Luận án Tư duy chính trị Hồ Chí Minh - Những đặc điểm chủ yếu và ý nghĩa phương pháp luận

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THANH DUNG TƯ DUY CHíNH TRị Hồ CHí MINH - NHữNG ĐặC ĐIểM CHủ YếU Và ý NGHĩA PHƯƠNG PHáP LUậN LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2014 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ THANH DUNG TƯ DUY CHíNH TRị Hồ CHí MINH - NHữNG ĐặC ĐIểM CHủ YếU Và ý NGHĩA PHƯƠNG PHáP LUậN Chuyờn ngành : Chớnh trị học Mó số : 62 31 20 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS, TS NGUYỄN VĂN HUYấN HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐO

doc179 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Tư duy chính trị Hồ Chí Minh - Những đặc điểm chủ yếu và ý nghĩa phương pháp luận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này do chính tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả đưa ra trong luận án này là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu của tác giả nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Thị Thanh Dung MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CMVS : Cách mạng vô sản CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNCS : Chủ nghĩa cộng sản CNTD : Chủ nghĩa thực dân CNTB : Chủ nghĩa tư bản CNĐQ : Chủ nghĩa đế quốc CTQG : Chính trị quốc gia QTCS : Quốc tế Cộng sản MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển xã hội nói chung và lịch sử chính trị nói riêng đã chứng minh: sự phát triển của các quốc gia, sự rạng danh của các dân tộc đều là kết quả của các thể chế chính trị vững mạnh với những con người chính trị có phẩm chất, trí tuệ, tài năng và đặc biệt là sự xuất hiện của các thủ lĩnh chính trị đức độ, anh minh, tài ba xuất chúng. Lịch sử chính trị Việt Nam qua các thời đại phát triển đều gắn liền với các vương triều thịnh trị với các vua sáng, tôi hiền. Không có những con người xuất chúng cả về tài năng, đức độ, tinh thần hào kiệt, ý chí kiên cường thì cũng không qui tụ, huy động và phát huy được đông đảo nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và chấn hưng đất nước. Điều đó cho thấy vai trò quyết định của con người chính trị - với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động chính trị, đối với lịch sử chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc. Cách mạng Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản ra đời với đội ngũ những con người trí tuệ, tài năng, phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là sự xuất hiện lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh đã làm nên những kỳ tích mà hàng nghìn năm trước đây dân tộc ta, dù khát khao, hy sinh phấn đấu cũng chưa làm được. Đó là kỳ tích của những con người mang tư duy khoa học, cách mạng được hòa quyện trong bầu nhiệt huyết của người con yêu nước, yêu độc lập, tự do và ý chí sắt đá của người cộng sản được kết tụ thành một sức mạnh to lớn làm thay đổi lịch sử dân tộc và bản đồ thế giới. Phẩm chất, năng lực và khí phách ấy được hội tụ đầy đủ, trọn vẹn trong con người Hồ Chí Minh. Người trở thành biểu tượng của nền Hòa bình thế giới, sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt Nam và điển hình của một tư duy chính trị tiên tiến có tầm ảnh hưởng và sức lan tỏa rộng lớn trong đời sống chính trị Việt Nam hiện nay. Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ thực tiễn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra hàng loạt những câu hỏi cần có lời giải đáp: Làm thế nào để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách thuộc địa của thực dân Pháp trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới? Làm thế nào để xây dựng được một chính đảng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé? Làm thế nào để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa trải qua chế độ tư bản, lại bị mấy chục năm chiến tranh tàn phá? Làm thế nào để xây dựng một chính quyền, một bộ máy nhà nước đảm bảo quyền làm chủ cho nhân dân? v.v. Những câu hỏi ấy đặt ra đòi hỏi mỗi người Việt Nam yêu nước phải tìm lời giải. Nguyễn Ái Quốc là người đã thành công trong việc đề ra một hệ thống lý luận cách mạng phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm và giải đáp được những yêu cầu của lịch sử chính trị nước nhà. Hệ thống tư tưởng và những cống hiến của Người đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam và có tính khai mở thời đại. Đó là điểm tạo nên sự khác biệt trong sự nghiệp chính trị Hồ Chí Minh với các bậc tiền bối và các sĩ phu yêu nước trước và cùng thời. Vậy, điều gì làm nên sự sáng tạo và những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh? Phải chăng đó là do thời thế của lịch sử? hay do năng lực tư duy, phẩm chất, khí phách của Người? Cho đến nay, trong giới nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung và sự nghiệp chính trị của Người nói riêng, chủ yếu tập trung khai thác và làm rõ những sáng tạo, độc đáo thể hiện trong tư tưởng và hành vi chính trị Người. Những tư tưởng và hành vi đó không có ngay mà được chín dần, được kiểm tra, sàng lọc và ngày càng hoàn thiện. Chúng là kết quả của một quá trình tư duy và trải nghiệm, của những phép thử đúng - sai, và của cả niềm tin, ước vọng cá nhân. Vậy, nguồn gốc, căn nguyên đưa tới những sáng tạo trong tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh là gì? Ralph Waldo emerson từng viết: “Tổ tiên của mọi hành động là tư duy”. Mọi tư tưởng, hành động của con người trước hết được bắt nguồn từ tư duy. Tư duy đúng sẽ chi phối tư tưởng và hành động đúng. Để có tư tưởng và hành động chính trị đúng trước hết phải bắt nguồn từ một tư duy khoa học, cách mạng. Chính cách tư duy ở mỗi người khác nhau sẽ tạo nên tư tưởng và hành động khác nhau. Nhưng tư duy không tự hình thành mà có nguồn gốc thực tiễn, nhằm giải đáp một thực tiễn đặt ra. Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới cùng với những tư tưởng chính trị của các thế hệ trước chính là cơ sở để Hồ Chí Minh tư duy và đưa ra hệ thống tư tưởng chính trị của mình. Nếu những dữ kiện, căn cứ cần cho việc hình thành tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đã có thì qúa trình phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu lại có vai trò trực tiếp dẫn đến việc xác lập tư tưởng ấy. Do đó, tư duy khoa học là gốc cho mọi tư tưởng đúng và hành động đúng của con người. Vậy, ở Hồ Chí Minh có tư duy chính trị đặc sắc như thế nào để tạo ra những sáng tạo riêng có của Người? Tư duy chính trị Hồ Chí Minh có đặc điểm gì để xác lập những tư tưởng chính trị làm biến đổi cả bản đồ thế giới trong thế kỷ XX? Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được chính thức bắt đầu từ năm 1986 với sự đổi mới trước hết là tư duy. Thực chất là đổi mới tư duy chính trị trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội. Đổi mới tư duy chính trị là cơ sở, định hướng cho quá trình đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng lý luận cho quá trình đổi mới. Sau gần 30 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được là rất lớn, thực tiễn cách mạng đang đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi cả Hệ thống chính trị cần đẩy mạnh hơn nữa, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, tinh thần, trí tuệ, bản lĩnh, khí phách của người Việt Nam để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn bao giờ hết, cần khai thác những di sản mà Hồ Chí Minh để lại nhằm tìm thấy những chỉ dẫn quí báu cho sự nghiệp cách mạng hiện nay. Việc tìm hiểu những đặc điểm chủ yếu của tư duy chính trị Hồ Chí Minh do đó không chỉ giải mã được cội nguồn của những sáng tạo trong tư tưởng và hành động chính trị Hồ Chí Minh mà còn lấy đó làm cơ sở lý luận cho sự nghiệp đổi mới hiện nay. Sự nghiên cứu không chỉ bổ sung những hiểu biết sâu sắc về sự nghiệp chính trị Hồ Chí Minh mà còn góp phần vào việc nghiên cứu con người chính trị với những năng lực và tố chất cần có của một lãnh tụ. Đây cũng là cơ sở để góp thêm những nghiên cứu trong lịch sử tư tưởng và các lý thuyết chính trị trong ngành chính trị học ở Việt Nam. Đề tài do đó có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Nhận thức sự cần thiết của việc nghiên cứu, học viên lựa chọn đề tài "Tư duy chính trị Hồ Chí Minh - những đặc điểm chủ yếu và ý nghĩa phương pháp luận" làm luận án Tiến sĩ của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở lý luận về tư duy, tư duy chính trị và tư duy chính trị Hồ Chí Minh, luận án phân tích làm rõ những yếu tố hình thành tư duy chính trị Hồ Chí Minh; phân tích và rút ra những đặc điểm thể hiện qua nội dung và phương pháp tư duy chính trị Hồ Chí Minh; ý nghĩa phương pháp luận của những đặc điểm đó đối với công cuộc đổi mới tư duy chính trị ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục tiêu trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau: Làm rõ những vấn đề lý luận về tư duy, tư duy chính trị, tư duy chính trị Hồ Chí Minh và những yếu tố hình thành tư duy chính trị Hồ Chí Minh Làm rõ những đặc điểm chủ yếu về nội dung và phương pháp của tư duy chính trị Hồ Chí Minh Chỉ ra ý nghĩa phương pháp luận của tư duy chính trị Hồ Chí Minh đối với việc tiếp tục đổi mới tư duy chính trị trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Những đặc điểm chủ yếu của tư duy chính trị của Hồ Chí Minh. Ý nghĩa phương pháp luận đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tiếp cận từ góc độ triết học khoa học hoặc Hồ Chí Minh học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu với các cách kiến giải khác nhau. Đề tài chỉ nghiên cứu từ góc độ triết học chính trị để tìm hiểu những nét độc đáo trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Luận án không nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung mà thông qua việc nghiên cứu những tư tưởng chính trị, hành vi chính trị để tìm hiểu tư duy chính trị của Người. Tuy nhiên, cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời chính trị, hoạt động chính trị là hoạt động chủ yếu chi phối mọi tư tưởng trên các lĩnh vực khác. Mọi tư duy, suy nghĩ của Người về các lĩnh vực khác của đời sống cũng không thoát ly khỏi mục đích chính trị. Bởi chính trị của Người là chính trị nhân văn, vì con người, lấy tự do, hạnh phúc của con người là mục tiêu.Vì vậy, có thể nói phạm vi nghiên cứu trực tiếp đến đề tài hẹp nhưng lại được thực hiện trên phổ rộng lớn của tư duy nhận thức và cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể: Về thời gian: Tư duy chính trị Hồ Chí Minh hình thành, phát triển gắn với cuộc đời hoạt động chính trị phong phú của Người. Đó là quá trình liên tục được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Vì thế, để nhận diện và làm rõ những đặc điểm chủ yếu của tư duy chính trị Hồ Chí Minh cần gắn với cuộc đời, sự nghiệp chính trị của Hồ Chí Minh. Về không gian: cuộc đời hoạt động chính trị Hồ Chí Minh vô cùng phong phú, được hình thành từ sự trải nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới. Do đó, luận án trên cơ sở lần theo quá trình hoạt động của Người ở các nước qua các bài viết, bài nói và những câu chuyện về cuộc đời sự nghiệp của Người để tìm ra những đặc điểm chủ yếu trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Về mặt nội dung: Tư duy chính trị Hồ Chí Minh có phạm vi rất rộng, luận án không nghiên cứu cấu trúc, chức năng, hình thái của tư duy như góc độ của tâm lý học, mà chỉ giới hạn, tìm hiểu các dấu hiệu đặc trưng của tư duy chính trị Hồ Chí Minh dưới góc độ triết học chính trị. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về cách mạng Việt Nam. Phương pháp luận của việc thực hiện luận án là biện chứng duy vật và quan điểm lịch sử. Ngoài ra luận án còn sử dụng những phương pháp cụ thể như: lịch sử và lô gic, so sánh, phân tích, tổng hợp, gắn lý luận với thực tế, phỏng vấn chuyên gia, phân tích văn bản v.v.. 5. Đóng góp khoa học của luận án 5.1. Đóng góp về mặt khoa học Luận án đã góp phần làm rõ và sâu sắc thêm những vấn đề về tư duy, tư duy chính trị, tư duy chính trị Hồ Chí Minh và những yếu tố tác động đến sự hình thành tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Luận án phân tích và khái quát được một số đặc điểm chủ yếu về nội dung và phương pháp tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Từ đó luận giải nguồn gốc của những sáng tạo trong tư tưởng và hành vi chính trị Hồ Chí Minh là từ tư duy. Rút ra một số nhận xét khoa học đóng góp vào sự phát triển của phân ngành tư tưởng chính trị Việt Nam thông qua nghiên cứu trường hợp tư duy chính trị Hồ Chí Minh. 5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Trên cơ sở khái quát những đặc trưng cơ bản của tư duy chính trị Hồ Chí Minh để phân tích, làm rõ và khẳng định giá trị, tầm vóc vĩ đại của Người thông qua sự vận dụng của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Các dữ liệu, tri thức của luận án có thể làm tài liệu giảng dạy cho các lớp học có mục tiêu hướng tới tăng cường năng lực tư duy chính trị và hành vi chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần xây dựng khung lý thuyết về tư duy, tư duy chính trị nói chung và tư duy chính trị Hồ Chí Minh nói riêng. Đó là cơ sở, là công cụ để phân tích và hiểu sâu cơ sở hình thành và những đặc trưng cơ bản của tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Đây là một nội dung chưa được nghiên cứu một cách chuyên biệt và có hệ thống nhưng lại rất cần thiết để cắt nghĩa nguồn gốc hình thành tư tưởng và hành vi chính trị của con người nói chung và của Hồ Chí Minh nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án sẽ góp vào bức tranh tổng thể trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh và coi đó như một trường hợp chính trị điển hình để vận dụng trong thực tiễn chính trị hiện nay. Luận án là tài liệu tham khảo và gợi mở cho những công trình nghiên cứu về chính trị học, Hồ Chí Minh học và những chuyên ngành liên quan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Vấn đề tư duy, tư duy chính trị nói chung và tư duy chính trị Hồ Chí Minh nói riêng đã dành được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều bài báo và các sách, tài liệu tham khảo, luận văn, luận án đã đề cập đến những chiều cạnh khác nhau về tư duy và tư duy chính trị. Tư duy chính trị, đặc biệt là tư duy chính trị Hồ Chí Minh là vấn đề còn những khoảng trống trong nghiên cứu. Liên quan đến đề tài này, có các nhóm nghiên cứu sau đây: 1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ CẬP ĐẾN TƯ DUY Đây là một trong những hướng thu hút nhiều người nghiên cứu nhất và có nhiều thành công. Cho đến nay nhân loại biết rất nhiều về thế giới xung quanh, nhưng còn biết rất ít về chính bản thân mình, đặc biệt về những gì xảy ra trong bộ não. PGS.TSKH Phan Dũng tác giả của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” cho rằng những gì nhân loại dành cho lĩnh vực tư duy là không đáng kể. Nhân loại quan tâm đến kết quả tư duy (các phát minh, sáng chế) hơn là quá trình suy nghĩ dẫn đến những kết quả đó. “Rõ ràng nhân loại quá thờ ơ với những gì thuộc về lĩnh vực tư duy”. Các công trình tiêu biểu của hướng nghiên cứu này có thể kể đến như: * Các công trình nước ngoài nghiên cứu về tư duy Được viết dưới dạng các bút ký, cuốn Lôgic học biện chứng của E.V.Ilencov đã phân tích, luận chứng một cách có hệ thống, sâu sắc cuộc tranh luận trong lịch sử triết học, giữa các khuynh hướng duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình về bản chất của tư duy và khoa học về tư duy. Từ đó, tác giả đã đi đến khẳng định: mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết một cách đúng đắn, khoa học với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgic học. Bộ sách "Phương pháp" của Edgar Morin- người cha đẻ của tư duy phức hợp - gồm 6 tập: Tự nhiên về Tự nhiên hay Bản tính của Tự nhiên ; Sự sống về Sự sống; Tri thức về Tri thức, Nhân học về Tri thức; Tư tưởng; Nhân loại về nhân loại, bản sắc nhân loại; Đạo đức học. Trong đó, cuốn Nhập môn tư duy phức hợp, Edgar Morin trình bày tổng quát về tư duy của con người, khẳng định tính tất yếu của tư duy phức hợp. Tác giả khẳng định, tư duy vốn thuộc lĩnh vực triết học, nhưng không nằm gọn trong triết học, mà có ở trong mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, đời thường, có cả ở nhà bác học, nhà tư tưởng, cũng như ở người mù chữ. Hiện nay, tư duy đơn giản hóa có nhiều bất cập, sai lầm, dẫn đến "sự mù lòa của trí tuệ" làm cho chúng ta không còn khả năng nhận ra và lĩnh hội được tính phức hợp của thực tại. Vì vậy, tư duy phức hợp hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển của khoa học ở thế kỉ XX, đặc biệt là điều khiển học, lý thuyết thông tin, lý thuyết hệ thống và lý thuyết sinh thái - tự tổ chức. Khoa học hiện đại đang đòi hỏi nhất thiết phải có tư duy phức hợp: Chỉ tư duy phức hợp mới có khả năng đáp ứng những thách thức của cuộc sống hiện đại. Trong Tư duy như một hệ thống, bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn "Cái toàn thể và trật tự ẩn" (Wholeness and Implicate Order), David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hậu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Daniel H.Pink trong Một tư duy hoàn toàn mới đã nhấn mạnh: "kỷ nguyên mà não trái thắng thế và thời đại thông tin do nó phát sinh ra đang dần được thay thế bởi một thế giới mới mà tại đó các phẩm chất của não phải như sáng tạo, trực giác sẽ nổi trội hơn". Ông cho rằng, thế giới cần theo đuổi triết lý suy nghĩ mới về "một nền kinh tế sáng tạo". John Dewey trong Cách ta nghĩ đã mô tả chi tiết các quy trình khác nhau của quá trình suy nghĩ và rèn luyện trí nghĩ. Ông cho rằng suy nghĩ là một hành động tự nhiên, việc dạy một người nào đó suy nghĩ là một việc bất khả. Tuy nhiên, có thể giúp phát triển tư duy của con người thông qua việc phát triển khả năng sáng tạo, sự tò mò và cách đặt câu hỏi. Để có thể làm như vậy, thay vì nhồi nhét kiến thức, chúng ta nên tập trung vào việc tạo ra một môi trường kích thích tư duy sáng tạo. M.M.Rodentan trong Nguyên lý lô gic biện chứng đã nghiên cứu hình thức và quy luật của tư duy, phân tích đối tượng, vai trò của lôgic học đối với quá trình tư duy, phân biệt lôgic hình thức và lôgic biện chứng, những hạn chế của lôgic hình thức. Từ đó tác giả khẳng định, việc học tập, nghiên cứu lôgic biện chứng là điều kiện quan trọng để đạt đến trình độ tư duy biện chứng duy vật. Cũng của M.M. Rôdentan trong Những vấn đề về phép biện chứng trong bộ Tư bản của Mác đã phân tích những quy luật và phương pháp lịch sử do Mác áp dụng vào việc phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và các quy luật của phương pháp ấy; những đặc điểm của các quy luật dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và dưới chế độ xã hội chủ nghĩa A.P.Séptulin trong Phương pháp nhận thức biện chứng đã tập trung phân tích chức năng phương pháp luận của học thuyết triết học Mác-Lênin, lý giải phép biện chứng với tư cách là phương pháp nhận thức. Từ đó tác giả khẳng định, phương pháp nhận thức biện chứng là kết quả của lịch sử phát triển nhận thức, các quy luật của hoạt động nhận thức được thể hiện qua các quy luật và phạm trù của phép biện chứng. Cuốn Lịch sử phép biện chứng (6 tập) của các tác giả thuộc Viện Triết học, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ), vấn đề tư duy biện chứng duy vật được bàn đến trong quá trình nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của phép biện chứng. Các tác giả đã khái quát một cách hệ thống lịch sử đấu tranh giữa hai phương pháp tư duy: phương pháp tư duy biện chứng và phương pháp tư duy siêu hình trong lịch sử triết học nhân loại, kết quả sự thắng thế của phương pháp tư duy biện chứng duy vật. * Các công trình trong nước nghiên cứu về tư duy Nét đặc trưng chung nhất trong phương thức tồn tại của tâm lý người là tư duy với tư cách là một quá trình, một hoạt động. Phân tích tính hai mặt của quá trình tư duy thống nhất, tác giả Nguyễn Bá Dương đã đi đến nhận định: Quá trình tìm kiếm, phát minh cái mới trong khoa học cũng giống như quá trình tái tạo kinh nghiệm của lịch sử - xã hội loài người diễn ra dưới hình thức giải quyết các tình huống có vấn đề. Bản thân mỗi kinh nghiệm lịch sử - xã hội luôn có tính tổng hòa của hoạt động sáng tạo của xã hội loài người. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn cơ bản của sự phát triển trí tuệ loài người là ở chỗ “tư duy một mặt là một quá trình tìm kiếm và phát hiện ra cái mới, cái bản chất, mặt khác nó còn là quá trình tái tạo lại những tri thức, những kinh nghiệm lịch sử - xã hội đã được loài người tích lũy” [38, tr.20]. Nguyễn Mạnh Cương trong bài Về bản chất của tư duy đã chỉ ra, tư duy là gì trong sự phân biệt với ý thức, nhận thức. Để hiểu rõ được bản chất của tư duy với tư cách là một chỉnh thể thống nhất và đặc biệt, để vận dụng các công cụ của tư duy một cách hiệu quả, tác giả đã khẳng định, bộ phận cơ bản của tư duy là tư duy chính xác. Tư duy chính xác theo tác giả là một bộ phận của tư duy biện chứng mác xít, phản ánh trạng thái xác định của sự vật, hiện tượng trong “tính đồng nhất trừu tượng” của chúng. Đồng thời tác giả đã phân biệt sự khác nhau giữa tư duy chính xác và tư duy biện chứng. Dựa trên cơ sở những mối liên hệ, quan hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và lý thuyết phản ánh, tác giả Mai Hữu Khuê cho rằng “tư duy là quá trình tâm lý phản ánh những mối liên hệ và quan hệ giữa các đối tượng hay các hiện tượng của hiện thực khách quan” [116, tr.153]. Tác giả cho rằng, tư duy khác hẳn với tri giác ở chỗ, tư duy không chỉ thực hiện được những bước đi như đã xảy ra ở tri giác, là tách các phần riêng lẻ của sự vật, mà còn cố gắng hiểu các phần đó có quan hệ với nhau như thế nào. Tư duy phản ánh bản chất của sự vật, và do đó là hình thức phản ánh hiện thực cao nhất. Nguyễn Đình Trãi trong Luận án tiến sĩ triết học Năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh đã xem tư duy như là quá trình phân tích, tổng hợp, khái quát những tài liệu thu được qua nhận thức cảm tính, nhận thức kinh nghiệm để rút ra cái chung, cái bản chất của sự vật” [242, tr.19]. Nguyễn Thanh Tân trong bài Sự hình thành tư duy và một số đặc trưng của nó đã phân tích quá trình hình thành tư duy của con người bắt nguồn từ lao động và trong quá trình hoạt động, tư duy, ý thức của con người về thế giới khách quan được hình thành. Tác giả cũng chỉ ra những đặc trưng cơ bản của tư duy như: nguồn gốc thực tiễn; có hệ thống tri thức làm tiền đề; đòi hỏi một bộ máy công cụ và phương tiện nhất định; luôn có đối tượng nhất định và là một chức năng của não người. Trong Luận văn thạc sỹ triết học, Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng mác xít, tác giả Đoàn Thế Hùng đã khái quát lịch sử hình thành, phát triển tư duy biện chứng duy vật từ thời cổ đại đến giai đoạn Lênin. Thông qua sự khái quát đó, tác giả đã phân tích các điều kiện của sự hình thành tư duy biện chứng duy vật. Theo tác giả, tư duy biện chứng mác xít là tư duy phản ánh đúng đắn biện chứng của sự vật, tức là phản ánh sự vật trong mối liên hệ, trong sự vận động và chuyển hóa không ngừng. Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy biện chứng mác xít cho cán bộ ở nước ta hiện nay. Các tác giả, Bùi Thanh Quất, Bùi Trí Tuệ, Nguyễn Ngọc Hà, trong Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của Lôgic học biện chứng đã phân tích đối tượng, phương pháp nghiên cứu của lôgic học biện chứng, đặc điểm của lô gic học biện chứng. Các tác giả cho rằng, trong quan hệ giữa tư duy biện chứng với lôgic biện chứng thì tư duy biện chứng vừa là đối tượng nghiên cứu vừa là công cụ nghiên cứu. Ngược lại, lôgic biện chứng có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tư duy biện chứng. Việc trang bị lôgic biện chứng cho mọi người là hết sức cần thiết để nâng cao trình độ tư duy biện chứng của họ, giúp họ nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, nhận thức và cải tạo thế giới. Ngô Đình Xây trong bài Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý luận đã trích lời của Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”. Song, ở bất cứ thời đại nào, dân tộc nào cũng như con người nào, tư duy lý luận cũng chỉ là năng lực bẩm sinh, “đặc tính bẩm sinh”. Muốn để cho “đặc tính bẩm sinh” ấy chuyển thành tư duy lý luận thực sự, cần phải có những điều kiện đảm bảo cho nó. Ăngghen đã chỉ ra 5 điều kiện cơ bản cho sự hình thành tư duy lý luận. Trần Đình Thỏa trong bài Một số vấn đề về tư duy biện chứng Mácxit đã khẳng định, tư duy là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới khách quan, là sự phản ánh thế giới một cách khái quát và gián tiếp bằng các khái niệm, phán đoán, suy lý Nó vừa là sản phẩm của bộ óc người, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội. Vì vậy, cùng với sự phát triển của thực tiễn, tư duy cũng có quá trình phát triển riêng của mình. Như vậy, qua các công trình khoa học nêu trên, các tác giả đã phân tích, làm rõ những vấn đề như nguồn gốc, bản chất, đặc điểm của tư duy và tư duy biện chứng duy vật; lịch sử hình thành, phát triển của tư duy biện biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp, trình độ và năng lực của tư duy, các nguyên tắc và các quy luật của tư duy và tư duy biện chứng duy vật; mối quan hệ giữa tư duy hình thức và tư duy biện chứng Thông qua đó, các tác giả đã góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận chung nhất về tư duy và tư duy biện chứng duy vật, đặt cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để xây dựng phương pháp tư duy khoa học và sử dụng phương pháp ấy trong nhận thức và cải tạo thế giới. Đồng thời thông qua các công trình nghiên cứu trên, tác giả đặt ra và gợi mở nhiều vấn đề cần được quan tâm, tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Đó cũng là những nguồn tài liệu phong phú, đa dạng để tác giả luận án kế thừa nhằm làm rõ khái niệm công cụ của đề tài. Ngoài ra, nghiên cứu tư duy gắn với sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước, đặc biệt từ sau khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 tới nay. Tác giả Đào Duy Tùng trong cuốn Bàn về đổi mới tư duy đã chỉ rõ đổi mới tư duy là yêu cầu bức thiết, là mệnh lệnh của cuộc sống, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong bài Một số vấn đề về tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở nước ta, tác giả Hồ Văn Thông đã khái quát một số nét cơ bản của tư duy trong mối quan hệ với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong bài Quan hệ giữa đổi mới nội dung tư duy và đổi mới phương pháp tư duy, tác giả Nguyễn Đăng Quang cho rằng, muốn đổi mới tư duy phải bắt đầu từ việc đổi mới phương pháp tư duy. Tác giả Nguyễn Quang Thông trong bài, Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy khoa học đã phân tích mối quan hệ giữa phương pháp tư duy biện chứng duy vật với phương pháp tư duy của các khoa học cụ thể. Tác giả Trần Hữu Tiến trong cuốn Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận đã chỉ ra những "căn bệnh" trong tư duy lý luận của chúng ta, nguyên nhân của nó, các biện pháp và phương hướng khắc phục. Trong bài Phương pháp tư duy - vấn đề kế thừa và đổi mới, tác giả Tô Duy Hợp đã phân tích, làm rõ một số khái niệm: phương pháp, phương pháp tư duy, phương pháp nhận thức, phương pháp hành động, chỉ ra sự thống nhất và khác biệt giữa các khái niệm, mối quan hệ giữa phương pháp tư duy khoa học với phương pháp tư duy lý luận và phương pháp tư duy biện chứng.Tác giả Lại văn Toàn trong bài Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới đã chỉ ra phương hướng và biện pháp đổi mới tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Luận án phó tiến sĩ triết học của Hồ Bá Thâm, Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay; luận án phó tiến sĩ triết học, Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, tác giả Trần Văn Phòng đã chỉ ra những hạn chế trong tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ và đề xuất các giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy của họ. Nguyễn Thị Bích Thủy trong luận án tiến sĩ triết học Vai trò của tư duy biện chứng duy vật đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay; Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải pháp, tác giả Trần Thành làm chủ nhiệm; cuốn Tư duy lý luận đối với sự nghiệp đổi mới của tác giả Trần Nhâm v.v.. Đây là các công trình khoa học tiêu biểu của các nhà khoa học được thực hiện từ sau Đại hội VI của Đảng ta. Tuy cách tiếp cận và nội dung có những điểm khác nhau, song điểm chung của các công trình nêu trên là giải quyết các vấn đề lý luận chung về tư duy và tư duy biện chứng duy vật gắn liền với sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đóng góp của các công trình khoa học nêu trên là làm sáng tỏ lý luận chung về đổi mới tư duy, vai trò của đổi mới tư duy đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực trạng tư duy của chúng ta hiện nay, những căn bệnh cần khắc phục trong tư duy của chúng ta và nguyên nhân của nó. Sau khi phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, các tác giả đề xuất phương hướng, biện pháp khắc phục những hạn chế, tiêu cực trong cách nghĩ, cách làm của cán bộ ta nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới tư duy nói riêng do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Trong đó, các tác giả đều khẳng định tính khoa học, cách mạng của tư duy biện chứng duy vật cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là cách tốt nhất để khắc phục những hạn chế trong tư duy của chúng ta. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, TƯ DUY CHÍNH TRỊ * Các nghiên cứu nước ngoài về tư tưởng chính trị, tư duy chính trị Michael Freeden (1998), Ideologies and Political Theory: A Conceptual Approach (Tư tưởng và lý thuyết chính trị: Tiếp cận mang tính khái niệm) là một cuốn sách mang tính bước ngoặt trong nghiên cứu về tư duy chính trị. Freeden lập luận rằng chúng ta coi trọng hệ tư tưởng vì ý thức hệ đóng vai trò rất quan trọng trong cách chúng ta hiểu và định hình thế giới chính trị. Tuy nhiên, không ai có thể giải thích bản chất của ý thức hệ của mình. Freeden cung cấp một cách tiếp cận mang tính đột phá về chủ đề này. Dựa trên kinh nghiệm chính trị của Anh, Pháp, Đức và Hoa Kỳ trong hai trăm năm qua, tác giả cung cấp một nghiên cứu chuyên sâu về tất cả các ý thức hệ chính trị quan trọng: tự do, bảo thủ, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa nữ quyền, Ông cho rằng tư tưởng là một loại đặc biệt của tư tưởng chính trị, phổ biến trong chính trị và tìm kiếm xa hơn ý thức hệ để giải thích bản chất rộng hơn về "tư duy chính trị". Suy nghĩ về chính trị có thể khác nhau về nội dung ở mỗi người khác, mỗi cộng đồng và mỗi nền văn hóa, nhưng các tính năng chung không khác nhau. Tất cả các hình thức của tư duy chính trị có thể bao gồm vận động hay ít... biểu hiện của tư duy là ngôn ngữ (lời nói, chữ viết, hành vi). Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, là hình thức biểu hiện trực tiếp của tư tưởng. Chỉ thông qua ngôn ngữ, con người mới nhận biết được tư duy, hiểu tư duy của chủ thể. Đây là phương tiện để truyền tải tư duy, cố định lại tư duy (một cách tương đối). Những đặc trưng trên đây cho phép hình dung mỗi quá trình tư duy với hai chiều. Chiều thứ nhất thể hiện tư duy là quá trình bao gồm các hành động và thao tác trí óc nhằm thâm nhập vào thế giới đối tượng bằng cách sử dụng các công cụ, phương tiện nhận thức để sản sinh ra những tri thức mới, đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn và nhận thức mà con người đang hướng tới. Chiều thứ hai thể hiện tư duy là quá trình mà cũng bằng cách thông qua việc sử dụng các công cụ, phương tiện nhận thức, nhưng là để củng cố, hệ thống hóa và duy trì khối tri thức mà con người đã có. Đây là hai chiều diễn ra đồng thời và thống nhất với nhau trong mỗi quá trình tư duy, nhưng có tác dụng khác nhau: chiều thứ nhất đảm bảo cho tư duy một sự phát triển và biến hóa; chiều thứ hai lại đảm bảo cho các quá trình tư duy có tính xác định; cho phép nó tạm thời chấm dứt để có thể được khách quan hóa và hiện thực hóa. Sản phẩm của tư duy là tri thức (những hiểu biết về sự vật, hiện tượng). Tri thức ấy biểu hiện qua tư tưởng, quan điểm, hành vi của con người. Vậy, tư tưởng, quan điểm, hành vi là biểu hiện cho những hiểu biết của con người về thế giới khách quan, đó là sản phẩm của quá trình phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu diễn ra trong bộ óc của con người. Do đó, tìm hiểu tư duy (với tư cách là quá trình) khác với tìm hiểu tư tưởng (với tư cách là kết quả của quá trình tư duy), mặc dù giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, không tách rời nhau. Tư tưởng - dưới bất cứ hình thức biểu hiện nào (khái niệm, phạm trù, quan điểm, chính kiến) đều là kết quả của tư duy. Tư duy đúng sẽ dẫn đến tư tưởng, hành động đúng và ngược lại sẽ dẫn đến tư tưởng, hành động sai. Vậy, “tư duy” là cơ sở, là tiền đề để có “tư tưởng”, đến lượt mình “tư tưởng” là tài liệu, là căn cứ cho quá trình tư duy ở giai đoạn sau. Và xét đến cùng thì cả hai đều phản ánh nhu cầu giải thích thế giới và cải tạo thế giới của con người và cả hai đều có chung một phương thức biểu hiện là ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết và hành động). Năng lực tư duy và kết quả của quá trình tư duy (tức là tư tưởng) sẽ phản ánh trình độ nhận thức và cải tạo thế giới của mỗi người là khác nhau. Do vậy, tư duy và tư tưởng tồn tại ở mỗi người là khác nhau. Người ta sẽ không biết được tư duy của một chủ thể thông qua chính những quan điểm, tư tưởng và hành động của người đó. Như vậy, tư tưởng là một cách để thể hiện tư duy và ngược lại, sẽ không thể có tư tưởng, quan điểm và hành vi nếu con người không tư duy. Tư duy là hoạt động chỉ có ở con người, ở thế giới loài người và được thực hiện ở mỗi chủ thể khác nhau. Chỉ qua tư duy và bằng tư duy con người mới tạo ra thế giới loài người với đầy đủ những đặc trưng của nó: ngôn ngữ, các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể Cũng chính tư duy là cơ sở để phân biệt ở mỗi con người khác nhau. Như thế tư duy không chỉ phân biệt giữa con người với con vật mà còn là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa người này với người kia. Chính cách thức tư duy ở mỗi người khác nhau sẽ đưa đến tư tưởng, quan điểm và hành vi khác nhau. Khi con người tư duy là bằng chứng sự tồn tại của con người. Vì chỉ có tư duy thì con người mới tạo ra mọi thứ của xã hội con người, mới hình thành tư tưởng, cảm xúc, ý chí và hành vi của con người. Có thể khái quát chu trình của tư duy được bắt đầu từ đầu vào là: tình huống có vấn đề nảy sinh, những tri thức về tình huống ® diễn ra quá trình phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu nhằm xử lý thông tin ® đầu ra: tư tưởng, quan điểm, lời nói, hành vi. Như vậy, tư duy xuất hiện khi thực tiễn nảy sinh vấn đề, nói cách khác, thực tiễn đặt ra vấn đề đòi hỏi phải tư duy. Khi thực tiễn đặt ra tác động, truyền tải tri thức vào bộ óc con người, khi đó, trong bộ óc diễn ra quá trình phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu tức các thao tác tư duy diễn ra nhằm xử lý thông tin. Kết quả của quá trình ấy sẽ thể hiện qua ngôn ngữ (gồm lời nói và chữ viết, hành vi). Trong quá trình ấy tri thức và hoàn cảnh thực tiễn được xem là nguyên liệu, đầu vào của tư duy. Từ tri thức về sự vật mà con người có những hành động tương ứng. Đến lượt mình, chính những hành động thực tiễn ấy lại cung cấp cứ liệu cho một quá trình tư duy mới. Vậy, tư duy được xét đến bao gồm nội dung tư duy, cách thức tư duy và sản phẩm của tư duy. Nội dung tư duy chính là tình huống do thực tiễn đặt ra và nó sẽ được phản ánh xuyên suốt trong quá trình tư duy thông qua các thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu.. để tạo ra sản phẩm của tư duy là tư tưởng, quan điểm, hành vi. Như vậy, tư duy của con người luôn bao hàm nội dung, phương pháp và cách vận dụng những phương pháp tư duy khác nhau vào những bối cảnh khác nhau tạo ra phong cách ở mỗi người khác nhau. Chính cách vận dụng những phương pháp khác nhau vào mỗi hoàn cảnh khác nhau ở mỗi chủ thể sẽ đưa đến sản phẩm tư duy khác nhau, tạo nên tính đa dạng, phong phú của tư duy trong xã hội loài người. Đó là quan điểm, tư tưởng thể hiện qua lời nói, chữ viết và hành động. Tuy nhiên, cách nghĩ của mỗi người lại ở từng cấp độ, lĩnh vực, loại hình khác nhau. Tư duy là một chức năng của não người và với tư cách này, nó là một quá trình tự nhiên, song mặt khác, tư duy không tồn tại bên ngoài xã hội, bên ngoài khối kiến thức và các phương thức hoạt động mà loài người đã sáng tạo ra và tích lũy được. Mỗi con người cụ thể trở thành chủ thể tư duy không chỉ vì họ có bộ não, mà quan trọng hơn là vì trong quan hệ xã hội - giao tiếp, họ nắm được ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ, họ lĩnh hội được các tri thức, các công cụ, các thao tác lôgic do loài người sáng tạo ra. Và do vậy, tư duy là một chức năng của bộ não người có tính xã hội - lịch sử, là sản phẩm của lịch sử xã hội có những đặc điểm khác nhau ở mỗi con người. Để tìm thấy sự khác biệt về tư duy giữa người này với người kia phải xem xét trước hết thông qua tri thức thể hiện qua ngôn ngữ (với tư cách là sản phẩm, là phương tiện để truyền tải tư duy). Từ việc xem xét sự khác biệt ấy để truy tìm sự khác biệt trong phương pháp thể hiện ở các thao tác trong quá trình tư duy. Cùng một tiên đề, một xuất phát điểm do thực tiễn đặt ra, nhưng cách thức tư duy, cách vận dụng phương pháp tư duy của mỗi người khác nhau sẽ đưa tới tư tưởng, hành động khác nhau. Vì vậy có nhiều loại hình tư duy, nhiều hình thức tư duy khác nhau phụ thuộc vào yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Việc tìm hiểu đặc điểm của tư duy tức là tìm hiểu những đặc điểm chung, khái quát, chi phối suốt quá trình con người suy nghĩ. Khi con người tư duy những vấn đề trong một lĩnh vực chịu sự chi phối của những nguyên tắc gì? Những đặc điểm nổi bật nào chi phối quá trình tư duy để tạo ra những tri thức và hành vi phong phú, đa dạng ở mỗi người và giữa người này với người kia. Sự khác nhau về đặc điểm ấy lại do điều gì qui định? Truy đến tận cùng những căn nguyên của những khác biệt đó sẽ giúp ta có nhận thức đúng đắn hơn về sự vật hiện tượng, về thế giới khách quan để có những hành động đúng đắn. Về phân loại tư duy: Có nhiều cách phân loại dựa vào những tiêu chí khác nhau: Dựa theo cấp độ của tư duy, có tư duy kinh nghiệm, tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn của nhận thức lý tính, mà trong đó người ta rút ra những tri thức về sự vật, hiện tượng khách quan, chủ yếu, thông qua con đường khái quát, quy nạp những tài liệu kinh nghiệm. Tư duy lý luận là giai đoạn nhận thức lý tính, mà trong đó tri thức được rút ra trên cơ sở khái quát những thành tựu của các giai đoạng trước đó. Theo lĩnh vực tư duy: có tư duy chính trị, kinh tế, khoa học, triết học, nghệ thuật, quân sự, văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo v.v Theo loại hình tư duy, có tư duy biện chứng, siêu hình, tư duy lô gic, phi lô gic, tư duy tổng hợp, phân tích, tư duy sáng tạo, giáo điều, tư duy tích cực, tiêu cực v.v Sự phân loại tư duy cũng chỉ mang tính tương đối bởi chúng tồn tại đan xen, hòa quyện nhau. Cùng sử dụng một loại hình tư duy cho nhiều lĩnh vực khác nhau và ngược lại khi tư duy về một lĩnh nào đó có thể sử dụng đồng thời nhiều loại hình, nhiều hình thức tư duy khác nhau. Do đó, ở mỗi chủ thể, các loại hình tư duy, các hình thức tư duy hòa quyện tạo nên sự thống nhất và đặc trưng riêng ở tư duy của mỗi người. Như vậy, có nhiều cách phân loại tư duy khác nhau, trong đó “tư duy chính trị” là một loại hình tư duy dựa trên lĩnh vực phát triển của xã hội. Tư duy chính trị sẽ có những đặc điểm chung nằm trong khái niệm “tư duy’ nhưng cũng có những điểm riêng, mang tính đặc thù để phân biệt với tư duy trong các lĩnh vực khác. Đặc điểm này chịu sự chi phối của hoạt động chính trị đem lại. Vậy, tư duy chính trị là gì? 2.1.2. Khái niệm tư duy chính trị Chính trị là một hình thức hoạt động xã hội đặc biệt, xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt không thể điều hòa đưa đến sự ra đời của nhà nước - bộ máy để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Theo đó, cái quan trọng nhất trong chính trị là tổ chức chính quyền nhà nước, và nói đến chính trị là nói đến hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp. Xét ở góc độ đối nội, chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp về giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước theo lợi ích và mục đích của một giai cấp nhất định. Lĩnh vực chính trị đối nội bao hàm các vấn đề về chế độ nhà nước, sự tham gia vào công việc nhà nước, việc quy định các hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước, quản lý nhà nước, vị trí, vai trò của các giai cấp, vấn đề đấu tranh đảng phái Xét ở góc độ đối ngoại, chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các đảng phái, các nhà nước trên phạm vi quốc tế. Ở góc độ này, chính trị được biểu hiện tập trung trong đường lối và chính sách đối ngoại của đảng cầm quyền và nhà nước theo lợi ích và mục đích của một giai cấp nhất định, mà thường là giai cấp thống trị. Tổng - tích hợp của cả 2 góc độ trên, có thể hiểu, chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các đảng phải, các nhà nước với nhau mà trọng tâm là vấn đề tương quan lợi ích (mà trước hết là lợi ích kinh tế) và tương quan quyền lực (mà quan trọng nhất là quyền lực nhà nước) giữa các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng. Nhìn chung, những lợi ích căn bản của các giai cấp và những quan hệ qua lại giữa các giai cấp biểu hiện ra trong chính trị. Vì vậy, có thể nói, tất cả các vấn đề mà việc giải quyết chúng đụng chạm tới lợi ích giai cấp, tới chính quyền nhà nước, đều là những vấn đề có tính chất chính trị. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, mặc dù tính giai cấp là đặc trưng cơ bản nhất nhưng không phải là duy nhất của chính trị. Bên cạnh tính giai cấp, các quan hệ chính trị ở những mức độ khác nhau còn có tính xã hội, tính dân tộc, tính nhân dân, tính nhân loại. Do có các cách tiếp cận khác nhau mà chính trị cũng được nhận diện dưới những giác độ khác nhau, chủ yếu là hai giác độ sau đây: Thứ nhất, căn cứ vào những hình thức biểu hiện của chính trị, những tư tưởng, học thuyết, đường lối, cương lĩnh của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, người ta xem chính trị là sản phẩm trực tiếp của tư duy, là sự phản ánh của những quan hệ xã hội. Do đó, chính trị thuộc về kiến trúc thượng tầng. Thứ hai, về nội dung, chính trị được xem là dạng hoạt động vật chất đặc biệt của chủ thể chính trị nhằm theo đuổi và thỏa mãn lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Đó là những hoạt động nhằm giành, giữ, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, hoạt động kiến tạo hệ thống chính trị, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp thống trị, đồng thời với những hoạt động đó, những quan hệ chính trị nảy sinh và phát triển giữa các chủ thể chính trị. Từ việc tìm hiểu các cách hiểu chính trị như trên có thể định nghĩa: Tư duy chính trị là hoạt động của bộ não người nhằm thu nhận, xử lý và sản sinh những tri thức về giành, giữ và thực thi quyền lực giúp con người nhận thức, hoạch định và thực thi các quyết sách chính trị. Nói cách khác, tư duy chính trị là suy nghĩ về những vấn đề chính trị theo một cách thức nhất định. Theo nghĩa này, tư duy chính trị ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, mang tính giai cấp và bị chi phối bởi lập trường giai cấp. Sản phẩm của quá trình tư duy là những tư tưởng, quan điểm hay những “công nghệ” để giải quyết những mâu thuẫn trong thực tiễn chính trị. Đó là cách hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm chính trị. Trong lịch sử, để giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội tồn tại nhiều phương thức khác nhau, có thể bằng những quy ước của làng xã hay đó là những nguyên tắc, chuẩn mực do cộng đồng tự tạo ra trong đó, nhà nước là một phương cách phổ biến và chủ yếu nhất mà con người sử dụng nhằm giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội. Từ đó, trong lịch sử chính trị hình thành những quan điểm khác nhau, những tư tưởng khác nhau về các kiểu nhà nước: nhà nước quân chủ hay dân chủ, pháp trị hay đức trị Khi nhà nước ra đời, khái niệm chính trị gắn liền với nhà nước. Đó là việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Ở đây, tư duy chính trị là cách nghĩ về việc giành, giữ và thực thi quyền lực của nhà nước. Cho nên, tư duy chính trị luôn mang tính giai cấp và bị chi phối bởi lập trường giai cấp nhất định. Cách tư duy của mỗi người phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khách quan là điều kiện thực tiễn, những giá trị tư tưởng trong lịch sử, hệ tư tưởng chính thống chi phối và chủ quan là năng lực của mỗi chủ thể. Cùng hoàn cảnh thực tiễn như nhau, cùng một điều kiện sống, một lập trường giai cấp, một ý thức hệ như nhau nhưng cách tư duy ở mỗi người là khác nhau. Tư duy chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng với tư tưởng chính trị. Tư tưởng chính trị là hệ thống những quan điểm phản ánh quan hệ chính trị, kinh tế giữa các tầng lớp, các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc xung quanh vấn đề giành, giữ chính quyền, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Tư tưởng chính trị bao giờ cũng nảy sinh từ những điều kiện kinh tế - xã hội của một xã hội nhất định. Đó còn là một hệ thống quan điểm về việc giải quyết các mối quan hệ chính trị - xã hội đặc biệt. Trong phạm vi một quốc gia - dân tộc, đó là quan hệ giữa các giai cấp xoay quanh vấn đề tương quan lợi ích (mà trước hết là lợi ích kinh tế) và tương quan quyền lực (mà quan trọng nhất là quyền lực nhà nước). Trên phạm vi quốc tế, đó là quan hệ giữa các đảng phái, các nhà nước, mà trọng tâm là vấn đề lợi ích quốc gia - dân tộc được giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định. Vì vậy, không có tư tưởng chính trị chung chung, trừu tượng, phi giai cấp, tư tưởng chính trị luôn dựa trên lập trường của một giai cấp nhất định, biểu hiện cô đọng ở hệ tư tưởng chính trị của giai cấp và phản ánh trực tiếp, tập trung lợi ích kinh tế của giai cấp ấy. Tuy nhiên, mặc dù tư tưởng chính trị được xây dựng trên lập trường của một giai cấp nhất định, nhưng cũng mang tính nhân dân, tính xã hội, tính dân tộc, tính nhân loại ở những mức độ không giống nhau, các nhà tư tưởng trong những thời đại khác nhau. Điều này phụ thuộc vào tính đại diện và sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp cầm quyền với quần chúng nhân dân. Tư tưởng chính trị là hệ thống những quan điểm phản ánh quan hệ chính trị, kinh tế giữa các tầng lớp, các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc xung quanh vấn đề giành, giữ chính quyền, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Tư tưởng chính trị bao giờ cũng nảy sinh từ những điều kiện kinh tế - xã hội của một xã hội nhất định. Ở đây, giữa tư duy chính trị và tư tưởng chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại. Tư duy chính trị là quá trình trăn trở, suy nghĩ về những vấn đề chính trị, còn tư tưởng là kết quả của quá trình tư duy ấy. Để hiểu tư duy chính trị của một người phải thông qua tư tưởng, lời nói, hành động của người từ đó và soi vào lý luận nhận thức để thấy được những đặc trưng cơ bản của quá trình tư duy. Vậy, tư duy chính trị của một người chỉ được biết đến thông qua việc tìm hiểu tư tưởng, quan điểm, lời nói, bài viết và những hoạt động thực tiễn của người đó. Nếu thực tiễn cung cấp chất liệu để hình thành tư tưởng thì tư duy là nỗ lực của chủ thể trong việc khái quát hóa thực tiễn để biểu đạt bản chất của thực tiễn đó dưới hình thức lý luận. Tóm lại, cũng như khái niệm tư duy và tư tưởng, giữa tư duy chính trị và tư tưởng chính trị cũng có mối quan hệ tương ứng. Cái này là sản phẩm của cái kia và ngược lại, chúng là cơ sở, là tiền đề cho nhau và có mối quan hệ không tách rời nhau. Do đó, để nghiên cứu tư duy chính trị cần tìm hiểu thông qua tư tưởng chính trị và hành vi chính trị (với tư cách là sản phẩm và hình thức biểu hiện của tư duy). Đây là khái niệm công cụ để có thể hiểu sâu hơn các nội dung khác liên quan. Tìm ra được tư duy chính trị là cơ sở để lý giải thuyết phục sự ra đời của những lý thuyết chính trị và hành vi chính trị. Bởi lẽ, mọi hành vi chính trị đều bị chi phối bởi đường lối chính trị, quyết sách chính trị, tư duy chính trị. Thậm chí nhà chính trị đưa ra được một quyết sách chính trị đúng đắn sẽ chi phối hành vi chính trị đúng. Ngược lại, nếu đường lối chính trị sai lầm sẽ đưa cả dân tộc đó đi xuống những nấc thang của lịch sử. Vậy, đường lối chính trị có vai trò quan trọng, chi phối mọi hoạt động của con người chính trị trong xã hội ấy. 2.1.3. Khái niệm tư duy chính trị Hồ Chí Minh Bản chất cuộc sống của con người luôn tồn tại những mâu thuẫn. Việc đi tìm một cách thức giải quyết mâu thuẫn chung nhất, mang tính tối ưu là mối quan tâm của các nhà tư tưởng trong lịch sử và đặc biệt là các nhà hoạt động chính trị. Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đang tồn tại mâu thuẫn căn bản giữa một bên là nền độc lập tự do của dân tộc đang bị tước đoạt với một bên là sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Nhiều nhà tư tưởng, nhiều trí thức yêu nước Việt Nam đương thời đều mang trong mình một khát vọng: tìm con đường để giải quyết mâu thuẫn, giành lại độc lập tự do cho dân tộc mình, nhưng chưa một con đường thành công. Là một người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc nung nấu một hoài bão cần đi tìm một phương cách mới để giải quyết mâu thuẫn cơ bản cho dân tộc. Đây là điểm xuất phát cho những suy tư và là biểu hiện đầu tiên của tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Tư duy ấy được tiếp nối, phát triển cùng với quá trình hoạt động cách mạng của Người. Đó là tư duy về đấu tranh giành, giữ và thực thi nền độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân. Nó biểu hiện ở tư duy về con đường giải phóng dân tộc; về xây dựng một mô hình nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân; về đoàn kết dân tộc, về Đảng cầm quyền, về đội ngũ cán bộ tất cả đều là những nội dung cơ bản của tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Việc nghiên cứu tư duy chính trị Hồ Chí Minh chính là tìm ra phương pháp luận chung trong quá trình tư duy của một con người chính trị vừa với tư cách là một thủ lĩnh chính trị nhưng trước hết lại là một quần chúng nhân dân. Trên cơ sở đó, mỗi chủ thể cần học hỏi, vận dụng và rèn luyện trong quá trình tư duy của bản thân để có những tư tưởng chính trị, hành vi chính trị đúng đắn, phù hợp với quy luật lịch sử dân tộc và thời đại. Dù không đề cập tới khái niệm hệ thống chính trị như chính trị học ngày nay, nhưng những thực thể cấu thành hệ thống chính trị đã được Người bàn đến một cách cụ thể, chi tiết, thấu đáo. Trong đó nội dung cốt lõi của chính trị, của thể chế chính trị là quyền lực nhà nước thuộc về ai. Chế độ dân chủ thực sự là chế độ ở đó quyền lực thuộc chủ quyền của nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho nhà nước để đề ra chủ trương, chính sách bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Nhà nước thực thi sự ủy quyền đó để đảm bảo quyền dân chủ và làm chủ của người dân, đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Dựa vào dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, phát huy vai trò làm chủ thực sự của nhân dân đó là điểm nổi bật, chi phối mọi suy nghĩ và hành động chính trị Hồ Chí Minh. Cuộc đời của Hồ Chí Minh là cuộc đời hoạt động chính trị. Đó là hoạt động chủ đạo, xuyên suốt và bắt nguồn từ một cách tư duy riêng của Người. Tư duy chính trị Hồ Chí Minh vì thế là tư duy chủ đạo chi phối và biểu hiện qua các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Hoạt động kinh tế, văn hóa cũng là vì mục đích chính trị. Mục đích ấy là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Mục tiêu là nhất quán nhưng phương thức đạt được là đa dạng, sinh động, linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo. Điều mà Hồ Chí Minh từng nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi sang Pháp chính là ở chỗ đó. Vậy, có thể hiểu tư duy chính trị Hồ Chí Minh là gì? Xung quanh khái niệm này gần như chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh, có chăng chỉ là những luận điểm, những nhận xét, cảm nhận về tư duy chính trị của Người. Xét trong mối quan hệ giữa giai cấp,dân tộc, nhân loại, tư duy chính trị xem xét các nhân tố đó trong vận động và phát triển, trong sự tương tác với nhau, nhưng vẫn giữ những vị trí, vai trò khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử - cụ thể. Đó đồng thời cũng là một tư duy luôn thấm nhuần nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, mà cái “bất biến” ở đây chính là vì sự phát triển toàn diện của con người, vì hạnh phúc và phẩm giá của con người. Điểm nổi bật nhất trong tư duy chính trị Hồ Chí Minh là một tư duy rất đặc sắc về việc xử lý những mối quan hệ, mà quan trọng nhất là quan hệ về mặt lợi ích giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại. GS.TS. Hoàng Chí Bảo trong cuốn “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh” có viết: “tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sâu sắc của một trí tuệ khoa học, của tư duy lý luận mà còn là sự nhạy bén thực tiễn, từ rất sớm đã thấm nhuần quan điểm thực tiễn, quan điểm phát triển và quan điểm đổi mới từ đó tác giả định nghĩa: “tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là một hệ thống lý thuyết và phương pháp về chính trị có cấu trúc của nó; trong cấu trúc này ta có thể nhận thấy những mối liên hệ và quan hệ rất chặt chẽ xét về mặt logic và lịch sử” [7, tr.253-254]. Trong một số bài viết khác, nhiều tác giả có đề cập gián tiếp đến khái niệm tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đó chỉ là những luận điểm, nhận xét hay cảm nhận ban đầu về tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Một định nghĩa hoàn chỉnh cho nó là chưa xác định. Ở đây, từ khái niệm tư duy chính trị nói chung là cách nghĩ về con đường, phương thức đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực có thể hiểu tư duy chính trị Hồ Chí Minh là những suy nghĩ, trăn trở của Người về cách thức giành, giữ nền độc lập cho dân tộc và phát triển các giá trị của nền độc lập bằng việc đưa lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Kết quả của những suy nghĩ ấy được thể hiện thành hệ thống những quan điểm, tư tưởng của Người về con đường cách mạng Việt Nam. Từ sự phân tích trên, có thể hiểu tư duy chính trị Hồ Chí Minh là hoạt động diễn ra trong bộ óc Người nhằm đưa ra những quan điểm và hành vi chính trị giải đáp thực tiễn chính trị Việt Nam. Nói một cách tổng quát, tư duy chính trị Hồ Chí Minh là cách nghĩ của Người về các vấn đề chính trị nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực cho nhân dân Việt Nam. Ở đây, nói đến cách nghĩ là nói đến giai đoạn cao của quá trình nhận thức để đạt đến độ cảm nhận, dự báo và vạch ra chương trình hành động để đạt được mục đích đặt ra. Cách nghĩ ấy gồm cách vận dụng các phương pháp tư duy vào từng hoàn cảnh cụ thể. Và đương nhiên, khi tư duy phải có đối tượng của nó. Tư duy về vấn đề chính trị bằng cách nào? Vận dụng những phương pháp tư duy nào để giải đáp những vấn đề chính trị đặt ra? Đó là phong cách tư duy của chủ thể. Vì vậy, khi nói đến cách tư duy của Hồ Chí Minh về các vấn đề chính trị là nói đến sự thống nhất giữa nội dung tư duy, phương pháp tư duy và phong cách tư duy. Chính cách vận dụng những phương pháp tư duy vào giải quyết những vấn đề chính trị rất riêng của Hồ Chí Minh đã tạo nên phong cách của Người. Do đó, những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy chính trị Hồ Chí Minh làm nên nét đặc sặc riêng có ở Người chính là phong cách tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Khẳng định điều này để khi khái quát những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy chính trị Hồ Chí Minh cũng chính là phong cách tư duy chính trị của Người. Tư duy chính trị Hồ Chí Minh vừa chịu ảnh hưởng của tư duy chính trị chủ nghĩa Mác-Lênin (tức trên lập trường của giai cấp vô sản) lại vừa trên lập trường của người yêu nước chân chính; vừa chịu ảnh hưởng của tư duy duy lý phương Tây, vừa mang cốt cách tư duy duy cảm của người Á Đông; vừa chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo nhưng lại rất Việt Nam, dân tộc nhưng lại ảnh hưởng của thế giới, nhân loại Nói cách khác tư duy chính trị Hồ Chí Minh là tư duy biện chứng mang bản sắc Việt Nam; là sự kế thừa và phát triển một cách chọn lọc tư duy chính trị loài người: Đông - Tây, kim - cổ nhưng đậm chất dân tộc. Vì vậy, đó là tư duy tiên tiến, hiện đại, khoa học, hợp lô gic của sự phát triển nhưng mang đậm tính truyền thống, tư duy thế giới nhưng lại rất Việt Nam. Nhờ đó mà Người đưa ra những lập luận, tư tưởng, quan điểm mang dáng dấp của phương Đông và phương Tây, Việt Nam và thế giới, dân tộc và nhân loại. Nhà văn Ôxíp Manđenxtam đã nhận xét: ở Hồ Chí Minh toát lên một nền văn hóa không phải của phương Đông, phương Tây mà của tương lai. Điều đó bắt nguồn từ một tư duy tiên tiến, tư duy hiện đại có sự kết hợp phương Đông, phương Tây, dân tộc - nhân loại, thế giới - Việt Nam, truyền thống - hiện đại - một tư duy chính trị đặc sắc riêng ở Hồ Chí Minh. Tìm hiểu những đặc điểm của tư duy chính trị Hồ Chí Minh là đi tìm những đặc tính, tính chất hay những nguyên tắc chi phối quá trình tư duy nhằm đạt được mục tiêu chính trị đặt ra. Những đặc trưng riêng biệt ấy là một trong những căn nguyên hình thành những sáng tạo trong tư tưởng và hành vi chính trị Hồ Chí Minh. Việc khái quát, tìm hiểu những đặc điểm của tư duy chính trị Hồ Chí Minh (với tư cách là đặc điểm của quá trình suy nghĩ về những vấn đề chính trị) là sự thống nhất giữa nội dung và phương pháp. Khi tư duy về một nội dung cần sử dụng phương pháp gì và ngược lại, sử dụng phương pháp tư duy này trong giải quyết nội dung gì, thậm chí cùng một nội dung nhưng sử dụng nhiều phương pháp. Nội dung và phương pháp là thống nhất, hòa trộn nhau trong một chủ thể nhận thức và tạo thành phong cách của chủ thể. Thông qua phương pháp xử lý một nội dung để tìm ra những đặc điểm chung chi phối quá trình tư duy. Vì vậy, tư duy với tư cách là quá trình suy nghĩ về những vấn đề chính trị thì đặc điểm của quá trình đó là những đặc tính khái quát nổi bật được thể hiện thông qua cách nghĩ về những nội dung chính trị. Đó không phải là đặc điểm về nội dung hay phương pháp tư duy, mà là đặc điểm của tư duy (với tư cách là quá trình thống nhất giữa nội dung và phương pháp tư duy). Hay đó là sự thực hành phương pháp tư duy vào những nội dung chính trị. Thông qua những sáng tạo trong tư tưởng và hành vi chính trị (tức nội dung của tư duy) để tìm tính nhất quán chi phối quá trình tư duy. Đó chính là những đặc điểm khác biệt chi phối quá trình tư duy chính trị Hồ Chí Minh. Người đã suy nghĩ như thế nào và bằng cách nào về những vấn đề chính trị? Cùng một nội dung chính trị giống nhau nhưng cách nghĩ của mỗi người không đồng nhất sẽ đưa đến kết quả rất đa dạng. Thậm chí cùng một nội dung tư duy và phương pháp tư duy như nhau nhưng kết quả lại khác nhau. Sự khác nhau đó là từ phương pháp tư duy hay nội dung tư duy hay cách vận dụng phương pháp tư duy? Chẳng hạn, cùng vận dụng phương pháp biện chứng nhưng thực hiện ở mỗi người khác nhau đưa đến kết quả khác nhau. Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng mác xít nhưng không phải là duy nhất mà kế thừa cả tư duy Đông - Tây, kim - cổ.. để tạo ra cái riêng của Người. Tư duy chính trị Hồ Chí Minh vì thế là sự kế thừa, phát triển sáng tạo hay gọi đó là tư duy “vượt gộp” trên bản sắc dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là gạch nồi giữa Việt Nam với thế giới, giữa truyền thống và hiện đại. Tư duy luôn nảy sinh từ thực tiễn, nói cách khác nguồn gốc chủ yếu của tư duy là từ thực tiễn. Chính thực tiễn là nơi cung cấp chất liệu gồm tri thức, thông tin, tình huống để chủ thể nhận thức. Tuy nhiên, cùng một thực tiễn như nhau nhưng việc xử lý và giải quyết tình huống ở mỗi người khác nhau. Điều này phụ thuộc vào cách thức tư duy khác nhau. Cách thức ấy phụ thuộc vào năng lực chủ quan ở mỗi người. Năng lực có được do nhiều yếu tố: tư chất bẩm sinh, do rèn luyện mà thành.Tư duy của mỗi người nói chung và của Hồ Chủ tịch nói riêng không phải được hình thành một cách tự phát, bẩm sinh mà đó là sản phẩm của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố khách quan và chủ quan thông qua hoạt động thực tiễn sôi động, phong phú của Người. Vậy, những yếu tố khách quan và chủ quan đưa tới sự hình thành tư duy chính trị Hồ Chí Minh là gì? 2.2. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ DUY CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 2.2.1. Yếu tố khách quan * Thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chịu sự tác động trực tiếp bởi chính sách xâm lược và thống trị của thực dân Pháp. Sự cai trị của thực dân Pháp đã làm xã hội Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội v.v.. Những chuyển biến đó đã đưa tới những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với tư sản, nông dân với địa chủ và mâu thuẫn giữa nhân dân, dân tộc Việt Nam với thực dân xâm lược và tay sai. Về mặt tư tưởng cũng diễn ra quá trình kép: vừa “giải phóng phong kiến hóa mà yếu tố căn bản là sự suy tàn của Nho giáo, vừa cận đại hóa (early mordernization) với sự truyền bá, thâm nhập của các trào lưu tư tưởng mới như chủ nghĩa cộng hòa tư sản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tam dân. Đây là tiền đề đưa đến các cuộc đấu tranh, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Bên cạnh tình hình đất nước nói chung, cuộc sống của đồng bào ở quê hương và truyền thống gia đình cũng là nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành những suy tư của Người về con đường giành độc lập cho dân tộc. Ở quê hương, Nguyễn Tất Thành được tận mắt chứng kiến ...hời gian, sự trải nghiệm và cả những tâm huyết. Hướng tới những chân giá trị đó cũng là mục tiêu, khát vọng trong những bước đường nghiên cứu tiếp theo của người nghiên cứu. Trước những biến động của tình hình chính trị trong nước và thế giới hiện nay càng chứng tỏ sự cần thiết của một tư duy chính trị tiến bộ, khoa học với nhiều những đặc tính mà ở tư duy chính trị Hồ Chí Minh là điển hình. Việc xây dựng, rèn luyện một tư duy chính trị khoa học, cách mạng là cơ sở cho sự hình thành hệ thống quan điểm, tư tưởng và hành vi chính trị đúng đắn. Đích của sự đổi mới là hướng đến một nền chính trị vì con người với tất cả những quyền cơ bản của con người đã được ghi trong các Hiến chương quốc tế nhân quyền. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới được tiến hành gần 30 với những thành tựu đáng kể, đưa nước ta thoát khỏi bờ vực thẳm của sự đổ vỡ; kinh tế tăng trưởng, đời sống của nhân dân được thay đổi căn bản cả về vật chất lẫn tinh thần; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được khẳng định với những đóng góp thiết thực, hiệu quả của Việt Nam trong phong trào cách mạng thế giới vì Hòa bình - Dân chủ - Tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu là những thách thức, hạn chế đang ngổn ngang đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của mọi tổ chức, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo, của mỗi con người Việt Nam yêu nước. Trong đó, trách nhiệm trước hết thuộc về Đảng Cộng Sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lực lượng ưu tú của xã hội được nhân dân tin tưởng, giao phó. Trước những khó khăn chồng chất, mang tính hệ thống đòi hỏi sự hợp lực, đoàn kết của toàn đảng, toàn dân, toàn quân trong cuộc cách mạng chống tham ô, quan liêu, lãng phí - những con sâu mọt đang đục khoét, âm mưu phá vỡ thành quả bao đời nay của nhân dân ta. Hơn lúc nào hết, cần phải trở lại, thấm nhuần những chỉ dẫn mà Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời để thực hành, mà ở đó bắt nguồn trước hết từ chính cách tư duy của Người. Tư duy chính trị Hồ Chí Minh là tài sản vô giá để Đảng và nhân dân ta tiếp tục nghiên cứu và thực hành để đưa con thuyền cách mạng Việt Nam giành thắng lợi với những giá trị vững bền vì Độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự của nhân dân. /. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Nguyễn Thị Thanh Dung (2010), Phong cách tư duy Hồ Chí Minh với việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Tìm hiểm thêm về khái niệm “tư duy”, “tư duy chính trị”, Tạp chí Khoa học Chính trị, số tháng 10. Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Quan điểm của Jonh Dewey về “tư duy, tư duy phê phán” trong tác phẩm “Cách ta nghĩ” và ý nghĩa của nó trong cải cách giáo dục", Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 6. Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Tư duy chính trị Hồ Chí Minh - những ảnh hưởng từ quá trình tìm hiểu thực tế xã hội Mỹ (1912 - 1913)", Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 5. Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Nét đặc sắc trong hình thức biểu hiện của tư duy chính trị Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số tháng 10. Nguyễn Thị Thanh Dung (2012), "Truyền thống quê hương với sự hình thành tư duy chính trị Hồ Chí Minh", Thông tin Chính trị học, số 4 . Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Tư duy lập hiến Hồ Chí Minh và ý nghĩa trong việc sửa đổi,bổ sung Hiến pháp Việt Nam năm 1992 hiện nay", Thông tin Chính trị học, số 3. Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Tư duy chính trị Hồ Chí Minh - những ảnh hưởng từ Mỹ", Tạp chí Mặt trận, số tháng 10. Nguyễn Thị Thanh Dung (2013), "Những đặc trưng cơ bản của tư duy dân chủ Hồ Chí Minh", Tạp chí Mặt trận, số tháng 9. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Ngọc Anh, Ngô Vương Anh (2007), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia. Phạm Ngọc Anh (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Ngọc Anh, Hoàng Trang (2008), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Trọng Ân (2004), "Dân chủ và phát huy dân chủ nhân dân trong sự nghiệp đổi mới", Tạp chí Cộng sản, số 24. Hoàng Chí Bảo (2010), "Tư tưởng và phương pháp chính trị Hồ Chí Minh", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia. Hoàng Chí Bảo (2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. Hoàng Quốc Bảo (2006), Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bảo tàng cách mạng Việt Nam (1995), Hồ Chủ tịch ở Pháp năm 1946, Nxb Hà Nội. Bảo tàng cách mạng Việt Nam (1996), Từ Đà Lạt đến Pari, Nxb Hà Nội. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2006), Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ, Nxb Thanh Niên. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), 117 chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo, Thái Ninh (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) (2000), Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Thanh Bình (2005), “Một số kết quả thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở”, Quản lý Nhà nước, số 10. Trần Thái Bình (2007), Hồ Chí Minh - Sự hình thành một nhân cách lớn, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Đức Bình (2003), Về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. David Bohm (2011), Tư duy như một hệ thống, Tiết Hùng Thái dịch, Chu Trung Can hiệu đính, Nxb Tri thức. Lady Bortor (2012), Hồ Chí Minh - một hành trình, Nxb Thế giới. Lady Bortor (2013), Hội nghị Pari về Việt Nam - Nhìn lại, 1968 - 1973, Nxb Thế giới. Phạm Như Cương (1999), Đổi mới phong cách tư duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đoàn Văn Chức (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Hoàng Thế Công, Lược thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. E. Côbêlép (2000), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Phan Bội Châu (1990), Toàn tập, Nxb Thuận Hóa, tập 3. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), "Toàn cầu hóa hiện nay và quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội", Tạp chí Triết học, số 1. Phạm Hồng Chương (2006), "Xây dựng Hệ thống chính trị theo tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, số 5. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Nguyễn Viết Chức (2001), Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. Trương Văn Chung, Doãn Chính (2005), Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Doãn Chính, Phạm Đào Thịnh (2007), Quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX qua các nhân vật tiêu biểu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Cương (2004), "Về bản chất của tư duy", Tạp chí Triết học, số 1. John Dewey (2013), Cách ta nghĩ, Vũ Đức Anh dịch, Nxb Tri thức. Nguyễn Đăng Duy ( 2002), Văn hóa Việt Nam buổi đầu dựng nước, Nxb Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Thành Duy (1998), Cơ sở khoa học và nền tảng văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm chí Dũng (Biên soạn) (2004), Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Nguyễn Bá Dương (1983), Quan niệm tâm lý học về dạy học nêu vấn đề trong tâm lý học Xô - viết, Luận án Phó tiến sĩ. Nguyễn Đức Đạt (2005), Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Thanh Đạm (2001), Nguyễn Trường Tộ thời thế và tư duy cách tân, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1986), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đại học quốc gia Hà Nội (1996), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ - Thời thế và tư duy cách tân, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Hoàng Điệp (Biên soạn 2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Pháp, Nxb Chính trị quốc gia. Lê Xuân Đình (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 20. Trần Đương (2008), Hồ Chí Minh - nhà dự báo thiên tài, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Giàu (2011), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Giàu (2008), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Giàu (2006), Đạo làm người - từ Lý Thường Kiệt đến Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1969), Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1972), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học. Trịnh Xuân Giới (chủ biên) (2005), Qui chế dân chủ ở cơ sở - ý Đảng, lòng dân, Nxb Chính trị quốc gia. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con người, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. David Halbestam (1970), Hồ, Random hóe, New York. Đỗ Đình Hãng (2005), "Đổi mới tư duy lý luận của Đảng trong lĩnh vực văn hóa", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11. Lê Mậu Hãn (2001), Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Kim Hoa (2005), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vận động nhân dân trong tác phẩm “Dân Vận”", Lý luận Chính trị, số 5. Vũ Đình Hòe (2001), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin. John Lê Văn Hóa (2003), Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, Nxb Hà Nội. Học viện chính trị Quốc gia (2006), Hồ Chí Minh (Tiểu sử), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (1998), Phan Bội Châu và xã hội Việt Nam ở thời đại ông, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng, lý luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2013), Thể chế chính trị - Một số kinh nghiệm của thế giới, Nxb Chính trị - Hành chính. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Chính trị học - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Kim Hồng (2005), "Dân chủ là của cải quí báu nhất của nhân dân", Văn hoá Nghệ thuật, số 9. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Nguyễn Hùng Hậu (2012), Triết lý "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Trung Hiếu (2004), Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học. Đinh Hiểu (dịch) (2005), "Yếu tố dân chủ ở phương Đông", Tia Sáng, số 6. Đỗ Lan Hiền (2005), "Nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn hóa dân gian", Tạp chí Triết học, số 6. Lê Văn Hiến (1995), Nhật ký của một bộ trưởng, Nxb Đà Nẵng. Hoàng Ngọc Hiến (2005), Sang viễn Đông trở về viễn Tây, Nxb Đà Nẵng. Vũ Hùng (2004), Dân và mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ Triết học. Vũ Dương Huân (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Thanh niên. Lê Quốc Hùng (1998), Gợi mở những giá trị truyền thống của tư tưởng chính trị - pháp lý Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đoàn Thế Hùng (2000), Tìm hiểu sự hình thành tư duy biện chứng mác xít, Đại học Quốc gia - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội. Đỗ Huy (1997), Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia. Nguyễn Văn Huyên (2009), Con người chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (2012), Giải phóng, đổi mới, phát triển vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (2002), Triết lý phát triển C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học Xã hội. Đỗ Quang Hưng (1999), Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh, Nxb Lao động. Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Văn Khoan (2011), Dấu ấn của nhà báo Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội. Nguyễn Việt Hương (2004), "Dân chủ làng xã: truyền thống và hiện tại", Nhà nước và pháp luật, số 8. E.V.Ilencov (2003), Lôgic học biện chứng, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Đặng Phương Kiệt (2000), Cơ sở tâm lý học ứng dụng, Nxb Lao động, Hà Nội. Nguyễn Hữu Khiển (2006), Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị, Nxb Lý luận chính trị. N. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Ngọc Khánh (2007), Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên. Lại Quốc Khánh (2009), Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia. Nguyễn Văn Khoan (2011), Để hiểu thêm về Bác Hồ, Nxb Lao động. Nguyễn Văn Khoan (2009), 50 năm chân dung một con người, Nxb Lao động. Nguyễn Văn Khoan (2007), Đi tới một mùa xuân tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đỗ Minh Khôi (2004), Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học. Vũ Khiêu (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học Xã hội - Hà Nội. Mai Hữu Khuê (2000), Những khía cạnh tâm lý của quản lý, Nxb Lao động, Hà Nội. Vũ Ngọc Lanh, Võ Thị Dung (2009), Bước chuyển tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Lê Thị Lan (1994), "Quan niệm về dân chủ của Đặng Huy Trứ - một nét mới trong tư tưởng chính trị - xã hội của Việt Nam cuối thế kỷ XIX", Tạp chí Triết học, số 2. Lê Thị Lan (2002), "Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trường Tộ lạc hậu hay đổi mới", Tạp chí Triết học, số 1. T. Lan (1998), Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Thanh Niên. Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu (2012), Phong trào yêu nước cách mạng đầu thế kỷ XX - nhân vật và sự kiện, Nxb Lao động. Nguyễn Lân (1989), Từ điển Từ và Ngữ Hán việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh - văn hóa và đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội. Đinh Xuân Lâm (2008), Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I.Lênin (1993), Nhà Nước và cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội. V.I. Lênin (1977), Bút ký triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Ngọc Liên (2008), Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1994), Hồ Chí Minh những hoạt động quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật. Lê Quốc Lý, Trần Phúc Thăng, Phạm Anh Hùng (Đồng chủ biên) (2013), Triết học so sánh Đồng - Tây, Nxb Chính trị - Hành chính. Phạm Thế Lực, Nguyễn Hữu Đổng (Đồng chủ biên) (2013), Tính phổ biến và đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia. Huỳnh Lý (1992), Phan Chu Trinh - thân thế và sự nghiệp, Nxb Đà Nẵng. C. Mác và Ănghghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội. Furuta Motoo (1997), Hồ Chí Minh - giải phóng dân tộc và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Edgar Morin (2012), Phương pháp 6. Đạo đức học. Chu Tiến Ánh dịch. Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu, Nxb Tri thức. Edgar Morin (2009), Nhập môn tư duy phức hợp. Chu Tiến Ánh và Chu Trung Can dịch từ tiếng Pháp, Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu. Nxb Tri thức. Edgar Moriin (2007), Phương pháp 4. Tư tưởng. Nơi cư trú, cuộc sống. Tập tính, tổ chức của tư tưởng, Chu Tiến Ánh dịch, Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Edgar Morin (2006), Phương pháp 3. Tri thức về tri thức. Nhân học về tri thứ. Lê Diên dịch. Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2006), Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1985), Về Lênin và cách mạng tháng Mười, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hà Thúc Minh (2001), Đạo nho và văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục. Phạm Xuân Nam (2002), Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tôn Nữ Thị Ninh (2006), "Mối quan hệ giữa tham nhũng với dân chủ và dân tộc", Tạp chí Cộng sản, số 12. Nguyễn Dy Niên (2008), Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Dương Xuân Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia. Hữu Ngọc (1987), Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. Đỗ Hoài Nam (2001), Xây dựng hạ tần cơ sở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (2000), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc gia. Trần Quang Nhiếp (2007), Đổi mới và phát triển - những vấn đề lý luận, thực tiễn, Nxb Công an nhân dân. Nguyễn Khắc Nho (2008), Hồ Chí Minh - đỉnh cao truyền thống nhân trí dũng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thế Ngĩa (1998), Tư duy mới trong kinh doan, Nxb Thống kê, Hà Nội. A.L. Pati (1995), Tại sao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng. Đào Phan (1996), Hồ Chí Minh - Danh nhân văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa Chính trị học (2005), Chính trị học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Daniel H.Pink (2008), Một tư duy hoàn toàn mới, Nxb Lao động - xã hội. Tòng Thị Phóng (2004), "Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời kỳ mới", Tạp chí Cộng sản, số 21. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia. Bùi Đình Phong (2005), Trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Đình Phong (2000), Hồ Chí Minh - tầm nhìn thời đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Nội. Trần Văn Phòng (Chủ biên) (2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Phúc (2006), "Đổi mới tư duy chính trị của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới", Tạp chí Cộng sản, số 10, tr.13-18. Hồ Phương (2007), Cha và con, Nxb Kim Đồng. Nguyễn Thu Phong (1997), Tính hiện thực trong tư tưởng Đông phương, Nxb Văn học. Phạm Ngọc Quang (2005), "Tư duy kinh tế ở nước ta trong quá trình đổi mới", Tạp chí Tài chính, số 8. Nguyễn Đăng Quang (1987), "Quan hệ giữa đổi mới nội dung tư duy và đổi mới phương pháp tư duy", Tạp chí Cộng sản, số 10. Lê Văn Quán (2006), Lịch sử tư tưởng chính trị xã hội Việt Nam từ tiền sử đến thời dựng nước, Nxb Chính trị quốc gia. Trần Đình Quảng, Nguyễn Quốc Bảo (1997), Phong cách làm việc Lêninít - Phong cách Hồ Chí Minh với cán bộ công đoàn, Nxb Lao động. Trần Đình Quảng, Nguyễn Quốc Bảo (1997), Phong cách làm việc Lêninít - Phong cách Hồ Chí Minh với cán bộ công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. Bùi Thanh Quất, Bùi Trí Tuệ, Nguyễn Ngọc Hà (2001), "Đối tượng, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của Lôgic học biện chứng", Tạp chí Triết học, số 7. Lê Minh Quân (2009), Tư tưởng chính trị của C. Mác, Ph. Ăngnghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia. Dương Trung Quốc, Đào Hùng (chủ biên) (2005), Hồ Chí Minh - hiện thân của văn hóa hòa bình, Nxb Văn hóa Sài Gòn. Nguyễn Đức Quyền (2005), "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, số 3. A.P.Séptulin (1977), Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội. Lê Khánh Sơn (Sưu tầm và biên soạn) (2007), Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Lưu Văn Sùng (2005), "Dân chủ trong Đảng Cộng sản: Những bài học kinh nghiệm từ cải tổ, cải cách và đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Lý luận chính trị, số 1. Xanh tơny (1974), Đối diện với Hồ Chí Minh, Nxb Sêghers, Pari. Ngô Đình Xây, "Ph.Ăngghen bàn về những điều kiện hình thành tư duy lý luận", Tạp chí Triết học. Nhật Tân (2004), "Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng để phát huy dân chủ cơ sở", Tạp chí Cộng sản, số 20. Nguyễn Thanh Tân (2004), "Sự hình thành tư duy và một số đặc trưng của nó", Tạp chí Triết học, số 2, tháng 2. Tài liệu thông tin của Việt Nam Thông tấn xã, Băng Cốc - Xiêm, Xuất bản tháng 5 - 1948. Nguyễn Thị Minh Tâm (2004), "Dân chủ và dân chủ trực tiếp của nhân dân theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, số 7. Trần Dân Tiên (1975), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội. Lê Văn Tích (2009), Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản (1920 - 1943), Nxb Chính trị quốc gia. Trần Hữu Tiến (1988), Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới", Tạp chí Triết học, số 1. Hồ Bá Thâm (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh và triết lý phát triển hiện nay, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh. Hồ Bá Thâm (2003), Sức mạnh tư duy Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. Hồ Bá Thâm (2002), Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia. Đinh Ngọc Thạch (2004), "Mấy vấn đề về dân chủ và đổi mới", Tạp chí Cộng sản, số 21. Trần Thành (2002), Tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tỉnh hiện nay - thực trạng và giải pháp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Song Thành (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Chính trị quốc gia. Cao Ngọc Thắng (2007), Tư duy kinh tế Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mạch Quang Thắng (2009), Hồ Chí Minh - nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị quốc gia. Mạch Quang Thắng (2010), Hồ Chí Minh - Con người của sự sống, Nxb chính trị quốc gia. Nguyễn Quang Thắng (2006), Phan Châu Trinh - cuộc đời và tác phẩm, Nxb Văn học. Chí Thắng, Kim Dung (2007), Danh ngôn Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên. Lê Thanh Thập (1995), Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Triết học. Trần Đình Thỏa (2002), "Một số vấn đề về tư duy biện chứng Mácxit", Tạp chí Triết học, số 2, tháng 2. Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện qui chế dân chủ và xây dựng chính quyền xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia. Hồ Văn Thông (2005), Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia. Hồ Văn Thông (1987), "Một số vấn đề về tư duy và đổi mới tư duy hiện nay ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, số 10. Nguyễn Quang Thông (1988), "Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy khoa học", Tạp chí Cộng sản, số 10. Đặng Thị Nhật Thư (2005), "Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3. Nghiêm Kế Tổ (1954), Việt Nam máu lửa, Mai Linh xuất bản, Sài Gòn. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (2008), Nxb Lao động, Hà Nội. Đào Duy Tùng (1998), Bàn về đổi mới tư duy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Hồng Tung (2010), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hóa chính trị, Nxb Chính trị quốc gia. Khổng Tử, Thượng Thư (tức Kim Thư), bản dịch của Nhượng Tống, Nxb Văn học, H.2001, mục Canh Thượng. M.M. Rô đen tan (chủ biên) (1986), Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), t.4, Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (2005), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Tường (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nhận thức cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia. Nguyễn Đình Trãi (2001), Năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sỹ Triết học. Tôn Nữ Quỳnh Trân, Lê Văn Năm (chủ biên) 2001, Từ điển Hồ Chí Minh sơ giản, Nxb Trẻ. Đặng Quang Uẩn, Lưu Minh Trị (1991), Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quan điểm đổi mới của Đảng, Nxb Sự thật. Nguyễn Hoài Văn (chủ biên) 2007, Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X - XV, Nxb Chính trị quốc gia. Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Hoài Văn (2010), Đại cương lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngô Doãn Vịnh (2009), Bàn về vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Vĩnh (2005), Triết học chính trị về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Kiếm Việt (2004), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Viện khoa học Chính trị (2004), Tập bài giảng Chính trị học (hệ cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị. Viện Chính trị học (2009), Chính trị học - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. Lê Xuân Vũ (2005), Trong ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Văn học. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học. Nguyễn Viết Vương (chủ biên) 2008, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn Việt Nam hiện nay, Nxb Lao Động, Hà Nội. M. M. Rôđentan (Chủ biên) (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. M.M.Rodentan (1962), Nguyên lý lô gic biện chứng, Nxb Sự thật, Hà Nội. M.M. Rôdentan (1962), Những vấn đề về phép biện chứng trong bộ Tư bản của Mác, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. Neher, Clark D: Asian Style Democracy, in Asian Survey, Vol. XXXIV, No.11, November 1994, p.949 - 961, 949. Webster’s New Collegiate Dictionnary. Masachusetts, 1974, P.1213.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_tu_duy_chinh_tri_ho_chi_minh_nhung_dac_diem_chu_yeu.doc
  • docTT (nop QD nha nuoc).sửa 29.5.doc
  • docTT len mang - Dung new.doc
  • docTT T.anh (nop QD nha nuoc) sua 2-6.doc