lĩnh vực dạy nghề và đảm bảo phương pháp khoa học cho việc dạy nghề, quản lý hệ thống dạy nghề hiện đại... Tri thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 đã khái quát lãnh đạo hình thành tri thức giáo dục Việt Nam và nêu lên thực trạng, các giải pháp để phát triển giáo dục đại học, cao đẳng trong thời gian tới. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của tác giả Nguyễn Hữu Dũng đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8-2002, ở đây, tác giả đã nêu lên khái niệm sức lao động chất lượng cao, khái quát tình hình đào tạo nguồn nhân lực và các giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực trình độ cao ở nước ta. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức của Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005 đã đề cập thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao chuẩn bị điều kiện cho nền kinh tế tri thức và đưa ra các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo và phát triển lao động chuyên môn kỹ thuật - Tiền đề quan trọng để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực của Nguyễn Tiệp đăng trên Tạp chí Kinh tế số 333 năm 2006 nêu lên sự cần thiết phải phát triển lao động chuyên môn kỹ thuật, một yêu cầu sống còn đối với nước ta, đặc biệt là trong xu thế hội nhập. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam hiện nay của thạc sĩ Vũ Thị Phương đăng trên Tạp chí Lao động xã hội, số 303 năm 2007 đã nêu lên thực trạng việc thiếu lao động trình độ cao ở nước ta và yêu cầu cấp thiết phải đào tạo nguồn nhân lực này. Thị trường sức lao động ở Việt Nam mới hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu nên còn nhiều hạn chế. Các công trình nghiên cứu và bài viết nói trên mới chỉ đề cập đến từng mặt, từng góc cạnh của thị trường lao động như cung cầu sức lao động, số lượng, chất lượng sức lao động, chính sách sử dụng lao động, sự hình thành và phát triển của thị trường sức lao động ở Việt Nam. Các nghiên cứu về thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao mới chỉ được đề cập ở mức độ phác thảo, ý kiến đề xuất. Do giới hạn lịch sử một số giải pháp đề xuất ý nghĩa thực tiễn chưa cao. Đến nay ở nước ta chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao. Do vậy, vấn đề "Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn" là cách tiếp cận mới không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục tiêu của đề tài - Luận giải rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hàng hoá sức lao động chất lượng cao và thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao. Đặc điểm, vai trò, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng của thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vừa phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, vừa phù hợp với yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. - Từ cơ sở lý luận làm căn cứ để đánh giá khách quan khoa học về thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao ở nước ta hiện nay (chủ yếu từ 2000 đến nay), khái quát thành tựu, kết quả đạt được. Chỉ ra những yếu kém, tồn tại và nguyên nhân của tình trạng trên. - Khái quát những quan điểm, định hướng cơ bản của Đảng, Nhà nước về phát triển thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đưa ra những dự báo về thị trường này đến năm 2020. Đồng thời đề xuất những giải pháp cụ thể, có tính khả thi để phát triển thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao ở nước ta, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Giới hạn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Giới hạn nghiên cứu Do giới hạn về thời gian và kinh phí nên đề tài chỉ nghiên cứu thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao ở Việt Nam (số liệu từ năm 2000 đến nay và dự báo đến 2020). 4.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để phân tích, đánh giá và giải quyết các vấn đề. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp thống kê, tổng hợp, phương pháp chuyên gia, tổng kết thực tiễn và một số sơ đồ, đồ thị minh hoạ các số liệu cụ thể. Đồng thời, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học khác đã công bố. 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, đề tài gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG CHẤT LƯỢNG CAO VÀ THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG CHẤT LƯỢNG CAO 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG 1.1.1. Sức lao động và hàng hoá sức lao động 1.1.1.1. Khái niệm Những yếu tố giản đơn của quá trình lao động là: sự hoạt động có mục đích, hay bản thân sự lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Mỗi yếu tố đó có vai trò nhất định trong quá trình sản xuất, trong đó sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất gọi là quá trình lao động sản xuất, thường gọi tắt là lao động. Về sức lao động hay năng lực lao động được Mác trình bày: "Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.251. . Như vậy, sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong người lao động, còn lao động là quá trình tiêu hao sức lao động trong hiện thực. Mặc dù quan niệm của Mác đề cập cách đây 141 năm (từ 1867 khi Quyển I Bộ Tư bản được xuất bản lần đầu). Và cho đến nay, dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và nền văn minh tri thức, có rất nhiều quan niệm về sức lao động được luận giải dưới các dạng thức khác nhau, có thể dẫn ra: Theo GS, TS. Trịnh Ân Phú, Viện sĩ Viện Khoa học xã hội Trung Quốc quan niệm: "Sức lao động là để chỉ năng lực lao động của con người, là sự tổng hoà thể lực và trí lực của con người. Sức lao động tồn tại trong cơ thể con người, con người khoẻ mạnh thì đến một độ tuổi nhất định sẽ có sức lao động. Sức lao động của con người là điều kiện vĩnh hằng của sản xuất xã hội" Trịnh Ân Phú, Kinh tế chính trị học hiện đại, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2007, tr.107. . Các học giả của kinh tế học phương Tây thì quan niệm sức lao động có hình thái đặc thù thể hiện ở trên người lao động. Coi đó là tư bản nhân lực, nó được hình thành thông qua đầu tư và do tri thức, kỹ năng và thể lực của người lao động cấu thành nên. Hay cũng chính là tư bản phi vật chất được thể hiện ở trên người lao động, đồng thời biểu thị ra bằng số lượng và chất lượng. Nếu xét về mặt chất lượng của sức lao động biểu hiện ở tố chất hoặc năng lực làm việc, trình độ kỹ thuật, mức độ thành thục của mỗi người lao động. Và chất lượng lao động của mỗi người lao động không giống nhau. Thậm chí, cùng một người lao động, trước và sau khi tiếp thu tri thức, qua đào tạo hay huấn luyện về một công việc nào đó thì năng lực lao động cũng có sự khác biệt... Như vậy, để biểu đạt được chuẩn xác mức độ của sức lao động phải liên hệ với tình hình đào tạo, huấn luyện và khả năng tiếp thu của người lao động. Từ những quan niệm trên cho thấy, tiếp cận và luận giải sức lao động ở dạng này hay dạng khác. Coi sức lao động là yếu tố tĩnh, đã xác định hay yếu tố động đang bổ sung, hoàn thiện và phát triển... Nhưng khi đã coi sức lao động là yếu tố của quá trình sản xuất thì những quan niệm như vậy vẫn xoay quanh vấn đề cốt lõi mà C.Mác đã trình bày: sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong một cơ thể, một con người, đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy, bất kể là kỹ năng lao động của người lao động, hay là năng lực sáng tạo của nhà quản lý thì đều là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố sản xuất phải được phân bổ theo cơ chế thị trường. Sức lao động với tư cách là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất cũng được phân bổ bởi thị trường, vì vậy, sức lao động là hàng hoá. 1.1.1.2. Hàng hoá sức lao động Khi trình bày về điều kiện sức lao động trở thành hàng hoá, C.Mác đã chỉ ra: "Thiên nhiên không sinh ra một bên là những người chủ tiền, và chủ hàng hoá, còn bên kia là những người chỉ làm chủ độc có sức lao động của mình. Quan hệ ấy không phải là một quan hệ lịch sử - tự nhiên mà cũng không phải là một quan hệ xã hội chung cho tất cả mọi thời kỳ lịch sử. Rõ ràng bản thân nó là kết quả của sự phát triển lịch sử trước đó, là sản vật của nhiều cuộc cách mạng kinh tế, là sự diệt vong của hàng loạt những hình thái sản xuất xã hội cũ hơn" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.254 . Như vậy, lịch sử ngay từ đầu sức lao động chưa trở thành hàng hoá, sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có những điều kiện nhất định: "Muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức lao động với tư cách là hàng hoá thì một số những điều kiện khác nhau phải được thực hiện. Sức lao động chỉ có thể xuất hiện trong thị trường với tư cách là hàng hoá khi nó được đưa ra thị trường và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra thị trường, hay ngay được chính người chủ của nó, tức bản thân người có sức lao động đem bán. Như vậy, trong bất kỳ xã hội nào sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của quá trình sản xuất nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có các điều kiện sau đây: Một là, người có sức lao động được tự do về thân thể, tự do chi phối năng lực lao động của mình kể cả đem bán và phải được pháp luật bảo vệ. C.Mác đã chỉ rõ: "Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể bán được nó với tư cách là hàng hoá thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó, người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.251. . Người chủ sức lao động và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau và vì thế cả hai đều là những người bình đẳng về mặt pháp lý. Điều đáng lưu ý ở chỗ người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một khoảng thời gian nhất định, khác với người nô lệ bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần nghĩa là tự bán cả bản thân anh ta. Và chỉ bán quyền sử dụng sức lao động mà không bán quyền sở hữu sức lao động ấy, nghĩa là, anh ta bao giờ cũng để cho người mua sử dụng, hay tiêu dùng sức lao động của mình một cách nhất thời. Vì với tư cách là một con người, anh ta phải thường xuyên duy trì mối quan hệ đối với sức lao động của mình như là đối với vật sở hữu của mình. Hai là, người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán, với tư cách là hàng hoá chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của anh ta thôi. Và điều này được Mác phân tích kỹ thêm: "Để cho một người nào đó có khả năng bán những hàng hoá khác với sức lao động của mình, tất nhiên anh ta phải có tư liệu sản xuất như nguyên liệu, công cụ lao động. Anh ta không thể làm giày ống mà không có da thuộc. Ngoài ra anh ta cần có tư liệu sinh hoạt nữa. Không một ai, ngay cả một nhạc sĩ của tương lai cũng không thể sống bằng những sản phẩm của tương lai, không thể sống bằng những giá trị sử dụng chưa sản xuất xong" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.253. . Như vậy, để sức lao động trở thành hàng hoá phải thoả mãn hai điều kiện trên. Về điều kiện thứ hai để sức lao động trở thành hàng hoá. Trước đây, khi giải thích về điều này người ta hay viện dẫn từ chỗ người lao động "trần như nhộng, hoàn toàn không có những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình". Trên thực tế, đã không ít người mơ hồ, cố tình viện dẫn theo cách lập luận ấy và cho rằng Mác nói như vậy là không đúng, và càng không đúng trong xã hội tư bản hiện đại ngày nay. Bởi họ cho rằng công nhân ngày nay có cổ phần trong công ty nhưng vẫn bán sức lao động. Về vấn đề này, theo chúng tôi phải xuất phát từ cách hiểu tổng quát và phải dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể của từ ấy để hiểu cho đúng nghĩa. Thực chất, người lao động vẫn có tư liệu sản xuất, vẫn có cổ phần trong công ty... nhưng tư liệu sản xuất hay số cổ phiếu ít ỏi của họ chưa đủ đến mức cần thiết để kết hợp với sức lao động của mình... Và vì vậy, anh ta đi làm thuê thì kết quả tốt hơn. Từ cách hiểu như vậy là hoàn toàn khoa học và càng dễ dàng hơn khi chúng ta giải thích được vì sao trong xã hội tư bản hiện đại, công nhân có cổ phần, cổ phiếu nhưng vẫn bán sức lao động. Bởi lẽ, thông qua chế độ sở hữu cổ phần tư bản chủ nghĩa cho phép giới chủ tư bản lớn vừa huy động được cả những nguồn vốn nhỏ trong dân c._.ư để sử dụng, vừa giữ được quyền lực khống chế qua việc nắm giữ cổ phần phủ quyết, đồng thời che đạy một cách tinh vi bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa dưới bức màn dân chủ giả hiệu về kinh tế với cái gọi là "chủ nghĩa tư bản nhân dân". Theo số liệu thống kê năm 2002 của Bản tin Thời sự quốc tế "Thụy Điển 29% dân cư có cổ phiếu; Pháp 6 triệu người là cổ đông; Anh 8 triệu; Mỹ 35 - 40 triệu... Tuy nhiên, sở hữu của các nhà tư bản vẫn là chủ yếu. Theo số liệu thống kê quốc tế, toàn bộ cổ phần mà người lao động ở Mỹ có được chỉ chiếm 1% toàn bộ giá trị cổ phiếu. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, vấn đề sức lao động có phải là hàng hoá hay không đến nay đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc tồn tại sản xuất và trao đổi hàng hoá là tất yếu thì cần phải có thị trường đứng ra để phân bổ các nguồn lực, các yếu tố sản xuất, trong đó sức lao động lại là yếu tố sản xuất chủ yếu. Do đó, sức lao động là hàng hoá. Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, quan điểm của GS, TS. Trịnh Ân Phú là phù hợp ở chỗ: sức lao động trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội có hai tư cách song song tồn tại: Thứ nhất, với tư cách là người sở hữu chung trong chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là chủ nhân của doanh nghiệp công hữu và chủ nhân của xã hội, và được thể hiện thông qua việc hưởng lợi từ các đảm bảo xã hội và sự nghiệp công cộng. Thứ hai, do tài sản công hữu không thể lượng hoá đến từng cá nhân, người lao động chỉ có thể nảy sinh quan hệ mua bán sức lao động với doanh nghiệp thông qua hình thức hợp đồng lao động trong một thời hạn nhất định, người lao động đem quyền chi phối sức lao động của mình chuyển nhượng cho doanh nghiệp. Điều này chứng tỏ, ở một mức độ tương đối lớn thì sức lao động có thuộc tính hàng hoá. Điều này hoàn toàn có lợi cho công cuộc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vì thừa nhận tính hàng hoá của sức lao động có lợi cho việc phân bổ hợp lý nguồn nhân lực, phát triển thị trường sức lao động. Các quan hệ cung - cầu sức lao động từng bước được xác lập và giải quyết cân đối, hình thành các trung tâm trao đổi nhân tài, hoàn thiện các chế độ hợp đồng, chế độ sử dụng lao động... góp phần nâng cao nguồn lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. 1.1.2. Về giá trị, giá trị sử dụng và giá cả của hàng hoá sức lao động 1.1.2.1. Về giá trị của hàng hoá sức lao động Giá trị của sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động ấy quyết định. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như là một năng lực của con người sống. Do đó, việc sản xuất ra sức lao động giả định sự tồn tại của con người đó. Một khi đã có sự tồn tại của con người đó rồi thì việc sản xuất ra sức lao động bao hàm việc tái sản xuất ra chính con người đó. Như vậy, giá trị của hàng hoá sức lao động hay thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động cần thiết sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy. Nghĩa là, giá trị của sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ấy. Nhưng sức lao động chỉ được thực hiện bằng cách biểu hiện ra bên ngoài, nó chỉ được thực hiện trong lao động. Trong quá trình thực hiện nó, trong lao động phải hao phí một lượng nhất định về thần kinh và cơ bắp của con người, sự hao phí đó phải được bù lại, hao phí càng nhiều thì việc bù đắp lại càng lớn. Về cấu thành giá trị của hàng hoá sức lao động gồm ba bộ phận: Thứ nhất, giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ấy một cách bình thường. Thứ hai, giá trị tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho những người thay thế, tức cho gia đình và con cái của họ. Thứ ba, chi phí đào tạo, để người lao động có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó. Cần lưu ý rằng, sức lao động là hàng hoá đặc biệt, do đó giá trị của sức lao động cũng có tính chất đặc biệt. Ở chỗ, nó mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Tinh thần, nghĩa là nhu cầu tinh thần của người lao động, nhu cầu tinh thần ngày càng tăng hơn so với nhu cầu vật chất và giới hạn của nhu cầu tinh thần như vô hạn. Lịch sử, nghĩa là quy mô của những nhu cầu thiết yếu, cũng như những phương thức thoả mãn những nhu cầu đó, bản thân chúng cũng là một sản phẩm của lịch sử và vì thế thuộc vào trình độ văn minh của mỗi nước, vào những thói quen và những nhu cầu sinh hoạt. Đồng thời, với mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ nhất định, thì tính trung bình, quy mô của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định. Ngày nay, giá trị của hàng hoá sức lao động vận động theo hai xu hướng vừa tăng lên, vừa giảm xuống. Tăng lên ở chỗ, phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, nhiều ngành nghề sản xuất mới ra đời, chủng loại các tư liệu sinh hoạt đa dạng, cấu thành tư liệu sinh hoạt của người lao động phong phú thêm. Đồng thời, chi phí đào tạo tăng để người lao động có khả năng vận hành thiết bị, công nghệ hiện đại đang là xu hướng tăng giá trị của hàng hoá sức lao động. Giảm xuống ở chỗ, chính tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại làm cho năng suất lao động xã hội tăng, giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ có xu hướng giảm xuống cấu thành giá trị hàng hoá sức lao động giảm xuống. Tất cả những phân tích trên đây cho thấy, trong phát triển kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hoá, thì các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao động phải được tính toán đầy đủ chi tiết và xem xét trong điều kiện lịch sử cụ thể. Nhưng cần lưu ý rằng, năng lực lao động chưa phải là lao động, cũng như năng lực tiêu hoá thức ăn tuyệt nhiên chưa phải là tiêu hoá thức ăn. Giá trị của năng lực lao động ấy chính là thể hiện trong giá trị của những tư liệu sinh hoạt ấy. Nếu không bán được năng lực lao động thì nó không có cách gì cho người lao động cả. Năng lực lao động sẽ không là cái gì hết nếu không bán được nó. 1.1.2.2. Về giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là đáp ứng nhu cầu của người mua, cũng giống như phân tích giá trị của sức lao động vì là hàng hoá đặc biệt, giá trị sử dụng của sức lao động cũng có tính chất đặc biệt. Trong sản xuất thông qua quá trình lao động, sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất và biến những tư liệu sản xuất này thành sản phẩm có giá trị cao hơn giá trị ứng trước. Bởi vì, cái có ý nghĩa quyết định ở giá trị sử dụng của sức lao động là cái đặc tính của nó, là cái nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Ở đây, có sự thống nhất giữa quá trình tạo ra giá trị với quá trình làm tăng giá trị. Về thực chất, quá trình làm tăng giá trị cũng chính là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá một điểm nào đó mà thôi, điểm đó ngang bằng với giá trị sức lao động. Nhưng giá trị sử dụng hay tính có ích của sức lao động chỉ thực sự được thực hiện tức chỉ tạo ra được một giá trị lớn hơn giá trị bản thân của bản thân nó khi sức lao động phải hoạt động trong những điều kiện bình thường. Về cơ bản là các điều kiện sau: - Bản thân sức lao động phải là một sức lao động bình thường. Nghĩa là, trong ngành chuyên môn mà sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ trung bình về mặt tài nghệ, về mặt thành thục và tốc độ. Tức muốn nâng cao giá trị sử dụng của sức lao động phải trải qua một thời kỳ đào tạo, huấn luyện, rèn luyện chuyên môn nhất định và cả kinh nghiệm tích luỹ được nữa. - Phải đảm bảo tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của sản xuất: tư liệu lao động, nguyên liệu, vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường và các yếu tố này phải được sử dụng một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm của từng loại sản phẩm và yêu cầu của thị trường. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, năng suất lao động, giáo dục đào tạo và nhiều yếu tố khác, trong đó giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định đến chất lượng sức lao động của mọi người. Trình độ giáo dục càng cao thì giá trị sử dụng của sức lao động càng lớn. 1.1.2.3. Giá cả của hàng hoá sức lao động Giá trị của hàng hoá sức lao động được biểu hiện ra bên ngoài là giá cả của nó hay tiền công. Như vậy, về bản chất tiền công là giá cả của hàng hoá sức lao động. Mối quan hệ giữa giá trị và giá cả sức lao động cũng chịu tác động của quy luật cung cầu. Ở đây, chưa bàn đến quan hệ ấy trên thị trường mà bàn thêm về bản chất và các hình thức của giá cả sức lao động. Trong xã hội, tiền công của người lao động thể hiện ra thành giá cả của lao động, thành một số lượng tiền nhất định trả cho một số lượng lao động nhất định. Cái dễ đưa người ta đến sự lầm tưởng tiền công là giá cả của lao động vì: thực chất, cái giá trị sử dụng của sức lao động mà người công nhân cung cấp cho nhà tư bản thật ra không phải là sức lao động mà là sự hoạt động của sức lao động ấy, là một lao động hữu ích nhất định. Thêm nữa, sự vận động hiện thực của tiền công cho ta thấy những hoạt động hình như chứng minh rằng cái được trả công không phải là giá trị của sức lao động mà là giá trị của sự hoạt động của sức lao động, tức là của bản thân lao động. Như vậy, bản chất của tiền công là giá cả của hàng hoá sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bên ngoài là giá cả của lao động. Tiền công có thể xem xét theo hai góc độ: tính theo thời gian và theo sản phẩm; hoặc tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó nhiều hay ít phụ thuộc vào thời gian lao động. Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ thuộc vào số sản phẩm làm ra hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định. Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hoá sức lao động. Đó là số tiền mà người lao động nhận được khi ký hợp đồng lao động (bán sức lao động) của mình. Nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến đổi của quan hệ cung cầu hàng hoá sức lao động trên thị trường. Tiền công thực tế là tiền công được thể hiện bằng số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ tiêu dùng mà người công nhân mua được từ tiền công danh nghĩa của mình. Nghĩa là, phụ thuộc vào giá cả tư liệu sinh hoạt trong từng thời kỳ và vào chỉ số lạm phát. Về xu hướng vận động của tiền công, C.Mác đã chỉ rõ tính quy luật: "Xu thế chung của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình, mà là hạ thấp mức tiền công ấy xuống". Xu hướng tiền công thực tế giảm xuống mặc dù tiền công danh nghĩa tăng lên vì tốc độ tăng của tiền công danh nghĩa không theo kịp tốc độ tăng của giá cả tư liệu sinh hoạt và dịch vụ do lạm phát. Xu hướng giảm tiền công thực tế còn do giá cả hàng hoá sức lao động bị hạ thấp so với giá trị của nó do: hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá buộc phải bán trong mọi điều kiện chứ không thể dự trữ chờ tình hình thị trường thuận lợi như hàng hoá khác, bởi vì người công nhân cần phải sinh sống, tồn tại. Đồng thời, nạn thất nghiệp gia tăng dẫn đến giá cả hàng hoá sức lao động có xu hướng giảm xuống. Nhưng khi nói đến tiền công thực tế có xu hướng giảm thì cũng phải thấy có những nhân tố cản trở sự giảm sút đó, như cuộc đấu tranh của công nhân liên tục, thường xuyên đòi tăng lương, tạo việc làm để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cao hơn - nhu cầu này do cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra. Cũng chính cuộc cách mạng khoa học - công nghệ yêu cầu phải có sức lao động chất lượng cao nên giá trị của hàng hoá sức lao động cũng phải cao hơn. Đồng thời, bản thân các nhà tư bản muốn đảm bảo sự ổn định, tin cậy lẫn nhau trong quan hệ chủ - thợ nên trả công cao hơn. 1.1.3. Thị trường hàng hoá sức lao động 1.1.3.1. Những quan niệm về thị trường hàng hoá sức lao động Thứ nhất, những quan niệm về thị trường hàng hoá sức lao động của các học giả nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Lịch sử phát triển các tư tưởng kinh tế đến nay đang tồn tại rất nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường sức lao động. - Từ thế kỷ XVII, Ađam Smít, nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh cho rằng: Thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động giữa một bên là người mua sức lao động (chủ sử dụng sức lao động) và người bán sức lao động (người lao động). Với quan niệm trên cho thấy, Ađam Smít nhấn mạnh đến đối tượng trao đổi trên thị trường là dịch vụ lao động. - Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO thì: "Thị trường lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công". Quan niệm trên vừa nhấn mạnh mua bán các dịch vụ lao động và căn cứ xác định mức độ có việc làm và tiền công. Quan điểm của các nhà khoa học kinh tế Nga thì cho rằng: "Thị trường lao động được hiểu như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật) đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động" TSKH Phạm Đức Chính, Thị trường lao động. Cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. . Quan niệm trên đây coi thị trường lao động trên cơ sở đánh giá sự vận động của thị trường sức lao động dưới tác động của hệ thống những quan hệ xã hội, thể chế và pháp luật của một xã hội nhất định. Các nhà khoa học Mỹ thì cho rằng, thị trường lao động là "Một cơ chế mà với sự trợ giúp của nó hệ số giữa người lao động và số lượng chỗ làm việc được điều tiết" hay "Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải quyết những lĩnh vực việc làm được gọi là thị trường lao động". Quan niệm trên hướng tới kết quả hay định lượng cụ thể vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Theo tiến sĩ Leo Maglen, chuyên gia tư vấn của Dự án giáo dục kỹ thuật dạy nghề của Tổng cục Dạy nghề do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng: "Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao động) với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng (cầu lao động). Quan niệm trên nhấn mạnh dưới góc độ việc làm, đến quan hệ lao động giữa chủ - thợ và quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường. Ngân hàng Thế giới WB cho rằng: thị trường sức lao động xét về lý thuyết kinh tế được coi là một vị trí mà tại đó cung và cầu về lao động tác động qua lại với nhau. Đồng thời, khi nhấn mạnh bản chất của thị trường sức lao động, WB còn đưa ra khái niệm chi tiết mô tả nội dung và các yếu tố cơ bản cấu thành thị trường sức lao động gồm: - Các chủ thể của thị trường sức lao động là hộ gia đình, cá nhân người lao động (thuộc về phía cung lao động); hãng, công ty, chủ doanh nghiệp (thuộc về phía cầu lao động). - Quy mô gồm: số lượng người lao động làm công, số giờ làm việc (thời gian làm việc). - Giá cả: mức tiền công; tỷ lệ tiền công. - Thể chế: chính phủ, cơ chế điều tiết. Tổng hợp các khái niệm, quan niệm từ các góc độ tiếp cận khác nhau trên đây về thị trường sức lao động đã thống nhất được hàng hoá mua - bán trên thị trường là sức lao động và những thể chế xã hội (bao gồm cả hệ thống pháp luật về lao động) để đảm bảo cho quá trình mua - bán sức lao động diễn ra bình thường. Đồng thời nhấn mạnh đến những yếu tố về cung và cầu sức lao động trên thị trường. Tất cả sự phân tích tổng hợp xoay quanh vấn đề việc làm và thất nghiệp diễn ra trên thị trường lao động của một nước, nhóm nước trong một thời kỳ lịch sử cụ thể nào đó. Những cách tiếp cận trên theo chúng tôi đã bao hàm được những nội dung cơ bản nhất của thị trường sức lao động. Đó là căn cứ để đề xuất tiêu chí và nhìn nhận khách quan về mức độ hình thành, phát triển thị trường sức lao động của nước ta trong một thời kỳ lịch sử cụ thể. Thứ hai, các quan niệm về thị trường sức lao động của các học giả Việt Nam. Ở Việt Nam, từ khi chấp nhận phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sức lao động được coi là hàng hoá, thị trường hàng hoá sức lao động từng bước được hình thành và phát triển. Những nhận thức và quan niệm về thị trường sức lao động cũng đồng thời được nhận thức rõ hơn và dần hoàn thiện. Có thể dẫn ra các quan niệm sau đây: Theo tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Khoa học lao động xã hội thì: Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi theo nguyên tắc thoả thuận về quan hệ lao động (việc làm, tiền công và các điều kiện làm việc khác...) giữa người lao động (phía cung lao động) và người sử dụng lao động (phía cầu lao động) dưới hình thức hợp đồng lao động. Theo chúng tôi, quan niệm về thị trường lao động như vậy là khá rõ, bình đẳng trong quan hệ mua bán và cung - cầu. Tuy nhiên, chưa thể hiện được tính đặc thù của thị trường này vì còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố cơ chế, chính sách và tính lịch sử cụ thể chưa cao. Trong Giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, khi luận giải về thị trường sức lao động nhấn mạnh ba khía cạnh. Một là, thời gian, không gian, địa điểm diễn ra các hoạt động mua bán sức lao động. Hai là, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Ba là, những mối quan hệ kinh tế khác được hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Với quan niệm như vậy, khía cạnh thứ ba đã nêu nhưng chưa phản ánh rõ được yếu tố vai trò nhà nước trong sự hình thành vận động và phát triển của thị trường này. Theo quan niệm từ Viện Quản lý kinh tế Trung ương thì: Thị trường sức lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động và người mua sức lao động thông qua các hình thức thoả thuận về giá cả, tiền công, tiền lương và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một bản hợp đồng bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua các thoả thuận khác. Quan niệm trên đã bám sát quá trình hình thành và phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay. Nhấn mạnh được yêu cầu cơ bản nhất của thị trường sức lao động là cung - cầu và giá cả được xác định cụ thể. Theo TSKH Phạm Đức Chính thì thị trường sức lao động: đó là một cơ chế hoạt động tương hỗ số người sử dụng lao động và người lao động trong một khoảng không gian kinh tế xác định, thể hiện những quan hệ kinh tế pháp lý giữa họ với nhau. Với quan niệm khái quát như vậy đã tổng hợp được tất cả các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động nhưng không gian kinh tế được nêu ở trên sẽ bị giới hạn trong điều kiện thị trường sức lao động được mở rộng ra trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tổng hợp các quan niệm trong nước và quốc tế đã nêu trên, theo chúng tôi có thể hiểu khái niệm thị trường hàng hoá sức lao động như sau: Thị trường hàng hoá sức lao động theo nghĩa hẹp, được giới hạn trong một khu vực không gian nhất định nơi diễn ra các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao động (người sử dụng sức lao động) bằng hình thức hợp đồng thoả thuận về giá cả, tiền công và các điều kiện làm việc khác. Theo nghĩa rộng, thị trường hàng hoá sức lao động là một quá trình trao đổi hàng hoá sức lao động, trong đó người bán sức lao động (cung sức lao động) và người mua sức lao động (cầu sức lao động) bình đẳng với nhau, tác động qua lại với nhau để xác định giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện lao động khác thông qua một hình thức hợp đồng nhất định. Thứ ba, luận giải thuật ngữ "thị trường lao động" và "thị trường hàng hoá sức lao động". Cho đến nay, trong rất nhiều công trình nghiên cứu, các sách giáo khoa và các bài viết được sử dụng các thuật ngữ "thị trường lao động" hoặc "thị trường sức lao động" mà không có sự thống nhất. Vì vậy, khi luận giải về các yếu tố tác động cũng như những giải pháp để phát triển thị trường lao động và thị trường sức lao động không được sát thực, cụ thể. Điểm xuất phát của hai thuật ngữ trên là sức lao động là hàng hoá hay lao động là hàng hoá. Đến nay, về cơ bản vẫn tồn tại hai loại ý kiến khác nhau. Một là, các nhà kinh tế theo lý thuyết của kinh tế thị trường hiện đại thì cho rằng, trên thị trường sức lao động chỉ mua bán dịch vụ lao động, vì thế nghiêng về cách gọi là thị trường lao động như quan niệm của tiến sĩ Leo Maglen của Tổ chức Lao động quốc tế ILO và trong đại Từ điển kinh tế thị trường (xuất bản 1988) v.v.. Ở Việt Nam, những năm đầu của thời kỳ đổi mới, chịu ảnh hưởng của các tư tưởng trên, do đó thuật ngữ "thị trường lao động" đã được dùng rộng rãi trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong Bộ Luật lao động. Hai là, các nhà nghiên cứu lý luận theo lý thuyết kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác thì cho rằng trên thị trường này sức lao động là hàng hoá và thống nhất quan điểm thị trường hàng hoá sức lao động. Cơ sở luận giải cho vấn đề này là dựa vào lý luận của C.Mác khi bàn về sức lao động và mối quan hệ giữa sức lao động và lao động. Về sức lao động, Mác - Ăngghen đã chỉ ra: "Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.251. . Như vậy, khi nói về sức lao động là nói về thể lực và trí lực tồn tại trong mỗi con người, trong mỗi cơ thể sống của con người và khả năng vận dụng thể lực, trí lực để sản xuất ra những giá trị sử dụng cụ thể. Còn, lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào tự nhiên để cải biến những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người. Chỉ khi sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất để tiến hành sản xuất thì gọi đó là quá trình lao động sản xuất thường gọi tắt là lao động. Như vậy, sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong con người, còn lao động là quá trình sử dụng (hay tiêu hao) sức lao động trong hiện thực. Sự nhầm lẫn, đồng hoá này đã được C.Mác chỉ ra khi bàn về tiền công. Sức lao động có thể là hàng hoá, còn lao động không thể là hàng hoá. Bởi vì, nếu lao động là hàng hoá thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong một hình thức cụ thể nào đó. Nhưng tiền đề để có lao động vật hoá là phải có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không đem bán sức lao động. Đồng thời, nếu thừa nhận lao động là hàng hoá sẽ dẫn tới hai mâu thuẫn về lý luận là: nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang giá thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận, điều đó sẽ phủ nhận quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Và nếu hàng hoá lao động được trao đổi không ngang giá thì sẽ phủ nhận quy luật giá trị (ngang giá). Đồng thời, sự dễ nhầm lẫn ấy cũng đã được C.Mác chỉ ra rằng: hàng hoá sức lao động có đặc điểm là nó không bao giờ tách khỏi người bán, hơn nữa nó chỉ nhận được giá cả sau khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua. Giá trị sử dụng mà công nhân cung cấp cho nhà tư bản lại không phải là sức lao động mà là việc sử dụng cái sức ấy, tức là lao động. Do đó, nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị của lao động. Và đối với người công nhân thì lao động là phương tiện sinh sống của anh ta, do đó công nhân lầm tưởng cái mình bán là lao động. Còn nhà tư bản bỏ tiền ra là để có lao động, họ cũng lầm tưởng rằng cái mình mua là lao động. Đồng thời, trên thực tế số lượng tiền công nhiều hay ít tuỳ thuộc vào độ dài của ngày lao động hoặc số lượng sản phẩm làm ra. Vì vậy, dễ lầm tưởng tiền công là trả cho kết quả lao động. Đồng thời, số lượng tiền công trả cho những công nhân cũng làm một việc như nhau, đảm nhận những chức năng như nhau, nhưng có thể khác nhau do chất lượng lao động không giống nhau. Điều đó dễ gây lầm tưởng tiền công là trả cho giá cả của lao động. Để khẳng định nhận định trên, chúng ta hãy bàn thêm về điều kiện sức lao động trở thành hàng hoá và sự biểu hiện của những điều kiện ấy trong thời đại ngày nay. Về vấn đề này, C.Mác đã chỉ ra hai điều kiện là: "muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể bán được nó với tư cách là hàng hoá, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó, người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể mình" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.251. . "Và người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại anh ta buộc phải đem bán, với tư cách là hàng hoá chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của anh ta thôi" C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.253. . Hai điều kiện được C.Mác trình bày ở trên theo quan điểm của một số nhà kinh tế thị trường hiện đại cho rằng chỉ đúng trong thời kỳ bình minh của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa mà thôi. Đến nay sự phát triển của kinh tế thị trường hiện đại đã làm thay đổi các mối quan hệ giữa một bên là những người làm thuê và một bên là những người chủ sử dụng lao động làm thuê. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển khoảng 70%- 80% dân cư thuộc tầng lớp trung lưu, nhiều công nhân có cổ phần với những mức độ khác nhau. Họ vừa có tư liệu sản xuất có thể là chủ nhỏ, lại vừa là người làm thuê. Trong số những người lao động làm thuê hiện nay cũng có nhiều loại: có những người làm thuê thực sự, không có tư liệu sản xuất, chỉ có sức lao động; có những người lao động làm thuê vừa là chủ sở hữu, vừa là người làm thuê được chủ sở hữu giao nhiệm vụ quản lý, sử dụng lao động làm thuê, họ vừa có địa vị kinh tế và địa vị xã hội nhất định; có những người là chủ sở hữu thuê lao động, thuê người quản lý nhưng lại đi làm thuê cho người khác ở cấp độ cao hơn, vừa phù hợp với năng lực của mình... Như vậy, một bộ phận những người làm thuê trong nền kinh tế thị trường hiện đại đã mang những đặc trưng khác với trước đây. Tóm lại, từ những cách luận giải và tiếp cận theo các quan điểm trên đây, quan điểm của đề tài thống nhất sức lao động là hàng hoá và hàng hoá sức lao động được mua bán trên thị trường. Đó là thị trường hàng hoá sức lao động. Nghị quyết Đại hội X (2006), Đảng ta cũng đã thống nhất thuật ngữ: "Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động" Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.27. . 1.1.3.2. Đặc điểm và những nhân tố cấu thành thị trường hàng hoá sức lao động Về cơ bản những nhân tố cấu thành thị trường hàng hoá sức lao động gồm cung, cầu, cơ chế điều tiết quan hệ cung cầu và cạnh tranh trên thị trường sức lao động. Sau đây phân tích đặc điểm của các yếu tố kể trên. Thứ nhất, đặc điểm cung trên thị trường hàng hoá sức lao động. Cung sức lao động được hiểu là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội, tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động có khả năng lao động kể cả số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động nhưng thực tế vẫn tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội. Cũng có thể hiểu cung sức lao động là khả năng cung cấp cả thể lực và trí lực của người lao động làm thuê cho người sử dụng lao động trong một thời gian nhất định với mức tiền công xác định. Và khi xem xét cung sức lao động trên thị trường cần phân biệt rõ hai phạm trù cung tiềm năng và cung thực tế. Cung tiềm năng sức lao động bao gồm tất cả những người bình thường đủ 15 tuổi trở lên chưa có việc làm hoặc đang đi học, hoặc đang làm công việc gia đình chưa có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Cung thực tế về sức lao động bao gồm tất cả những người bình thường đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc hoặc chưa có việc làm nhưng đang chủ động, tích cực tìm kiếm việc làm. Cung sức lao động thể hiện mối quan hệ giữa một bên là người chủ sức lao động và bên kia là người chủ tư liệu sản xuất. Trong quan hệ này, xét về hình thức pháp lý thì bình đẳng. Xét về mặt kinh tế thì không bình đẳng vì người bán sức lao động phụ thuộc vào người chủ sử dụng sức lao động. Cung về sức lao động trên thị trường phụ thuộc rất nhiều nhân tố có thể khái quát sau đây: Một là, số lượng dân số có khả năng lao động. Nghĩa là số lượng dân số hoạt động kinh tế thường xuyên gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Lực lượng này quyết định mức cung sức lao động mang tính chất tỷ lệ thuận. Hai là, khối lượng định mức giờ làm việc. Trong thực tế luôn tồn tại các bộ phận người lao động khác nhau về nhu cầu thời gian làm việc. Trong đó, một số có khả năng kinh tế cần nhiều thời gian nghỉ ngơi, giải trí. Có một số do khó khăn về kinh tế yêu cầu tăng thời gian làm việc; cũng có một số lao động phụ nữ phải nuôi con nên muốn giảm thời gian lao động trong ngày... Vì vậy, tính toán định mức thời gian làm việc tuỳ theo từng loại sẽ làm tăng hoặc giảm cung về sức lao động. Cũng cần lưu ý, sức lao động là hàng hoá đặc biệt phụ thuộc vào yếu tố tinh thần và lịch sử nên phải xem xét cung trong điều kiện lịch sử cụ thể. Ba là, cung sức lao động phụ thuộc vào tiền công trên thị trường. Một mặt, nhân tố này có tác động thuận chiều, nghĩa là, khi tiền công cao ảnh hưởng trực tiếp đến tăng cung. Trong nền kinh tế thị trường, số đông người lao động có mức thu nhập thấp, vì vậy, tăng tiền công tác động rất lớn đến tăng cung về hàng hoá sức lao động. Mặt khác, tăng tiền công tác động giảm cung ở chỗ, thu nhập tăng lên, người lao động sẽ có điều kiện mua sắm hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu tốt hơn. Nhưng khi độ thoả mãn đạt đến một giới hạn nhất định thì số lượng hàng hoá và dịch vụ thêm vào có giá trị rất ít, người lao động có thu nhập cao sẵn có vô số hàng hoá và dịch vụ để hưởng thu, do đó nếu được đề nghị mức lương cao hơn, họ sẵn sàng giảm giờ làm việc mà vẫn duy trì mức thu nhập cao để tăng thời gian nghỉ ngơi, vì vậy, làm cung giảm xuống. Từ sự phân tích trên, đối với từng loại hàng hoá sức lao động, các nhà quản lý và hoạch định chính sách đề xuất mức tiền công hợp lý để tác động cung - cầu trên thị trường hàng hoá sức lao động. Bốn là, cung lao động phụ thuộc vào sự di chuyển sức lao động. Thực chất là di dân từ vùng này đến vùng khác trong phạm vi một nước và giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ. Trong thời đại toàn cầu hoá, di dân diễn ra rất đa dạng và phức tạp với nhiều hình thức khác nhau, có thể theo thời gian ._.bao cấp; tạo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong sử dụng lao động; bình đẳng giữa các bên trong quan hệ lao động; bảo đảm quyền tự quyết định, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động. Đối với lĩnh vực việc làm, pháp luật lao động cần tiếp tục thể chế hóa các nội dung: - Cần quy định trong pháp luật lao động để tạo cơ chế và tăng khả năng cho người lao động trình độ cao có cơ hội và điều kiện tự tiếp cận được với thị trường sức lao động khu vực và quốc tế. Bởi vì, di dân quốc tế để tìm kiếm việc làm ngoài nước là một xu hướng ngày càng tăng trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập AFTA và WTO. - Quy định rõ các điều khoản về thuê lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển và nhu cầu của nền kinh tế nước ta. Các quy định này phải đảm bảo đối xử công bằng giữa lao động trong nước và lao động là người nước ngoài trong các quan hệ lao động, trước hết là tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội... Đối với các quan hệ lao động, quy định của pháp luật lao động phải đảm bảo quyền tự quyết định, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các bên trong thỏa thuận ký kết hợp đồng cá nhân và thỏa ước lao động tập thể trên cơ sở kết quả lao động và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, giải quyết hài hòa quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên, vì lợi ích chung của doanh nghiệp, của đất nước. Đặc biệt là phải tiến tới mọi chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều được bình đẳng thực sự trước pháp luật trong quan hệ lao động. - Đảm bảo sự bình đẳng về bảo hiểm xã hội giữa các thành phần kinh tế, nhất là giữa các lao động tham gia bảo hiểm xã hội làm việc trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển dụng lao động chất lượng cao vào khu vực kinh tế nhà nước và các cơ quan nhà nước Cần phải bảo đảm sự phù hợp, chính xác trong tuyển dụng, đánh giá, sắp xếp, đề bạt cán bộ. Khu vực kinh tế nhà nước và các cơ quan nhà nước là một bộ phận của thị trường sức lao động chất lượng cao tiềm năng lớn. Hiện nay, mặc dù tiền lương chính thức của lao động chất lượng cao khu vực này tương đối thấp, nhưng việc làm tại đó vẫn có sức hấp dẫn như: công việc ổn định, mức độ đảm bảo cao về các nhu cầu cơ bản cho đời sống, tâm lý xã hội tôn trọng người làm việc trong khu vực nhà nước, có những khoản thu nhập ‘‘bổng lộc’’... Do vậy, Nhà nước cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm giám sát, kiểm tra việc thực hiện các quy chế đã ban hành về tuyển dụng lao động chất lượng cao trong khu vực nhà nước, ban hành cơ chế, chính sách mới về chế độ tuyển dụng lao động cho phù hợp với những yêu cầu mới về phát triển thị trường sức lao động trong khu vực này. Cần phải bảo đảm sự phù hợp, chính xác trong tuyển dụng, đánh giá, sắp xếp, đề bạt cán bộ. Bố trí cán bộ hợp lý, bảo đảm "đúng người, đúng việc" với tinh thần lấy tiêu chuẩn làm căn cứ để lựa chọn, đề bạt; lấy hiệu quả công việc làm cơ sở để đánh giá, đãi ngộ. Muốn vậy, phải tiêu chuẩn hóa chức danh cán bộ (mỗi chức danh có tiêu chuẩn, yêu cầu xác định), đây là cơ sở không chỉ cho công tác bố trí, đề bạt mà còn cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong lựa chọn cán bộ, để bảo đảm chất lượng, kinh nghiệm cho thấy phải liên tục lựa chọn, sàng lọc, trong đó lấy thực tài qua công việc làm trọng, không nên chỉ dựa vào bằng cấp, hàm vị; đức phải thể hiện qua cần, kiệm, liêm, chính, ở sự trung thành với lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời, phải tạo ra môi trường rộng mở cho sự phát triển và thi thố tài năng. Nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước Vai trò kinh tế của Nhà nước được thực hiện trước hết qua những cán bộ quản lý kinh tế trong bộ máy nhà nước. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế đang hội nhập quốc tế, đội ngũ cán bộ phải được đào tạo nâng cao trình độ về mọi mặt. Trước hết, về năng lực chuyên môn phải đạt trình độ quản lý tiên tiến, hiện đại, có kiến thức về luật pháp kinh tế; không ngừng nâng cao trình độ. Về phẩm chất đạo đức, chính trị, cán bộ, công chức nhà nước phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhà nước, đối với nhân dân, chí công vô tư. Cần có kế hoạch đào tạo, quy hoạch và sử dụng cán bộ quản lý một cách khách quan và khoa học, tránh tình trạng đề bạt theo kiểu "vây cánh". Việc chuẩn bị đội ngũ cán bộ phải vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Gắn đào tạo, sử dụng cán bộ với trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng; xây dựng quy chế, chế độ khen thưởng và kỷ luật công khai, minh bạch đối với cán bộ quản lý; kiên quyết xử lý những người bị kỷ luật; thực hiện tốt chính sách nghỉ hưu, thôi việc, v.v.. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh giản, gọn nhẹ. Cần lựa chọn những người thạo công việc, đảm bảo làm việc nhanh chóng và thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Thường xuyên hợp tác với những nước tiên tiến để cử cán bộ quản lý đi đào tạo, nâng cao trình độ. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, muốn điều tiết tốt nền kinh tế thị trường thì cách tốt nhất và nhanh nhất là gửi đi đào tạo ngay những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế liên quan đến lợi ích của các nhà đầu tư, của người dân và lợi ích của quốc gia, nên đội ngũ cán bộ quản lý phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Phải tăng cường các biện pháp kiểm tra, thanh tra ngăn chặn tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết xử lý những người vì lợi ích cá nhân mà nhũng nhiễu đối với các nhà đầu tư và người dân, hoặc tìm cách "bắt tay" với nhà đầu tư để móc túi tiền bạc của Nhà nước. Không nên sử dụng những cán bộ bị kỷ luật vì hành vi tham nhũng theo kiểu luân chuyển, hoặc xử lý nội bộ, nương nhẹ v.v.. Cần phải phát huy tốt hoạt động của các Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, khơi dậy phong trào đấu tranh của nhân dân, tăng cường giám sát của các tổ chức, đoàn thể; xây dựng được quy chế làm việc công khai, minh bạch đối với cán bộ, công chức nhà nước. Ba là, xóa bỏ sự cách biệt và phân biệt đối xử đối với người lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau Sự cách biệt giữa các mảng thị trường sức lao động là hậu quả của chính sách kỳ thị, phân biệt đối xử kéo dài trong nhiều năm đối với người lao động thuộc khu vực phi chính quy, đối với người lao động và chủ sử dụng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, v.v.. Tính chất kỳ thị và mức độ phân biệt đối xử thể hiện không chỉ qua các chính sách của Nhà nước (thí dụ: chính sách bảo hiểm xã hội chỉ áp dụng đối với người lao động trong khu vực nhà nước; hoặc các chính sách hỗ trợ tài chính chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp trong khu vực chính quy), mà còn thể hiện trong hành vi ứng xử hàng ngày của các công dân, các cơ quan, tổ chức công quyền. Điều này cho đến nay vẫn còn có những ảnh hưởng mạnh, ngăn cản sự vận hành lành mạnh của thị trường sức lao động. Việc xóa bỏ sự cách biệt này đòi hỏi phải có những bước đi cụ thể. Ngoài ra, cần có sự nhìn nhận lại vấn đề lao động thuộc khu vực nhà nước nói chung và thuộc các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Với số lượng chiếm khoảng 5% tổng số lực lượng lao động trong cả nước, lao động trong các doanh nghiệp nhà nước cho đến nay được hưởng sự chú ý quá lớn so với phần lao động còn lại. Hơn nữa, lao động trong các doanh nghiệp nhà nước được đối xử khác biệt rất nhiều so với lao động trong khu vực tư nhân. Xét từ giác độ thị trường sức lao động, ngoài việc là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng về mặt xã hội, điều này còn trở thành rào chắn ngăn cản việc di chuyển lao động giữa hai khu vực này. Sự phân biệt đối xử này là không đáng có và cần được sớm loại bỏ để khơi thông thị trường sức lao động. Bốn là, chú trọng tạo việc làm cho lao động đã qua đào tạo, nhất là đối với lao động trí tuệ Lao động có chuyên môn đã qua đào tạo, nhất là đội ngũ lao động trí tuệ, các cán bộ khoa học - công nghệ đỉnh cao, là nòng cốt trong lực lượng lao động, có vai trò quyết định đến tốc độ, chất lượng quá trình CNH, HĐH. Đối với các nhà khoa học, công nghệ, nhất là với những tài năng đỉnh cao, để tạo việc làm cho họ phải cung cấp đủ tài chính và ra những điều kiện làm việc cần thiết như cung cấp thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển khai ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn... Tuy nhiên, nguồn tài chính này nếu chỉ đơn giản là do Nhà nước cấp để cho các nhà khoa học nghiên cứu mà không có đơn đặt hàng từ phía sản xuất thì việc nghiên cứu đó sẽ không đem lại hiệu quả sát thực. Cần phải gắn hoạt động khoa học, công nghệ với thực tiễn, làm cho người sản xuất phải tìm đến khoa học, coi khoa học, công nghệ là yếu tố quyết định sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. Từ đó, thiết lập các quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp với cơ quan và người nghiên cứu, phát minh sáng chế trên cơ sở bạn hàng cùng có lợi. Có như thế mới tạo ra thị trường khoa học rộng lớn, các nhà khoa học sẽ có "sân" để phát huy năng lực của mình. Vì lẽ đó, để thúc đẩy khoa học - công nghệ phát triển, tạo ra nhiều việc làm cho đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách buộc các doanh nghiệp làm việc có hiệu quả bằng cách ứng dụng khoa học, cho phép các doanh nghiệp dùng vốn để làm khoa học. Các công ty lớn ở các nước đều dùng một phần vốn lớn để làm khoa học, thường khoảng 3-5% doanh thu cho nghiên cứu và triển khai, riêng các công ty công nghệ cao dùng từ 8-12% doanh thu, có công ty dùng tới 17-21% doanh thu cho nghiên cứu và triển khai Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. . Mặt khác, cần có chính sách ưu tiên cho vay vốn để đổi mới công nghệ, khuyến khích miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đổi mới sản phẩm. Đồng thời, đánh thuế cao đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên, nhiên liệu, gây ô nhiễm môi trường... Năm là, chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động phải gắn với cơ chế thị trường có sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước Chính sách này cho phép phát huy triệt để tiềm năng và sức sáng tạo của người lao động chất lượng cao, tạo ra điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự do lựa chọn việc làm và cống hiến khả năng của bản thân. Vì lẽ đó, trước hết, vấn đề tuyển dụng lao động phải xuất phát từ nhu cầu thị trường sức lao động, với sự tác động của các quy luật trong nền kinh tế thị trường. Phải thực hiện chế độ thi tuyển một cách nghiêm túc, khoa học, khách quan, với những nội dung và mức độ yêu cầu khác nhau tùy theo từng loại lao động. Bằng cấp, chứng chỉ mới là bằng chứng, là điều kiện để dự tuyển chứ không phải tất cả; muốn đánh giá chính xác phải kiểm tra, sát hạch, thi tuyển để xác định thực chất mà có quyết định tuyển dụng, bố trí và xếp lương hợp lý. Chế độ thi tuyển sẽ tạo ra sự cạnh tranh, do đó cho phép lựa chọn được những lao động có khả năng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của người sử dụng, đồng thời thúc đẩy việc nâng cao chất lượng lao động. Việc bố trí, sắp xếp lao động phải căn cứ vào yêu cầu công việc theo nguyên tắc "tùy việc xếp người" chứ không phải "tùy người xếp việc" như vẫn thường diễn ra, gây nên tình trạng làm việc không đúng ngành nghề đào tạo và năng lực sở trường, làm hạn chế hiệu quả khai thác lao động trình độ cao. Đồng thời, cần đa dạng hóa loại hình tuyển dụng và sử dụng lao động chất lượng cao: tuyển dụng chính thức vào biên chế (chủ yếu ở khu vực Nhà nước), tuyển dụng hợp đồng dài hoặc ngắn hạn (ở cả khu vực Nhà nước, tập thể, tư nhân) và tuyển dụng theo việc cụ thể. Chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động chất lượng cao được áp dụng chủ yếu là theo quy chế công chức Nhà nước đối với lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp (quản lý Nhà nước và hoạt động sự nghiệp) và theo hợp đồng lao động đối với lao động trong khu vực sản xuất kinh doanh. Viên chức nhà nước được tuyển dụng và sắp xếp vào các chức danh của các ngạch, bậc khác nhau phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Mỗi ngạch, bậc có tiêu chuẩn cụ thể, người được xếp ở ngạch, bậc nào phải có khả năng, trình độ phù hợp theo yêu cầu tiêu chuẩn của ngạch, bậc đó. Tiền lương được trả theo chức danh và kết quả thực hiện công việc của họ. Theo quan điểm này, Nhà nước cần xây dựng chức danh và tiêu chuẩn cho các vị trí công tác, lấy tiêu chuẩn của chức danh làm cơ sở để tuyển dụng và sắp xếp sử dụng. Việc tuyển và sử dụng lao động kỹ thuật theo đúng yêu cầu trình độ nghiệp vụ của từng vị trí công tác sẽ có tác dụng không những tiết kiệm được lao động, bộ máy gọn nhẹ, mà còn làm cho mỗi người thực hiện nhiệm vụ đúng ngành nghề, trình độ chuyên môn, phát huy được năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác. Trong khu vực sản xuất kinh doanh, cho đến nay, hợp đồng lao động là phương thức phù hợp nhất trong tuyển dụng và cung ứng lao động trình độ cao, vì lẽ một mặt, giúp cho người lao động trình độ cao thực sự thực hiện được quyền tự do trong lao động; mặt khác, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động tuyển dụng được những lao động trình độ cao phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh, nhờ vậy việc sử dụng lao động có hiệu quả hơn. Số lượng sức lao động chất lượng cao ở nước ta chưa nhiều và có trình độ nhận thức cao nên việc tự do di chuyển của đội ngũ này sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến phân bố dân cư cả nước và ít có khả năng gây ra những tiêu cực về mặt xã hội. Trong khi lực lượng lao động chất lượng cao chiếm tỷ trọng thấp, phân bố còn bất hợp lý so với nhu cầu của các ngành, các vùng, số người lao động trình độ cao chưa có việc làm khá đông, thì rõ ràng việc cho phép họ tự do di chuyển là giải pháp tích cực để khắc phục những hạn chế trên. Sáu là, cần thực hiện cơ chế quản lý lao động thống nhất trên phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân Nghĩa là, phải có chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động trình độ cao chung cho mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu tư liệu sản xuất nhằm bảo đảm quyền dân chủ, bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp trên lĩnh vực này. Bởi lẽ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là một chính sách có tính chiến lược, lâu dài của nước ta. Trong nền kinh tế này, các thành phần kinh tế tồn tại trong sự thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau, chịu ảnh hưởng của nhau, cạnh tranh nhau, thúc đẩy nhau, qua đó làm cho nền kinh tế phát triển. Vì thế, nếu không có sự quản lý thống nhất về chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động chất lượng cao thì dễ tạo nên những bất bình đẳng trong sự bảo hộ của Nhà nước về quyền lợi của người lao động chất lượng cao và của cả chủ sử dụng lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau. Từ đó ảnh hưởng xấu đến sự phát triển sản xuất của các thành phần kinh tế cũng như tới việc khai thác có hiệu quả nguồn lao động chất lượng cao trong nền kinh tế quốc dân nói chung. Cần sớm có quy định buộc người sử dụng lao động phải trả cho Nhà nước một khoản chi phí nhất định tùy theo trình độ đào tạo của lao động (chất lượng lao động) để bù đắp một phần phí đào tạo của Nhà nước. Khoản chi phí này được tính qua thuế của doanh nghiệp và chuyển vào phần ngân sách nhà nước dành cho giáo dục và đào tạo. Làm như vậy, vừa khắc phục tình trạng bất hợp lý là Nhà nước đào tạo lao động trình độ cao "không công" cho các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, vừa tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo hiện đang quá ít ỏi so với yêu cầu thực tế. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng và trả lương ở khu vực kinh tế nhà nước để từng bước nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế này, đồng thời có những đòn bẩy để giữ chân người tài; mặt khác, tích cực tạo môi trường thuận lợi để phát huy hết mọi tài năng, tạo ra xu hướng: việc khó tìm người tài, người tài tìm việc khó, có hiệu quả cao. Bảy là, tăng cường trao đổi quốc tế về lao động trình độ cao nhằm tăng tính cạnh tranh trên thị trường Đi đôi với việc đào tạo trong nước cần phải mở rộng gửi sinh viên ra nước ngoài học tập bằng nhiều con đường: từ ngân sách của nhà nước, từ nguồn tài trợ phi chính phủ, từ kinh phí tự túc của người học. Song song với việc xuất khẩu lao động, việc nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở những ngành nghề cần được ưu tiên phát triển. Hiện nay, ở nước ta, số cán bộ có học hàm học vị cao trong các ngành kinh tế - xã hội chiếm tỷ lệ rất thấp, ở một số ngành có sự thiếu hụt cán bộ đầu đàn cho nên việc nhập khẩu lao động có chất lượng cao là vô cùng cần thiết. Một mặt giải quyết được các vấn đề cấp bách của các ngành, các lĩnh vực như năng lượng, hoá dầu, công nghệ vũ trụ, khoa học về biển, v.v. Mặt khác, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ trong nước có chất lượng cao để tiếp cận các thành tựu khoa học công nghệ mới của nhân loại. Để chủ chương này trở thành hiện thực cần phải đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, thành lập doanh nghiệp, có chế độ trả lương cao cùng với các ưu đãi khác đối với các chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài có nguyện vọng trở về Tổ quốc. KẾT LUẬN Phát triển thị trường sức lao động chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam đã và đang đặt ra những vấn đề bức thiết cả dưới góc độ nghiên cứu, nhận thức lý luận và thực tiễn. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các bài viết của các nhà khoa học trong và ngoài nước liên quan đến đặc điểm, vị trí, vai trò, những nhân tố tác động và xu hướng vận động của thị trường sức lao động nói chung, về thị trường sức lao động trình độ cao, về nguồn nhân lực chất lượng cao làm căn cứ lý luận và kinh nghiệm giúp cho các nhà hoạch định chính sách và Chính phủ đề xuất các giải pháp từng bước phát triển thị trường sức lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nước nhà. Bản tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ về "Thị trường hàng hoá sức lao động chất lượng cao: Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay" do Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì đã thu nhận được 24 bài viết nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài Học viện. Tóm lược các nội dung nghiên cứu có thể nêu ra một số kết quả cụ thể sau đây: Thứ nhất, hệ thống hoá được những quan điểm lý luận về sức lao động, thị trường sức lao động làm căn cứ để phân tích các tiêu chí xác định sức lao động chất lượng cao, so sánh với sức lao động trình độ cao. các yếu tố giá trị sử dụng, giá trị, giá cả của sức lao động chất lượng cao. Từ đó đưa ra quan niệm của đề tài về sức lao động chất lượng cao và thị trường sức lao động chất lượng cao. Đồng thời, phân tích đặc điểm và các yếu tố của thị trường sức lao động chất lượng cao: cung, cầu, vai trò của Nhà nước tác động đến thị trường sức lao động, làm căn cứ gợi mở nghiên cứu thực trạng chương 2 và giải pháp trong chương 3. Có nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường sức lao động của một số nước làm tài liệu tham khảo. Thứ hai, trên cơ sở nghiên cứu quá trình nhận thức của Đảng ta thông qua đường lối phát triển kinh tế - xã hội cũng như các chủ trương, chính sách của Chính phủ đối với vấn đề hàng hoá sức lao động, thị trường hàng hoá sức lao động. Đề tài phân tích rõ thêm những bước tiến trong nhận thức khoa học, khách quan và sự tất yếu phát triển thị trường sức lao động và đặc biệt thị trường sức lao động chất lượng cao ở nước ta. Trên cơ sở lý luận chương I làm căn cứ phân tích đánh giá thực trạng cung, cầu, tiền công cũng như cơ chế vận hành thị trường sức lao động chất lượng cao ở nước ta những năm qua. Đánh giá thuận lợi, khó khăn, thành tựu đạt được cũng như những vấn đề đặt ra và nguyên nhân. Đề tài cố gắng sưu tầm và tập hợp các số liệu minh hoạ thông qua một số bảng, biểu và nguồn tư liệu trích dẫn. Thứ ba, trên cơ sở các dự báo về yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước thời kỳ đến 2020 gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua các dự báo của các cơ quan hoạch định chính sách của Chính phủ về số lượng, chất lượng, cơ cấu; phân vùng, miền... Đề tài đề xuất một số giải pháp kết hợp cả trước mắt và lâu dài để góp phần đẩy mạnh và hoàn thiện thị trường sức lao động chất lượng cao ở nước ta. Mong muốn có sự đóng góp nhỏ bé những ý kiến đối với cơ quan hoạch định chính sách của Đảng, Chính phủ về vấn đề này. Với sự cố gắng, nỗ lực của nhóm tác giả tham gia nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, do khả năng nghiên cứu và thời gian, còn nhiều vấn đề đặt ra chưa được nghiên cứu phân tích một cách thấu đáo. Đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến chân thành từ các nhà khoa học để nhóm tác giả tiếp thu, sửa chữa, bổ sung để kết quả đề tài hoàn thiện tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân: Một số vấn đề về phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2003. Vũ Đình Bách (Chủ biên): Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Báo người lao động, ngày 3/2/2008 Christian Batal: Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước, Nxb CTQG, sách tham khảo, Hà Nội (2002). Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Một số công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Tài liệu lưu hành nội bộ, tháng 12-1993. Bộ luật Lao động nước CHXHCN Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội, 2007. Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng "Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020". C.Mác và F.Angghen: Tuyển tập, tập 1, Nxb ST, H, 1980. C.Mác và F.Angghen toàn tập, tập 23, Nxb CTQG, H, 1993. PGS, TS Đỗ Minh Cương, Hoàn thiện hệ thống chính sách và các giải pháp dạy nghề nhằm khuyến khích phát triển lao động kỹ thuật, Hà Nội, 2003 Đỗ Minh Cương: Tác động xã hội của cải cách kinh tế: việc làm và thị trường lao động. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 224 tháng 1/1997. Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan (2001): Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học ở Việt Nam, Nxb Chớnh trị quốc gia, Hà Nội TS Phạm Đức Chính (2005): Thị trường lao động Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn, NXBCTQG, Hà Nội Mai Quốc Chớnh (1999): Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, Nxb Chớnh trị quốc gia, Hà Nội. Đánh giá tác động của thị trường lao động tới phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2000-2005 và dự báo những tác động giai đoạn 2006-2010. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2008. Đỗ Văn Dạo, “Đào tạo lao động trong thời kỳ hội nhập”, Báo Nhân dân điện tử, số ra ngày 9/6/2007. Nguyễn Minh Đường, Một số giải pháp và kiến nghị về đào tạo nhân lực các cấp trình độ đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Chương trình KHCN cấp nhà nước KX.05, Hà Nội, 2004. Đề án Phát triển thị trường lao động ở Việt nam đến 2010, Bộ Lao động thương binh và xã hội Doanh nghiệp Việt Nam quản lý và sử dụng nhõn tài. Bỏo Lao động số ra ngày 22/4/2008.  TS Nguyễn Hữu Dũng (chủ biên), Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2005. TS. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho Thanh Niên, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới, Đề tài: KX.07-14, Hà Nội. TS Phạm Thị Thu Hằng (CB), Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2007 – Chủ đề năm: Lao động và phát triển nguồn nhân lực, H, 2008. GS, TS Nguyễn Đình Hương, Hoàn thiện môi trường thể chế phát triển đồng bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập khu vực và thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. TS Nguyễn Thị Lan Hương (chủ nhiệm), Đánh giá tác động của thị trường lao động tới phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 và dự báo xu hướng tác động giai đoạn 2006-2010, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Viện Khoa học Lao động và Xã hội, Hà Nội, 2007. Nguyễn Đình Hương (Chủ biên): Hoàn thiện môi trường thể chế phát triển đồng bộ các loại thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 2003. GS Nguyễn Đỡnh Hương (chủ biên): Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Lýý luận chớnh trị, H.2006. Nguyễn Thị Lan Hương: Thị trường lao động Việt Nam, định hướng và phát triển, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2002. TS. An Như Hải: Chính sách tiền lương đối với cán bộ công chức ở nước ta hiện nay - lý luận và thực tiễn, như trên số 10/09/2006. Hải Phòng thiếu lao động kỹ thuật cao – 10/10/2006, GS,VS,TSKH Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nghiên cứu con người - đối tượng và những hướng chủ yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. GS.VS. Phạm Minh Hạc (2001): Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH, Nxb Chớnh trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc: Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Hội đồng lý luận trung ương và Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Con người và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ 21, Kỷ yếu Hội thảo văn hoá, Hà Nội, 2004. Nguyễn Đắc Hưng, Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Đoàn Văn Khái: Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị, H. 2005 PGS. TS Nguyễn Đình Kháng: Về vấn đề tiếp tục hoàn thiện thị trường hàng hóa sức lao động ở Việt Nam; Bản tin những vấn đề kinh tế chính trị học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế chính trị 13/06/2007. PGS, TS Nguyễn Đỡnh Khỏng: “Về vấn đề tiếp tục hoàn thiện thị trường hang hóa sức lao động ở Việt Nam”, Thông tin Những vấn đề kinh tế chính trị học, số 13, tháng 6/2007. Kỷ yếu Đại hội lần thứ nhất Hội Khoa học phát triển nguồn nhân lực và nhân tài Việt Nam, Hà Nội, 2005. Lờ Thị Ái Lõm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo, kinh nghiệm Đông Nam Á, Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội. Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới / Nolwen Henaff, Jean - Yves Martin, Geoffrey B. Hainsworth... - H. Thế giới, 2001. Bùi Sĩ Lợi, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2003. Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2002. Một thế giới học tập và làm việc mới, Hội thảo Việt Nam - Đức, Hà Nội, 2005. Huỳnh Nga: Đỏ mắt tìm lao động kỹ thuật - ngày 18-8-2008. GS.TS Nguyễn Công Nghiệp (chủ biên), Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nxb CTQG H2006. PGS, TS Phạm Thành Nghị, Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.05, Hà Nội, 2005 Nguồn nhân lực chất lượng cao: Việt Nam thiếu hụt trầm trọng. Bỏo Lao Động số ra ngày 07/10/2006.  Đỗ Thị Xuân Phương, Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm (qua thực tế ở Hà Nội), Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000 Nguyễn Văn Phúc, Thị trường sức lao động trình độ cao ở Việt Nam hiện nay, LATS Kinh tế, Học viện CT-HC quốc gia Hồ Chí Minh, H 2008. Nguyễn Văn Phúc, Mấy ý kiến về phát triển thị trường sức lao động trỡnh độ cao ở nước ta, Tạp chớ Cộng sản, số thỏng 4/2007. GS, TSVS Trỡnh Ân Phỳ, Kinh tế chớnh trị học hiện đại, Nxb Đại học kinh tế quốc dõn, Hà Nội, 2007. Landanov and Pronicov: Tuyển chọn và quản lý công nhân viên chức ở Nhật Bản, Nxb Sự thật- Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1991. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên), Quản lý nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, H, 2006. Phan Đăng Quyết, Kinh tế thị trường và công bằng trong phân phối thu nhập, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 8/2005). Tạp chí Nghiên cứu con người. Các số trong năm 2005 và năm 2006. PGS,TS Nguyễn Quý Thọ, Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và giải pháp phát triển, 2003 Thời báo kinh tế Việt Nam, tháng 4/2006. Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, Theo VOV, số ra ngày 22/02/2007. TS Nguyễn Thị Thơm, Thị trường lao động Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chớnh trị quốc gia, H.2006. Thị trường lao động đầu năm: Cầu cao, cung thấp, Báo Vneconomy, số ra ngày 21/03/2007. Phạm Sỹ Tiến, Đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho kỷ nguyên kinh tế tri thức, Tạp chí Khoa học - Tổ quốc, số 18/151 năm 2000. Nguyễn Tiệp, Chính sách tiền lương trong doanh nghiệp và cơ chế thỏa thuận về tiền lương, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344/01-2007. Nguyễn Tiệp, Thị trường lao động, Nxb Lao động – Xã hội, H. 2007. PGS, TS Nguyễn Tiệp, Giỏo trỡnh thị trường lao động, Trường Đại học Lao động - Xó hội, Nxb Lao động - Xó hội, Hà Nội, 2007. Vương Thanh Tú, Thị trường lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002. Trường Đại học Lao động - Xã hội, Xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức vụ cho cán bộ doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Tri thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 Phan Quang Trung: Thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - H, 2007. Nguyễn Anh Tuấn, Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Vũ Văn Tuấn, Thu hỳt, tỡm kiếm và lựa chọn nguồn nhõn lực, Nxb. Trẻ Tp. Hồ Chớ Minh, 2000. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm, Phát triển nguồn nhân lực: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chớnh trị quốc gia, Hà Nội, 1996. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDTKH024.doc
Tài liệu liên quan