Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc

Tài liệu Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc: Bảng các chữ viết tắt TQ Trung Quốc LHQ Liên hợp quốc DS – KHHGD Dân số kế hoạch hóa gia đình ILO Tổ chức lao động quốc tế TVE Doanh nghiệp hương thôn TW Trung ương HDI Human Development Index HD Human Development XHCN Xã hội chủ nghĩa Lời mở đầu Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì v... Ebook Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2535 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Yếu tố cơ bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội là nguồn nhân lực, mà nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền sự biến đổi dân số cả về số lượng và chất lượng. Mục tiêu của sự phát triển suy cho cùng là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng trưởng dân số, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích cực đến sự phát triển. Ðể có sự phát triển bền vững, việc đáp ứng tăng nhu cầu và nâng cao chất lượng cuộc sống của các thế hệ hiện tại không được ảnh hưởng các thế hệ tương lai trên cơ sở sử dụng tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái và chất lượng của sự phát triển. Trong thực tế, các yếu tố dân số có ảnh hưởng rất lớn đến tài nguyên thiên nhiên và trạng thái môi trường. Dân số phù hợp sự phát triển đòi hỏi sự điều chỉnh các xu hướng dân số phù hợp sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nâng cao tiềm lực của lực lượng sản xuất; là yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, nâng cao vị thế của người phụ nữ, giảm rủi ro về môi trường, mở rộng dịch vụ y tế, xã hội và huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, khoa học và công nghệ; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trung Quốc (theo thống kê năm 2006) tổng số dân là 1.311 tỷ người, chiếm 20% dân số thế giới.Chính vì vậy dân số thực sự là vấn đề nóng bỏng hiện nay của chính phủ Trung Quốc. Làm thế nào để vừa khai thác hết tiềm năng dân số, vừa hạn chế tối đa những tác động tiêu cực dân số tới sự phát triển kinh tế? Đó thực sự là câu hỏi lớn cho các nhà hinh tế học Trung Quốc. Để trả lời cho những câu hỏi đó, trước tiên chúng ta hãy cùng tìm hiểu “Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc” như thế nào. Tóm tắt Đề tài nghiên cứu của nhóm 3 là : Tác động của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc. Nội dung nghiên cứu gồm 3 phần: Phần 1: Giới thiệu chung về đất nước Trung Quốc Phần 2: Tác động của dân số đến nền kinh tế Phần 3: Liên hệ với Việt Nam Trong phần 1, chúng ta đề cập đến 3 vấn đề chính: khái quát chung về Trung Quốc: diện tích, vị trí địa lý, khí hậu, ngôn ngữ, tôn giáo…; tổng quan về dân số Trung Quốc trong thực trạng hiện nay; vài nét sơ lược về nền kinh tế Trung Quốc hiện nay và dự đoán trong tương lai của một số nhà hoạch định chiến lược. Tiếp đến, chúng ta đi sâu vào nghiên cứu nội dung chính: dân cư ảnh hưởng hai mặt đến nền kinh tế Trung Quốc. Thứ nhất, Ảnh hưởng tích cực của dân số đến nền kinh tế: - Lực lượng lao động dồi dào, nhân công giá rẻ và lượng lao động bổ sung hàng năm lớn. - Thị trường tiêu thụ rộng lớn. - Thúc đẩy quá trình xã hội hoá và đô thị hoá. Thứ hai, Dân số quá đông gây ra những khó khăn tương đối lớn cho nền kinh tế: - Sức ép về việc làm. - Hậu quả của chính sách một con. - Ô nhiễm môi trường. - Nguy cơ dân số già ở Trung Quốc đang trong tình trạng báo động. Trong thời đại ngày nay, hai mặt của vấn đề dân số ở Trung Quốc luôn song hành cùng tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau. Phần 2, đề tài nghiên cứu từng tác động một thông qua những tài liệu, số liệu thu thập được. Qua quá trình xử lý và hoàn thiện đề tài nghiên cứu có được những biểu đồ, bảng số liệu thể hiện rõ vấn đề đang nói đến. Phần cuối cùng, liên hệ vấn đề đang nghiên cứu trong thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Thông qua việc liên hệ với Việt Nam, đề tài rút ra những bài học kinh tể cho thực trạng kinh tế ở Việt Nam. Đó là toàn bộ nội dung bài nghiên cứu của nhóm 3. Trong phạm vi giới hạn về thời gian, không gian và trình độ nên bài nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Nhóm 3 mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn để bài nghiên cứu hoàn thiện hơn. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Phan Thị Nhiệm đã giúp đỡ chúng em hoàn thiện bài nghiên cứu này. Phần I: Giới thiệu chung về đất nước Trung Quốc I. Khái quát chung Tên nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Thủ đô Bắc Kinh Diện tích 9.6 triệu km2 Vị trí địa lý Trung Quốc nằm ở phần nửa phía bắc của Đông bán cầu, phía đông nam của đại lục Á - Âu, phía đông và giữa châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương; có biên giới chung với Nga, Mông Cổ (phía bắc), với Kazakstan, Kirghistan, Taghikistan (phía tây), với Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Nê Pan, Bu Tan (phía tây nam), với Myanma, Lào, Việt Nam (phía nam), với Triều Tiên (phía đông) Khí hậu Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô. Nhiệt độ trung bình toàn quốc tháng 1 là -4,70C, tháng 7 là 260C. Ba khu vực được coi là nóng nhất là Nam Kinh, Vũ Hán, Trùng Khánh Hành chính 31 tỉnh, thành phố gồm 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực thuộc trung ương. 4 cấp hành chính gồm tỉnh, địa khu, huyện, xã. Ngôn ngữ Tiếng Hán là tiếng phổ thông, lấy âm Bắc Kinh làm tiêu chuẩn Tôn giáo Có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi, Thiên chúa giáo. Lịch sử Là một trong những nước có lịch sử và văn minh lâu đời nhất thế giới từ cách đây cả 4000 năm, Trung Quốc trải qua những thăng trầm của nhiều triều đại phong kiến, cho tới khi chế độ cộng sản được thành lập vào cuối thập niên 1940 đến nay. Nhà nước cộng sản hiện dồn nỗ lực cải tổ kinh tế và ra sức duy trì ổn định xã hội. II. Tổng quát chung về dân số trung quốc 1. Thành phần cơ cấu dân số - Số dân: 1.311 tỷ người (năm 2006), chiếm 1/5 dân số thế giới - Thành phần dân tộc: Trung Quốc là quốc gia có nhiều dân tộc, 56 dân tộc, trong dó Hán tộc chiếm 91.9% dân số. Còn 55 sắc tộc ít người - Cơ cấu dân số theo độ tuổi: 2. Sự gia tăng dân số Dân số Trung Quốc tăng khá nhanh. Đặc biệt giai đoạn trước năm 1970. Năm 1973, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách 1 con, sự gia tăng dân số hàng năm giảm rõ rệt. Tỷ lệ sinh đã giảm từ 2,106% trong năm 1990 còn 1,241% trong năm 2003 và tỷ lệ tăng dân số đã giảm từ 1,439% xuống 0,601%. 3. Sự phân bố dân cư - Dân cư phân bố không đồng đều. Dân cư tập trung đông đúc ở miền Đông, nhất là đồng bằng châu thổ và vùng ven biền. Dân cư miền Tây đặc biệt thưa thớt - Mật độ dân số trung bình là 140 người/km2 - 60% lực lượng phân bố trong ngành nông nghiệp Phần II : Tác động của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc I. Tác động tích cực “Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”. Dưới đây là những phân tích về tác động tích cực của dân số đến nền kinh tế. 1. Lực lượng lao động dồi dào, lượng lao động bổ sung hàng năm lớn Nhiều thập kỉ trở lại đây, quốc gia đông dân nhất hành tinh này vẫn được coi là thị trường lao động dồi dào và giá rẻ hàng đầu thế giói với hàng triệu công nhân trẻ từ các vùng nông thôn. Đó là lợi thế đã và đang tạo cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế. Nguồn lao động dồi dào là mối quan tâm lớn cho các nhà đầu tư, hiện nay người lao động phần lớn bằng lòng với mức lương thấp . Mức lương trung bình tại Trung Quốc chỉ bằng 2% so với ở Mỹ, giá của lao động tương ứng với chi phí đầu tư cũng chỉ bằng 6% so với con số này ở Mỹ. Nói một cách khác, chi phí lao động của Trung Quốc là rẻ hơn so với của Mỹ cả về con số tuyệt đối cũng như về tỷ lệ với chi phí đầu tư. Thêm vào đó tỷ giá đồng nhân dân tệ thấp dẫn tới xuất khẩu của Trung Quốc tăng, do đó Trung Quốc được đầu tư nhiều, nhất là các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế, trong 5 năm (2002- 2007) GDP từ hơn 12000 tỷ Nhân dân tệ năm 2002, tăng lên hơn 24000 tệ năm 2007. Từ năm 2005, kinh tế Trung Quốc đã đứng hàng thứ 4 thế giới. Trung Quốc vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, bình quân 10.6%/năm. Biểu đồ thể hiện tổng số lao động trong các năm (triệu người) Qua biểu đồ trên ta thấy tổng số lao động Trung Quốc tăng nhanh trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000( tăng hơn 200 triệu lao động: từ 515.5 triệu năm 1986 tăng lên 739.9 triệu lao động năm 2000) và hiện nay vẫn tăng nhưng tốc độ chậm dần, đến năm 2005 có xu hướng giảm( với 758.3 triệu lao động). Mặt khác dân số tăng khiến cho lực lượng lao động bổ sung hàng năm lớn. Nền kinh tế đang trên đà phát triển, nhiều ngành nghề đang cần một lượng lớn lao động bổ sung để đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng quy mô sản xuất. Theo số liệu thống kê cho thấy từ năm 1986 đến năm 1990 lượng lao động bổ sung lên tới 129.3 triệu lao động( từ 515.5 triệu năm 1986 tăng lên 644.8 triệu năm 1990), một con số đáng chú ý. Lực lượng lao động dồi dào, giá thành rẻ đã đóng góp không nhỏ đến GDP của Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP: 9,1 % (năm 2003). 6 tháng đầu năm 2004 tăng trưởng 10,3%.Mục tiêu phấn đấu tới năm 2010, tổng giá trị sản xuất trong nước (GDP) tăng gấp 2 lần năm 2000, dân số khống chế trong giới hạn 1,4 tỷ người, đời sống nhân dân từ khá giả lên giầu có, hình thành thể chế kinh tế thị trường XHCN tương đối hoàn thiện, tố chất tổng hợp kinh tế quốc dân nâng cao hơn nhiều so với năm 2000, sức cạnh tranh quốc tế tăng mạnh, sức sản xuất xã hội, sức mạnh tổng hợp quốc gia, mức sống của nhân dân nâng cao lên một bậc; duy trì tăng trưởng GDP bình quân 8%/ năm. 2. Thị trường tiêu thụ lớn Thực vậy, như mọi người đều biết thì thị trường lớn nhất hiện nay là Mỹ. Ngày 14/10/2005 Mỹ vẫn là nước có thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Nhưng với nền kinh tế phát triển nhanh chóng, đất nước đông dân nhất thế giới đã thay thế Mỹ đứng vào vị trí hàng đầu thế giới về mức tiêu thụ 4 trong 5 loại hàng hoá cơ bản trong nhóm thực phẩm, năng lượng và hàng công nghiệp, theo nghiên cứu của một viện môi trường toàn cầu công bố. Trung Quốc đã chiếm tỷ lệ cao nhất thế giới trong tiêu thụ ngũ cốc, thịt, than đá và thép, và chỉ thua Mỹ về tiêu thụ dầu. Đây là kết luận của Viện Chính sách trái đất, có trụ sở ở Washington.Với các loại hàng hoá khác, như phân bón, Trung Quốc sử dụng khối lượng gấp đôi so với Mỹ, trong khi số lượng máy thu hình, tủ lạnh và điện thoại di động của quốc gia châu Á này nhiều hơn ở Mỹ.Trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, Trung Quốc còn đứng sau Mỹ về lượng xe hơi. Cũng theo nghiên cứu này, số máy vi tính của Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ, vấn đề chỉ còn là thời gian."Việc Trung Quốc chiếm ngôi thị trường tiêu thụ mạnh nhất nên được xem như một cột mốc trên con đường nước này phát triển và trở thành đầu tàu kinh tế thế giới", Lester Brown, viện trưởng Viện Trái đất, phát biểu.Mức sử dụng thép - một trong các thước đo phát triển công nghiệp - của Trung Quốc trong năm 2003 cao hơn gấp đôi của Mỹ. Tuy nhiên, hiện mức tiêu thụ dầu của Mỹ vẫn gấp 3 lần của Trung Quốc.Việc Trung Quốc nhập nhiều nguyên nhiên liệu không chỉ khiến giá cả hàng hoá, mà cả cước vận tải trên thị trường thế giới tăng lên.Cảnh báo rằng sự phụ thuộc của kinh tế toàn cầu vào Trung Quốc, xét về khía cạnh là thị trường tiêu thụ nguyên liệu thô và thành phẩm, có thể mang lại hậu quả xấu nếu như mức tăng trưởng kinh tế của nước này chậm lại."Khi thu nhập của Trung Quốc tăng với nhịp độ kỷ lục, việc tiêu thụ lương thực, năng lượng, nguyên liệu thô và hàng tiêu dùng cũng liên tục tăng", ông nói. Tuy nhiên, điều này có thể tạo sức ép đối với môi trường. Brown chỉ ra rằng sản lượng lương thực của Trung Quốc đang sụt giảm nhanh chóng do tình trạng sa mạc hoá và mất các hệ thống tưới tiêu. Mức tiêu thụ của Trung Quốc sẽ tăng 18%/năm vào năm 2014, cao hơn tỉ lệ tăng trưởng trung bình toàn cầu là 11% và 2,1% của Mỹ. CSFB đã đưa ra dự đoán trên dựa vào các dữ kiện như tỉ lệ tăng trưởng kinh tế và tỉ lệ tiêu thụ trong tổng sản phẩm nội địa, theo đó Trung Quốc sẽ có mức tăng trưởng kinh tế 7%/năm và tỉ lệ tiêu thụ trong tổng sản phẩm nội địa tăng 5,5%/năm từ nay cho đến năm 2014. Năm ngoái, cũng theo CSFB, Trung Quốc đứng thứ 7 trong danh sách các nước tiêu thụ lớn nhất thế giới sau Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp và Ý. Dân số đông cầu tăng thúc đẩy nền kinh tế. Nhu cầu trong nước tăng cao, thị trường trong nước được mở rộng. Tuy nhiên với từng giai cấp có cầu khác nhau về sản phẩm… Dân số Trung Quốc phân bố giàu nghèo tương đối rõ rệt, sinh hoạt khác nhau làm đa dạng hoá các sản phẩm như thực phẩm, công nghiệp, giải trí. Dân số đông tiêu thụ lớn thị trường ngày càng mở rộng với mức sống ngày càng cao của nhân dân Trung Quốc là 1 điều tất yếu. 3. Xã hội hoá được chú trọng và đẩy mạnh ở nhiều lĩnh vực Với số dân như vậy nếu Trung Quốc không xã hội hoá đất nước về mọi mặt thì không thể đạt được GDP danh nghĩa $2.680 tỷ đứng thứ 4 trên thế giới theo thống kê vào năm 2006 như vậy. Xã hội hoá diễn ra trên mọi phương diên. Về lĩnh vực giáo dục: Toàn ngành giáo dục cần phải tập trung khắc phục tình trạng chất lượng giáo dục còn thấp, chú trọng đúng mức không chỉ dạy chữ, học chữ mà điều căn bản là dạy người, dạy làm người và học làm người. Cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học để đào tạo ra lớp người mới vừa có ý tưởng hoài bão, vừa có bản lĩnh vững vàng, phẩm chất chính trị tốt đẹp. ba vấn đề cần có sự thống nhất cao trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương quan trọng của giáo dục. Trước hết là nhận thức về vấn đề xã hội hóa giáo dục trong điều kiện phát triển mạnh mẽ về quy mô.Bên cạnh đó là vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Vấn đề thứ ba là đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục. Về lĩnh vực y tế: Trung Quốc là 1 nước có nền y học rất phát triển đặc biệt là y học dân tộc. Dân số Trung Quốc đứng hàng đầu trên thế giới về mức độ đông của dân cư đã gây áp lực cho y tế. Vì vậy việc xã hội hoá về mặt y tế là 1 điều cần thiết hiện nay. Phân cấp trong y tế, lập kế hoạch, quản lý và cung ứng dịch vụ y tế ở tuyến tỉnh, giúp cho người dân nhận được các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ đạt chất lượng tốt là mục tiêu trong tương lai của hệ thống y tế. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; Chuyển hầu hết các bệnh viện công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ; hoàn thành việc chuyển các cơ sở y tế bán công sang dân lập hoặc tư nhân. Các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển đều có bệnh viện ngoài công lập. Về lĩnh vực văn hoá: Giữ gìn bản sắc văn hoá đồng thời tiếp nhận nền văn hoá mới. II. Những tác động tiêu cực của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc : Việc Trung Quốc là quốc gia có số dân đông nhất thế giới, đó là thế mạnh có nhiều tác động tích cực đến sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế Trung Quốc như chúng ta đã đề cập đến ở phần trên. Tuy nhiên việc quốc gia có số dân đông như con dao hai lưỡi, đem lại nhiều tác động tích cực nhưng cũng đồng thời đặt ra cho chính phủ Trung Quốc nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Trong xã hội Trung Quốc đã xuất hiện các vấn đề mâu thuẫn về dân số, mà nếu không xử lí tốt các mâu thuẫn này đã, đang và sẽ gây nên tình trạng kinh tế chững lại, xã hội bất ổn định, lãng phí tài nguyên và gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với những bài toán rất khó giải quyết : nguy cơ dân số già, những hậu quả do chính sach một con gây ra, sức ép về việc làm, vấn đề ô nhiễm môi trường và … 1.Hậu quả của chính sách một con : 1.1 Nội dung chính sách một con và thực trạng : Để hạn chế tốc độ tăng dân số, chính phủ Trung Quốc đã đề ra chính sách một con hay còn gọi là chính sách “ nhất thai hóa ” vào năm 1973 và đưa vào thực hiện từ những năm 1980. Nội dung của chính sách này quy định mỗi gia đình ở thành phố chỉ được phép có 1 con và ở nông thôn là 2 con,. Nếu vi phạm sinh quá số con quy định sẽ phải chịu một khoản tiền phạt rất lớn cùng nhiều biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chính phủ ở Bắc kinh đã áp dụng chính sách này sau nhiều thập niên dân số tăng mạnh dưới thời Mao Trạch Đông, dựa theo chủ trương gọi là ‘người đông dễ làm việc’. Sau gần 30 năm áp dụng, chính sách đã đem lại nhiều kết quả thành tựu không thể phủ nhận. Chính phủ Trung Quốc cho rằng việc áp dụng chính sách này đã giúp quốc gia đông dân nhất thế giới này có được tình trạng tương đối phồn vinh, thịnh vượng ngày hôm nay.Cũng theo ước tính của các chuyên gia dân số Bắc Kinh nếu không có chính sách này dân số Trung Quốc hiện nay sẽ ở mức 1 tỉ 700 triệu người thay vì 1 tỉ 300 triệu người như hiện nay. Kết quả của chính sách này đem lại là hiện nay Trung Quốc là quốc gia có đà tăng trưởng dân số thấp nhất trong thế giới đang phát triển là 6 phần 10 của 1% mỗi năm. Từ khi thực hiện chính sách tỉ lệ tăng dân số đã giảm đáng kể từ 1,439% năm 1990 xuống còn 0,601% năm 2003. Năm Tỉ suất sinh () Tỉ suất tử () Tỉ suất gia tăng dân số ( % ) 1970 33 15 1,8 1990 18 7 1,1 2005 12 6 0,6 Bảng tỉ suất gia tăng tự nhiên của Trung Quốc Tỉ lệ sinh đã giảm 4% từ 5,8 % năm 1970 xuống chỉ còn 1,8 % như hiện nay. Đặc biệt trong 20 năm đầu thực hiện chính sách từ năm 1970 đến năm 1990 tỉ lệ sinh đã giảm 2,754 lần. Đó quả là những thành công to lớn mà chính sách đã đem lại. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Chính phủ, Trung Quốc đang nỗ lực lớn hơn nữa nhằm ngăn chặn sự bùng nổ dân số; duy trì tỷ lệ sinh thấp sẽ là ưu tiên hàng đầu của đất nước trong 4 năm tới. Chính phủ dự định sẽ hạn chế dân số ở đại lục dưới 1,36 tỷ vào năm 2010 và dưới 1,45 tỷ năm 2020. Bên cạnh những thành công đó chính sách một con cũng đem lại những hậu quả đáng lo ngại cho Trung Quốc. Đó là các vấn đề liên quan đến giá trị đạo đức, các tội ác nhân loại nghiêm trọng, mất cân bằng về tỉ lệ giới tính… 1.2 Những hậu quả của việc thực hiện chính sách một con : Việc quy định mỗi cặp gia đình chỉ được phép sinh một con đã gây ra tình trạng phần lớn các hộ gia đình đều chỉ mong đứa con duy nhất sinh ra là con trai. Tương tự như nhiều quốc gia ở châu Á, vấn đề nối dõi tông đường và quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn khá phổ biến ở Trung quốc. Vì vậy, chính sách một con đã mang lại một hậu quả vô cùng tàn khốc, có rất nhiều phụ nữ Trung quốc đã phá thai khi biết được họ sắp sinh con gái. Nhiều bậc cha mẹ còn đang tâm chọn giải pháp giết hại trẻ sơ sinh khi con sinh ra là gái. Cũng không ít gia đình lại chọn giải pháp bỏ rơi đứa con mới sinh ra khiến các em trở thành trẻ mồ côi. Một thời gian ở Trung quốc diễn ra liên tục các vụ mất tích của những bé gái mà không rõ nguyên nhân. Nguyên nhân của việc làm này là xuất phát từ tâm lí các cặp vợ chồng mong sinh được con trai để có người nối dõi tông đường, chăm sóc, phụng dưỡng mình về già.Trong những năm gần đây, giới chức trách đã áp dụng lệnh cấm xét nghiệm giới tính của thai nhi để tìm cách ngăn chận tệ nạn này, nhưng theo các nhà quan sát, biện pháp này không mang lại hiệu quả nào. Chính từ những tư tưởng bảo thủ cổ hủ như vậy là nguyên nhân trực tiếp gây ra những tội ác xã hội nghiêm trọng. Đó là những việc làm, những tội ác nghiêm trọng làm suy đồi đạo đức con người. Hậu quả của tư tưởng trọng nam khinh nữ như trên là hiện nay dân số Trung Quốc đang mất cân bằng nghiêm trọng. Việc dân số mất cân bằng về giới tính càng làm cho bài toán dân số Trung Quốc càng trở nên nan giải hơn. Theo con số thống kê của chính phủ cho thấy tỉ lệ bé trai so với bé gái ở nước này là 119/100. Hiệp hội kế hoạch hóa gia đình nước này cho biết tình trạng chênh lệch hiện nghiêm trọng tới mức một số thành phố có tỉ lệ lên tới 160 bé nam/100 bé nữ Các chuyên gia nghiên cứu về dân số cũng dự báo thêm rằng tình trạng nam thừa nữ thiếu sẽ lên cao đỉnh điểm vào năm 2020, và lúc đó sẽ có tới 40 triệu người đàn ông Trung Quốc sẽ phải sống trong tình trạng độc thân. Chính từ việc mất cân bằng giới tính như trên đã gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Một số tin rằng khi hàng triệu đàn ông nước này không thể tìm được vợ, sẽ dẫn đến các hành vi bạo lực và phản xã hội. Đây chính là nguyên nhân chính giải thích cho tệ nạn buôn bán phụ nữ sang Trung Quốc biến nước này thành quốc gia có thị trường buôn bán phụ nữ lớn nhất thế giới. Gần đây các giới chức Hoa Kỳ đã bày tỏ lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực của chính sách kế hoạch hóa gia đình ở Trung Quốc đối với những nỗ lực quốc tế nhằm bài trừ tệ nạn buôn người. Theo số liệu điều tra của tổ chức dân số thế giới cho biết trong tổng số khoảng 600 tới 800 ngàn người bị mua bán ra nước ngoài trên toàn thế giới thì đã có tới 250 ngàn người là nạn nhân ở Trung Quốc. Các chuyên gia Trung Quốc học cũng cho biết nhiều phụ nữ ở các nước láng giềng của Trung Quốc như Bắc Triều Tiên, Việt Nam…đã bị lừa bán sang Trung Quốc để phục vụ tại những địa điểm bán dâm hoặc bị mang đi gạ bán trong những vụ hôn nhân cưỡng bách. Một trong những hậu quả không thể không kể đến của chính sách một con đó chính những quy định khắt khe cung mức tiền phạt quá cao dẫn tới tình trạng tán gia bại sản của những cặp vợ chồng trót vi phạm. Khi có một đứa con nằm ngoài kế hoạch của chính phủ người dân sẽ phải đóng góp một khoản tiền phạt gấp 10 lần khoản tiền lương hàng năm của cả hai vợ chồng.Tuy nhiên cũng có những người sẵn sàng đóng khoản tiền 150000 nhân dân tệ phạt tương ứng với khoảng 18700 đô la gấp 20 lần thu nhập bình quân đầu người để có thể sinh thêm một đứa con là dấu hiệu mới nhất cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo quá độ ở Trung Quốc hiện nay. Chính sách một con còn tạo ra những vấn đề nghiêm trọng về giáo dục, xã hội, kinh tế.Theo các chuyên gia xã hội, nhiều cặp vợ chồng ở Trung Quốc đã nuông chiều quá độ đứa con duy nhất của họ. Điều này khiến cho nhiều đứa trẻ thuộc thế hệ mới hay thường được gọi là “tiểu hoàng đế”,dễ lâm vào tình trạng hư đốn.Chính sự nuông chiều quá mức này đã làm cho nhiều thanh niên trẻ ỷ lại vào gia đình,chơi bời lêu lổng, lười lao động gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội Trung Quốc hiện đại Việc mỗi gia đình chỉ có một con, đứa trẻ không có anh chị em và đặc biệt trong lối sống hiện nay cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến con cái làm cho những đứa trẻ thiếu khả năng giao tiếp xã hội, thiếu những kĩ năng cần thiết để làm việc chung với người khác. Đây sẽ là một hạn chế lớn cho thế hệ lao động tương lai của Trung Quốc. Như ta đã biết Trung Quốc có một lực lượng lao động dồi dào đây chính là một trong những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Nhiều thập kỷ trở lại đây, quốc gia đông dân nhất hành tinh này vẫn được coi là thị trường lao động dồi dào và giá rẻ hàng đầu thế giới với hàng triệu nhân công trẻ từ các vùng nông thôn. Lợi thế đó đã và đang tạo cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế “nóng”, Tuy nhiên việc thực hiện chính sách một con sẽ làm cho lực lượng lao động trong tương lai của quốc gia này giảm sút đáng kể nếu không muốn nói là thiếu. Lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ là một tai họa đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trước đây tỉ lệ người lao động so với người về hưu là 10/1 vào năm 1990 thì nay con số đó đã giảm nhanh chóng xuống còn 6/1 vào năm 2000 và dự báo trong tương con số này sẽ là 2/1 vào năm 2040 Một hậu quả nữa do thi hành chính sách một con đó là việc gây áp lực ngày càng nặng nề hơn cho giới trẻ. Những cặp vợ chồng trẻ hiện nay đang phải đối mặt với hiện tượng 8-4-2-1, tức là họ sẽ phải chăm sóc, phụng dưỡng 4 cha mẹ và 8 ông bà và một đứa con. Thực trạng này đã gây sức ép rất lớn nên vai những người trẻ tuổi, ngoài sức ép căng thẳng của công việc thì giờ họ lại phải chịu thêm gánh nặng gia đình. Để ngăn chặn nguy cơ này chính phủ Trung Quốc cũng đã có những biện pháp nới lỏng dần dần chính sách một con. Các hộ gia đình nông thôn, nếu đã có một con đầu lòng là gái, có thể được sinh thêm một con nữa. Từ năm 2000, những cặp vợ chồng nào đều là con một có thể được đẻ hai con. Nhưng nới lỏng cũng chẳng phải dễ thực hiện, ở các thành phố lớn, nhiều người trẻ chỉ muốn có một hoặc thậm chí không có con, theo mốt "nhân đôi thu nhập, không sinh con". Chính sách một con của Trung Quốc hiện đang là bài toán nan giải đối với những nhà hoạch định dân số. 2. Nguy cơ dân số già : 2.1 Thực trạng : Trên thực tế, Trung Quốc đã trở thành một nước có dân số già từ năm 1999, và xu thế đó không thể đảo ngược trong thế kỷ này. Số người trẻ ngày càng ít đi trong khi số người già tăng lên khiến cấu trúc tuổi của dân số Trung quốc sẽ giống như hình kim tự tháp ngược. Thật sự, khuynh hướng già hóa dân số ở Trung Quốc đã và đang đặt ra những thách thức lớn chưa từng có đến xã hội và kinh tế. Sự già hóa ở Trung Quốc đặc trưng bởi tốc độ tăng nhanh, quy mô lớn, và tình trạng người dân sẽ “già trước khi giàu”.Các giới chức dân số cảnh báo nếu không được quan tâm đúng mức thì các vấn đề về tuổi tác sẽ là trở ngại lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia này. Nguyên nhân chính đặt Trung Quốc trước nguy cơ trên là do những hậu quả chính sách một con và kế hoạch hoá gia đình gắt gao của chính phủ từ năm 1973 mà chúng ta đã đề cập đến ở trên. Trung Quốc hiện đang là nước có tỉ lệ dân số già tăng nhanh hơn bất kì quốc gia nào trên thế giới. Đây là quốc gia có số người già chiếm hơn một nửa tổng số người già tại châu Á. Theo một phân tích của China Business Times, cách đây 35 năm cứ 6 trẻ em có một người già, còn hiện nay tỉ lệ này là 2 người già/1 trẻ em. Điều này cho thấy tốc độ dân số già đi nhanh chóng của Trung Quốc trong những năm gần đây. Biểu đồ thể hiện sự gia tăng nhanh chóng dân số già ở Trung Quốc trong những năm gần đây và dự kiến trong tương lai Theo báo cáo của Ủy ban dân số và kế hoạch gia đình Bản cho biết vào thời điểm năm 2000, Trung Quốc có 124 triệu người có tuổi thọ trung bình cao hơn 60 tuổi, chiếm 9,9% tổng dân số Trung Quốc. Năm 2007 có khoảng 149 triệu người Trung Quốc có tuổi thọ cao hơn 60 tuổi, chiếm 11,3% tổng dân số Trung Quốc. Như vậy sau chưa đầy một thập kỉ tốc độ gia tăng dân số già 0,2%. Bản báo cáo còn đưa ra dự báo vào năm 2020, sẽ có khoảng 234 triệu người dân Trung Quốc sống trên 60 tuổi, chiếm 16% tổng dân số. Và đến năm 2040, con số này sẽ tăng gấp đôi lên tới 430 triệu người, chiếm khoảng 30% dân số cả nước.  Cho đến nay, mức tăng trưởng dân số của quốc gia này đang diễn ra khá chậm, càng có ít trẻ em được sinh ra thì sự hài hoà về độ tuổi dân số sẽ bị thay đổi. ”. Dân số già sẽ kéo theo hàng loạt hệ lụy kinh tế xã hội như thiếu hụt lực lượng lao động, trợ cấp cho người cao tuổi và giá trị gia đình truyền thống bị mai một. 2.2 Tác động tiêu cực : Dân số già cỗi có tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế. Với thực trạng dân số già ngày càng tăng hiện nay đang trở thành gánh nặng lên hệ thống tài chính và bảo hiểm y tế của đất nước. Số người cao tuổi gia tăng khiến cho sức ép chi trả cho hệ thống trợ cấp càng tăng. Hiện tại, GDP trên đầu người vừa tròn 1.000 USD, tương đối thấp so với mức 5.000- 10.000 USD của các nước phát triển tại thời điểm dân số các nước này già đi.Tỉ lệ người lao động so với người về hưu giảm nhanh, từ 13,1:1 vào năm 1980 xuống chỉ còn 3:1 năm 2003 và  ước tính sẽ là 2,5:1 vào năm 2020. Thiếu hụt lực lượng lao động trên dẫn đến nguồn phúc lợi xã hội cũng giảm theo. Do đó sẽ hạn chế khả năng trợ cấp cho dân số già. Theo số liệu thống kê năm 2005, chỉ có 13,4% tổng dân số (khoảng 174 triệu người) nhận được trợ cấp từ hệ thống phúc lợi, thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 20% do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) yêu cầu. Hầu như toàn bộ người dân nông thôn và người lao động nông thôn di cư tới các thành phố, khoảng 800 triệu người, không có được trợ cấp từ chính phủ. Tăng độ tuổi của về hưu từ 50 lên 55 tuổi (đối với nữ) và từ 55 lên 60 tuổi (đối với nam) cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là một giải pháp để xoá đi áp lực đáng kể cho hệ thống chi trả lương hưu hiện nay. Nhưng theo nhận định của các chuyên gia an sinh xã hội, tăng tuổi về hưu cũng tạo ra hàng hàng loạt các vấn đề cho chính phủ Trung Quốc. Đối với chính phủ, vấn đề đau đầu nhất của tình trạng dân số già là sức ép chi trả cho quỹ lương hưu ngày càng tăng. Không còn mấy tư tưởng “trẻ cậy cha, già cậy con” nữa. Nhiều cặp vợ chồng thậm chí không sinh con và điều tất yếu là khi về già họ phải trông vào lương hưu và trợ cấp. Như vậy, bài toán của Chính phủ Trung Quốc về vấn đề hỗ trợ người cao tuổi ngày càng khó giải hơn. Thật vậy, có tới hơn nửa số người cao tuổi ở thành thị lựa chọn trợ cấp phúc lợi xã hội  là nguồn thu nhập chính sau khi nghỉ hưu. Còn ở nông thôn con số là 11,8%, cao hơn tỷ lệ năm 2000 là 6,7% của năm 2000. Nhưng chỉ có khoảng 4,8% nhận được trợ cấp từ hệ thống lương hưu đó.  Còn với người dân, khi tuổi thọ trung bình càng gia tăng, tầng lớp những người về hưu sợ đối mặt với quãng thời gian dài đằng đẵng. Họ đang đổ xô đi tìm một công việc mới để lấp đầy thời gian nhàn rỗi và chuẩn bị tốt nhất cho những năm tháng tuổi già. Bên cạnh đó còn diễn ra một thực trạng là số người già tăng lên kéo theo số bệnh nhân mất trí cũng tăng theo. Theo nhận định của các chuyên gia thì hiện nay : “ bệnh mất trí cũng là vấn đề đáng lo ngại vì căn bệnh này đang ngày một phát triển ở Trung Quốc, cùng với các tệ nạn xã hội như AIDS vẫn đang tiếp tục đe dọa cộng đồng” Từ sau khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, trách nhiệm chu cấp cho người cao tuổi ở Trung Quốc đang được chuyển từ xí nghiệp cho xã hội. Theo các nhà ngiên cứu thì Trung Quốc phải tăng đầu tư vào chất lượng giáo dục để duy trì cạnh tranh và giữ được đà tăng trưởng hiện nay cho đến ít nhất 20 năm tới mới mong đáp ứng được số lương hưu cho người cao tuổi. Đây quả là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đặt ra cho các nhà cầm quyền ở Trung Quốc. Hiện nay chính quyền trung ương của Trung Quốc đang tiến hành một chương trình thí điểm ở các vùng nông thôn, trong đó trợ cấp cho mỗi gia đình có cha mẹ trên 60 tuổi nhưng vẫn chỉ có 1 con hoặc có 2 con gái ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12370.doc
Tài liệu liên quan