Các giải pháp xây dựng, đẩy mạnh sản Xuất và Xuất khẩu các mặt hàng Xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (80tr)

Chương 1: Sự cần thiết phải xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Khái quát chung về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. 1.Một số quan điểm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào thống nhất ở phạm vi quốc tế. Tuy nhiên, trong quản lý hàng hoá xuất khẩu, mỗi quốc gia thường chia hàng xuất khẩu làm 3 loại: Hàng chủ lực, hàng quan trọng và hàng thứ yếu. Nhìn chung, người ta hiểu rằng hàng chủ lực là loại hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp xây dựng, đẩy mạnh sản Xuất và Xuất khẩu các mặt hàng Xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (80tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngạch xuất khẩu quốc gia do có thị trường nước ngoài và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng. Hàng thứ yếu là hàng xuất khẩu mà kim ngạch của chúng thường nhỏ(1) Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - GS.TS. Bùi Xuân Lưu (trang 232). . Sự phân loại này dựa trên tiêu chí tỷ trọng giá trị xuất khẩu của mặt hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng tỷ trọng này cụ thể là bao nhiêu để coi một mặt hàng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực lại không được thống nhất giữa các quốc gia. Tuỳ từng quốc gia và ở những giai đoạn khác nhau, tỷ trọng này được đưa ra khác nhau. Một số nhà nghiên cứu từng cho rằng tỷ trọng của mặt hàng được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực khi nó chiếm ít nhất 25% kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. ở Việt Nam, đầu thập kỷ 90, người ta đã cho rằng việc xác định này không dựa theo tỷ trọng mà lại căn cứ vào giá trị tuyệt đối và một mặt hàng ít ra là phải đạt 100 triệu USD mới trở thành một mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Còn theo các chuyên gia kinh tế tại Viện Quản lý xuất khẩu công nghệ, Trường đại học Berkeley-Mỹ, thì không thể đưa ra một tỷ trọng cụ thể trong khái niệm hàng xuất khẩu chủ lực, mà việc nhìn nhận một mặt hàng xuất khẩu chủ lực căn cứ vào lượng USD lớn (“Large USD volume”) trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy có nghĩa là không có một cách nhìn hoàn toàn giống nhau về tỷ trọng giá trị xuất khẩu của một mặt hàng chủ lực trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở tất cả các quốc gia, song nhìn chung có thể nhận thấy rằng một mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần phải có 3 yếu tố cơ bản sau: - Một là, mặt hàng đó phải có thị trường ổn định, vững chắc trong một thời gian tương đối dài. - Hai là, nguồn lực để tổ chức sản xuất phải hiệu quả. - Ba là, có kim ngạch lớn và mang tính chất quyết định đối với tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Yếu tố thứ ba là một yếu tố quan trọng, nó là một cơ sở để dễ dàng nhận biết mặt hàng xuất khẩu chủ lực và để phân biệt nó với những mặt hàng không chủ lực. Tuy nhiên, vị trí của mặt hàng chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt hàng ở thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ở thời điểm khác thì không. 2) ý nghĩa và tính cấp thiết của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với thời gian, nền kinh tế thế giới đã vận động không ngừng và trải qua nhiều thời kỳ khác nhau từ nền kinh tế sản xuất hàng hoá cho tới nay là nền kinh tế tri thức. Tại một số các quốc gia có nền kinh tế phát triển lâu đời và tiên tiến thì hoạt động xuất khẩu hàng hoá không còn giữ vị trí quan trọng số một mà thay vào đó là hình thức đầu tư hay chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì hoạt động xuất khẩu mang tính chất sống còn với toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa chiến lược, cực kỳ quan trọng như sau: 2.1. Làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần làm tăng ngân sách. Song song với sự ra đời và phát triển của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu đã luôn được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản và hết sức quan trọng, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển nói chung, phương tiện chính để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và nhu cầu nhập khẩu hàng hoá thiết bị phục vụ sản xuất tiêu dùng nói riêng, góp phần thanh toán dần nợ nước ngoài. Kim ngạch xuất khẩu tăng còn tạo điều kiện cải thiện đáng kể cán cân thương mại. Vì thế, việc tăng kim ngạch xuất khẩu quốc gia là một điều vô cùng có ý nghĩa. Để tăng kim ngạch xuất khẩu, các quốc gia thường áp dụng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu, nhóm biện pháp tài chính, nhóm biện pháp thể chế- tổ chức. Trong đó, nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu là việc xác định mặt hàng, tổ chức sản xuất và tiến hành đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng chủ lực hay nói một cách khác là xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Chính vì vậy, xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực góp phần quan trọng trong việc làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Như trên đã nói, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu mang tính chất quyết đối với kim ngạch xuất khẩu. Thông thường, mặt hàng xuất khẩu chủ lực chiếm 5- 10% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, có mặt hàng thậm chí chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, ví dụ như kim ngạch xuất khẩu dầu thô Việt Nam năm 2000 chiếm tới 23% (=3,3 tỷ USD/14,308 tỷ USD) tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Có thể thấy, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một quốc gia chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó. Ví dụ như kim ngạch xuất khẩu của 9 mặt hàng chủ lực của Đài Loan chiếm tới 67,8% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 1990(2) "Đài Loan- nền kinh tế siêu tốc và bức tranh cho thế kỷ sau”- NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. . Do đó, nếu giá trị xuất khẩu của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng mạnh sẽ là một nguồn quan trọng làm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. 2.2. Mở rộng quy mô sản xuất trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH. Có thể nói, đây là một vai trò có ý nghĩa hết sức lớn lao của mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vai trò này mặc dù không thể lượng hoá được thành tiền song sự tác động của nó đối với một nền kinh tế quốc dân, đặc biệt kinh tế của các nước đang phát triển đang trong quá trình CNH- HĐH như Việt Nam là vô cùng to lớn. Hiện nay, có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với cơ cấu kinh tế của một quốc gia: Thứ nhất: Xuất khẩu chỉ là hoạt động tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trường hợp này đối với Việt Nam, do nền kinh tế lạc hậu chậm phát triển, cung còn nhỏ hơn cầu. Nếu chỉ chờ ở sự “thừa ra ” của sản xuất thì xuất khẩu vẫn còn rất nhỏ bé và tác động của xuất khẩu vào việc thay đổi cơ cấu sản xuất là hầu như không có. Thứ hai: Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất (quan điểm đó xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất) hay nói cách khác, đất nước sẽ hình thành những ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó phải có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để hàng hoá khi tham gia vào thị trường thế giới có đủ sức cạnh tranh và mang lại lợi ích cho quốc gia. Theo quan điểm này, đây chính là giải pháp làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn. Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực trước hết chính là việc lựa chọn sản phẩm xuất khẩu quốc gia, mà việc lựa chọn này dựa trên hai cơ sở: Một là, cầu về sản phẩm trên thị trường quốc tế; Hai là, lợi thế cạnh tranh có thể tạo ra được trong điều kiện nguồn lực quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Cơ sở lựa chọn thứ nhất này nói khác đi chính là quan điểm thứ hai trình bày ở trên. Vì vậy, xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi hơn, quy mô sản xuất hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, yếu tố lợi thế cạnh tranh của một quốc gia không chỉ dựa vào nguồn lực quốc gia có sẵn mà phải tạo ra các lợi thế, tất nhiên phải định hướng và đầu tư dài hạn. Đặc biệt, lợi thế cạnh tranh của bất kỳ quốc gia nào cũng luôn trong quá trình biến động và phát triển. Vì vậy, cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ lực là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ không cần tay nghề cao như sản phẩm dệt, may, giầy da... sang các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động có tay nghề chuyên môn giỏi như ngành hoá chất, sắt thép, điện tử, ô tô... , cuối cùng là chuyển sang sản phẩm có hàm lượng vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hoá, thiết bị viễn thông, tin học, hàng điện tử nghe nhìn cao cấp... Chính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ lực này là yếu tố quan trọng kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. 2.3. Tạo cơ sở vật chất để mở rộng và thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại. Bàn về khái niệm quan hệ kinh tế đối ngoại, có nhiều quan điểm khác nhau, song toát lên một ý chính là” Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ thương mại- kinh tế và khoa học kỹ thuật... giữa một quốc gia này với một quốc gia khác”. Quan hệ kinh tế đối ngoại bao gồm các hình thức sau: Xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình. Đầu tư quốc tế Du lịch- dịch vụ (vận tải đường biển, hàng không, bộ, bảo hiểm...) Xuất khẩu sức lao động. Hợp tác khoa học kỹ thuật - hợp tác sản xuất - hợp tác tài chính... Các hình thức này có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Ví dụ như, khi xuất khẩu phát triển sẽ có ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, GDP tăng, sản xuất mở rộng, thu nhập bình quân đầu người tăng... tạo nên môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, do đó kéo theo sự phát triển của hoạt động đầu tư nước ngoài. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là một bộ phận lớn cấu thành trong hoạt động xuất khẩu nói chung, cho nên nó cũng thực hiện chức năng quan trọng đó. Thêm nữa, việc phát triển một ngành hàng xuất khẩu chủ lực thường đi liền với việc lên kế hoạch, định hướng có quy mô và nhiều triển vọng chứng tỏ đó là một ngành hàng có sức cạnh tranh cao, điều này sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào. 2.4. Tạo điều kiện giữ vững, ổn định thị trường xuất khẩu và nhập khẩu Với nhận thức rằng mặt hàng xuất khẩu chủ lực là con chủ bài trong nền ngoại thương quốc gia, là mặt hàng có giá trị xuất khẩu mang tính chất quyết định đối với tổng kim ngạch xuất khẩu, nên các quốc gia thường đưa ra những chiến lược, định hướng sản xuất và xuất khẩu, đầu tư khoa học kỹ thuật... để phát triển ngành hàng trong nước, nâng cao chất lượng, mẫu mã, chủng loại mặt hàng, nhờ thế mà mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một quốc gia có thể thâm nhập và khẳng định vị trí của mình tại thị trường nước ngoài, hay nói khác đi nó góp phần giữ vững thị trường xuất khẩu. Một hệ quả tích cực của tác dụng này là sự củng cố vị trí của mặt hàng xuất khẩu ở thị trường nước ngoài sẽ tạo nên một uy tín quốc gia trên thị trường đó, do đó kéo theo sự xuất khẩu của các mặt hàng khác sang thị trường nước ngoài đó. Như vậy, việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực không chỉ giữ vững thị trường cho mặt hàng đó mà còn góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu. 2.5. Thúc đẩy phân công lao động trong nước, mở rộng và làm phong phú thị trường nội địa. Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực tốt sẽ phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu dẫn đến tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người dân từ đó góp phần thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước theo hướng công nghiệp hoá là định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, nhất là đối với một nước có tỷ lệ dân số sản xuất nông nghiệp cao như Việt Nam. Mức sống của người dân được cải thiện sẽ làm cho hoạt động thương mại trong nước sôi động hơn và làm phong phú thị trường nội địa hơn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một số quốc gia có lượng nhập khẩu lớn, có tiềm lực kinh tế mạnh đã lợi dụng những ý nghĩa tích cực của mặt hàng xuất khẩu chủ lực để gây áp lực về kinh tế đối với các nước xuất khẩu như bắt phải mở rộng thị trường cho một số loại hàng hoá của nước mình sang thị trường của nước xuất khẩu với một một mức thuế suất ưu đãi, trừng phạt kinh tế...đặc biệt là đối với các nước đang và kém phát triển, từ đó gây áp lực về mặt chính trị. Ví dụ cụ thể là các cuộc chiến tranh kinh tế về chuối, cacao giữa một số nước Châu Phi, Nam Mỹ và Hoa Kỳ, chiến tranh về thép giữa Nga và Mỹ... Tóm lại, mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với hoạt động xuất khẩu nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực mang tính tất yếu đối với mỗi quốc gia. 3. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 160 nước và vùng lãnh thổ, có hiệp định thương mại với trên 70 nước mà gần đây nhất là việc ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Riêng trong lĩnh vực xuất khẩu chúng ta đã mở rộng thị trường ra các khu vực theo hướng tích cực. ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, thị trường đang trên đà khôi phục, xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh (hàng điện tử, lương thực, thực phẩm). Khu vực Âu Mỹ, hàng năm nước ta thường xuất siêu trên 2.000 triệu USD. Với thị trường Tây Nam á, Châu Phi quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và khu vực này chưa được phát triển đáng kể, song đây là thị trường còn nhiều tiềm năng để khai thác(3) Phó thủ tướng, nguyên Bộ trưởng Bộ thương mại Vũ Khoan trong bài “Xuất- nhập khẩu của Việt Nam trong 10 năm đầu của thế kỷ mới” - tạp chí Cộng sản số 20 tháng 10/2001. . Chúng ta đã có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Trong 10 năm qua, kim ngạch xuất khẩu tăng 5,6 lần, từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên 14,308 tỷ USD năm 2000, bình quân hàng năm tăng 18,4%. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng đã qua chế biến. Nếu như hàng nguyên liệu thô năm 1991 chiếm trên 92% thì nay chỉ còn chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến ( trong đó có hàng chế tạo) năm 1991 chiếm khoảng 8%, năm 1999 tăng lên khoảng 40%; nhóm hàng nông -lâm - thuỷ hải sản năm 1991 chiếm 53% đến nay xuống còn 36,5%; nhóm hàng tiểu thủ công nghiệp năm 1991 chiếm 47% đã tăng lên 63,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002. Và điều có ý nghĩa hơn cả là danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang được mở rộng và thực sự đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực (dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may) có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD năm 1991-1992, năm 1993 đã có 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thêm cà phê), năm 1994-1995 có 7 mặt hàng ( thêm giày dép và cao su), năm 1996 có 8 (thêm than đá), năm 1997-1998 có 10 mặt hàng ( thêm đồ điện tử và hạt điều) và từ năm 1999 đến nay danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam đã mở rộng thành 13 mặt hàng ( thêm hạt tiêu, , hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả). Bảng 1:Danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam Số TT Mặt hàng 1991- 1992 1993 1994- 1995 1996 1997- 1998 1999 đến nay 1 Gạo X X X X X X 2 Dầu thô X X X X X X 3 Thuỷ sản X X X X X X 4 Dệt may X X X X X X 5 Cà phê X X X X X 6 Giày dép X X X X 7 Cao su X X X X 8 Than đá X X X 9 Điện- điện tử X X 10 Hạt điều X 11 Hạt tiêu X 12 Thủ công mỹ nghệ X 13 Rau quả X Nguồn : Báo cáo của Bộ thương mại 2002 II. Một số tồn tại trong xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam hiện nay. Công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta trong vòng 15 năm qua đã giành được nhiều thắng lợi có tính chiến lược, tạo tiền đề và điều kiện để nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế đất nước, hoạt động xuất khẩu đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu to lớn, rất quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân đã giành được trong thời kỳ đổi mới nói chung và trong hơn mười năm qua nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và đặc biệt là xuất khẩu mặt hàng chủ lực vẫn còn bị hạn chế do những tồn tại sau: 1.Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn kém 1.1. Năng lực cạnh tranh không ổn định Năng lực cạnh tranh nói chung được thể hiện trên 3 cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Một quốc gia đạt được lợi thế cạnh tranh nếu những doanh nghiệp của nước đó xây dựng được năng lực cạnh tranh. Vì chính doanh nghiệp chứ không phải quốc gia cạnh tranh vào thị trường quốc tế. Doanh nghiệp sẽ có được năng lực cạnh tranh thông qua hoạt động đổi mới sáng tạo. Điều kiện để doanh nghiệp xây dựng được năng lực cạnh tranh và thành công trên thị trường thế giới tập trung vào 4 yếu tố chính: yếu tố sản xuất (vị thế của quốc gia trong lĩnh vực sản xuất như lao động có tay nghề và cơ sở hạ tầng), nhu cầu thị trường ( những khách hàng tinh tế và khó tính trên thị trường nội địa), liên kết ngành và chiến lược phát triển, cơ cấu của doanh nghiệp và môi trường cạnh tranh. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới - World Economic Forum (WEF), thứ hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong bảng xếp hạng qua các năm như sau: Bảng 2: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ 1998-2002 STT Năm xếp hạng Thứ hạng Số quốc gia được xếp hạng 1 1998 39 53 2 1999 48 59 3 2000 53 59 4 2001 62 75 5 2002 60 80 Nguồn : Báo cáo của Ông Đinh Văn Ânn, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung Ương, tại hội nghị triển khai Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế ngày 6-7/5- 2002 tại Hà Nội. Số liệu thống kê trên cho thấy sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn thấp, có xu hướng ngày càng sụt giảm. Trong báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2002-2003 được WEF công bố đánh giá khả năng cạnh tranh của 80 nước và lãnh thổ, Việt Nam ở trong nhóm 20 nước đứng cuối với vị trí 60 về khả năng cạnh tranh hiện tại và 65 về khả năng cạnh tranh trong 5 đến 8 năm sắp tới. Điều này có nghĩa là hàng hoá Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới còn rất kém, nhất là những thị trường khó tính, đòi hỏi chất lượng cao. Vị trí năng lực cạnh tranh của Việt Nam thấp là do hầu hết các chỉ số thành phần đều thấp. Các chỉ số thấp nhất của Việt nam là 74 (công nghệ thông tin), 68 (công nghệ và tham nhũng), 67 (chiến lược và hoạt động doanh nghiệp). Đặc biệt số liệu về chiến lược và hoạt động doanh nghiệp là chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự hoạt động lâu dài của doanh nghiệp. Chiến lược hoạt động lâu dài của doanh nghiệp thể hiện tầm nhìn chiến lược của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều chưa có một chiến lược kinh doanh lâu dài, có tầm nhìn chiến lược mà chủ yếu làm theo cách “ăn xổi ở thì”. 1.2 Nhận thức hạn chế, thiếu thông tin về thị trường thế giới Một trong những nguyên nhân khiến năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn thấp là do nhận thức và hiểu biết về sự cần thiết của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Đa số các doanh nghiệp chưa biết các luật lệ cạnh tranh quốc tế, yếu về tiếp cận thị trường, thiếu thông tin về nhu cầu thị trường, công nghệ sản xuất lạc hậu dẫn đến năng suất và chất lượng còn thấp. Trong thời điểm hiện nay, khi mà hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là điều không tránh khỏi của bất kỳ quốc gia nào. Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế và thậm chí là ở cả thị trường trong nước ngày càng trở nên khốc liệt hơn rất nhiều thì còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có tinh thần chuẩn bị cao. Nhiều doanh nghiệp chưa nắm thông tin về hội nhập. Theo báo cáo của Ban kinh tế Trung ương thì có 16% doanh nghiệp được hỏi không biết thông tin về hội nhập, 50% doanh nghiệp không có thông tin về hiệp định thương mại Việt –Mỹ. Những bất cập trên đã hạn chế không ít công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, tiếp thị... Nhiều doanh nghiệp còn thụ động trông chờ và thiếu những chiến lược dài hạn và trung hạn về thị trường, về mặt hàng. Phương thức kinh doanh xuất, nhập khẩu về nhiều mặt còn lạc hậu so với thế giới, riêng về thương mại điện tử mới đang ở giai đoạn đầu. Cụ thể, trong năm 2001 xuất khẩu gạo tăng 64% về lượng nhưng kim ngạch giảm 8,5%, cà phê xuất khẩu tăng 29% nhưng kim ngạch giảm 20%, hạt tiêu tăng 62% về lượng, kim ngạch giảm 28%. Một số liệu của trung tâm kinh tế châu á- Thái Bình Dương cho thấy, trong gần 1000 doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang hoạt động, chỉ có khoảng 50 doanh nghiệp (5%) có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. 1.3 Thương hiệu hàng hoá còn thiếu và yếu Nhiều mặt hàng của Việt Nam có khả năng cạnh tranh như cà phê, trái cây, gạo chất lượng không thua kém gì so với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực nhưng không cạnh tranh được do chúng ta chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho hàng hoá “made in VietNam” hoặc nếu có thì cũng rất nhỏ bé và còn bị mất thương hiệu. Điển hình là một số doanh nghiệp Việt Nam đã phải chịu chi phí không nhỏ để sang nước ngoài đòi thương hiệu như Cà phê Trung Nguyên, thuốc lá Vinataba...Thương hiệu hàng Việt Nam ít được biết đến nên chỉ là hàng cấp hai được một số nước trung gian nhập khẩu về sau đó họ tái xuất với tên tuổi nhãn mác của họ. Ví dụ như Singapore nhập hầu hết các loại thuỷ sản Việt Nam, Đài Loan là nước nhập khẩu chính cá ngừ đại dương của ta để xuất sang Nhật Bản. Điều này còn có thể thấy qua việc hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới nhưng hạt gạo của chúng ta vẫn chưa có một cái tên gọi chính thức trong khi đó gạo của Thái Lan đã được đăng ký bảo hộ trên toàn thế giới. 1.4 Hoạt động quảng bá và giới thiệu về sản phẩm chưa đạt hiệu quả Bên cạnh đó, hoạt động giới thiệu thông tin và quảng bá về sản phẩm của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam còn yếu và thiếu tính chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp không có hoặc thiếu cán bộ giỏi, có năng lực phân tích và dự báo tình hình kinh tế, thị trường nhất là tiếp cận thị trường quốc tế để có được những định hướng và chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn và thời kỳ. Một số doanh nghiệp nếu có mạnh dạn tham gia các triển lãm, hội chợ quốc tế ở nước ngoài thì chỉ giới thiệu hàng hoá của mình một cách âm thầm tại gian hàng mà chưa biết khuyếch trương mặt hàng và tạo ra sự bất ngờ, thu hút người tiêu dùng cũng như các nhà nhập khẩu, hãng phân phối lớn của nước bạn. Các hình thức quảng cáo thì đơn điệu tẻ nhạt và hầu như không mang lại hiệu quả mong muốn. 2. Năng suất, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao và không ổn định. Việt Nam đang hướng nền kinh tế phát triển theo hướng tập trung đẩy mạnh xuất khẩu song do quy mô sản xuất còn nhỏ, manh mún, không tập trung, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và các nhà xuất khẩu nên năng suất thấp và chất lượng không ổn định ( nhất là hàng nông sản như gạo, rau quả, cà phê...) Một trong những yếu điểm của hàng hoá Việt Nam là chất lượng chưa cao do trình độ công nghệ thấp, hình thức mẫu mã và chủng loại chưa phong phú đa dạng, không hấp dẫn người tiêu dùng nước ngoài nhất là đối với những thị trường khó tính. Các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ chào bán những gì mình có chứ không đi tìm hiểu xem thị trường cần cái gì và yêu cầu của họ đối với mặt hàng đó là như thế nào. Trong số các mặt hàng chủ lực của ta, nhóm hàng nông lâm thuỷ hải sản chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Đây là nhóm hàng đòi hỏi phải có sự đầu tư về khoa học công nghệ từ khâu nghiên cứu sản xuất giống, nuôi trồng cho đến chế biến để nâng cao giá trị hàng hoá. Tuy nhiên, chúng ta lại chủ yếu là xuất khẩu dưới dạng tươi sống hoặc có qua chế biến nhưng giá trị chưa cao vì mới chỉ là sơ chế mà thôi.Trong khi đó, Thái Lan là một nước láng giềng lại có công nghệ chế biến nông sản rất cao. Họ coi trọng hình thức và mẫu mã của sản phẩm. Hiện nay các mặt hàng rau quả sấy khô hoặc bảo quản chân không trong túi nhựa PE của Thái Lan tràn ngập thị trường Châu Âu và cả Châu á được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Gạo của Thái Lan được đóng trong từng bao với nhiều cỡ trọng lượng khác nhau. Hạt gạo được đánh bóng rất sạch và đẹp. Cà phê chúng ta xuất khẩu chủ yếu là loại Robusta trong khi nhu cầu thị trường lại chủ yếu là Arabrica. Về mặt hàng Thuỷ hải sản, theo đánh giá của FAO, Việt Nam xếp thứ 17 trong số 20 nước có sản lượng khai thác thuỷ sản hàng năm từ 1 triệu tấn trở lên. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1999, mặc dù tổng sản lượng thuỷ sản (kể cả khai thác và nuôi trồng) chỉ tăng gần gấp đôi ( từ 1.010.800 tấn lên 1.827.300) nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên gấp 5 lần (từ 20 triệu USD lên 97,1 triệu USD), từ 2000 đến 2002 đạt kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Mỹ... Đây là những thị trường có đòi hỏi rất khắt khe về yêu cầu chất lượng và an toàn thực phẩm. Thuỷ sản Việt Nam đang dần lấy lòng tin của người tiêu dùng nước ngoài, tuy nhiên vẫn còn tình trạng bị trả lại hàng do dư lượng thuốc kháng sinh trong các chế phẩm cao hơn mức cho phép. Đây là lỗi của các nhà chế biến do chưa thông hiểu và thiếu sự nghiêm ngặt trong khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất, làm các nhà nhập khẩu không thật sự yên tâm khi nhập hàng thuỷ sản của Việt Nam . 3.Hiệu quả kinh tế thấp Hàng Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô, lại xuất khẩu qua nhiều khâu trung gian nên nhìn chung giá bán thấp hơn giá của thị trường quốc tế và khu vực trong khi chi phí cho một đơn vị sản phẩm cao hơn các nước trong khu vực dẫn đến giá thành cao do đó hiệu quả kinh tế thấp, lợi nhuận thu được không được như mong muốn. Chỉ trừ một số mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam đã đạt được mức giá ngang với mặt hàng cùng loại của Thái Lan như tôm đông lạnh có giá 15 USD/kg bán ở thị trường Mỹ, còn lại nhìn chung giá thấp chỉ bằng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan và Inđônêxia. Thêm vào đó là khâu tổ chức quản lý xuất khẩu không tốt dẫn đến tình trạng tranh bán. Các đối tác nước ngoài lợi dụng điều này để ép giá làm cho giá bán giảm dẫn đến thiệt cho cả người sản xuất (chủ yếu là người nông dân) cũng như nhà xuất khẩu. Tình trạng này xảy ra chủ yếu đối với các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, nhân điều..., một phần là do tính chất thời vụ của hàng nông sản, thêm vào đó là do khâu bảo quản của các doanh nghiệp xuất khẩu còn kém. Thiếu am hiểu về pháp luật và tập quán mua bán quốc tế. Điểm yếu của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hiện nay là trình độ chuyên môn về kinh doanh xuất nhập khẩu, đặc biệt là sự am hiểu về pháp luật cũng như tập quán mua bán quốc tế của đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên trách còn rất hạn chế. Thiếu hiểu biết về luật pháp của nước nhập khẩu cũng như tập quán mua bán quốc tế đã làm giảm số đối tác muốn làm ăn mua bán với các doanh nghiệp Việt Nam. Hàng năm, nhiều vụ kiện tụng, tranh chấp quyền lợi trong hợp đồng xuất nhập khẩu xảy ra mà bên thua thiệt thường là các doanh nghiệp Việt Nam do không nắm chắc các quy định pháp luật hoặc tạp quán mua bán, thanh toán quốc tế. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho một số công ty nước ngoài lợi dụng thực hiện các vụ lừa đảo làm thiệt hại to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã hạn chế về khả năng tài chính và còn bị mất uy tín kinh doanh trên thị trường quốc tế. 5.ảnh hưởng của yếu tố khách quan Bên cạnh những hạn chế trong nội tại nền kinh tế Việt Nam thì yếu tố thị trường quốc tế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Nền kinh tế thế giới hiện nay đang vận động và phát triển không ngừng. Cùng với nó là sự thay đổi các hình thức thương mại từ mua bán trao đổi hàng hoá theo kiểu truyền thống sang thương mại điện tử (e-commerce) và rồi đến thương mại kỹ thuật số (d-commerce) cũng đã xuất hiện. Điều này cũng đồng nghĩa với việc sẽ có nhiều những khó khăn bỡ ngỡ đối với các quốc gia đang phát triển và mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam. Một khó khăn không nhỏ đối với Việt Nam là chúng ta có nhiều đối thủ cạnh tranh nặng ký như Trung Quốc, Thái Lan... trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp nhẹ vốn là thế mạnh của Việt Nam. Trung Quốc có lợi thế về giá nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào và có sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ trong xuất khẩu. Thái Lan lại là một nước đi trước trong nền kinh tế thị trường nên họ có kinh nghiệm hơn ta trong việc tổ chức sản xuất, chế biến cũng như chiến lược phân phối lưu thông hàng hoá đi các thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, hàng Việt Nam vào các thị trường Châu Âu lại phải chịu hạn ngạch như dệt may, giày dép, thuỷ sản...và chủ yếu là hàng gia công nên giá trị thu được thấp, kim ngạch chưa cao, không phát huy hết được công suất, năng lực sản xuất. Nhiều doanh nghiệp dệt may, da giày chỉ có việc một thời gian hoặc nửa năm do đã xuất hàng đủ hạn ngạch được giao. Không chỉ cạnh tranh với các nước láng giềng trong khu vực, hàng hoá của Việt Nam còn phải chịu sức ép về thuế và cả vấn đề pháp lý cũng như thương hiệu đối với các sản phẩm cùng loại ở nước nhập khẩu mà vụ án cá Basa( Catfish) ở Hoa Kỳ là một minh chứng cụ thể nhất. Tình hình chính trị thế giới hiện nay rất phức tạp. Chiến tranh I rắc, khủng bố ở Mỹ và Trung Đông, xung đột sắc tộc ở các nước SNG gây mất ổn định tình hình kinh tế xã hội ở một số khu vực đã làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân dẫn đến giảm kim ngạch xuất nhập khẩu của một số quốc gia liên quan. III. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu mặt hàng chủ lực khi Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế thế giới Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay đã là một xu hướng, một quá trình không thể đảo ngược bởi nó là sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới và đối với tất cả các quốc gia, không phân biệt trình độ phát triển, vị thế quốc tế hay lựa chọn chính trị - xã hội của mỗi nước. Dù muốn hay không, mỗi nước đều phải gia nhập quỹ đạo toàn cầu. Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển như vũ bão và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh. Thương mại quốc tế sẽ được mở rộng. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những cả những mặt tích cực và tiêu cực sẽ liên tục diễn biến thông qua sự hợp tác- đấu tranh phức tạp giữa các đối tác, từ các tập đoàn đa và xuyên quốc gia đến các công ty vừa và nhỏ. Thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quopóc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Vì thế, việc gia nhập càng chủ động thì càng hiệu quả và tránh được nhiều rủi ro. Thực tế cho thấy càng tích cực và chủ động hội nhập bao nhiêu thì các chi phí và thua thiệt càng thấp hơn so với việc kéo dài quá trình không hành động và không chuẩn bị. Sự sẵ._.n sàng về các điều kiện gia nhập vào quỹ đạo toàn cầu hoá là không giống nhau đối với các nước. Do vậy, những thách thức hội nhập đặt ra mức độ lợi ích thu được từ đó cũng rất khác nhau giữa các nước. Tiến trình, cách thức hội nhập là đặc thù cho mỗi quốc gia. Trong bối cảnh hợp tác kinh tế toàn cầu hiện nay, việc tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế là một bước đi đúng đắn. Chủ động hội nhập còn nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, chủ động tìm kiếm thị trường mới. 2) Cơ hội 2.1 Ưu đãi về thuế quan Có thể nói trong thập kỷ 90,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong tiến trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, khởi đầu bằng việc gia nhập khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) và bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995, là thành viên của ASEM vào năm 1996 và của APEC vào năm 1998. Nước ta cũng đã trở thành quan sát viên của tổ chức thương mại thế giới -WTO từ năm 1995. Từ đó đến nay, chúng ta cũng đã ký được một số hiệp định, thoả thuận thương mại song phương với nhiều quốc gia là thành viên của WTO như Nhật Bản, EU...và đang tiếp tục đàm phán với các thành viên khác để chuẩn bị gia nhập WTO. Như vậy, Việt Nam sẽ ngày càng được hưởng những ưu đãi về thuế cho hàng hoá xuất khẩu của mình từ các thị trường lớn như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ... Tiến trình tham gia CEPT/AFTA sẽ thực sự tăng tốc từ ngày 01/01/2003. Từ nay cho tới 2006, mức thuế nhập khẩu đối với các nước là thành viên ASEAN sẽ giảm xuống chỉ còn 0-5%. Hàng hoá của Việt Nam nếu có khả năng cạnh tranh cao thì đây sẽ là một thuận lợi lớn trong việc chiếm lĩnh thị trường Đông Nam á vì đây là một thị trường khá lớn, dễ tính và gần với chúng ta cả về thói quen tiêu dùng lẫn vị trí địa lý, thuận tiện cho việc vận chuyển, thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển nhất là xuất khẩu các mặt hàng chủ lực. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Mỹ giữa Chính phủ hai nước Việt nam và Hoa Kỳ là một bước tiến lớn của nền kinh tế nước ta ra thị trường thế giới. Theo dự kiến, bằng việc trao cho các nhà xuất khẩu Việt Nam tỷ lệ thuế quan tương đương mức của các nhà xuất khẩu khác thuộc nhóm các nước ưu đãi Tối huệ quốc - Most Favoured Nation (MFN), Hiệp định thương mại Việt Mỹ sẽ thúc đẩy đáng kể kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường này. Cụ thể là năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 2,25 tỷ USD và dự kiến năm 2003 sẽ là 3,05 tỷ. Sở dĩ có được kết quả như vậy là vì thuế nhập khẩu đánh vào hàng Việt Nam sang Mỹ sẽ từ mức của các nước phi MFN giảm xuống còn chưa tới 3%. Việc giành được ưu đãi MFN có nhiều khả năng sẽ làm chuyển đổi một cách mạnh mẽ sự phức tạp trong danh mục hàng xuất khẩu Việt Nam tới Mỹ. Kể từ khi lệnh cấm vận thương mại được bãi bỏ vào năm 1994, phần lớn hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ nếu không thuộc các loại hàng có ưu đãi miễn thuế thì cũng thuộc các loại hàng có chung mức thuế thấp với các quốc gia có ưu đãi MFN. Trước mắt, hiệp định thương mại Việt Mỹ có nhiều khả năng sẽ làm gia tăng giá trị xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam có mức chêng lệch lớn giữa thuế suất ưu đãi MFN và phi MFN, đó là những sản phẩm sử dụng nhiều lao động. Trong tương lai, có nhiều khả năng tăng mạnh hàng may mặc, đồ thuộc da, giày dép, đồ nhựa gia dụng và thực phẩm thuỷ hải sản chế biến. Hiệp định thương mại Việt Mỹ cũng đưa Việt Nam tiến gần thêm một bước trong việc nhận được lợi ích thương mại từ Hoa Kỳ theo hệ thống ưu đãi chung (GSP). Hệ thống này cho phép miễn thuế nhập khẩu cho rất nhiều mặt hàng của các nước kém phát triển. Hơn nữa, hiệp định thương mại Việt Mỹ còn là nền móng vững chắc để Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, tạo cho Việt Nam cơ hội tiếp cận tất cả các thành viên WTO mà không bị phân biệt đối xử. 2.2 Mở rộng thị trường Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ mang lại ưu đãi thuế quan đối với các nhà xuất khẩu Việt nam mà còn giúp chúng ta mở rộng thị trường truyền thống (tăng hạn ngạch nhập khẩu ở thị trường EU đối với mặt hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy...) thâm nhập được vào nhiều thị trường mới như Châu Phi, Trung Đông, Bắc Mỹ... 2.3 Cải thiện vị thế thương mại trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, Việt Nam nổi lên là một nước xuất khẩu hàng nông lâm thuỷ sản lớn trên thị trường thế giới với các mặt hàng gạo( thứ hai thế giới), hạt tiêu ( đứng đầu thế giới), nhân điều, cà phê, thuỷ sản...Do đó, Vị thế của Việt nam trên thị trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Hiện nay, Việt nam đã là thành viên của Hiệp hội các nước sản xuất cà phê, chè, tiêu...Việt nam cũng có chân trong ban thư ký gạo gồm năm nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Sắp tới, Việt Nam có ý định xin gia nhập Tổ chức cao su quốc tế 3 bên (ITRO). Điều này cũng có nghĩa là các doanh nghiệp của ta khi xuất khẩu sẽ được bảo vệ tốt hơn về mặt quyền lợi về giá bán, về thông tin tình hình thị trường thế giới nhằm giảm thiểu những rủi ro trong kinh doanh. 3) Thách thức 3.1 Cạnh tranh khốc liệt với các nước trong khu vực Tuy nhiên, đi đôi cùng với những thuận lợi bao giờ cũng là những khó khăn, thách thức. Việt Nam đang nằm trong khu vực kinh tế tăng trưởng mạnh và năng động. Các nước ASEAN với những nguồn tài nguyên tương đồng như ta có thế mạnh trong sản xuất và xuất khẩu hàng hoá giống Việt nam. Đặc biệt họ còn có lợi thế là tham gia thị trường quốc tế sớm hơn. Do vậy, hàng hoá Việt Nam muốn đứng vững và phát triển được trên thị trường thế giới thì phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hoá của các nước ASEAN khác cả về chất lượng, giá cả cũng như các chiến lược phân phối lưu thông hàng hoá trên thị trường quốc tế. Việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO cũng là một thách thức to lớn cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, nhất là các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép...sang các thị trường lớn bởi đây cũng là thế mạnh của họ. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam càng phải gấp rút nâng cao năng lực cạnh tranh hơn nữa trong giai đoạn sắp tới và lâu dài. 3.2 Sức ép từ phía thị trường nhập khẩu Không chỉ cạnh tranh với các nước trong khu vực trên thị trường quốc tế, Việt nam còn phải vượt qua sức ép, cản trở không kém phần khó khăn, gian khổ từ phía các nhà sản xuất các mặt hàng mà Việt nam xuất khẩu sang thị trường của họ. Với chi phí sản xuất thấp, hàng Việt Nam dễ dàng được thị trường các nước phát triển chấp nhận bởi giá bán rẻ hơn so với mặt hàng này được sản xuất tại nước đó. Điều này đã gây tổn hại tới lợi nhuận của các nhà sản xuất tại các nước đó và họ đề nghị Chính phủ áp đặt các quy định khắt khe với các hàng hoá đó như tăng thuế, đưa ra các rào cản kỹ thuật hoặc thậm chí là còn kiện các nhà xuất khẩu bán phá giá, vi phạm bản quyền, thương hiệu hàng hoá của họ nhằm cản trở việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường đó. Điển hình của việc cạnh tranh này là vụ kiện cá Basa tại Mỹ và giầy, đế giầy không thấm nước ở Canada. Tóm lại, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã, đang và sẽ mang lại cho nền kinh tế Việt nam nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng những cơ hội và cả thách thức trong việc đẩy mạnh hoạt động ngoại thương nhất là xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu mang lại nguồn thu cho ngân sách để từng bước Việt Nam thực hiện công cuộc CNH- HĐH đất nước. Chương 2 Thực trạng xây dựng các mặt hàng chủ lực của Việt nam I. Hiện trạng xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam 1.Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 1.1. Quan điểm chỉ đạo hoạt động ngoại thương Việc xác lập một hệ thống quan điểm rõ ràng, nhất quán về ngoại thương theo đường lối mới là rất cần thiết để làm cơ sở cho việc hoạch định và thi hành thống nhất các chính sách phát triển ngoại thương. Quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động ngoại thương như sau: Một là, mở rộng hoạt động ngoại thương để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, phải đảm bảo nguyên tắc: bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, đảm bảo sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng quan hệ kinh tế trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây là quan điểm biểu hiện sự mở cửa và cũng là lần đầu tiên chúng ta nêu mục đích của hoạt động ngoại thương là để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Hai là, khắc phục tính tự cung, tự cấp của nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế có hiệu quả, mở rộng kinh tế đối ngoại. Quan điểm này đặt ra vấn đề mở cửa nền kinh tế hướng ra ngoài, trước hết phải khai thông thị trường trong nước từng mặt hàng, nhóm hàng, phải hình thành một thị trường thống nhất. Ba là, mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế vào hoạt động ngoại thương dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Từ trước năm 1985, nền kinh tế của Việt Nam duy nhất chỉ công nhận thành phần kinh tế Nhà nước bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Trong lĩnh vực ngoại thương cũng vậy, chỉ có những công ty nhà nước mới được quyền xuất- nhập khẩu trực tiếp. Từ năm 1986 đến nay, hoạt động ngoại thương theo quan điểm mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước, do đó kinh doanh xuất, nhập khẩu không còn là lĩnh vực độc quyền của các công ty ngoại thương quốc doanh nữa. Bốn là, coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội trong hoạt động ngoại thương. Hiệu quả kinh tế là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá kết quả của hoạt động ngoại thương. Hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động ngoại thương không chỉ có nghĩa là mức lợi nhuận tính bằng tiền, mà còn thể hiện ở mức đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội như: đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, nâng cao thu nhập quốc dân tính theo đầu người, tạo công ăn việc làm, đóng góp vào việc sử dụng tốt nhất mọi khả năng, tiềm năng sản xuất, nâng cao địa vị kinh tế của Việt Nam trên thị trường thế giới, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế ... Năm là, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ thương mại. Đa dạng hoá trong hoạt động thương mại có nghĩa là hàng hoá của chúng ta không những đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa mà còn đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Do vậy, cơ cấu xuất khẩu không chỉ xuất khẩu những sản phẩm truyền thống mà còn xuất khẩu những sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện đại trên phạm vi thế giới. Đa dạng hoá quan hệ thương mại còn được hiểu là trong buôn bán, chúng ta phải mở rộng các hình thức buôn bán ngày càng phong phú hơn, linh hoạt hơn như: Hàng đổi hàng, mua bán đối ứng, mua bán uỷ thác... Đa phương hoá quan hệ thương mại có nghĩa là mở rộng quan hệ buôn bán và các quan hệ kinh tế khác với tất cả các nước, với các khu vực, các thương nhân, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền của nhau. . 1.2Quan điểm của Đảng về xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam. Có thể nói, không phải chỉ mãi cho đến những năm gần đây Nhà nước ta mới bàn về xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, vấn đề này đã được Nhà nước đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, do chiến tranh kéo dài trong nhiều thập kỷ cùng với những khó khăn của những năm đầu hậu chiến, vấn đề xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực không có điều kiện phát triển thành hiện thực trong một thời gian dài. Chỉ đến thập kỷ gần đây, khi chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi về chủ quan và khách quan, được tiếp xúc mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới, vấn đề này đã được xem xét một cách nghiêm túc và ngày càng được đề cập cụ thể trong các văn kiện đại hội Đảng. Việc nghiên cứu lại từng văn kiện đại hội Đảng toàn quốc của các kỳ sẽ đem lại một nhận thức rõ hơn về quan điểm của Đảng trong việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt nam. Nếu như trong nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI(1986) mới chỉ đề cập đến vai trò của xuất khẩu nói chung và đưa xuất khẩu cùng với lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng thành 3 chương trình kinh tế lớn của cả nước, mà chưa đề cập một cách cụ thể đến việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, thì kể từ đại hội Đảng lần thứ VII trở đi, vấn đề này đã chính thức được nêu ra và ngày càng thể hiện rõ qua các văn kiện VIII, IX. Nghị quyết đại hội lần thứ VII chỉ rõ: “Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỉ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông sản, thuỷ sản”(4) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - tr.64. . Sang đến nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII, quan điểm của Đảng không chỉ dừng lại ở chỗ : “tạo ra các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông sản, thuỷ sản” mà đã nâng lên thành “tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu, tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ”(5) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - tr.90. . Đặc biệt đến đại hội IX của Đảng, quan điểm về vấn đề này càng cụ thể hơn, chi tiết hơn và việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có tính chiều sâu hơn. Trong phần kế hoạch kinh tế - xã hội 2001- 2005, Đảng ta đã khẳng định rõ “tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính...”(6) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - tr.288. . Tóm lại, việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một vấn đề hết sức quan trọng đã và đang được Đảng ngày càng quan tâm và ngày càng thể hiện rõ qua các văn kiện đại hội Đảng. Những quan điểm chủ đạo này của Đảng là cơ sở, nền tảng để Việt Nam phát triển việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. 3.Thực trạng xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực thực chất là quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu. ở Việt Nam, quá trình này được gắn liền với những giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986), Đảng ta đã xác định phải thực hiện 3 chương trình: lương thực- thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đến nay, các mục tiêu tổng quát của 3 chiến lược 5 năm đã cơ bản được thực hiện, đất nước ra khỏi khủng hoảng từng bước vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển, đã tạo được một số thay đổi cơ bản trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là sự chuyển dịch trong cơ cấu xuất khẩu. Dưới đây là tình hình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt nam từ 1991 đến nay. 2.1. Tình hình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu giai đoạn 1991- 1995. Trước năm 1989, Việt nam chưa có dầu thô và gạo để xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước chưa bao giờ vượt quá 1 tỷ USD, thì đến năm 1989 chúng ta đã lần đầu tiên xuất 1,4 triệu tấn gạo và liên tục xuất khẩu gạo từ đó đến nay. Đặc biệt, năm 1991 dầu thô đã chính thức trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và ngành dầu khí cũng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Sản lượng dầu thương phẩm ngày một tăng, thu ngoại tệ từ xuất khẩu dầu thô luôn đứng hàng đầu trong các ngành kinh tế.. Bảng 3: Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam giai đoạn 1991-1995 Đơn vị:% Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 Thời kỳ 1991-1995 Nông, lâm, hải sản 52,3 49,2 50,8 50,0 46,3 48,2 Công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công nghiệp 14,3 13,7 15,1 16,7 28,4 21,4 Công nghiệp nặng và khoáng sản 33,4 37,1 34,1 33,3 25,3 30,4 Nguồn: Tổng cục thống kê 1996, Báo cáo của Bộ thương mại năm 2000. Trong giai đoạn 1991-1995, xu hướng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản vẫn tiếp tục tăng, cao nhất là năm 1992 chiếm 37% kim ngạch xuất khẩu của cả nước do giá trị xuất khẩu của dầu thô lớn. Nhưng đến năm 1995, tỷ trọng này giảm xuống còn 25,3% do sự lên ngôi của hàng dệt may, chế biến hải sản và giầy dép xuất khẩu. Trong cơ cấu xuất khẩu chung, hàng nông lâm hải sản có xu hướng giảm dần, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng tăng dần, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp bắt đầu có sự thay đổi. Như vậy, kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn mở đầu để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp - giai đoạn để nền công nghiệp khởi động bằng lợi thế về địa lý và nhân lực...làm cho nền kinh tế tăng trưởng theo hướng xuất khẩu. Trong giai đoạn này, chúng ta có 7 mặt hàng xuất khẩu chủ lực gồm: gạo, dầu thô, thuỷ sản, dệt may, cà phê, giày dép và cao su. Hàng chủ lực của Việt nam được xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản, Mỹ, EU, Châu á, Bắc Mỹ... 2.2. Giai đoạn 1996-2000. Trong giai đoạn này, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có sự thay đổi tích cực, song sự chuyển dịch này vẫn còn chậm. Năm 1996, cơ cấu hàng nông lâm, hải sản, công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 71%( hàng nông lâm hải sản chiếm 42,3%, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 28,7%); năm 2000, tỷ trọng này là 62,1%( trong đó hàng nông lâm hải sản chiếm 33,6%, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là 28,5%). Riêng với hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh trong năm 1997( từ 29,0% lên 36,7%), nhưng năm 1998-1999 nhóm hàng này có chiều hướng chững lại( 34,7% vào năm 1998 và 36,2% năm 1999). Năm 2000, cơ cấu xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng tới 37,9% trong cơ cấu xuất khẩu của cả nước. Bảng 4: Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam giai đoạn 1996-2000. Đơn vị: % Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 2000 Thời kỳ 1996-2000 Nông, lâm, thuỷ sản 42,3 35,3 37,0 32,8 33,6 35,6 Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp 29,0 36,7 34,7 36,2 37,9 35,4 Công nghiệp nặng và khoáng sản 28,7 28,0 28,3 31,0 28,5 29,0 Nguồn: Báo cáo của Bộ Thương mại năm 2000. Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch tương đối rõ nét. Đã hình thành một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang dần có vị thế trên thị trường khu vực và thế giới. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo có sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giầy, thuỷ sản...vẫn chiếm tỷ trọng không nhỏ. Bên cạnh đó, một số mặt hàng xuất khẩu mới đã xuất hiện và có nhiều triển vọng phát triển tốt trong những năm tới như hàng nông sản chế biến, rau quả, hàng điện tử và linh kiện điện tử. Mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Năm 1991 mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ- hải sản, gạo, dệt may (đạt kim ngạch trên 100 triệu USD trở lên). Đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới là cà phê, cao su, nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Bốn nhóm mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD trong năm 2000 là giày dép đạt 1,46 tỷ USD; dệt may đạt 1,89 tỷ USD; hải sản đạt gần 1,48 tỷ USD, dầu thô đạt 3,5 tỷ USD và 3 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu khá cao như gạo đạt 667,35 triệu USD; cà phê đạt 501,45 triệu USD; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 782,65 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu rau quả đạt 213,55 triệu USD và hàng thủ công mỹ nghệ đạt 236,86 triệu USD. Trong 10 sản phẩm đứng đầu có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao, có 5 sản phẩm xuất khẩu thuộc ngành công nghiệp và công nghiệp chế biến đó là dầu thô, dệt may và may mặc, giày dép, thuỷ sản, điện tử và linh kiện máy tính. Thực tế cho thấy, 5 mặt hàng công nghiệp này luôn chiếm từ 50-60% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Năm 2000, chỉ tính riêng kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng công nghiệp xuất khẩu trên đã đạt 9,12 tỷ USD, chiếm 63,75% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Giai đoạn 2001 cho đến nay. Năm 2002, xuất khẩu các sản phẩm phi dầu thô tăng tới 12%, cao hơn mức tăng 8,7% của năm 2001. Tốc độ này là khá cao so với một số nước trong khu vực( kim ngạch của Philippin, Thái Lan, Đài Loan năm 2002 tăng dưới 10%, Inđônêxia còn thấp hơn). Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17%, khu vực 100% vốn trong nước tăng 9,7% ( tốc độ tương ứng của 2 khối này năm 2001 là 11% và 7,7%). Đáng chú ý là tỷ trọng khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước đã lên tới 48,5%, các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm khoảng 51,5% đã cho thấy sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước ngoài quốc doanh là rất mạnh mẽ là một bộ phận quan trọng, đóng góp không nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhất là trong các mặt hàng công nghiệp nhẹ và chế biến. Năm 2002 có thêm mặt hàng hạt tiêu góp phần vào danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và như vậy Việt Nam có 13 mặt hàng chủ lực. Trong số 13 mặt hàng chủ lực có kim ngạch tăng thì đa số đều do lượng tăng. Điều này cho thấy thị trường tiêu thụ vẫn được đảm bảo, thị phần trên thế giới đối với một số mặt hàng tiếp tục tăng. Riêng xuất khẩu nông sản mặc dù giá vẫn thấp nhưng đã có tới 3 mặt hàng có lượng tăng là cao su, hạt tiêu, hạt điều. Hai mặt hàng gạo và cà phê lượng xuất khẩu giảm nhưng nguyên nhân chính là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động của hạn hán chứ không phải do thiếu thị trường. Mặt hàng thuỷ sản và một số mặt hàng chế biến như dệt may, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ tiếp tục tăng khá cả về lượng và kim ngạch, trong đó riêng phần đóng góp của 2 nhóm hàng dệt may và giầy dép đối với tăng trưởng chung đã là 7,2%( dệt may 4,85; giầy dép 2,4%). Tuy mới tham gia vào cơ cấu xuất khẩu nhưng chúng sẽ là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh của Việt Nam trong những năm tới. Chất lượng hàng xuất khẩu cũng đã được nâng lên đáng kể, đã góp phần làm gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và tác động tích cực tới chất lượng sản phẩm trong nước. Một số nông sản phẩm của Việt Nam đã có vị trí trên thị trường thế giới đồng thời giá cả các sản phẩm đó cũng được tăng lên một cách đáng kể. Ví dụ như hạt điều giá trung bình trong cả giai đoạn 11991-1995 đạt 908 USD/tấn đến năm 1998 giá 1 tấn điều đạt 1015,6 USD; năm 1999 mỗi tấn tăng lên 309 USD so với năm 1998. Tính trung bình trong cả giai đoạn 1996 –2000 giá điều là 1078,4 USD/tấn. Tương tự hạt tiêu của Việt Nam giá xuất khẩu liên tục tăng trên thị trường thế giới, từ 1845,8 USD/ tấn(1996) tăng lên 3945 USD/tấn(1999). Có được kết quả này là do chúng ta đã có những đầu tư vào công đoạn chế biến sản phẩm nông sản. Đây sẽ là một hướng đi đúng và then chốt để Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2010. II. Đánh giá tình hình xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một phần quan trọng trong chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nó đòi hỏi phải có sự phối hợp từ hai phía: Nhà nước và các doanh nghiệp. Vì vậy việc đánh giá hoạt động này phải được xét từ cả hai chủ thể tham gia là Nhà nước và các doanh nghiệp. Dưới đây là một số đánh giá về tình hình xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ thực trạng nêu trên. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ song còn nhiều bất cập về chính sách và văn bản hướng dẫn. 1.1. Sự quan tâm của Chính phủ Cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh tế đất nước và những yêu cầu cấp thiết của cơ chế thị trường, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhận thức và đánh giá được tầm quan trọng của hoạt động kinh tế ngoại thương và nhất là hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế nước nhà trong công cuộc CNH- HĐH và xu thế phát triển tất yếu của kinh tế thế giới. Do đó, Việc hoạch định chính sách xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá phát triển mạnh mẽ luôn là mối quan tâm của Đảng, Chính phủ, các cấp và các ngành hữu quan. Hàng năm, Chính phủ và Bộ Thương mại luôn tổ chức các buổi gặp gỡ các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu để lắng nghe những ý kiến phản hồi về hiệu quả của những bộ luật, văn bản thông tư dưới luật đã ban hành đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng để kịp điều chỉnh những tồn tại, hạn chế của các văn bản đó. Từ đó, với những thông tin kịp thời về tình hình sản xuất, xuất khẩu cũng như nhu cầu của thị trường tiêu dùng thế giới, Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách, chiến lược có tính lâu dài trong việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đối với cả cơ cấu nền kinh tế đất nước trong những năm tới. Một thuận lợi lớn cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là sự quyết tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Sau khi thi hành những biện pháp nhằm giải phóng tiềm năng, Chính phủ đã và đang quan tâm nhiều hơn tới các giải pháp theo chiều sâu, tác động đến hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Tại Hội nghị thương mại toàn quốc 2003, Thủ tướng Phan Văn Khải chỉ đạo: “Từ thành quả của hoạt động xuất khẩu năm 2002, Bộ Thương mại cần rút ra bài học cho xuất khẩu năm 2003: mặt hàng nào có thể tăng kim ngạch xuất khẩu thì tìm mọi cách thúc đẩy mặt hàng đó. Rà lại từng sản phẩm xuất khẩu, những sản phẩm có ưu thế cần được tập trung đầu tư, tạo cơ chế chính sách ưu đãi. Do đó, từ Trung ương đến địa phương cần chủ động cho xuất khẩu ngay từ đầu năm”. Hoạt động xuất khẩu trong những năm vừa qua đã nhận được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Hàng loạt biện pháp khuyến khích và hỗ trợ, bao gồm cả hỗ trợ tài chính, đã được xem xét ban hành để giúp các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, giữ vững tiến độ tiêu thụ hàng hóa, nhất là tiêu thụ nông sản cho nông dân. Trong số các biện pháp đã thi hành, nổi bật lên các biện pháp sau đây: Một là, từ tháng 9/2001, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa đã được mở cho tất cả các thương nhân (trước đây chỉ mở đến doanh nghiệp). Phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cũng không còn phụ thuộc vào ngành hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nữa. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể từ tháng 1/2002, cũng đã được quyền xuất khẩu hàng hóa gần như thương nhân Việt Nam. Đây là những biện pháp hết sức quan trọng, góp phần đa dạng hóa chủ thể xuất khẩu, qua đó khơi dậy tiềm năng xuất khẩu của tất cả các thành phần kinh tế. Hai là, để thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu nông sản trong điều kiện sức mua trên thị trường thế giới còn khá trì trệ, các biện pháp về tài chính và tín dụng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt. Chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu, sau 1 năm phát huy tác dụng, đã tiếp tục được duy trì trong năm 2002 với diện mặt hàng mở rộng hơn trước đây, trong đó chủ yếu là nông sản. Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, sau nhiều năm chuẩn bị, cũng đã được ban hành vào quý IV/2001 và phát huy tác dụng tích cực trong năm 2002. Đặc biệt, ngày 24/6/2002 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, thiết lập cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành mối liên kết giữ sản xuất nông nghiệp với chế biến và tiêu thụ. Ba là, để tiếp tục hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, nhiều loại chi phí liên quan đến xuất khẩu đã được xem xét miễn giảm, thí dụ như lệ phí kiểm dịch động thực vật, lệ phí hạn ngạch, lệ phí hải quan, lệ phí cấp C/O và cấp giấy chứng nhận cho giày dép xuất khẩu đi EU. Từ tháng 2/2002, chế độ hoàn thuế GTGT đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu đã được cải tiến để hỗ trợ cho bà con nông dân. Quan trọng nhất, ngày 10/10/2002 vừa qua, sau hơn 1 năm nghiên cứu, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư hướng dẫn chế độ thuế áp dụng cho một số doanh nghiệp vệ tinh cung ứng đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy chưa được đầy đủ như quy định tại Quyết định số 908/QĐ-TTg ngày 26/07/2001 của Thủ tướng Chính phủ như Thông tư này cũng đã đánh dấu một bước đi quan trọng trong tiến trình thúc đẩy sự hình thành mối liên kết dọc giữa các doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Bốn là, công tác thị trường và xúc tiến thương mại tiếp tục nhận được sự quan tâm đặc biệt. Thực hiện Chỉ thị số 31/2001/CT-TTg ngày 13/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2002, Bộ Thương mại đã tổ chức 05 đoàn liên ngành đi khảo sát và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và châu Phi. Ngày 27/9/2002, Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 86/2002 hướng dẫn công tác chi hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng dành toàn bộ khoản chi này cho các chương trình xúc tiến trọng điểm của Nhà nước. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng đã cho phép thành lập 03 trung tâm giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Nga và các Tiểu vương quốc A-rập Thống nhất. Nhìn chung, hoạt động xúc tiến ngày càng trở nên sôi động hơn, có thêm các hình thức xúc tiến mới. Các doanh nghiệp cũng đã và đang tham gia ngày càng tích cực và có trách nhiệm vào các chương trình xúc tiến của Nhà nước. Năm là, trong hoàn cảnh môi trường thương mại thế giới kém thuận lợi, rào cản kỹ thuật xuất hiện nhiều, các Bộ và Hiệp hội đã có sự phối hợp khá tích cực để theo dõi và nhận biết rào cản, từ đó lên phương án đối phó và đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy còn ít kinh nghiệm nhưng chúng ta cũng đã tương đối thành công trong việc giải quyết một số tình huống phức tạp nảy sinh trong xuất khẩu thủy sản vào EU, xuất khẩu rau quả vào Trung Quốc, xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ và Nhật Bản... Đây sẽ là những kinh nghiệm hết sức quý báu cho thời gian tới. Tóm lại, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu các mặt hàng chủ lực Chính phủ đều đã có chủ trương, trải rộng từ đầu tư đến sản xuất và lưu thông, từ tài chính - tín dụng đến thị trường và xúc tiến. Việc triển khai thực hiện các chủ trương này, tuy tốc độ nhanh chậm có chỗ, có lúc khác nhau nhưng nhìn chung thì cũng tương đối đạt yêu cầu. Nhiều vấn đề lâu nay bàn nhiều (như hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp vệ tinh, ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa cho dân...) đã được các Bộ, ngành quan tâm giải quyết trong năm 2002, góp phần tích cực cho thành công chung của hoạt động xuất khẩu. 1.2 Chính sách còn nhiều bất cập Tuy nhi._., tăng trưởng kinh tế có thể đạt 2,1% trong năm 2003. Khó khăn chủ yếu trong xuất khẩu vào EU là xuất hiện nhiều hàng rào kỹ thuật mới, kể cả đối với các sản phẩm thô và sản phẩm chế biến. Trong bối cảnh đó, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu vào EU là 10,5% (đã tính tới việc mở rộng EU). Với thị trường này, bên cạnh việc đàm phán tăng hạn ngạch dệt may, ta nên cố gắng liên kết với các nước có cùng mặt hàng xuất khẩu để đấu tranh với EU về các vấn đề tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường. EU đã ký thỏa thuận kết nạp thêm 10 nước thành viên mới. Sự kiện này sẽ tác động tích cực tới kinh tế và thương mại của những nước mới gia nhập. Do vậy, bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU "cũ", cần tăng cường xuất khẩu vào các nước thành viên mới, nhất là thị trường Ba Lan, Séc... 4.5 Thị trường ASEAN Mặc dù có xu hướng phục hồi trong năm 2002 nhưng kinh tế của ASEAN dễ bị tổn thương do phụ thuộc nhiều vào thị trường Hoa Kỳ và Nhật Bản, nền tảng tài chính chưa thật vững, lại gặp phải cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc, kể cả về xuất khẩu lẫn đầu tư nước ngoài. Để tăng xuất khẩu và giảm bớt áp lực nhập siêu đối với khu vực này, bên cạnh hai mặt hàng chủ lực là gạo và dầu thô, cần chủ động tận dụng thuận lợi do cơ chế AFTA mở ra từ năm 2003 để đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng tiêu dùng như sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, hàng may mặc, giày dép, thực phẩm chế biến. Các doanh nghiệp cần tích cực xin giấy chứng nhận xuất xứ from D để được hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang ASEAN. Riêng với Lào và Campuchia, cần tận dụng vị trí, địa lý để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng bách hóa tiêu dùng, phát triển hình thức vận tải quá cảnh. 4.6 Thị trường Trung Đông Trung Đông là khu vực nhạy cảm nên nhìn chung xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào tình hình chính trị khu vực này trong thời gian tới. Trong thời gian trước mắt, ta cần tranh thủ giao hàng nhanh, gọn. Để hạn chế rủi ro, các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm chiến tranh đối với hàng hoá giao đến tận kho Irắc. Ngoài ra, cần đẩy mạnh thâm nhập các thị trường khác trong khu vực này thông qua thiết lập trung tâm thương mại Việt Nam tại Đubai hoặc tham gia các hội chợ, triển lãm tổ chức định kỳ. III. Giải pháp phát triển nhằm đẩy mạnh xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nhóm giải pháp tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 1.1 Biện pháp xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực, trong thời gian qua chúng ta đã tập trung vào xây dựng 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực như đã phân tích ở trên.Trong những năm sắp tới, cần xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. Cần phát hiện sớm những mặt hàng có tiềm năng để ưu tiên phát triển nhằm thay thế cho những mặt hàng có nguy cơ giảm sút kim ngạch và sản lượng sản xuất và xuất khẩu. Riêng đối với hàng công nghiệp chế biến, kể cả hàng điện tử, hàng cơ khí cần tăng cường xuất khẩu vì nó không chỉ thu được ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhưng vấn đề cấp thiết là nâng cao trình độ công nghệ, hạ giá thành sản phẩm và tìm được thị trường tiêu thụ. Với xu thế tự do hoá thương mại, mở rộng quan hệ với các nước và hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh một cách ổn định thì các hàng công nghiệp chế biến của ta cũng đang dần chiếm lĩnh và mở rộng thị trường trên thị trường quốc tế. Đối với hàng nông sản xuất khẩu, do yêu cầu chất lượng ngày càng cao và giá cả ngày càng hạ nên chúng ta cần điều chỉnh cơ cấu sản xuất, hạn chế số lượng đi đôi với nâng cao chất lượng, tăng cường khâu chế biến sâu và tinh, tìm kiếm các loại thị trường dễ chấp nhận. Chẳng hạn, các mặt hàng như gạo, cà phê không nên chạy theo số lượng mà phải chuyển đổi giống có chất lượng gạo cao, tăng cường trồng cà phê Arabica, đầu tư vào khâu chế biến và tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong khu vực Trung Đông, các nước SNG. Với mặt hàng thuỷ hải sản cần tăng khối lượng các mặt hàng có giá trị cao và tăng cường chế biến tinh các sản phẩm ăn liền có khẩu vị đặc trưng và đi vào các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ... Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu, phát triển các làng nghề truyền thống. Phát triển các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu Khi thị trường đã được mở thì điều quan trọng là phải có đủ hàng hóa có chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường. Vì vậy, bên cạnh việc tìm kiếm khách hàng và thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu cần dành sự quan tâm thích đáng đối với các chương trình phát triển nguồn hàng tập trung cho xuất khẩu, nhất là đối với những mặt hàng rau, hoa quả, thịt lợn và thủ công mỹ nghệ. Qua khảo sát thị trường Hoa Kỳ, có thể nhận thấy nhu cầu của thị trường này đối với sản phẩm rau quả chế biến như nước dứa cô đặc, nước vải, dừa, lạc tiên... là rất lớn, một số mặt hàng nhu cầu vượt xa mức sản xuất và năng lực chế biến của ngành rau quả hiện nay. Đối với mặt hàng thịt lợn, mặc dù đã thâm nhập được thị trường Singapore và Malaysia nhưng ta vẫn chưa đáp ứng được những đơn hàng lớn của thị trường này vì chưa đủ nguồn hàng tập trung với khối lượng lớn. Phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống Các sản phẩm của làng nghề truyền thống như đồ thủ công mỹ nghệ, tơ thô, lụa tơ tằm, gấm, lụa vân, sản phẩm may mặc từ lụa tơ tằm hiện đang được đánh giá cao trên thị trường thế giới, lại thuộc nhóm hàng có nhu cầu ngày càng cao trong khi nguồn cung cấp rất hạn chế do ít nước trên thế giới có điều kiện sản xuất mặt hàng này, đồng thời thuộc danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong 5 năm gần đây. Vì vậy, mặt hàng này cần được chú trọng phát triển. Để có thể khai thác lợi thế về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống tiêu biểu này, cần phải có giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống thông qua sự trợ giúp về vốn và thiết bị kỹ thuật, kết hợp kỹ thuật hiện đại với kinh nghiệm truyền thống, tìm kiếm thị trường xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm. Một biện pháp có hiệu quả trong kinh doanh các sản phẩm truyền thống là xuất khẩu tại chỗ qua bán hàng và giới thiệu sản phẩm cho khách du lịch. Hiện nay, hầu hết các làng nghề đều đang gặp phải những vấn đề trong việc tiếp cận thông tin thị trường, nguồn vốn đầu tư, năng lực quản lý và đổi mới công nghệ. Đây là những lĩnh vực rất cần có sự quan tâm và trợ giúp của Nhà nước. Chính phủ nên hỗ trợ xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển các làng nghề TCMN truyền thống (nhất là các dự án về thông tin thị trường, nâng cao chất lượng, năng lực quản lý, tiếp thị, phát triển thương hiệu...), qua đó góp phần phát triển nguồn hàng xuất khẩu chủ lực ổn định và có chất lượng cao. Nhóm biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 2.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu Trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, chất lượng hàng hoá là một yếu tố quan trọng để giữ được bạn hàng và thị trường tiêu thụ, đặc biệt là đối với mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vì vậy để giữ vững và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài thì khâu kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên vật liệu đầu vào, kiểm soát chất lượng sản phẩm đầu ra phải được thực hiện nghiêm ngặt, tạo bạn hàng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào ổn định, đúng hạn. Nhất là trong khi có tới 7 trong tổng số 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt nam thuộc nhóm hàng nông thuỷ sản, cho nên cần lưu ý bảo quản tốt nguyên liệu đầu vào, tránh hàng xuống phẩm cấp. Doanh nghiệp sản xuất cần tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên mua hàng nước ngoài về công nghệ, quy trình sản xuất, chất lượng theo đúng mẫu hàng hoặc tài liệu kỹ thuật bên mua hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì, tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. Để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra bắt buộc là một biện pháp cần thiết. Hệ thống quản lý chất lượng hàng xuất khẩu của Đài Loan được thực hiện theo cách phân các doanh nghiệp theo nhóm phải kiểm tra đột xuất( nhóm A), kiểm tra định kỳ( nhóm B) và kiểm tra bắt buộc( nhóm C), có sự điều chỉnh giữa các nhóm theo kết quả kiểm tra thực tế từng giai đoạn, đây có thể là một kinh nghiệm tốt để giải quyết vấn đề đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu. 2.2 Đảm bảo yêu cầu về giao hàng. Giao hàng đúng hạn là một yêu cầu rất khắt khe của các nhà nhập khẩu nước ngoài, nhất là trong giai đoạn gần đây và trong tương lai, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được đẩy mạnh thâm nhập vào EU và Mỹ, đây là những thị trường nổi tiếng trong sự khắt khe về giao hàng đúng hạn. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động trong khâu sản xuất và vận chuyển bốc dỡ hàng. 2.3 Phát triển và đăng ký thương hiệu Phát triển và đăng ký thương hiệu là những vấn đề còn mới đối với đa số doanh nghiệp Việt Nam nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp cũng như khẳng định vị thế hàng hoá của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đây là việc mà doanh nghiệp phải tự làm là chính. Do vậy, Nhà nước cần khuyến khích phát triển dịch vụ tư vấn thương hiệu và đăng ký thương hiệu. Nếu ngành này ở Việt Nam chưa phát triển, Nhà nước có thể cho phép các doanh nghiệp Việt Nam được sử dụng dịch vụ của nhà cung ứng nước ngoài. Chi phí tư vấn thương hiệu và đăng ký thương hiệu nên được tính vào chi phí kinh doanh, không phải chịu thuế và không hạn chế mức trần. Công tác đầu tư và liên doanh liên kết Như đã trình bày ở chương 1, mặt hàng xuất khẩu chủ lực có 3 đặc điểm, trong đó đặc điểm về thị trường ổn định, rộng lớn trong một thời gian tương đối dài và đặc điểm điều kiện sản xuất trong nước hiệu quả chính là 2 đặc điểm hết sức quan trọng. Song suy cho cùng, để đạt được 2 yêu cầu này đều phụ thuộc lớn vào công tác đầu tư có đúng mức không, việc sử dụng các nguồn lực có hiệu quả không, quy mô có hợp lý không. Vì vậy, công tác đầu tư và liên doanh liên kết nhằm huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư là một biện pháp quan trọng trong nhóm biện pháp nhằm xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nguồn vốn đầu tư thường được huy động từ 2 nguồn chính: Nguồn vốn trong nước Nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong nước, một giải pháp có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Biện pháp này còn góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp, cần thực hiện các biện pháp nhằm giải quyết các vướng mắc đang làm chậm tiến trình này như những bất cập trong đánh giá tài sản doanh nghiệp, trong các chính sách đối với các đối tượng mua cổ phần, hiện tượng “phân biệt đối xử” trong quyền được hưởng các ưu đãi như được vay vốn tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhà nước giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá hiện vẫn tồn tại ở nhiều địa phương. Nguồn vốn nước ngoài Nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nươc ngoài để phục vụ cho việc xây dựng các mặt hàng chủ lực cần: + Bổ sung một số điều khoản ưu đãi vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu các cây nông nghiệp như lúa, rau quả, cây công nghiệp ở luật đầu tư nhằm tạo sự thông thoáng hơn nữa. Làm như vậy sẽ tăng được nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp. + Đưa ra thêm các điều kiện ưu đãi , tạo ra các khu vực thuận lợi về cơ sở hạ tầng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có hàm lượng vốn và công nghệ cao. Đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp, cần thành lập một số khu vực dạng khu chế xuất hoặc khu công nghiệp tập trung để gieo trồng, chế biến (công nông nghiệp kết hợp) ở Việt Nam. + Đầu tư một cách dồng bộ từ khâu bắt đầu sản xuất đến khi có sản phẩm xuất khẩu (gồm cả bao bì, bao gói, kho tàng, phương tiện vận tải). Cắt giảm chi phí cho hàng hoá xuất khẩu Vấn đề chi phí đầu vào cho xuất khẩu tại các cảng biển của Việt Nam hiện nay cao hơn so với các cảng trên thế giới, cao hơn mức trung bình trong khu vực là 146% (cảng Hải Phòng cao hơn 64%). Trong số các cảng được điều tra, chỉ có cảng Thượng Hải là đắt hơn cảng Sài Gòn và cảng Hải Phòng nhưng năng suất của cảng này lại cao hơn nhiều so với 2 cảng của ta. Mức phí cao của cảng Sài gòn và cảng Hải Phòng đã trở thành một thứ thuế xuất khẩu "vô hình" đối với hàng xuất khẩu. Nếu tính cả chi phí kho bãi và tác động của hiệu suất cảng thấp thì mức "thuế vô hình" lên đến 50 USD cho 1 container 20 feet tại cảng Sài Gòn và 29 USD cho 1 container 20 feet tại cảng Hải Phòng. Mức phí xuất khẩu hàng qua các cửa khẩu cũng còn cao, có nhiều loại chi phí không có hoá đơn. Vì vậy, Nhà nước cần rà soát tình hình thu phí và chấn chỉnh các cơ sở dịch vụ tại cảng và cửa khẩu. Giảm bớt những thủ tục rườm rà, các chi phí không hợp lý để hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp được nâng cao. Như vậy mới kích thích được các doanh nghiệp tích cực đẩy mạnh xuất khẩu. Nhóm biện pháp tài chính 3.1 Đơn giản hoá thủ tục và mở rộng điều kiện vay vốn cho doanh nghiệp, củng cố và tăng cường chức năng cho tổ chức cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu Đối với các doanh nghiệp sản xuất- kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt nam, vấn đề vay vốn từ ngân hàng hay các tổ chức cung cấp tín dụng để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, nhất là đối với các hợp đồng xuất khẩu những mặt hàng chủ lực với khối lượng lớn luôn là mối quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, mỗi khi doanh nghiệp muốn vay vốn thường phải qua rất nhiều các thủ tục và rất mất thời gian. Do đó, điều mà các doanh nghiệp mong muốn là Nhà nước xem xét và quy định đơn giản hoá hơn nữa thủ tục cũng như mở rộng điều kiện vay vốn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, các tổ chức kinh tế đang tham gia xuất khẩu áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt Tỷ giá hối đoái được hiểu là giá cả của một loại tiền tệ được biểu hiện qua một loại tiền tệ khác. Sự thay đổi tỷ giá do chính phủ các nước thông qua ngân hàng nhà nước công bố. Mỗi khi tỷ giá thay đổi có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Khi đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ sẽ làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ thâm nhập vào thị trường nước ngoài dẫn đến xuất khẩu tăng nhưng nhập khẩu giảm. Trái lại, khi đồng nội tệ tăng giá so với ngoại tệ thì sẽ làm cho hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn, có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng nội, điều này dẫn đến nhập khẩu tăng nhưng xuất khẩu giảm. Song không phải vì muốn đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà thực hiện phá giá đồng nội tệ mạnh và đột ngột. Bởi lẽ, việc phá giá đột ngột sẽ không chỉ gây ảnh hưởng không lường tới việc nhập khẩu những thiết bị đầu vào quan trọng phục vụ việc xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà còn ảnh hưởng cả những ngành liên quan khác hỗ trợ việc sản xuất và xuất khẩu hàng chủ lực. Chính vì vậy, Chính phủ nên điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt căn cứ vào từng điều kiện, thời gian khác nhau. Trong thời gian trước mắt, không nên duy trì trị giá đồng nội tệ quá cao so với các đồng tiền của các nước xuất khẩu có danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực tương đối giống Việt Nam, ví dụ như Thái Lan, Malaysia 3.3 Điều chỉnh lại chính sách thuế để thúc đẩy nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm Quyết định số 908/QĐ-TTg ngày 26/07/2001 của Thủ tướng Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp vệ tinh (sản xuất bán thành phẩm để giao lại cho một doanh nghiệp khác sản xuất hàng xuất khẩu) được hưởng các ưu đãi về thuế như đối với sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là quyết định hết sức quan trọng, góp phần thúc đẩy sự hình thành các chuỗi doanh nghiệp gắn kết với nhau, cùng hướng về xuất khẩu và cùng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng lớn. Tuy nhiên, chỉ những doanh nghiệp nào đã có hợp đồng xuất khẩu bán thành phẩm nhưng không giao bán thành phẩm đó ra nước ngoài mà giao thẳng cho một doanh nghiệp Việt Nam khác để sản xuất hàng xuất khẩu thì mới được hưởng ưu đãi. Các doanh nghiệp đơn thuần là vệ tinh, không có hợp đồng với nước ngoài hoặc không tham gia hợp đồng ba bên vẫn chưa được hưởng ưu đãi như quy định của Thủ tướng Chính phủ. Một trong những lý do nữa khiến hàm lượng nội địa của xuất khẩu tăng chậm là do nguyên liệu, vật tư ngoại đang được ưu đãi hơn nguyên liệu, vật tư nội. Nếu sử dụng nguyên liệu ngoại, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được chậm nộp thuế nhập khẩu và thuế GTGT trong 270 ngày, nhiều trường hợp còn được khách hàng cho nợ tiền nguyên liệu, khi xuất khẩu mới quyết toán và khấu trừ. Trong khi đó, nếu mua nguyên liệu trong nước, phải trả tiền ngay và chịu thuế GTGT ngay ở mức 10%. Việc hướng dẫn đầy đủ Quyết định 908/TTg của Thủ tướng Chính phủ, vì vậy, sẽ góp phần cân bằng chính sách ưu đãi giữa nguyên liệu nội và nguyên liệu ngoại, thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều hơn đầu vào sản xuất trong nước. Nhóm giải pháp thị trường- Marketing 4.1. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu thị trường Yếu tố sống còn quyết định một loại hàng hoá có khả năng tồn tại và phát triển hay không đó là nó phải được thị trường chấp nhận. Vì vậy, vấn đề xây dựng cơ cấu thị trường thực chất cũng là một nội dung chính trong chính sách cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mỗi loại thị trường đòi hỏi một loại mặt hàng nhất định, trái lại tuỳ theo khả năng sản xuất mà tìm thị trường để bán được nhiều hàng với giá cao nhất nhằm thu được lợi nhuận cao. Về chính sách cơ cấu thị trường trong giai đoạn tới, trước hết phải rất coi trọng thị trường láng giềng và thị trường khu vực, trong đó chú ý tới thị trường Trung quốc, thị trường các nước ASEAN vì đây là những thị trường gần ta, có quan hệ quen biết lâu đời, có thị hiếu và phương thức tiêu dùng tương đối giống ta. Đối với thị trường ASEAN, chúng ta tích cực và nghiêm chỉnh thực hiện AFTA, thực hiện CEPT theo lịch trình đã cam kết. Loại thị trường cũng cần được ưu tiên nữa đó là thị trường các nước thuộc SNG và các nước Đông Âu là những bạn hàng lâu đời của ta. Trong đó, cần quan tâm đặc biệt đến thị trường Nga vì đây là thị trường rộng lớn, dễ tính, có quan hệ lâu đời với ta, nhưng đã bỏ qua gần một thập niên vừa qua, nay đang có cơ hội nối lại nhất là khi thực hiện cam kết trả nợ 1,6 tỷ USD trong vòng 23 năm, trong đó 90% món nợ được trả bằng hàng hoá. Chúng ta cũng cần coi trọng thị trường Nhật Bản, EU và Mỹ vì đây là những thị trường có tiềm năng to lớn cả về nhu cầu hàng tiêu dùng cao cấp, có trình độ khoa học công nghệ và trình độ quản lý cao, có nhiều điều kiện cho ta tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ và tri thức quản lý. Đây cũng là thị trường vừa tạo cơ hội, vừa đòi hỏi bức thiết để chúng ta đổi mới quản lý kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ tuỳ theo nhu cầu và khả năng của mình. Để đạt được cơ cấu thị trường này, đương nhiên cần có chính sách thích hợp đưa hoạt động thương mại nước ta tham gia tích cực vào thị trường thế giới. 4.2 Tham gia vào cộng đồng thương mại quốc tế. Thực hiện chủ trương của Đảng về việc đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế, gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khi cần thiết và có điều kiện, nước ta đã trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN và AFTA vào năm 1995, của ASEM vào năm 1996 và của APEC vào năm 1998. Với WTO, nước ta trở thành quan sát viên từ năm 1995 và hiện đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức này. Gần đây, sau hơn 4 năm đàm phán, hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết theo những tiêu chuẩn của WTO, đánh dấu một bước mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là Nhà nước cần có những chính sách thương mại đúng đắn để Việt Nam có thể chủ động hội nhập thành công, tận dụng được các thời cơ và giảm thiểu những thách thức. Chúng ta cần nhanh chóng áp dụng và khai thác triệt để mọi phương thức kinh doanh đối ngoại, sử dụng hệ thống tín dụng quốc tế, tham gia các sở giao dịch quốc tế, hoàn chỉnh các thể chế và tổ chức xúc tiến xuất khẩu, xây dựng và nâng cao chất lượng của các cơ quan thương vụ của Việt Nam tại nước ngoài. 4.3 Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp đòi hỏi Nhà nước phải "cung cấp đầy đủ thông tin" cho họ nhưng thực ra cái mà doanh nghiệp cần không phải là thông tin mà là kết quả phân tích thông tin. Trong hoàn cảnh dịch vụ phân tích thị trường và tư vấn doanh nghiệp còn chưa phát triển, Nhà nước có thể cố gắng làm thay để đáp ứng nhu cầu bức xúc của các doanh nhân. Tuy nhiên, việc làm thay đó không thể kéo dài bởi sẽ gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh doanh thụ động, chờ đợi thị trường, chờ đợi khách hàng sẽ ngày càng phát triển. Biện pháp tốt nhất là có chính sách để khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh dịch vụ nghiên cứu thị trường và phân tích thông tin, rất cần phát triển thêm các dịch vụ khác như dịch vụ giao nhận và thông quan, dịch vụ phân tích tài chính, bao gồm cả phân tích rủi ro về tỷ giá, dịch vụ pháp lý, v.v. Cần có các chính sách phù hợp, kể cả mở cửa thị trường cho các công ty cung ứng dịch vụ nước ngoài để nhanh chóng phát triển các loại hình dịch vụ này. 5. Nhóm giải pháp thể chế- tổ chức 5.1 Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu Cần hoàn thiện chính sách xuất nhập khẩu hàng hoá theo xu hướng tự do hoá thương mại, xoá bỏ dần những cản trở đối với hoạt động ngoại thương, tạo mọi điều kiện cho xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu những mặt hàng chủ lực, đơn giản hoá hơn nữa thủ tục hành chính, chính sách quản lý phải rõ ràng, minh bạch, công khai để các cơ quan quản lý cũng như các doanh nghiệp thực hiện đúng. Nhà nước cần tăng cường quản lý hoạt động ngoại thương thông qua hệ thống pháp luật và văn bản pháp quy, xoá bỏ hoàn toàn tình trạng quản lý thông qua cơ chế “xin-cho”. Hoàn thiện hơn nữa Luật thương mại nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển. Các văn bản, các quy định cần được hoàn thiện và xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn, cân nhắc đến lợi ích trước mắt và lâu dài, đảm bảo tính ổn định hơn. Bên cạnh đó, khi cần sửa đổi, bổ sung các văn bản cũng nên quy định thời hạn chuyển tiếp hợp lý, ít nhất là hai tháng tuỳ tính chất từng mặt hàng hay điều kiện cụ thể để cho các doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị, đồng thời có biện pháp xử lý những tồn tại, những vướng mắc khi thay đổi chính sách. 5.2 Tạo lập môi trường cạnh tranh năng động Khi nói đến sự năng động và linh hoạt là nói đến khả năng thích nghi với các thay đổi của môi trường ngoài để tự tồn tại và phát triển. Khả năng này sẽ được tăng cường trong một môi trường cạnh tranh năng động. Vì vậy, các chính sách và giải pháp trong thời gian tới đây cần tập trung hơn vào việc tạo ra môi trường ấy, qua đó buộc các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước phải chú ý hơn đến các vấn đề như giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành, tự tìm đến lợi thế so sánh động trong một môi trường động. Theo hướng đó, cần tiếp tục tối đa hóa chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu, càng nhiều người tham gia càng tốt, tham gia được càng nhiều lĩnh vực càng tốt. Song song với đó, cần có chính sách để khuyến khích mạnh sự hình thành và phát triển của các chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyết định nhanh. Cuối cùng, cần cố gắng bảo đảm cho tín hiệu thị trường không bị lệch lạc, giảm can thiệp sâu và giảm hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 5.3 Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực Cơ cấu xuất khẩu được coi là chuyển dịch theo hướng tích cực khi luôn có sự xuất hiện của hàng xuất khẩu mới, xuyên suốt từ hàng thô đến hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giá trị gia tăng (giá trị nội địa) của những mặt hàng đã có được cải thiện, tỉ trọng của hàng chế biến, chế tạo được nâng cao. Để thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng, cần phải có đầu tư. Vì vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chế độ, chính sách để khuyến khích đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. kết hợp với sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp, những chế độ và chính sách này đã phát huy tác dụng rất tích cực trong việc tạo ra những mặt hàng xuất khẩu mới và dịch chuyển cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng chế biến, chế tạo. Vấn đề chính đặt ra là phải làm sao tăng cường được tính minh bạch và tính phổ cập của những ưu đãi này, đồng thời thi hành chúng một cách nhất quán trên thực tế, không để những khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính, về mặt bằng sản xuất... kìm hãm tác dụng tích cực của chúng. Kết luận Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là chính sách tất yếu trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu nói riêng và trong hoạt động ngoại thương của tất cả các quốc gia trên thế giới và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền ngoại thương Việt Nam. Song, để các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam thực sự phát huy tất cả các tác dụng tích cực để xứng với vị trí “chủ bài” hay “quả đấm sắt” trong nền ngoại thương Việt Nam đòi hỏi phải có sự suy ngẫm, đánh giá và hành động của mỗi doanh nghiệp và các cơ quan quản lý để nhận ra và tìm ra những giải pháp khắc phục đối với những tồn tại, hạn chế chủ quan cũng như tìm giải pháp ứng phó với những khó khăn thách thức từ bên ngoài mang đến.. Từ thực tiễn xây dựng xuất khẩu 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam đã cho thấy một số kết quả đạt được như sau: Các chỉ tiêu về xuất khẩu đều tăng (sản lượng, diện tích, năng suất, khối lượng và giá trị xuất khẩu) Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tỷ trọng các sản phẩm chế biến xuất khẩu ngày càng tăng. Thị trường xuất khẩu ngày càng đa phương hơn, giá cả ngày càng xích gần giá cả xuất khẩu trên thị trường thế giới Tuy vậy, xem xét lại, chúng ta còn nhiều vấn đề tồn tại như: Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý của nhà nước nhiều giai đoạn còn chậm ban hành, thiếu sự đồng bộ, do vậy gây phiền hà cho sản xuất và xuất khẩu Quan hệ giữa các doanh nghiệp với thị trường chưa chặt chẽ, các biện pháp marketing chưa được sử dụng triệt để, hữu hiệu, do vậy giá cả, quy cách phẩm chất chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới. Công tác hoạch định và đầu tư còn cầm chừng, chưa được coi trọng. Cung cách làm ăn của một số doanh nghiệp còn chưa thích nghi với thời đại, do vậy, lượng hàng xuất khẩu còn manh mún, hiệu quả xuất khẩu do vậy chưa cao. Để xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực hợp lý, nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu dưới đây: Nhóm biện pháp tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực, phát triển vùng nguyên liệu tập trung và phát triển làng nghề truyền thống. Nhóm biện pháp nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu chủ lực (như nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, đảm bảo yêu cầu về giao hàng, phát triển và đăng ký thương hiệu, đầu tư liên doanh liên kết, cắt giảm chi phí . Nhà nước cần cải tiến bổ sung kịp thời những biện pháp quản lý vĩ mô nhằm làm đòn bẩy để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu 13 mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: tín dụng xuất khẩu (đơn giản hoá và mở rộng điều kiện vay vốn), chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, chính sách thuế phù hợp với thực tiễn hoạt động xuất khẩu. Đồng thời tăng cường các biện pháp thị trường- Marketing như Chính sách chuyển dịch cơ cấu thị trường Chính sách và chủ trương tham gia cộng đồng thương mại quốc tế. Phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu Và cuối cùng là nhóm biện pháp thể chế - tổ chức bao gồm: Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu Tạo lập môi trường cạnh trnh năng động Cải thiện môi trường đầu tư nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực Hy vọng rằng, nếu các giải pháp trên được thực hiện một cách đồng bộ kịp thời sẽ góp phần không nhỏ vào việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam một cách hợp lý, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng từ đó đẩy mạnh hoạt dộng xuất khẩu nói chung của Việt Nam. Tài liệu tham khảo Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX. Chỉ thị số 22/2000/ CT_TTG ngày 27/10/2000 về chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010. “Nghiên cứu cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp”- đề tài mã số: 2000-78-0009, Bộ thương mại, Hà Nội 02/2000( 67 trang) “ Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010” - Báo cáo của Bộ Thương mại năm 2000. “ Về chính sách thương mại quốc tế của nước ta trong tình hình mới” GS-TS học viện chính trị quốc gia Hồ Văn Vĩnh- Tạp chí Cộng sản số 14 (7/2001) “Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam và triển vọng vào thị trường EU” Thạc sĩ Nguyễn Thu Thuỷ- Đại học Ngoại thương, Thạc sĩ Nguyễn Tú Anh- Đại học Thăng Long- Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 1(75) 2002. “ Thực trạng chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu 15 năm qua của Việt Nam” Từ Thanh Thuỷ- Viện Nghiên cứu Thương mại, Tạp chí Những vấn đề KINH Tế THế GiớI Số 4(72) 2001. “Những giải pháp mạnh cho xuất khẩu” Báo Hà nội mới ngày 20-2-2003 “Thương mại cần một cách nhìn mới, cách làm mới” Báo Thương mại ngày 25-2-2003 “Dầu khí nhìn xa trông rộng”- Thanh Hoa- Tạp chí Thương mại số 28 (1/2001) Industrial policies for Pacific Economic Growth- tác giả: Mutoh, Sekiguchi, Suzura, Yamazawa, 1998. Examining Asia’s Tigers: Nine economies challenging common Structure Problem- Institute of Developing Economic (IDE) Tokyo, July 1999. Giáo trình kinh tế ngoại thương: GS-TS Bùi Xuân Lưu “ Một số vấn đề về định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu năm 2003” Báo cáo của Bộ Thương mại. Table of Contents ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT351.doc